CHƯƠNG 7 CHÓE THANH HOA, MEN RỒNG CUỘN
Phương Chấn nói không to, nhưng lọt vào tai tôi lại như sấm rền. Tôi suýt nữa đánh rơi ống nghe, cụ Lưu xưa nay vốn quắc thước, nói thế nào cũng phải thọ tới trăm tuổi, vậy mà... sao... sao bỗng dưng lại...
Phương Chấn nói tiếp, “Hôm kia ông cụ đi ngủ tại nhà, không có dấu hiệu gì cả, nhưng hôm sau không trở dậy nữa.”
Giọng nói ở đầu kia trầm hẳn xuống, dù không biểu lộ bất cứ sắc thái tình cảm nào, nhưng tôi vẫn nghe ra đó là sự bình tĩnh nhờ ra sức kìm nén. Tôi siết chặt ống nghe, nhắm nghiền mắt lại, lòng đau như cắt. Thảo nào lần trước ông cụ không đến dự bữa cơm thân mật của Minh Nhãn Mai Hoa, hóa ra từ bấy sức khỏe đã sa sút rồi.
Xưa nay cụ Lưu vẫn luôn quan tâm săn sóc tôi. Trong việc đưa nhà họ Hứa quay về Minh Nhãn Mai Hoa, công lao của cụ phải xếp hàng đầu. Dù về sau tôi phạm sai lầm lớn, đẩy Minh Nhãn Mai Hoa vào tình thế nguy hiểm, ông cụ cũng không trách mắng nặng nề, trái lại còn tận tình chỉ bảo. Dẫu tôi có lúc phát bực với kiểu ăn nói lấp lửng mập mờ của ông cụ, nhưng cụ vẫn là bậc bề trên, là người thân tôi tin tưởng nhất trong Minh Nhãn Mai Hoa.
Ông cụ lúc nào cũng giữ thái độ điềm tĩnh tự tin, khiến người ta hết sức an tâm. Có ông cụ ở đó, Minh Nhãn Mai Hoa dù xảy ra bao nhiêu biến cố chăng nữa, lòng người cũng không hoang mang.
Giờ đây chỗ dựa vững vàng của Minh Nhãn Mai Hoa cứ thế mà ra đi ư?
Chỉ trong mấy năm ngắn ngủi mà Dược Lai tự tử, Lưu Nhất Minh qua đời, Hoàng Khắc Vũ cũng như ngọn đèn trước gió, ba cột trụ lớn chống đỡ Minh Nhãn Mai Hoa trước kia lần lượt ngã xuống. Thời của ba vị cuối cùng cũng tới lúc hạ màn.
Giọng nói nét cười của ông cụ hiện lên trong tâm trí, thoắt chốc tôi đã đầm đìa nước mắt. Tôi chợt muốn vứt bỏ hết mọi thứ trong tay, quay về Bắc Kinh dự đám tang ông cụ, đưa tiễn ông chặng đường cuối cùng.
“Cậu không cần về đâu.” Phương Chấn như đoán được suy nghĩ của tôi, “Đằng này có cục trưởng Lưu chủ trì đại cục, tạm thời không cần cậu làm gì cả. Có điều cụ Lưu để lại cho cậu một bức thư, tôi đang giữ đây.”
“Để lại thư cho tôi à?” Tôi sửng sốt.
“Phải, chắc ông cụ cũng có dự cảm từ trước nên đã viết sẵn, nhưng chỉ là bản nháp thôi thì phải. Hay tin ông cụ qua đời, tôi lập tức lấy nó đi ngay.”
Nghe giọng điệu Phương Chấn, hình như cái chết của cụ Lưu còn kéo theo một loạt những biến cố khác. Nhưng nghĩ cũng phải, ông cụ chèo lái Minh Nhãn Mai Hoa bấy nhiêu năm, lại một tay thúc đẩy hoạt động thương mại hóa, quan hệ lợi ích cực rộng. Ông cụ qua đời đột ngột, ắt sẽ nảy sinh hỗn loạn. Mấy kẻ trong Minh Nhãn Mai Hoa khó tránh khỏi tranh quyền đoạt lợi, e rằng ngay cả Lão Triều Phụng cũng rục rịch ra tay ấy chứ.
Phương Chấn không hổ là công an gộc, không hề chìm đắm trong bi thương mà nhanh nhẹn phản ứng ngay.
Tôi chợt nhíu mày, “Tôi hỏi thêm câu này, ông cụ... chết tự nhiên thật không đấy?”
Phương Chấn đáp, “Lúc ấy chúng tôi cũng nghi ngờ nên đã khám nghiệm toàn diện tử thi, kết luận là tử vong tự nhiên, không có gì lạ cả. Thực ra lúc cậu còn ở Hồng Kông, sức khỏe ông cụ đã sa sút rồi. Song bấy giờ Minh Nhãn Mai Hoa đang nghìn cân treo sợi tóc nên ông cụ không cho nói rộng ra thôi.”
Tôi nhắm nghiền mắt lại hồi tưởng. Lần cuối tôi trò chuyện với cụ Lưu là lúc đang điều tra về bức tranh Cập xuân đạp hoa đồ tại Thượng Hải. Bấy giờ tôi nắm được một manh mối quan trọng, nóng lòng muốn kiểm chứng nên đã gọi điện về Bắc Kinh. Dù mệt mỏi song cụ Lưu vẫn chỉ dẫn tôi cặn kẽ, còn báo với tôi tin dữ ông Hoàng Khắc Vũ ở Hồng Kông vì gặp chị Tố mà sốc phải vào viện.
Đến giờ tôi vẫn nhớ rõ câu cuối cùng cụ Lưu nói với mình, “Chỉ cần nghe theo tấm lòng truy cầu cái thật, nắm giữ vật thật trong tay thì dù chúng giở trăm phương ngàn kế, ta vẫn có thể thủ vững như núi.” Nhờ sức mạnh từ câu nói ấy, tôi mới có thể đưa ra quyết định chính xác ở Hồng Kông, phá vỡ âm mưu của Bách Thụy Liên.
Sau khi từ Hồng Kông về Bắc Kinh, lẽ ra kết thúc một vụ việc lớn như vậy, cụ Lưu sẽ hẹn gặp tôi, nhưng tôi đợi mãi chẳng thấy, một độ còn lấy thế làm ấm ức. Giờ xem ra lúc ấy tình hình ông cụ đã không ổn rồi.
“Cạnh cậu có máy fax không? Giờ tôi fax luôn bức thư cho cậu nhé.”
“Tôi đang nghỉ tại nhà khách bộ công an ở Thiệu Hưng, chắc là có.”
“Sao cậu lại đến Thiệu Hưng?” Hiếm lắm mới thấy Phương Chấn chịu hỏi thêm một câu.
Tôi cố nén đau thương, kể lại những chuyện mình gặp ở Hàng Châu và Thiệu Hưng. Y trầm ngâm giây lát rồi nói, “Bọn Trại Tế Liễu này tôi biết, chúng dính vào không ít vụ án mạng rồi. Tốt nhất cậu nên nghĩ lại đi, nguy hiểm lắm đấy.”
“Không làm vậy thì chẳng cách nào xâm nhập được vào nội bộ chúng cả. Giờ cụ Lưu mất rồi, còn không mau cắt bỏ khối ung nhọt này đi, e rằng sau này lại càng khó khống chế.”
Phương Chấn dường như cũng bị tôi thuyết phục nên không khuyên can thêm nữa, “Tôi có người quen trong ngành ở Thiệu Hưng, để tôi nhờ anh ta giúp cậu, nhưng tự cậu cũng phải hết sức cẩn thận đấy.” Ngừng giây lát, y nói thêm, “À phải, tôi vừa nhớ ra một chi tiết điều tra được, có lẽ sẽ giúp ích cho cậu. Trại Tế Liễu hẳn cũng là chủ đề của một chóe sứ thanh hoa vẽ tích cổ.”
Tôi sửng sốt, nhưng nghĩ kỹ lại cũng hợp lý. Các phái dưới trướng Lão Triều Phụng dường như đều được đặt tên theo bộ chóe năm: Có chóe “Quỷ Cốc Tử xuống núi” nên đám ở Vệ Huy thuộc phái Quỷ Cốc Tử; nhà họ Dược có chóe “Ba lần ghé lều tranh” gia truyền, nên Dược Bất Nhiên có thể thuộc phái Mao Lư; vậy thì Liễu Thành Thao tự xưng Trại Tế Liễu, dĩ nhiên cũng bởi có một chóe sứ thanh hoa mang tên “Trại Tế Liễu”, nói không chừng còn liên quan tới Liễu Thành Thao.
