← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 6 ĐỐI ĐẦU TRẠI TẾ LIỄU

Nghe tiếng vỗ tay, tay chủ Lan Kê Trai thở hắt ra một hơi dài, như trút được gánh nặng.

Hắn khom người nhường đường, lập tức có ba người nối nhau từ cửa bước vào. Dẫn đầu là một thanh niên gầy nhom, trông cũng tuấn tú sáng sủa, tiếc rằng sắc mặt xanh xao, mày mắt thấp thoáng vẻ u buồn. Ấn tượng nhất là tóc và lông mày y trắng như tuyết, không lẫn một sợi đen nào. Da dẻ trên đôi tay lộ ra ngoài cũng trắng bóc, lờ mờ thấy cả mạch máu xanh, chẳng khác nào men xanh ẩn của trấn Cảnh Đức. Rõ ràng y bị bạch tạng nặng.

Hai kẻ đi sau đều đô con lực lưỡng, đầu húi cua, theo sát thanh niên nọ. Vừa bước vào, hai tên to cao đã chắn ngay cửa, một con ruồi cũng không bay lọt.

Thanh niên nọ trước tiên nhìn sang tay chủ Lan Kê Trai, “Anh chính mắt xác nhận rồi chứ?”

Tay chủ Lan Kê Trai gật đầu lia lịa, “Phải, phải, vừa rồi tôi đã tận mắt chứng kiến, quả thực là Phi Kiều Đăng Tiên.”

Gã thanh niên cười nửa miệng, quay sang bác Doãn, “Chào thầy Doãn. Tôi họ Liễu, tên Liễu Thành Thao.”

Bác Doãn ngơ ngác, chỉ biết lặng thinh.

Liễu Thành Thao kéo ghế ngồi xuống rồi chậm rãi vào đề, “Tôi nghe nói giới vá hoa trong nghề vá gốm chia thành ba phái Sơn Đông, Hà Nam, Hà Bắc. Sơn Đông dùng khoan da, Hà Nam dùng khoan cung, Hà Bắc dùng khoan quả lăn, mỗi phái có tuyệt kỹ riêng. Nếu không lầm, đây hẳn là ngón nghề bí truyền của phái Hà Bắc, thầy bảo có đúng không?”

Bác Doãn đã cáu lắm rồi, nhưng trước mặt tên bạch tạng lai lịch kỳ lạ này lại chẳng thốt được câu nào. Liễu Thành Thao cũng chẳng buồn đợi bác ta trả lời, tiếp tục nói, “Ngón Phi Kiều Đăng Tiên này thực khéo quá, như bổ khuyết được cho tạo hóa vậy, dễ bị trời già ghen ghét, không thể tùy tiện sử dụng. May mắn được chứng kiến cũng chẳng có mấy ai. Hôm nay tôi may mắn gặp dịp, đúng là vinh hạnh.”

Tôi và bác Doãn đồng loạt nhướng mày nhìn sang tay chủ Lan Kê Trai. Hóa ra đây mới là mục đích thực sự của hắn! Chiếc lọ tông kia xem chừng đã được xử lý thành sứt miệng sao cho chỉ Phi Kiều Đăng Tiên mới vá lại được, hòng dẫn dụ bác Doãn giở ra tuyệt kỹ.

Vòng vo cả nửa ngày, hóa ra hắn ta không nhắm vào đống gốm sứ của bác Doãn mà muốn thay tên bạch tạng này thăm dò thân phận bác ta.

Liễu Thành Thao nói tiếp, “Phái Hà Bắc vốn ẩn thân ở kinh thành, có vị thế hiển hách nhất trong ba phái. Hiềm nỗi ít người, tới cuối thời Thanh thì dần suy yếu. Huyết mạch duy nhất còn sót lại gia nhập Minh Nhãn Mai Hoa, từ ấy tuyệt kỹ này cũng được truyền vào Huyền môn, trở thành ngón nghề riêng của nhà họ Dược. Bác là ai trong nhà họ Dược?”

Y ngừng một lát, ánh mắt ôn hòa, còn thoáng vẻ tò mò thơ trẻ. Nhưng lời nói thốt ra lại làm tôi rúng động.