Chu Á Phu đóng quân ở trại Tế Liễu là một điển cố lịch sử nổi tiếng. Hán Văn đế đi thị sát quân đội, tới các doanh trại khác đều phi thẳng ngựa vào trong, nhưng tới doanh trại của Chu Á Phu đóng tại Tế Liễu thì không vào được. Lính gác cổng nói phải có lệnh của tướng Chu mới chịu mở cửa, Văn đế chẳng còn cách nào, đành đợi lệnh. Tới khi doanh trại mở cổng, lính gác cổng lại nói, trong doanh trại cấm cưỡi ngựa, Văn đế đành xuống ngựa tự đi vào. Các đại thần đều tâu rằng phải phạt Chu Á Phu, song Văn đế lại khen ngợi nói ấy mới thực là người có tài trị quân.
Phái của Liễu Thành Thao lấy tên Trại Tế Liễu, không hiểu căn nguyên vì đâu.
Tôi chợt nảy ra một ý, Phương Chấn cung cấp thông tin vừa đúng lúc, lúc trước tôi nói muốn xâm nhập vào nội bộ tổ chức của Lão Triều Phụng, song vẫn chưa nghĩ ra kế hoạch cụ thể, giờ được Phương Chấn chỉ điểm, tôi liền nghĩ ra một kế tuyệt diệu.
“À, Dược Bất Thị thế nào rồi?” Tôi hỏi.
“Bị bắt ngay tại trận, cũng nếm mùi đau khổ đôi chút. May mà Thẩm Vân Sâm ra mặt, sau khi điều đình hòa giải, đã nhất trí không đưa ra pháp luật. Nhưng giờ nhà họ Dược lại đang lục đục. Người thì lên án hai anh em Dược Bất Thị là hạng phá gia chi tử, đòi gạch tên trong gia phả; kẻ lại khăng khăng đòi phải kiện luôn cả nhà họ Thẩm không bảo quản cẩn thận, tóm lại là cãi vã om sòm cả lên. Có điều hai hôm nay lại thấy im thin thít, hình như bị ai đó đe dọa.”
Tôi thầm nghĩ đây có lẽ là kiệt tác của Dược Bất Nhiên. Người nhà họ Dược chẳng kẻ nào sạch sẽ, gặp phải hạng ngang ngược bất chấp quy củ như Dược Bất Nhiên, có lẽ cũng đành bó tay.
“Vậy Dược Bất Thị sẽ được thả chứ?”
“Giờ vẫn đang bị tạm giam ở Hàng Châu, đợi làm rõ trách nhiệm đã. Tôi đã hỏi chuyện cậu ta rồi, tinh thần cậu ta vẫn ổn. Cậu ta cứ dặn đi dặn lại, nhờ tôi nhắn cậu chỉ được tin vào manh mối mình tự tìm ra, đừng làm chuyện ngu ngốc gì nữa.”
Tôi phì cười, đúng là phong cách Dược Bất Thị. Gã này tuy xấu tính, thích lên mặt dạy đời, nhưng quả thực là một đồng bạn đáng tin cậy. Nếu không nhờ anh ta khảng khái xả thân, e rằng giờ cả hai chúng tôi đều đang ngồi trong tù.
“Phương Chấn, tôi hỏi anh một câu, anh không được trả lời là không biết đâu đấy. Cụ Lưu và cục trưởng Lưu rốt cuộc nghĩ thế nào về Lão Triều Phụng vậy?” Tôi gặng.
Lâu nay tôi vẫn thắc mắc mãi không sao hiểu nổi, cụ Lưu nắm Minh Nhãn Mai Hoa, cục trưởng Lưu lại có quan hệ với các quan chức cấp cao, trong tay họ cầm kiếm báu, song chưa bao giờ cho Lão Triều Phụng một đòn trí mạng cả.
Lần này tôi một thân một mình lẻn vào đồn địch, ắt phải làm rõ ý tứ của cục trưởng Lưu. Nếu chỉ được Phương Chấn giúp đỡ dưới tư cách bạn bè, mà không được chính quyền phối hợp thì tình thế của tôi cũng đáng lo đấy.
Ở đầu kia, Phương Chấn lặng thinh giây lát mới chậm rãi đáp, “Cục trưởng Lưu đã đoán được cậu sẽ hỏi câu này. Ông ấy dặn tôi, nếu cậu có hỏi, tôi được quyền nói ra những câu tiếp theo đây.”
Tôi siết chặt ống nghe.
“Tổ chức của Lão Triều Phụng hình thành đã lâu, thế lực chồng chéo phức tạp, nếu bất ngờ khai chiến, ắt sẽ dính líu đến lợi ích các bên. Cấp trên coi ổn định là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, không cho phép xảy ra rối loạn trên diện rộng. Dù là cụ Lưu hay cục trưởng Lưu, cũng đều ném chuột sợ vỡ đồ, không làm gì được. Nếu muốn giải quyết việc này, cần một người nằm ngoài thể chế, không liên quan tới tổ chức, hành động bạo dạn không biết kiêng kỵ ra mặt phá vỡ cục diện trước, sau đó tổ chức mới một đòn quét sạch. Nói xong rồi đấy.”
Nói trắng ra là bên trên muốn giữ vững ổn định, không cho phép chủ động tấn công. Tốt nhất là dân đen làm ầm lên, xung đột với Lão Triều Phụng trước, tổ chức mới có cớ ra mặt, kéo đến thu dọn tàn cuộc. Thật chẳng khác nào phim hành động Hồng Kông, vai chính luôn phải một mình chiến đấu, cảnh sát bao giờ cũng đợi đến phút cuối mới xuất hiện.
Tôi cười gượng. Té ra mình tính nát nước, còn người ta đã nhìn thấu từ lâu. Ắt phải để tôi một mình mạo hiểm, khuấy tung cục diện lên, bên trên mới tiện ra tay. Thảo nào Phương Chấn mọi khi nguyên tắc là thế mà lần này lại phá lệ giúp đỡ chúng tôi, hóa ra nguyên nhân chủ yếu không phải vì nể tình bạn với Dược Bất Thị, mà suy cho cùng là do phía trên ngấm ngầm bật đèn xanh.
Tôi cứ ngỡ mình giấu giếm khéo lắm, ngờ đâu vẫn chỉ là một con cờ của Lưu Nhất Minh.
Nhưng giờ người đã khuất rồi, tôi còn nói gì được nữa đây?
Phương Chấn nói, “Giờ cụ Lưu qua đời, phía Lão Triều Phụng ít nhiều cũng sẽ lơi lỏng cảnh giác, đây là cơ hội của cậu, cũng là cơ hội của chúng tôi.”
“Được, tôi biết rồi...” Tâm trạng tôi có phần cay đắng, “Phải rồi, có chuyện này cần cho các anh biết, giáo sư Trịnh là người của Lão Triều Phụng.”
Phương Chấn trả lời, “Biết rồi.”
Tin tức quan trọng như vậy mà anh ta chẳng hề tỏ vẻ hào hứng, cũng không ngạc nhiên. Tôi ngờ rằng họ đã nắm được tình hình giáo sư Trịnh từ lâu, nên không cho ông ta vào nhóm ra quyết định.
Tôi cúp điện thoại, xuống tầng tìm máy fax. Nửa đêm nửa hôm thế này cũng khó mà tìm được. May là tôi có giấy chứng nhận, lại xì tiền ra mở đường, nhân viên phục vụ được đút lót mới lén lút mở cửa văn phòng cho. Chẳng mấy chốc đầu kia fax sang mấy tờ giấy viết bằng bút lông, nét bút cứng cáp, đúng là chữ của cụ Lưu. Tôi đem về phòng, vặn to đèn bàn đọc thật kỹ.
Mở đầu thư, Lưu Nhất Minh nói gần đây mình có linh cảm xấu, e rằng ngày tháng chẳng còn được bao lâu, có vài lời muốn dặn dò tôi.
Sau đó ông kể lại một chuyện từ thời Dân Quốc, ông nội tôi là Hứa Nhất Thành từng cùng Lưu Nhất Minh, Hoàng Khắc Vũ, Dược Lai ngăn cản Tôn Điện Anh cướp Đông lăng. Tuy chỉ thuật vắn tắt, không đi vào chi tiết nhưng qua câu chữ, tôi có thể cảm nhận được sự tôn kính của cụ Lưu với ông nội tôi.
Lưu Nhất Minh thẳng thắn bày tỏ rằng bấy giờ mình hết sức sùng bái Hứa Nhất Thành, tin chắc ông tôi mới là người có thể đưa Minh Nhãn Mai Hoa vào quỹ đạo mới. Sở dĩ ông tôi có thể ngồi vào ghế chưởng môn, cũng do Lưu Nhất Minh âm thầm thúc đẩy.
Chuyện này tôi đã biết sơ sơ, nhưng nghe người trong cuộc kể lại, vẫn có cảm xúc khác hẳn.
Kể xong vụ án Đông lăng, Lưu Nhất Minh lại quay sang nói về vụ đầu Phật. Ba người Lưu, Hoàng, Dược đều không tin Hứa Nhất Thành lại làm ra chuyện như vậy, ra sức bênh vực, chạy đôn chạy đáo lo liệu cho ông tôi. Nhưng điều khiến họ phiền lòng là Hứa Nhất Thành tự dưng đổi hẳn tính nết, chẳng chút áy náy về việc câu kết với người Nhật, trái lại còn đuổi ba người bọn họ đi.
Cuối cùng sự kiện ở lầu Khánh Phong đã khiến họ thay đổi hẳn thái độ. Ở Đông Tứ, Bắc Kinh có một nhà hàng cao cấp tên Khánh Phong chuyên chiêu đãi khách quý. Mấy hôm trước khi bị bắt, ông nội tôi từng đánh cuộc với người khác tại đây, ép một lái buôn cổ vật tên Lâu Dận Phàm phải nhảy lầu tự tử, còn trực tiếp giao bộ sưu tầm của ông ta cho người Nhật. Ba người họ vốn giúp đỡ Hứa Nhất Thành, kết quả không ngờ gặp phải chuyện này. Từ đó trở đi, họ hoàn toàn thất vọng, Hoàng Khắc Vũ vốn tôn sùng Hứa Nhất Thành nhất, quay ra ghét cay ghét đắng ông tôi.
Mãi tới khi tôi phá giải được vụ đầu Phật, tâm trạng họ mới nhẹ nhõm phần nào, cũng bắt đầu hiểu được dụng ý của Hứa Nhất Thành. Nhưng băn khoăn trong lòng vẫn chưa được tháo gỡ, Lưu Nhất Minh nói đến giờ vẫn không hiểu sao năm xưa ông Hứa Nhất Thành lại làm vậy. Rõ ràng ông nội tôi có thể kể ra chuyện đầu Phật ngọc để cùng nhau tìm cách, việc gì phải liều mạng ôm hết vào mình, đẩy tất cả những người khác ra? Ở nhà hàng Khánh Phong, vì sao ông nội tôi lại hành động lạ lùng, quyết dồn Lâu Dận Phàm vào chỗ chết như vậy? Tiếc rằng Lưu Nhất Minh kể rất mơ hồ, không sao biết rõ được.
Cuối cùng Lưu Nhất Minh nói, có lẽ ngoài chuyện đầu Phật, còn việc gì đó khác buộc ông Hứa Nhất Thành phải nhẫn nhục nhận lấy gánh nặng. Nếu năm xưa mình đủ tài trí, phát hiện được chuyện đó, có lẽ nhà họ Hứa đã chẳng phải chịu nhiều khổ nạn như vậy. Kể đến đây, Lưu Nhất Minh vô cùng dằn vặt, nói rằng mấy năm gần đây, thường mơ thấy chuyện ở Đông lăng năm ấy, mơ thấy bóng Hứa Nhất Thành đứng chặn trước lăng, bấy giờ ông mới quyết tâm thúc đẩy để nhà họ Hứa quay về với Minh Nhãn Mai Hoa, bằng không sau này chết đi chẳng còn mặt mũi nào gặp ông nội tôi nữa.
Bản nháp viết đến đây thì dừng đột ngột.
Vì đây là bản fax nên tôi còn thấy được cả dấu gạch xóa của Lưu Nhất Minh. Tôi để ý thấy phía sau còn nửa câu nhưng đã bị xóa đi, người xóa bôi đen từng chữ, không nhìn ra được hình dạng nữa, càng khỏi nói tới nhận mặt chữ.
Tôi đành đặt bản fax xuống, đứng dậy nhìn ra cửa sổ tối om, tâm trạng ngổn ngang.
Tôi biết chuyện Đông lăng, đó là kiếp nạn lớn của văn vật trong sách sử. Ông nội tôi dù có tài trí tới đâu cũng không thể ngăn nổi bi kịch lần đó. Nhưng tôi có thể hình dung được cảnh ông đứng trước Đông lăng, một mình chặn trước đại quân của Tôn Điện Anh. Một bóng dáng kiên nghị mà ngạo nghễ đứng sừng sững tuyệt vọng giữa mưa to gió lớn.
Ý niệm mãnh liệt ấy gần như có thể xuyên qua dòng thời gian, khiến cháu trai ông đầm đìa nước mắt.
“Ông ơi, cháu sẽ không làm ông thất vọng đâu. Người nhà họ Hứa chúng ta, nhất định sẽ kiên trì đến cùng.” Tôi quay mặt ra song cửa, ánh mắt sáng ngời, không bợn mảy may do dự.
Sáng hôm sau, Liễu Thành Thao quả nhiên xuất hiện trước cửa nhà khách như đã hẹn, y ăn mặc chỉnh tề, râu tóc trắng toát, khiến ai đi qua cũng phải ngoái nhìn. Vừa thấy chúng tôi đi xuống, y đã nhe răng cười chào, “Hai vị, tôi có tin mới đây. Sếp tôi đồng ý gặp anh, nhưng phải gặp ở công ty chúng tôi.”
Quả như tôi dự liệu. Bọn chúng nhất định không chịu từ bỏ quyền chủ động, nhưng tôi khăng khăng đòi gặp cấp trên, nên để cân bằng đôi bên, đành để tôi tới hang ổ của chúng. Tôi cũng chẳng cò kè ra điều kiện gì, mau mắn nhận lời.
Lưu Nhất Minh đột ngột qua đời khiến tôi càng thêm sốt ruột. Việc này không thể lần lữa thêm nữa.
Liễu Thành Thao chìa tay ra, “Công ty chúng tôi không nằm ở Thiệu Hưng, phải phiền hai vị đi xa một chuyến rồi, lên xe thôi.” Dứt lời đã thấy một chiếc Santana trờ tới, trông khá xịn.
“Đợi chút đã.” Tôi bắt chước gã, vỗ tay mấy cái làm hiệu. Liễu Thành Thao sững người, không biết tôi định làm gì.
Đột nhiên, bảy tám người trông như phóng viên ùa tới, bên cạnh còn mấy chiếc máy ảnh và máy quay theo sát. Nữ phóng viên đi đầu chĩa micro về phía Liễu Thành Thao, “Chào anh Liễu, tôi là phóng viên tờ Báo chiều Thiệu Hưng, lần này anh tới Thiệu Hưng tìm nghệ nhân dân gian, cứu một tuyệt kỹ thủ công mỹ nghệ thất truyền, là do chính phủ cử đi hay xuất phát từ sở thích cá nhân?”
Liễu Thành Thao còn đang ngỡ ngàng, tôi đã đi tới khoác vai y đầy thân thiết rồi giới thiệu với phóng viên, “Anh Liễu đây là một doanh nhân luôn hết lòng vì lợi ích chung, trân trọng truyền thống dân tộc, vẫn luôn muốn làm vài việc có ích để báo đáp xã hội. Lần trước anh ấy đến Thiệu Hưng, thấy rất nhiều nghệ nhân ngành nghề thủ công ngày một già đi song tuyệt kỹ lại chẳng truyền cho ai được, đã thất truyền không ít, thật khiến người ta tiếc nuối. Anh Liễu vô cùng cảm khái, quyết định đầu tư một khoản tiền lớn để bảo hộ nghề thủ công truyền thống. Bác Doãn thợ bạc ở cầu Chữ Bát chính là thợ thủ công dân gian đầu tiên mà anh ấy định tài trợ. Bác Doãn à, bác lại đây.”
Bác Doãn ngập ngừng đi đến. Tôi chụm tay ba chúng tôi vào nhau rồi tiếp tục nói với cánh phóng viên, “Chúng tôi đã thống nhất với anh Liễu đây, hôm nay sẽ tới công ty của anh ấy quay phim, nghiên cứu, có thể còn nhận vài học trò, để tuyệt kỹ làm hàng bạc của Thiệu Hưng chúng ta khỏi thất truyền. Đây chỉ là mở đầu thôi, từ nay về sau anh Liễu sẽ còn dốc sức cứu nhiều ngành nghệ thuật dân gian nữa. Có như vậy văn hóa của chúng ta mới khỏi đứt gãy, để lại tài sản quý báu cho con cháu mai sau!”
Tôi nói say sưa đầy nhiệt huyết, khiến các phóng viên không khỏi vỗ tay rào rào.
Nhân lúc họ chụp ảnh lách tách, Liễu Thành Thao cúi đầu, đôi mày trắng gần như cau lại thành một đường kẻ phấn, “Anh định làm gì vậy?” Tôi xòe tay, “Bác Doãn vốn là người nổi tiếng, kinh động báo giới cũng là chuyện thường mà.”
Đám phóng viên liên tục hỏi hết câu này đến câu khác. Liễu Thành Thao nói đúng cũng không được, bảo không đúng cũng chẳng xong, đành đối đáp qua loa cho xong chuyện, mấy tên tay sai to cao lực lưỡng của y đều đứng tít đằng xa, có phần luống cuống.