Tim tôi bỗng chốc bị một bàn tay vô hình bóp chặt. Sao... tự dưng lại dính dáng đến Minh Nhãn Mai Hoa? Tôi kinh hãi nhìn bác Doãn, lẽ nào ông già diện mạo không có gì đặc biệt này lại có họ với Dược Bất Nhiên?

Trước sự chất vấn của tên bạch tạng, bác Doãn chỉ lạnh nhạt đáp, “Tôi không hiểu cậu đang nói gì nữa.”

Liễu Thành Thao tủm tỉm cười, “Không sao, không sao, những chuyện xửa xưa ấy không nhắc tới cũng chẳng sao. Quan trọng bác biết tuyệt kỹ này, thế là đủ. Thiết nghĩ, rất nhiều nghề thủ công truyền thống Trung Quốc sắp thất truyền tới nơi rồi, phải tìm cách mà gìn giữ bảo tồn. Bác theo tôi về, chúng ta cùng bàn bạc xem làm cách nào bảo tồn những báu vật ấy của dân tộc, được không?”

Nói thì có vẻ đàng hoàng lắm, song giọng điệu lại không cho phép người ta từ chối.

Bác Doãn cảm nhận được ác ý của đối phương, vươn tay toan chộp lấy chiếc đèn xì, song tay vệ sĩ sau lưng Liễu Thành Thao đã nhanh nhẹn bước lên trước, tóm lấy đầu xì. Đầu xì bằng đồng thau, vậy mà hắn nhẹ nhàng bẻ gãy cái rụp như bẻ đũa. Bác Doãn lùi lại mấy bước, khóe miệng run run, cuối cùng cũng hiểu ra, hôm nay để đạt được mục đích, đám người này chẳng ngại gì động chân tay.

Nghĩ đến đó, bác ta lập tức chùn ngay. Rời bàn thao tác, bác Doãn rốt cuộc chỉ là một ông lão hèn nhát. Liễu Thành Thao nhìn sang tôi, thái độ vẫn hết sức ôn hòa, “Chào anh, tuy hai ta chưa có duyên quen biết, nhưng gặp mặt cũng là duyên, chi bằng anh cũng tới chỗ tôi ngồi chơi luôn nhé?”

Muốn bịt miệng à? Tôi nghĩ bụng, bắt đầu nhìn quanh phòng tính kế thoát thân. Thấy tôi đảo mắt, Liễu Thành Thao biết tôi vẫn ôm tâm lý cầu may, bèn khuyên nhủ, “Chuyện về Phi Kiều Đăng Tiên quan hệ trọng đại, không thể lộ ra ngoài. Dù anh có thề, tôi cũng không yên tâm được. Nên hôm nay bất luận thế nào, anh cũng phải đi theo tôi. Đừng phí công vô ích nữa.”

Thấy tôi lặng thinh, tay chủ Lan Kê Trai liền nhìn sang Liễu Thành Thao, vẻ xun xoe lấy lòng. Liễu Thành Thao búng tay, “Trại Tế Liễu chúng ta, xưa nay đã nói là làm. Nợ của anh coi như xí xóa.” Tay chủ Lan Kê Trai chắp tay vái lia lịa để cảm ơn, nhưng mắt lại liếc sang chiếc tủ gỗ hoàng hoa lê. Liễu Thành Thao đi guốc trong bụng hắn, không khỏi lắc đầu, “Lấy mà không báo, không phải hành vi của người quân tử. Đợi khi nào thầy Doãn đi rồi, anh phải thay thầy trông nom cửa hàng đấy.”

Tay chủ Lan Kê Trai như mở cờ trong bụng, chuyến này bác Doãn nhất định có đi mà không có về, bảo hắn trông cửa hàng, há chẳng có nghĩa là những đồ gốm sứ cất giấu trong tiệm đều về tay hắn cả. Nếu không nhìn vào món hời này, đời nào hắn chịu khom lưng uốn gối nịnh nọt một lão thợ bạc cắm cảu.

Tôi đứng bên cạnh, không kìm được trợn tròn mắt. Câu nói của Liễu Thành Thao đã dấy lên con sóng lớn trong lòng tôi.