Trước bấy nhiêu con mắt, chúng cũng chẳng làm gì được. Liễu Thành Thao trừng mắt nhìn tôi, lần đầu tiên tỏ ra mất bình tĩnh.
Tôi chẳng buồn nhìn y mà thì thào bảo bác Doãn, “Bác yên tâm được rồi, tuyên truyền thế này, chẳng ai dám động vào bác nữa đâu.”
Cũng nhờ Mạc Hứa Nguyện, tôi mới nảy ra sáng kiến này. Cô từng kể có đài truyền hình muốn phỏng vấn bác Doãn thợ bạc, kết quả bị mắng chửi đuổi đi. Tối qua tôi đã bảo bác Doãn liên hệ lại với họ, chủ động tung tin có công ty tư nhân tài trợ cho nghệ nhân nghề truyền thống. Truyền thông rất thích đề tài này, sáng sớm ngày ra đã phái phóng viên tới săn tin.
Liễu Thành Thao đoán chắc chúng tôi sẽ không báo cảnh sát, nhưng không ngờ tôi lại báo cho báo giới, biến vờ thành thật. Qua đợt tuyên truyền này, bác Doãn sẽ được đưa ra ngoài sáng, trở thành tâm điểm chú ý của mọi người, vô hình trung cũng an toàn hơn. Nếu tôi và bác ta có mệnh hệ gì, chẳng cần ai khác, chính báo giới sẽ tóm chặt lấy Liễu Thành Thao không buông.
Thú vị nhất là, đám phóng viên này chẳng biết kẻ nào hở miệng ra, còn báo cho mấy nghệ nhân già. Họ đã quá lâu chẳng được ai ngó ngàng, nghe nói có doanh nhân muốn tài trợ, tức thì chẳng nề gian khổ chạy đến. Tôi thấy mấy ông già bà lão ăn mặc giản dị chủ động đưa danh thiếp cho Liễu Thành Thao, nắm tay áo khư khư, vừa khóc vừa kể lể chuyện của mình, thậm chí có người còn đem tới đủ loại nhạc cụ dân tộc, định biểu diễn ngay tại chỗ. Giữa tiếng nhạc giao hưởng chúc mừng, có lẽ trong đầu Liễu Thành Thao đã chém chết tôi mấy trăm lần rồi.
Lão Triều Phụng cũng thế, Trại Tế Liễu cũng vậy, đều là ruồi nhặng vo ve trong bóng tối, thế lực có lớn đến đâu cũng chẳng dám bước ra ngoài sáng. Hiện giờ báo chí chú ý, ưu thế lớn nhất của Liễu Thành Thao xem như cũng bị chặt đứt.
Mưu kế này đường đường chính chính, Liễu Thành Thao dù có biết cũng chẳng làm gì được.
Khó khăn lắm mới thoát được đám đông, chúng tôi lên xe. Đầu tóc Liễu Thành Thao xù cả lên vì chen lấn, áo cũng bị giật đứt mấy khuy, phong thái nho nhã mất sạch. Tôi cười thầm, vỏ quýt dày đúng thật cần đến móng tay nhọn.
“Lái đi.” Liễu Thành Thao tức tối ra lệnh, không còn làm bộ ôn hòa nữa.
Rốt cuộc là đi đâu thì y không nói. Vừa rồi phóng viên hỏi, y cũng chỉ trả lời lập lờ là đi Bắc Kinh, nhưng nghe đã biết là nói dối.
Xe chẳng mấy chốc đã rời nội thành Thiệu Hưng, bắt đầu chạy đường dài. Tôi nhìn mặt trời để xác định phương hướng, thấy có vẻ là đi về phía Tây Nam. Chuyến này đi mất tầm năm sáu tiếng. Giữa đường xe cũng dừng mấy lần để đổ xăng, ăn cơm, đi vệ sinh. Liễu Thành Thao chẳng làm bộ ân cần tử tế nữa, ném cho chúng tôi mấy gói bánh mì và nước, trừ lúc đi vệ sinh ra không cho chúng tôi xuống xe, đi vệ sinh cũng phải có người giám sát.
Bác Doãn hơi say xe, ngồi ngả đầu trên ghế, hai mắt nhắm nghiền, có lẽ cả đời bác ta chưa bao giờ đi xa Thiệu Hưng đến vậy. Tôi tựa đầu vào cửa sổ xe, trù tính kế hoạch tiếp theo.
Lần này xông vào hang cọp, thực vô cùng nguy hiểm. Tôi có thể sẽ bị cướp của rồi thủ tiêu, cũng có thể bị vạch trần thân phận, dù mọi việc suôn sẻ, gặp được Lão Triều Phụng, cũng chưa biết làm sao trốn thoát được. Huống hồ còn bác Doãn đi cùng, tôi nhất định phải bảo vệ bác ta an toàn, như đã hứa ban đầu.
Trước kia chẳng phải tôi chưa bao giờ rơi vào cảnh nguy hiểm, nhưng cục diện lần này vô cùng phức tạp, tôi lại chỉ bám víu vào một suy đoán chưa được kiểm chứng. Lỡ như đoán sai thì xong đời. Có điều nói đi cũng phải nói lại, phiền phức tôi gặp dẫu lớn tới đâu cũng chẳng nguy hiểm bằng ông nội tôi đối mặt với Tôn Điện Anh năm xưa.
Đàn ông con trai họ Hứa, luôn phải kiên trì theo đuổi vài việc trông có vẻ cực kỳ ngu xuẩn.
Chỉ cần nghe theo tấm lòng truy cầu cái thật, nắm giữ vật thật trong tay thì dù chúng giở trăm phương ngàn kế, ta vẫn có thể thủ vững như núi.
Đó là lời dạy của cụ Lưu.
Tôi nhìn những cột mốc bên đường liên tục tụt lại phía sau, nhận ra mấy địa danh quen thuộc, có lẽ đã tiến vào địa phận An Huy, chẳng bao xa nữa là tới Hoàng Sơn. Thình lình chiếc Santana rời đường cái, chạy thẳng tới một thị trấn hẻo lánh. Tới nơi, Liễu Thành Thao ra hiệu cho tất cả xuống xe rồi dẫn chúng tôi tới một quán cơm cũ kỹ bên đường.
Chúng gọi mấy món đơn giản, tên Long Vương cao to từng đe dọa tôi còn định gọi thêm bia. Song thấy Liễu Thành Thao đặt đũa xuống, sầm mặt nói đừng làm lỡ việc, hắn đành ngượng nghịu rụt lại. Một kẻ to cao lừng lững đến mét tám mà trước mặt Liễu Thành Thao lại cun cút vâng lời, không dám ho he. Trong khi những tên còn lại vẫn phải khép na khép nép trước hắn.
Những chi tiết nhỏ này, tôi đều âm thầm ghi nhớ. Tôi sắp tiến vào lòng địch, đó là một chiến trường hoàn toàn lạ lẫm, thu thập thêm thông tin chưa chừng sẽ có lúc cứu mạng tôi. Vì vậy tôi phải vận dụng tinh thần tỉ mỉ kỹ càng trong giám định cổ vật để quan sát, ghi nhớ và đào bới, kiến thức về mấy băng nhóm xã hội đen trong truyện liên hoàn họa đọc hồi nhỏ bây giờ mới có cơ hội đem ra áp dụng.
Ăn tối xong, chúng tôi rời quán cơm, thấy chiếc Santana đã được thay bằng chiếc Giải Phóng. Thùng xe che bạt kín mít. Liễu Thành Thao dẫn hai chúng tôi ra phía sau xe nói, “Mời hai vị lên cho, đoạn đường tiếp theo hơi xóc đấy.”
Tôi cứ ngỡ đã đến nơi, hóa ra chỉ là trạm trung chuyển. Đoạn đường tiếp theo chúng không muốn để chúng tôi thấy nên đã đổi xe. Thấy bác Doãn có vẻ tần ngần, tôi bèn vỗ vai bác ta, “Bác sợ gì, giờ ta thành người nổi tiếng ở Thiệu Hưng rồi đấy.” Nói rồi dưới cái nhìn hằn học của Long Vương, tôi ung dung leo lên, ngồi xuống góc trong cùng của thùng xe. Chỗ này gần đầu cabin, đỡ xóc hơn.
Long Vương cũng trèo lên, khoanh tay ngồi xuống đối diện, nhìn chòng chọc vào tôi. Xe nổ máy rung bần bật rồi lại tiếp tục chạy.
Đoạn đường kế tiếp đúng là xóc tung người, có lẽ chúng không đi đường tỉnh lộ mà chui rúc trong núi. Tôi dựa vào thùng xe, chợt lên tiếng hỏi Long Vương ngồi đối diện, “Này, em mày sao rồi?”