Trại Tế Liễu, Trại Tế Liễu chẳng phải là tay chân của Lão Triều Phụng mà Dược Bất Nhiên dặn tôi phải đề phòng ư?!

Ngẫm kỹ lại, tôi xâu chuỗi được ngay đầu đuôi câu chuyện. Trại Tế Liễu nhận lệnh của Lão Triều Phụng, tới Thiệu Hưng tìm truyền nhân của tuyệt kỹ Phi Kiều Đăng Tiên. Liễu Thành Thao điều tra ra bác Doãn, song không dám chắc bác ta có biết ngón nghề này không nên không vội rút dây động rừng mà sai tay chủ tiệm đồ cổ gần đó lấy cớ vá gốm tới thăm dò bác Doãn. Một khi bác ta để lộ tuyệt kỹ, Trại Tế Liễu mới xuất hiện bắt người.

Đám người này làm việc thận trọng lại tàn độc, từ đầu đến cuối không lọt một giọt nước.

Dược Bất Nhiên biết rõ hành động của Trại Tế Liễu tại Thiệu Hưng, song không tiện nói thẳng với tôi, đành xa gần bóng gió.

Tôi vốn không hiểu sao Dược Bất Nhiên muốn dẫn dụ mình tới Thiệu Hưng, song trông cách làm của đám Liễu Thành Thao thì lập tức vỡ lẽ. Dược Bất Nhiên ghét nhất là hạng người như Liễu Thành Thao. Tuy tôi không rõ phân công nhiệm vụ của hai tên dưới trướng Lão Triều Phụng ra sao, nhưng đôi bên chắc chắn bằng mặt mà không bằng lòng, chưa chừng còn là đối thủ cạnh tranh.

Dược Bất Nhiên làm vậy là muốn để tôi phá đám Liễu Thành Thao.

Tiếc rằng giờ tôi chẳng những không phá đám được, trái lại còn khó giữ mình, bị người ta tóm ngay tại trận. Liễu Thành Thao tạm thời chưa biết thân phận của tôi, nhưng trở về tìm hiểu sẽ biết ngay tôi là Hứa Nguyện của Bạch môn. Thế là một mình y lập hai công lớn, còn Dược Bất Nhiên lỗ to... À không, phải là xôi hỏng bỏng không mới đúng!

Tôi đang ngẫm nghĩ thì Liễu Thành Thao đã cất giọng êm ái, “Còn không mau dìu thầy Doãn và anh đây ra ngoài?” Hai tên tay sai tức thì đi về phía chúng tôi.

“Khoan đã.” Tôi chợt quát to.

“Anh nói đi, nếu nài nỉ thì thôi nhé, ai cũng bận lắm.” Liễu Thành Thao cảnh cáo.

“Anh muốn mời tôi đến nhà chơi thì tốt xấu gì cũng phải giới thiệu đã chứ.” Tôi vừa tranh thủ thời gian, vừa lẳng lặng nhích chân.

Liễu Thành Thao cười đáp, “Có những chuyện không biết thì hơn, đừng tự chuốc thêm phiền phức.” Dứt lời y ngoắc ngón tay. Hai tên tay sai sấn tới nhanh hơn.

Thình lình tôi nhào tới trước, toan nhặt ống xì vừa nãy bị bẻ gãy lên. Song hai tên kia là dân tập võ, thoạt trông đã đoán ra ngay ý định của tôi, một tên giơ chân chặn đường, tiếp đó quạt ngang cánh tay. Tôi vội giơ khuỷu tay chống đỡ, “rắc” một tiếng, nửa cánh tay tôi tê dại, như va phải trụ sắt, cả người ngã ngửa ra.

Thử một chiêu thấy tôi không có võ vẽ gì, động tác của tên kia chậm hẳn lại. Thấy tôi ngã nhào xuống đất, hắn cười khẩy rồi vươn bàn tay to bè tóm lấy vai tôi. Đúng lúc mặt hắn chỉ còn cách tôi mười mấy phân, tay phải tôi chợt vơ lấy một thứ ném thẳng vào mặt hắn. Bị tấn công bất ngờ, đối phương rú lên thảm thiết rồi quỳ sụp xuống đất, hai tay bưng mắt.