Long Vương nổi khùng, “Mẹ kiếp mày còn dám hỏi à, thằng em tao bỏng hết mặt rồi, sau này đừng hòng tìm vợ nữa.” Tôi phì cười, hóa ra hắn lo lắng nhất là chuyện này. Thấy vậy Long Vương vươn bàn tay to bè ra, định bóp cổ tôi. Tôi bèn gõ vào cửa xe, Liễu Thành Thao ngồi ghế phụ ngoái đầu nhìn lại, Long Vương đành rụt tay về, trợn mắt hằn học nhìn tôi.
Lúc này hắn mới hiểu vì sao tôi chọn ngồi vào phía trong.
“Lúc ấy tao cũng chẳng còn cách nào nữa, không tạt chậu axit đó, chẳng nhẽ lại để chúng mày bắt à? Làm gì có chuyện chúng mày được bắt người mà không cho tao phản kháng?” Tôi nheo mắt, lắc lư người theo nhịp xóc nẩy của xe.
“Thằng nào dám động đến em tao thì đừng hòng sống sót.” Long Vương nghiến răng.
“Em ruột mày à?”
“Nó là anh em của tao, trước kia ở Thọ Xuân, nếu không có nó che chắn, tao đã bị bọn phu đào đất khác dần chết rồi.”
“Thọ Xuân? Giờ gọi là huyện Thọ à? Hóa ra mày không phải dân gốc An Huy.”
“Tao là người Cửu Đài, Trường Xuân.”
“Nghe giọng mày không giống lắm nhỉ, giống giọng Lan Châu hơn.”
“Tao từng đi lính và ngồi tù ở đấy. Mẹ kiếp mày hỏi làm đéo gì!”
“Ngồi trong thùng xe tối om thế này còn biết làm gì nữa. Mày con một à?”
Dân buôn cổ vật có một kỹ năng gợi chuyện, chỉ cần cười hì hì nói mấy câu là moi được hết thông tin cá nhân của người ta. Thoạt đầu Long Vương chống đối tôi dữ dội, nói câu nào chửi câu nấy. Song tôi không sợ, vẫn bình tĩnh gợi chuyện. Nói mãi nói mãi, Long Vương cũng dần lơi lỏng cảnh giác, quay ra chuyện trò rôm rả.
Nhàm chán là một trạng thái kỳ diệu, có thể làm phai nhạt mọi cảm xúc của con người. Một đôi yêu nhau như keo sơn nhưng ngồi tàu chung mười mấy tiếng cũng có thể bắt đầu chán ghét nhau. Hai kẻ hằn thù nhau, nếu không cách nào xử được đối phương, lại còn buộc phải ở chung một chỗ, cũng vẫn chuyện trò được.
Khi xe dừng lại, tôi đã nắm được đại khái gia cảnh Long Vương. Hắn là người Đông Bắc, năm nay ba mươi lăm tuổi, từng đi lính, vì đánh người bị thương mà bị kết án mấy năm. Một tên bạn tù rủ rê hắn vào con đường trộm mộ, bán sức kiếm ăn, cũng khấm khá. Về sau tay đại ca chết yểu, hắn tự mình dẫn một đám anh em làm riêng, nhưng lại vượt quá giới hạn, chọc giận đám thổ địa ở đó, suýt bị đánh chết. May mà gặp Liễu Thành Thao, được y cứu ra, từ đó bèn đi theo y.
Nếu cho tôi thêm đôi tiếng nữa, có khi hắn thích ăn món gì, mặc quần xà lỏn màu gì tôi cũng moi ra được tuốt.
Theo nhận định của tôi, Long Vương là kẻ “ruột để ngoài da, nóng nảy, coi trọng tình nghĩa”.
Xe đỗ ở trong núi nào đó, tai tôi nghe thấy tiếng gió núi rít gào. Xuống xe, chúng tôi thấy ngay phía trước là một tòa nhà ba tầng. Tổng thể tòa nhà khá cũ kỹ nhưng tường lại mới được quét sơn trắng. Trên nóc nhà lắp một ngọn đèn công suất lớn, ánh đèn từ trên cao chiếu xuống, song chỉ soi sáng được bãi đỗ xe trước nhà. Trên nóc còn một cột ăng ten công suất lớn, trông như phướn chiêu hồn.
Xung quanh tối mịt, không một tia sáng, cảm giác như đang ở giữa hầm mộ. Căn nhà trắng toát sừng sững nhô lên, chẳng khác nào minh điện trong mộ. Hai bên lối lên cầu thang ở tầng một còn bày hai đỉnh đồng điếu, khiến không khí thêm phần âm u.
Trong điều kiện ánh sáng đó, Liễu Thành Thao tóc trắng, mày trắng, gương mặt cũng trắng bệch cắt không ra giọt máu trông càng quái gở rùng rợn, như Bạch Vô Thường vừa bò trong quan tài ra vậy.
Liễu Thành Thao chậm rãi đi trước, dẫn chúng tôi vào nhà, lên thẳng tầng ba. Nói thực lòng, lúc đi lên tôi thấy rùng rợn chẳng kém gì trong phim kinh dị. Tôi và bác Doãn nhìn nhau, đôi bên bất giác dựa sát lại.
Mãi tới khi phòng cho khách ở tầng ba mở ra, tôi mới thở phào nhẹ nhõm. Điều kiện ăn ở tại nơi này khá tốt, trang bị theo đúng chuẩn nhà khách, có hẳn hai giường, coi như cũng là chốn cho người. Tôi còn sợ mở cửa ra sẽ thấy giữa nhà lù lù một cỗ quan tài, phải nằm vào đó ngủ ấy chứ.
Trong phòng có ti vi nhưng không có điện thoại, tường trắng xóa, chẳng biết ai đập chết một con muỗi no căng máu, dấu máu in hằn lên tường trông rợn cả người. Trên vách tường đóng một hàng giá gỗ bịt góc, bên trên bày vài món đồ gốm sứ, có bát có lọ, mỗi món một kiểu dáng, đều là sứ trắng. Có điều nhìn qua đã biết không phải đồ cổ, bằng không đã chẳng tùy tiện bày trong phòng nghỉ cho khách như vậy.
“Hai vị nghỉ ngơi cho khỏe, đừng đi lại lung tung. Nơi đây là vùng núi, dễ xảy ra chuyện lắm đấy.” Liễu Thành Thao dặn một câu rồi quay lưng đi.
Chúng tôi ngồi xe cả ngày, lưng đã mỏi nhừ, chỉ đánh răng rửa mặt qua loa rồi lên giường ngủ thẳng cẳng. Mấy năm nay trải qua nhiều sóng gió, tôi đã quen nghỉ ngơi dưỡng sức dưới áp lực nặng nề, chuẩn bị cho trận chiến ngày mai.
Hôm sau thức dậy, xung quanh cực kỳ yên tĩnh, chỉ thi thoảng nghe tiếng chim hót líu lo. Hít một hơi, có thể căng lồng ngực không khí trong lành. Tôi rời khỏi giường, đứng trên ban công tầng ba nhìn ra ngoài, nhận thấy địa hình quanh đây hệt như câu mở đầu của Túy ông đình ký: “Quanh huyện Trử toàn núi non.” Núi non trùng điệp, xanh ngắt một màu, những đỉnh núi cao thấp nhấp nhô bao quanh nơi này tạo thành một lòng chảo nhỏ, không sao nhìn ra xa được. Chỉ thấy một góc trời xanh biếc, điểm xuyết vài áng mây lờ lững.
Chính giữa lòng chảo là tòa nhà này. Ánh nắng chan hòa làm nổi lên sắc xanh rì của cây lá, khiến căn nhà chẳng còn vẻ rùng rợn đêm qua, trái lại bừng bừng sức sống, toát lên cái thú ẩn cư giữa núi rừng.Tôi nhớ một cậu bạn đạo diễn từng nói, quay phim quan trọng nhất là xử lý sáng, cùng một cảnh tượng nhưng xử lý sáng khác nhau sẽ tạo nên phong cách khác hẳn nhau, quả là chuẩn xác.
Căn nhà này tổng cộng có ba tầng, giữa là cầu thang, mỗi tầng đều có hai hành lang hai bên, mỗi bên lại có hai gian phòng lớn rộng thênh thang. Chỉ riêng tầng ba chúng tôi ở là phòng nhỏ, mỗi bên ba phòng. Có lẽ trước kia nơi này từng là trường làng, tầng một và hai là lớp học, tầng ba là văn phòng và nơi ở của giáo viên.
Xung quanh còn có rất nhiều nhà kiểu nông thôn, nằm rải rác trên khe núi hoặc đỉnh dốc, phần lớn là nhà gạch, tường đỏ thắm màu gạch nung hoặc đen sì màu men, trông khá lạ mắt. Gần đó có cả ruộng đồng nhưng đã bỏ hoang từ lâu. Một con đường núi dốc đứng quanh co chạy dài, dẫn thẳng vào cụm đồi núi. Tôi còn thấy một vài lò gốm đang tỏa khói đen bảng lảng. Mấy lò gốm này không đến nỗi cũ, kiểu dáng rất đặc biệt, vòm khum thân dài, nhìn từ trên xuống hơi giống cái hồ lô. Ống khói hai mươi mấy mét vươn cao, bên ngoài trát một lớp đất sét vàng, không giống như kiểu bếp nung hay lò con thoi thời nay lắm.
Tôi đoán nơi đây từng là một ngôi làng, nhưng sau đã di dân ra ngoài núi, bỏ hoang nhà cửa ở đây. Kết quả bị Trại Tế Liễu nhắm trúng, kéo tới xây dựng hang ổ làm đồ giả. Hang ổ này rộng hơn hẳn những nơi khác mà tôi từng trông thấy. Ngoài lò gạch, còn có thể thấy rất nhiều công trình liên quan ở đằng xa, thậm chí có cả hai ba bãi nguyên liệu chất đầy cao lanh và quặng men.
Muốn áng chừng quy mô một xưởng gốm sứ, trước là phải xem cửa lò, sau là xem nguyên liệu. Các xưởng nhỏ làm đến đâu nhập đến đấy, không trữ nguyên liệu. Đã có bãi nguyên liệu, tất phải có nhu cầu vận chuyển, quy mô chắc chắn không thể nhỏ.
Nơi này không bằng phẳng như Hà Nam, đường núi gập ghềnh, thông thường không mấy người ngoài lai vãng. Trời cao hoàng đế xa, cũng thoải mái động chân tay hơn. Quả nhiên lá gan của Trại Tế Liễu không phải tầm thường.
Chỉ e những tên xấu xa như vậy vẫn còn nhan nhản.
Có người đưa đồ ăn sáng tới cho chúng tôi, năm chiếc màn thầu, một đĩa dưa muối, hai quả trứng gà luộc, còn cả hai âu canh sườn. Tôi để ý thấy từ tầng ba xuống tầng hai chỉ có một lối cầu thang, bị lắp cửa sắt khóa trái, ra vào đưa cơm đều phải mở cửa.
Cũng có nghĩa chúng tôi chỉ có thể đi lại hoạt động ở tầng ba, không chạy đi đâu được, coi như bị giam lỏng trá hình. Liễu Thành Thao vẫn không hề thấy mặt.
Đã không cho ra ngoài, thì cứ tới đâu hay đấy vậy. Tôi và bác Doãn ngồi lì trong phòng, hết xem ti vi lại tán gẫu. Kể cũng lạ, sau khi tới đây, tâm trạng bác Doãn khá ổn định. Có lẽ vì xung quanh không có ai, lại yên tĩnh, tương tự hoàn cảnh sống thường ngày của bác ta.
Ông bác này không va chạm nhiều với bên ngoài, hoàn toàn không biết những chủ đề đang thịnh hành, tôi đành nói chuyện với bác ta về nghề bạc và nghề vá gốm. Nhắc tới mấy chuyện đó, bác ta liền sáng cả mắt, bắt đầu mở máy nói.
Nhân lúc người đưa cơm tới, tôi hỏi xin mấy món đồ sứ. Đây là xưởng chuyên làm hàng giả, nhất định không thiếu mấy thứ đó. Một lát sau tên canh gác khiêng lên hẳn một gùi, lanh ca lanh canh, có điều bên trong rất nhiều hàng lỗi, hẳn là bị lò nung loại ra. Doãn Hồng vừa chỉ trỏ vừa giảng giải, nhờ đó tôi cũng học được không ít kiến thức về đồ gốm sứ.
Có điều khi cầm những món đồ sứ nọ lên gõ, bác ta luôn tỏ vẻ nghi hoặc.
Cứ như vậy đã ba ngày. Tới ngày thứ tư, Liễu Thành Thao cuối cùng cũng xuất hiện, bảo chúng tôi, “Hai vị đi theo tôi.” Chúng tôi theo y tới một gian phòng học ở tầng một.
Trên tường phòng học còn lờ mờ mấy khẩu hiệu, bảng đen và bục giảng gỗ vẫn y nguyên. Nhưng phong cách bài trí bên dưới bục giảng đã khác hẳn. Mặt sàn trải thảm đỏ tươi, chính giữa bày bàn trà bằng gỗ mun, bên trên đầy đủ bộ ấm chén, xung quanh đặt xen kẽ mấy đôn mây và ghế gỗ, cạnh đó còn dựng một tấm bình phong tám mảnh bằng gỗ đàn, trên khảm rất nhiều mảnh sứ vỡ, xếp thành lớp lớp vân sóng nước.
Bên cạnh là một bếp lò nhỏ, bốc lửa phừng phừng, trên đặt một chiếc ấm sắt Nhật Bản đen tuyền.
“Anh Hư, xin lỗi vì để anh đợi lâu. Anh muốn nói chuyện với sếp chúng tôi đúng không? Người của ngài ấy vừa mới đến đây.” Liễu Thành Thao nói.
Tôi nhìn về phía bàn trà, thấy một người đang thoăn thoắt lau chén trà, gã vừa ngẩng lên, trông thấy gương mặt tươi cười quen thuộc, lòng tôi rúng động: Dược Bất Nhiên?
Bước ngoặt này thực sự nằm ngoài dự liệu của tôi. Tôi cứ ngỡ sếp của Liễu Thành Thao là Lão Triều Phụng, không ngờ lại là Dược Bất Nhiên. Tôi liếc nhìn y, chậm rãi hỏi, “Anh Liễu đùa tôi đấy ư?”
Liễu Thành Thao ngỡ tôi chê Dược Bất Nhiên trẻ tuổi, bèn giải thích ngắn gọn, “Đây là người do sếp lớn phái tới, được toàn quyền thay mặt ông ấy ra quyết định. Anh cứ yên tâm.” Tôi tinh ý bắt được một thoáng hậm hực trong giọng y.
“Anh Hư phải không? Nghe danh đã lâu. Tôi tên Dược Bất Nhiên.” Dược Bất Nhiên đóng kịch rất giỏi, không hề để lộ sơ hở, vồn vã đứng dậy đón tiếp rồi xách ấm sắt lên, rót cho tôi một chén trà nóng, “Trà ngân câu Hoàng Sơn mới đấy, mời anh dùng thử.”
Tôi bưng chén trà, suy nghĩ thật nhanh. Trà ngân câu Hoàng Sơn mới ư? Gã đang ám chỉ nơi này gần Hoàng Sơn à? Là Vụ Nguyên? Kỳ Môn? Hay huyện Hấp? Nhưng nhìn thái độ của gã, không có vẻ là cố ý tiết lộ tin tức cho tôi, hơn nữa cũng chẳng có thêm ám hiệu chi tiết nào nữa.
Sự xuất hiện đột ngột của Dược Bất Nhiên khiến kế hoạch của tôi vấp phải biến số lớn, chẳng rõ rốt cuộc là tốt hay xấu, bởi tôi không hề biết tên khốn này là địch hay bạn.
Dược Bất Nhiên ngồi xuống, mắt ánh lên vẻ hí hửng. Xem chừng gã rất vui khi thấy tôi thảng thốt, như vừa bày ra một trò đùa ác vậy. Gã giơ tay, “Anh Hư, hôm nay tôi tới đây, thay mặt sếp lớn bàn chuyện với anh. Nghe Đại Liễu nói anh đang nắm giữ bí mật của chóe 'Thắp nhang vái trăng' muốn bán được giá phỏng?”
“Phải.” Tôi tỉnh bơ đáp, cố không nói nhiều.
“Giá cả dễ thương lượng thôi, ai cò kè bớt một thêm hai làm gì. Có điều anh có lo ngại của anh, chúng tôi cũng có lo ngại của chúng tôi chứ. Rốt cuộc anh có biết bí mật thật hay không, chúng tôi không sao xác định được. Lỡ như thỏa thuận xong xuôi anh lại xòe tay nói chỉ đùa thôi, chẳng làm lỡ việc mọi người ư.”
Đây là lần đầu tôi thấy Dược Bất Nhiên nói năng nghiêm chỉnh. Lúc bàn chuyện làm ăn, gã cứ như biến thành một con người khác. Mấy câu này rung cây nhát khỉ, giọng điệu uy hiếp, lại đầy hàm ý.
“Vậy theo ý anh Nhiên thì tôi còn phải chứng minh bản thân nữa à?”
Dược Bất Nhiên cười, “Cũng không vội. Đại Liễu đi Thiệu Hưng chuyến này là vì bác Doãn, anh là thu hoạch bất ngờ thôi. Thế nên hôm nay chúng ta chưa bàn chuyện đó vội, giải quyết xong việc chính đã, những việc về sau từ từ bàn cũng được mà, có vội gì đâu.”