Thứ tôi vừa vơ lấy là chậu axit tẩy gỉ của bác Doãn. Để gột bỏ những vết đen trên bề mặt đồ bạc, làm bạc sáng bóng hơn, sau khi chế tác xong, thợ bạc sẽ nhúng thành phẩm vào chậu axit tẩy gỉ. Bởi vậy lúc nào trong tiệm cũng có sẵn dung dịch này. Vừa rồi tôi đã để ý thấy bọn chúng chỉ chăm chăm vào những đồ có tính sát thương cao như đèn xì, không hề để tâm tới chậu axit bên cạnh.

Phải biết rằng dung dịch tẩy gỉ thông thường được pha trộn từ axit nitric và axit sulfuric, thành phần nào cũng mạnh cả. Nhúng qua đồ bạc có thể phá vỡ lớp oxy hóa trên bề mặt, song nếu ngâm lâu, đồ bạc sẽ bị axit ăn mòn và hóa đen. Đồ bạc còn bị axit ăn mòn như thế, huống là da người.

Tên còn lại thấy đồng bọn bị tập kích bất ngờ thì sững sờ, buông bác Doãn ra. Tôi thừa cơ quơ ngay chậu còn lại, định hất vào hắn. Chứng kiến tình trạng thê thảm của đồng bọn, tên nọ hết hồn, nào dám kháng cự, hớt hải tông cửa bỏ chạy, không quên kéo Liễu Thành Thao theo. Kết quả là cả chậu thứ hai tạt lên đầu tay chủ Lan Kê Trai.

Tay chủ Lan Kê Trai bạt vía ngã phệt xuống đất, kêu rú lên thảm thiết, một vũng nước vàng đục nhanh chóng loang ra... Kêu gào một lúc lâu, hắn mới nhận ra ngoại trừ đầu tóc hơi ướt thì không còn chuyện gì xảy ra nữa cả.

Đồ bạc nhúng qua chậu axit xong lại phải nhúng vào nước lã để rửa sạch axit. Thế nên cạnh chậu axit bao giờ cũng có chậu nước lã. Lần này thứ tôi tạt là nước lã. Động não cũng đủ hiểu, trong nhà một ông thợ bạc lấy đâu ra lắm axit thế được, có phải chế tạo vũ khí hóa học đâu.

Nhân lúc kẻ địch rối loạn, tôi kéo bác Doãn tông cửa sau bỏ chạy. Sau nhà là một khoảnh sân nhỏ và một đoạn hành lang ngắn nối liền với một gian nhà ngang ;

“Ở đây còn lối ra nào khác không?” Tôi hỏi bác Doãn. Người này có quá nhiều bí mật, không lý nào lại không chừa cho mình một đường lui.

Bác Doãn không đáp mà sải bước chạy thẳng ra sân. Khoảnh sân này chẳng được ai quét tước, chỉ có một gốc cây già đã gần chết khô và mấy bụi cỏ dại. Bác ta chạy thẳng đến chỗ tường bao, ngồi thụp xuống bới mấy cái, dời một tảng đá lớn bám đầy dây leo, tức thì dưới chân tường hiện ra một lỗ chó chui. Lỗ chó này một nửa liền với móng tường, đủ để một người trưởng thành chui lọt.

Việc đã đến nước này còn nề hà gì chui lỗ chó nữa. Tôi và bác Doãn lần lượt chui qua, ra bên ngoài mới thấy mình đã ở ngay bờ sông. Bác Doãn không quên quay lại dời tảng đá kia về chỗ cũ, bịt kín cái lỗ.

Để tránh ngấm nước sông hỏng móng tường, những bức tường hướng ra sông đều xây cách bờ sông một khoảng, song không rộng rãi gì cho cam. Tôi và bác Doãn phải áp sát lưng vào tường mới tạm coi như đứng vững. Tôi nghe thấy trong nhà có tiếng chân rầm rập, sau đó là tiếng tông cửa nhà ngang, còn cả tiếng quát tháo giận dữ và lục soát đồ đạc.