Nếu người khác nói vậy, có lẽ tôi đã tin. Nhưng Dược Bất Nhiên nói ra thì phải hiểu theo ý ngược lại.
Thấy tôi làm thinh, Dược Bất Nhiên hất hàm với Liễu Thành Thao. Liễu Thành Thao hừm một tiếng, gọi Long Vương bê đồ vào. Món đồ này chúng tôi đều quen thuộc, ấy là bàn thao tác bác Doãn vẫn dùng ở Thiệu Hưng.
Doãn Hồng không ngờ họ chuyển cả bàn thao tác tới đây bèn bước lên hai bước, giơ tay vuốt ve những vết lõm trên mặt bàn, vẻ kích động. Tôi thấy bên cạnh bàn còn đặt một cuộn da bò nâu sẫm, ấy là bộ Kim Đáy Bể từng qua tay ông nội tôi và Dược Thận Hành.
Liễu Thành Thao lên tiếng, “Thầy Doãn, chẳng biết thầy dùng món gì mới tiện nên tôi đã tự ý đem cả tới đây cho thầy.” Song Doãn Hồng chẳng buồn để lọt tai, chỉ mải vuốt ve từng chỗ lồi lõm trên bàn thao tác, tựa hồ phải sờ vào bác ta mới thấy yên tâm.
Liễu Thành Thao búng tay đánh tách, Long Vương lại bê vào một món đồ sứ. Vừa trông thấy, tim tôi đã đập rộn lên.
Lại một chóe sứ thanh hoa vẽ tích cổ nữa!
Kích thước và hình dạng hệt như chóe “Ba lần ghé lều tranh” mà tôi từng thấy, chỉ có hoa văn là khác. Chính giữa là một đại tướng vận nhung trang, tay trái chống bàn, tay phải vuốt râu, không giận mà oai. Bên cạnh có một tên lính cầm cờ phướn, trên viết ba chữ “Chu Á Phu”. Còn một thớt ngựa Tây Vực buộc vào gốc cây. Ngoài những hình ảnh chủ đạo này, họa tiết trang trí cây liễu, cỏ lá cuốn, mây lành, hoa nhỏ v.v… có phong cách hệt như hai chiếc chóe kia.
Xem ra đây là chiếc thứ ba trong bộ chóe năm: Chu Á Phu đóng quân trại Tế Liễu. Có điều so với phong thái nho nhã ở “Ba lần ghé lều tranh”, chiếc chóe này lại toát lên vẻ oai nghiêm lẫm liệt.
Dược Bất Nhiên lên tiếng, “Anh Hư cứ tự nhiên xem đi, đừng ngại.” Nghe gã nói vậy, tôi tiến lại gần, giơ tay ra sờ thử. Cả bề mặt men lẫn màu thanh hoa đều hết sức mịn màng, ánh thiếc trong màu cô ban cũng rất rõ, quả là hàng xịn chính cống. Tôi ngồi xuống, ghé lại gần quan sát kỹ. Quả nhiên ở khuỷu tay Chu Á Phu cũng có một vệt trắng không dễ phát hiện.
Điều này chứng tỏ túi men của chiếc chóe này cũng đã bị rạch ra, sau đó được vá lại.
Liễu Thành Thao nói, “Thầy Doãn, lần này mời thầy đến đây, chủ yếu là muốn thầy trổ tuyệt kỹ, rạch vệt trắng này ra lần nữa, xem bên trong còn gì không.”
Như trên đã nói, kích thước túi men không thể nhét vừa đồ vật, nhưng lại phù hợp để lưu lại văn tự thông tin. Cũng có nghĩa là dù trước kia từng có người rạch ra, thì chỉ cần không rắp tâm hủy hoại, có lẽ thông tin ấy vẫn còn.
Doãn Hồng nhìn tôi, tôi khẽ gật đầu, ý nói cứ mở ra.
Bác Doãn bưng chóe “Trại Tế Liễu” tới trước bàn thao tác, nhẹ nhàng đặt xuống. Nhìn qua một lượt, bác ta nói còn thiếu đèn xì và mấy loại nguyên liệu nữa.
Xưởng làm giả này quy mô rất lớn, không thiếu gì vật tư trang thiết bị. Liễu Thành Thao chỉ dặn dò một tiếng, mười mấy phút sau đã đầy đủ cả. Doãn Hồng xử lý sơ qua rồi trải bộ Kim Đáy Bể ra, lại một lần nữa vận dụng Phi Kiều Đăng Tiên với chiếc chóe. Long Vương đứng đối diện còn bắc máy quay phim, định quay lại cảnh này.
Doãn Hồng không hề bận tâm. Có những thứ, dù xem video cả vạn lần cũng không thể học được. Tôi từng đọc được một bài báo nói về việc đoàn kịch đổi mặt của Tứ Xuyên tới Mỹ biểu diễn, người Mỹ dùng máy quay tốc độ cao quay lại, phân tích từng hình ảnh song cũng chẳng ích gì, mắt thấy đấy nhưng tay không làm theo kịp.
Trong tiếng gõ lanh canh, Doãn Hồng chính thức bắt tay vào việc. Chỉ trong nháy mắt, nghệ nhân già oai phong lẫm liệt lại quay trở lại.
Kỹ thuật của bác ta vẫn hết sức điêu luyện, tay nhanh thoăn thoắt hoa cả mắt. Một người cả đời chỉ dốc lòng nghiên cứu một việc, sẽ đạt tới cảnh giới hoàn mỹ thế này đây. Tuy tôi chưa được chứng kiến những người khác thao tác, nhưng có lẽ Dược Thận Hành, Doãn Niệm Cựu, thậm chí ngay cả Doãn Điền cũng chưa chắc đã giỏi được bằng Doãn Hồng. Thế giới mà họ tiếp xúc quá bề bộn, đầu óc chứa đựng quá nhiều suy nghĩ, không có được sự thuần túy chuyên chú của một người mắc bệnh tâm lý như Doãn Hồng.
Không riêng tôi, ngay cả Liễu Thành Thao, Dược Bất Nhiên và Long Vương đều nghiêm túc quan sát. Ba người họ đều lần đầu chứng kiến tuyệt kỹ thần kỳ này, ai nấy đều bất giác sinh lòng kính sợ. Phi Kiều Đăng Tiên quá đẹp, không chỉ công năng vận dụng mà hiệu quả thị giác cũng cực kỳ mỹ lệ, hai tay Doãn Hồng thoăn thoắt đưa qua lại, phiêu dật như tiên. Chẳng trách năm xưa mỗi lần Doãn Điền biểu diễn, vương công quý tộc trong kinh thành đều hẹn nhau tới xem, đây gọi là tột đỉnh của “đạo làm thợ”.
Sau khoảng nửa tiếng, Doãn Hồng chợt dừng động tác, buông thõng hai tay, tắt đèn xì, lùi ba bước, cả người mệt lử, “Xong rồi.”
Bắt đầu từ Dược Bất Nhiên, cả gian phòng rộ lên một tràng pháo tay nhiệt liệt, ngay Liễu Thành Thao cũng vỗ mấy cái không ra hờ hững chẳng ra nhiệt tình. Tôi sực nhớ tổ tiên họ Doãn có dặn, không được thi triển Phi Kiều Đăng Tiên quá số đại diễn, bằng không sẽ phải gánh chịu lời nguyền. Chẳng biết Doãn Hồng đã thi triển đến lần thứ mấy rồi.
Có điều lúc này mọi người không còn để tâm đến bác ta nữa, mà chỉ tập trung vào chóe sứ “Trại Tế Liễu”. Xung quanh vệt trắng trên chóe đã bị nạo một mảng lớn, để lộ lớp lớp phôi mịn màng, như bụng một người bị rạch một đường sau đó dùng banh phanh ra.
Vết “mổ phanh” này không chỉ đơn giản là bào đi lớp men bên ngoài, mà là róc từng lớp từng lớp, róc hết mấy lớp da ngoài mới lộ ra phần phôi ở giữa. Nghĩ mà xem, chóe sứ vừa giòn vừa mỏng, muốn nạo đi một nửa mà không lủng, khó biết chừng nào? Doãn Hồng từng nói với tôi, đây là một phép đảo ngược của Phi Kiều Đăng Tiên, cũng là một tuyệt kỹ thần kỳ chỉ thợ vá gốm mới làm được. Họ quanh năm đục lỗ xỏ đinh trên đồ gốm sứ, am hiểu chất liệu mới đạt được hiệu quả như vậy.
Theo lý thì phôi sứ bên trong phải có màu trắng ngà, chính là màu cạnh sứ vỡ. Nhưng phôi sứ ở vết rạch phanh trên chóe “Trại Tế Liễu”, lẫn trong màu trắng còn có mấy sợi đen, phân bố rất có quy luật, không giống đất cao lanh lẫn tạp chất, mà như thể cố tình hơn.
Mọi người nhìn một lượt, chẳng ai hiểu gì. Doãn Hồng bèn gọi đem giấy lại, phải là giấy làm từ tre trúc, tốt nhất là giấy nguyên thư chín Phú Dương. Phú Dương nằm gần Thiệu Hưng, nổi tiếng về giấy tre. Liễu Thành Thao hạ giọng khẽ hỏi mấy câu rồi nói, “Giấy Phú Dương thì không có, giấy ngọc khấu Trường Đinh được không?” Doãn Hồng lắc đầu vẻ không hài lòng rồi bảo cũng tạm, thử xem sao.
Long Vương nhanh nhẹn bê lên một xấp giấy Tuyên đỏ nhạt. Doãn Hồng xé một mảnh nhỏ, tiện tay dấp nước trong chén trà trước mặt tôi rồi dán lên phần phôi sứ hở ra. Trong bộ Kim Đáy Bể có một chiếc xẻng nhỏ đầu bằng, Doãn Hồng dùng nó chà lên mặt giấy để giấy dán sát vào mặt phôi, không để lại một vết phồng, những mép giấy thừa đều bị xé đi.
Cách làm có vẻ hơi giống dập bia. Lát sau, Doãn Hồng dùng cả hai tay bóc miếng giấy ra, cẩn thận giữ nguyên các nếp nhăn trên giấy rồi đặt nó lên bàn thao tác.
Vết rạch phanh trên chóe sứ này bị khoét từng lớp, phần lề giống như một con dốc gồ ghề mấp mô. Những đường đen nằm rải rác trên mặt dốc nọ. Cũng có nghĩa là những đường đen này không phải nằm trên cùng một mặt phẳng, mà có cấu trúc lập thể, không thể dùng máy ảnh chụp hay giấy dập lại được. Phải phục chế lại cả vết tích cùng độ cong tạo thành một khuôn giấy lập thể, mới thấy được toàn bộ diện mạo.
Sở dĩ Doãn Hồng muốn dùng giấy nguyên thư chín bởi chất giấy này cứng, các đường uốn gập sẽ để lại rõ dấu vết, dùng viết chữ có thể không bằng các loại giấy khác, nhưng làm khuôn giấy lại rất hợp.
Doãn Hồng cảm thán, “Người nung chiếc chóe này đúng là thiên tài. Túi men tinh xảo nhường này tôi cũng mới thấy lần đầu tiên.” Dược Bất Nhiên sáng mắt lên, “Lẽ nào đây là vân rồng cuộn?” Doãn Hồng gật đầu.
Theo Huyền từ thành giám, vân rồng cuộn là một phương pháp nung gốm sứ đã thất truyền. Khi tạo hình người thợ không vê nặn mà dùng đất sét mật độ không đồng đều trát từng lớp lên. Trong đó có một hoặc vài lớp được trộn sợi kim loại hay các hạt khoáng vật, gọi là “rồng cuộn”, tạo thành hình vẽ hoặc chữ viết nhất định, sau đó phủ men ra ngoài. Như vậy, vì mật độ không đồng đều, phôi gốm sứ nung ra cũng sẽ phân lớp, róc mấy lớp bên ngoài đi có thể trông thấy chữ viết bên trong.
Vân rồng cuộn là điều kiện tiên quyết để làm túi men, rất phù hợp để ghi lại những điều bí mật. Câu chuyện tranh đoạt gia sản thời Minh mà Doãn Hồng kể lúc trước là một ví dụ.
Chỗ tinh xảo của chóe sứ “Trại Tế Liễu” nằm ở việc thợ nung không chỉ giấu rồng cuộn vào một lớp, mà giấu vào các vị trí khác nhau ở các lớp khác nhau, phải dập khuôn giấy lại cả kết cấu mới nhìn ra được liên kết tổng thể, đọc ra thông điệp. Điều này cũng giống như xem phong thủy tìm long mạch, nhìn trên bản đồ phẳng sẽ không thấy gì cả, phải đích thân lên cao nhìn ra xa mới thu được hết hình thế cao thấp của nước non vào tầm mắt, sau đó tìm cát chọn huyệt.
Doãn Hồng trầm trồ, “Vệt trắng này trước kia đã bị người ta róc ra một lần rồi lại phủ men vá lại. Tôi cũng chỉ lần theo dấu người đi trước, may mắn tái hiện được rồng cuộn mà thôi. Vị tiền bối trước kia, dựa vào trực giác và kinh nghiệm mà róc ra được vân rồng cuộn bên dưới lớp men mới là giỏi gấp mấy lần tôi.”
Liễu Thành Thao sốt ruột hỏi, “Rốt cuộc bên trong giấu cái gì vậy?”
Câu hỏi này cũng là tiếng lòng của tất cả mọi người có mặt trong phòng lúc này. Nhưng Doãn Hồng chỉ lắc đầu, “Tôi dựng lại được khuôn giấy, còn nó là gì thì tôi không rõ.”
Tức thì ánh mắt mọi người đổ dồn vào mảnh giấy tre nọ. Mảnh giấy như bị vò thành một nắm, nhăn nhúm như rặng núi trùng điệp, mấy đốm đen vệt đen rải rác trên đó tạo thành một tác phẩm chấm phá ảo diệu.
Long Vương đi đến, gạt những người khác ra. Liễu Thành Thao giơ tay cầm khuồn giấy lên, xoay qua xoay lại quan sát, mày cau vào.
Nhìn vẻ mặt Liễu Thành Thao, dường như cũng chưa hiểu mô tê gì. Có điều y không muốn đem ra nghiên cứu thảo luận cùng mọi người, đây là vật của Trại Tế Liễu, dĩ nhiên phải bảo mật với người khác, nhất là Dược Bất Nhiên.
Liễu Thành Thao nhìn tôi, tôi đã tuyên bố biết được bí mật đằng sau vệt trắng, giờ chính là lúc dùng đến. Y kéo tôi sang một bên, đưa tôi xem khuôn giấy. Tôi cầm khuôn giấy, xoay đến một góc thích hợp, cuối cùng cũng thấy những đốm đen kia hợp thành một câu: “Cơ long ra biển dùng giáp mão kim sáu canh.”
Chữ Hán thì đọc được đấy nhưng gộp lại chẳng hiểu nghĩa là sao. Cơ long là gì? Giáp mão kim sáu canh hình như là một phương pháp vận hành kinh mạch gì đó. Chắc không phải bên trong bộ chóe năm cất giấu bí kíp võ công như trong truyện chưởng đâu nhỉ?
Liễu Thành Thao hỏi tôi mấy chữ đó nghĩa là gì, tôi nào có biết, đành lắc đầu, “Thứ này không đầy đủ, không thể hiểu được.”
Liễu Thành Thao cũng không tức giận mà vỗ tay cười nói, “Trong tay anh chẳng phải còn một mảnh sứ nữa sao. Một câu không hiểu thì hai câu chắc sẽ luận ra được thôi, tôi cũng dễ ăn nói với sếp.”
Ai cũng nghe ra Liễu Thành Thao đang nhấn mạnh công lao của mình, ám chỉ Dược Bất Nhiên chỉ tới nhìn ngó, chẳng bỏ công sức gì cả. Dược Bất Nhiên đứng đằng xa vẫn tươi cười, chẳng lấy thế làm điều.
Có điều câu nói của Liễu Thành Thao đã nhắc nhở tôi, trong tay tôi còn một mảnh sứ vỡ từ chóe “Ba lần ghé lều tranh” (dĩ nhiên, chúng tưởng là chóe “Thắp nhang vái trăng”), nếu cũng róc ra lấy khuôn giấy, góp thêm một câu nữa, nói không chừng lại đọc hiểu được.
Mảnh sứ đang ở trên người tôi, dù sao giờ tôi bị giam lỏng ở đây, chúng cũng chẳng vội đoạt lấy.
Doãn Hồng chợt xoay cổ tay, hắng giọng, “Thi triển Phi Kiều Đăng Tiên rất tốn sức, theo lệ mỗi tuần chỉ có thể thực hiện một lần. Hôm qua tôi đã dùng ở tiệm, hôm nay lại dùng ở đây, đã đến giới hạn rồi.”
Liễu Thành Thao nài nỉ, “Giờ chỉ còn thiếu một mảnh thôi, thầy Doãn phá lệ giúp cho được không?” Doãn Hồng liếc y, “Muốn mở vân rồng cuộn trong túi men này ra, thao tác phải thật vững vàng, chỉ cần sẩy tay một chút, róc sai một lớp, có thể làm hỏng cả chỉnh thể.” Dứt lời bác ta xòe hai tay ra.
Mu bàn tay bác ta nổi hết gân xanh, ngón tay run rẩy, da dẻ sạm hẳn đi, rõ ràng đã cạn kiệt sức lực.
Về phương diện kỹ thuật, tiếng nói của Doãn Hồng có sức nặng nhất, bác ta ?