Giọng Liễu Thành Thao vẳng ra, vẫn ôn hòa bình thản, chẳng hề bợn mảy may cáu kỉnh vì tuột mất miếng ăn đến mõm.

“Sherlock Holmes từng nói, gạt bỏ tất cả những điều không thể sẽ còn lại đáp án. Nhà ngang không có, vậy chỉ có thể là trèo tường trốn ra thôi. Bọn mày tìm thử xem góc tường có hang hốc nào không?”

Tôi đưa mắt nhìn bác Doãn ý hỏi giờ tính sao, bác ta bèn trỏ xuống nước, khoát khoát tay.

Còn làm sao được nữa? Bơi thôi!

Chúng tôi chẳng buồn cởi quần áo, chầm chậm khom người chuồi xuống nước, cố không phát ra bất cứ tiếng động nào. May mà con sông này không sâu, chỉ khoảng 2 mét, với một thằng nhóc ngổ ngáo tám tuổi đã dám nhảy xuống Bắc Hải bơi như tôi thì hoàn toàn không có gì khó.

Bác Doãn bơi trước, tôi bám sát theo sau. Chúng tôi khẽ khàng quạt tay, chầm chậm bơi đi. Nước mát vừa phải, chỉ thỉnh thoảng có rác thải sinh hoạt lềnh phềnh trôi qua thì hơi buồn nôn. Chúng tôi bơi một lúc lâu, cuối cùng mới bò lên từ bậc thềm sát mép nước thường là nơi giặt giũ trước ánh mắt kinh ngạc của người qua đường.

Miền sông nước là thế, từ cầu Chữ Bát đến nhà bác Doãn phải đi vòng vèo rất lâu, nhưng nếu nhảy xuống nước bơi sang thì chẳng xa lắm. Vùng này khá đông dân, gần đó lại có đồn cảnh sát, dù bọn Liễu Thành Thao đuổi đến cũng không dám ra tay.

Chắc là... không dám ra tay đâu nhỉ?

Tôi bỗng dưng cũng không dám chắc.

Đám người này không giống những kẻ địch tôi gặp trước đây. Nếu phải ví von thì những kẻ trước đây chỉ là lưu manh cắc ké, ăn nói bặm trợn vung dao chém người, nhưng cũng chỉ đến thế, còn đám tay sai của Liễu Thành Thao lại là sát thủ chuyên nghiệp, không tùy tiện ra tay, song hễ ra tay là đoạt mạng.

Trên người hai tên đó thoang thoảng mùi tanh bùn đất, ấy là mùi của bọn trộm mộ. Chúng quanh năm chung đụng với đất bùn, gỗ mục, xác thối, mùi hầm mộ đã thấm vào lỗ chân lông, tắm rửa thế nào cũng không sạch, ngửi là biết ngay.

Thảo nào Dược Bất Nhiên dặn tôi phải đề phòng Trại Tế Liễu, bởi bọn trộm mộ toàn hạng liều mạng, hung tàn bậc nhất. Dưới tay Lão Triều Phụng ngoài đám làm đồ giả, không ngờ còn nuôi cả một toán chuyên trộm mộ thế này, dã tâm của lão quả không nhỏ.

Tôi đang nghĩ ngợi thì đột nhiên bị bác Doãn ấn đầu xuống, giục giã, “Nằm xuống mau!” Tối vội thụp xuống, nấp cạnh bụi bèo rong. Vừa mở miệng toan hỏi có chuyện gì, bác Doãn đã đưa ngón tay lên môi ra hiệu yên lặng rồi trỏ lên cầu Chữ Bát.

Tôi thận trọng ló nửa đầu ra nhìn. Trên cầu Chữ Bát, Liễu Thành Thao đang tươi cười hỏi han một cô gái, trên đầu cô ta cài một món trang sức bạc, lấp loáng dưới ánh nắng, chính là Mạc Hứa Nguyện. Bên cạnh Liễu Thành Thao chỉ có một tên vệ sĩ, có lẽ tên kia đã được đưa đến bệnh viện, bị hắt axit vào mặt đâu phải vết thương nhẹ.

Liễu Thành Thao chuyện trò khá rôm rả với Mạc Hứa Nguyện, thỉnh thoảng cô nàng còn phá lên cười khanh khách. Tôi cuống cả lên, tên Liễu Thành Thao này hết sức nguy hiểm, vô duyên vô cớ tiếp cận Mạc Hứa Nguyện ắt có ý đồ xấu. Tuy tôi với cô gái này chẳng thân thiết gì, song cũng không thể giương mắt nhìn người vô tội bị liên lụy được.

Tiếc rằng khoảng cách quá xa, không nghe rõ được họ nói gì. Chỉ thấy Liễu Thành Thao ghé tai Mạc Hứa Nguyện thì thầm gì đó, cô nàng lắc đầu quầy quậy, nhưng không né tránh. Liễu Thành Thao nắm lấy bàn tay mịn màng của cô, hai người sánh vai bước xuống cầu. Trước lúc rời đi, Liễu Thành Thao chợt dừng chân, nhìn về phía chúng tôi, ánh mắt lóe lên vẻ âm hiểm, chẳng khác nào rắn độc thè lưỡi.

“Y chắc chắn đã phát hiện ra chiếc kẹp tóc sen trúc của Mạc Hứa Nguyện, cho rằng cô ta có liên quan tới chứng ta.” Tôi quay sang bảo bác Doãn, không giấu vẻ trách cứ. Trước kia nếu bác ta thừa nhận quách thì đâu có xảy ra nhiều trắc trở thế này.

Bác Doãn chẳng nói chẳng rằng, sau khi xác định Liễu Thành Thao đã đi khỏi mới từ từ đứng dậy, trỏ ra đầu ngõ, “Đằng kia có đường ra, anh đi đi.” Nói rồi cắm cúi đi về một hướng khác. Tôi nổi giận, tóm lấy bác ta quát lên, “Đám khốn kiếp ấy rõ ràng rắp tâm bắt cóc Mạc Hứa Nguyện để tra hỏi tung tích chúng ta, lẽ nào bác định khoanh tay đứng nhìn sao?”

Bác Doãn thờ ơ đáp, “Liên quan gì đến tôi.”

“Đó là hàng xóm nhà bác mà!”

“Nó chỉ mua đồ bạc của tôi mấy lần, ai tính là hàng xóm.” Bác Doãn giằng tay tôi ra, ánh mắt sáng quắc. Vừa rồi lúc vá gốm, bác ta rõ ràng là nghệ nhân bậc thầy, nhưng giờ đã lại trở thành tay thợ bạc bỉ ổi hèn nhát nóng nảy.

“Dù là người dưng cũng đâu thể thấy chết không cứu!”

Bác Doãn trợn mắt nhìn tôi, “Anh cũng thấy rồi đấy, mấy kẻ đó giết người không gớm tay đâu!” Nhớ lại pha nguy hiểm vừa rồi, bác ta vẫn chưa hết sợ, rụt cổ lại toan bỏ đi, miệng làu bàu mấy câu tiếng Thiệu Hưng tôi nghe không hiểu.

Tôi lạng người chắn trước mặt bác Doãn, nhìn trừng trừng bác ta, gằn từng tiếng, “Tôi là con cháu nhà họ Hứa trong Minh Nhãn Mai Hoa, tên Hứa Nguyện. Nếu bác thực sự là con cháu nhà họ Dược thì nên biết rằng, tôi đã cứu được bác từ tay Liễu Thành Thao, ắt cũng có thể xử lý bác.”

Nghe thấy câu này, bác Doãn đờ ra như bị sét đánh. Với bác ta, sự uy hiếp trong nửa câu sau của tôi còn không có tính sát thương bằng nửa câu trước. Bác ta suy sụp bưng mặt lẩm bẩm, “Tôi biết mà, biết ngay mà... lộ ra tuyệt kỹ Phi Kiều Đăng Tiên, nhất định sẽ bị trời phạt. Nhẫn nhục mấy chục năm, sao cuối cùng lại không kiềm chế được...”

Bác Doãn bị tôi dồn vào chân tường, cứ lẩm bẩm mãi, hơi thở đột nhiên nặng nhọc hẳn lên, mắt đỏ vằn, trông như sắp phát bệnh. Tôi chẳng chút nể nang, tát cho bác ta hai bạt tai thật mạnh, làm bác ta đờ ra, những triệu chứng kia cũng biến mất.

Xem ra chứng hưng cảm của bác Doãn cũng biết mềm nắn rắn buông. Nhẹ nhàng hỏi han thì bác ta sẽ nổi xung thiên gắt gỏng, phải hùng hổ hăm dọa mới chịu nhũn. Sớm biết bác ta có thói ấy, tôi đã chẳng cần mất công dò hỏi, cứ xông thẳng vào nhà đe dọa có phải xong không.

Giờ Liễu Thành Thao không còn cơ hội, nhưng tôi vẫn còn.

Không bị ép vào đường cùng thì đừng hòng bác ta chịu mở miệng. Tôi lạnh lùng nói, “Tôi có thể thả cho ông đi, tự tôi sẽ đi cứu Mạc Hứa Nguyện, nhưng ông phải kể hết mọi chuyện với tôi, bằng không...”

Vừa rồi bác ta cũng đã thấy tôi tạt cả chậu axit vào người ta, đủ biết tôi là kẻ tàn nhẫn dám nói dám làm.

Chẳng còn cách nào khác, bác Doãn đành ra hiệu cho tôi đi theo mình, tìm một nơi thuận tiện để nói chuyện. Tôi được bác ta dẫn vòng vèo giữa những hang cùng ngõ hẻm hồi lâu, chợt thấy phía trước quang đãng hẳn, hóa ra đã ra tới đường lớn. Có một nhà thờ nằm ngay lề đường bên phải.

Nhà thờ này được quét sơn cánh gián, có một gác chuông mái nhọn cao ngất, cửa sổ tròn chính giữa gắn kính màu. Vách tường đã tróc sơn loang lổ, e rằng được xây từ thời Dân Quốc. Tuy tổng thể trông hơi cũ kỹ, nhưng lại toát lên vẻ thiêng liêng trầm lắng. Bao quanh bên ngoài là một khoảnh sân, trong sân có đài phun nước đắp hình Đức Mẹ và lán xe đạp, giá sách bên cạnh bày rất nhiều sách giáo lý bỏ túi ai lấy cũng được.

Bác Doãn đi thẳng vào trong, vẻ như rất quen thuộc chốn này. Cửa nhà thờ không khóa, đẩy khẽ là mở ra. Bên trong nhà thờ bài trí hết sức quy chuẩn, phía trước là bục giảng đạo với cây thập giá sừng sững, bên dưới là hơn hai mươi dãy ghế gỗ. Trên cột bên cạnh còn treo một đôi câu đối đỏ đậm phong vị Trung Hoa: Thiên Chúa tạo ra trời đất vạn vật, thánh thần yêu thương mọi người trên đời. Lúc này không có khóa lễ, nhà thờ vắng hoe, chẳng một bóng người.

Bước vào đây, vẻ mặt bác Doãn dịu hẳn đi, chẳng thấy hung hăng nóng nảy gì nữa. Bác ta chọn một chỗ ngồi xuống, tôi nghĩ ngợi rồi ngồi xuống hàng ghế ngay sau. Từ vị trí của tôi, có thể trông thấy gáy bác ta và cây thập tự đằng xa.

Có những lời dễ nói ra hơn khi không phải đối mặt.

Tôi dựa vào lưng ghế, hai tay khoanh trước ngực, lặng lẽ đợi. Bác Doãn cúi gục mặt xuống, hai tay chắp lại, lẩm bẩm cầu nguyện gì đó. Ánh nắng rọi qua ô kính màu trên đỉnh mái vòm, như một cánh tay hào quang vô hình, nhẹ nhàng đặt lên vai bác ta vỗ về.

“Tôi không phải con cháu nhà họ Dược, chỉ có chút quan hệ với họ thôi.” Bác Doãn mào đầu.

Như trên đã nói, nghề vá gốm chia thành ba phái, Sơn Đông dùng khoan da, Hà Nam dùng khoan cung, Hà Bắc dùng khoan quả lăn, đằng sau đó là ba gia tộc: Cố, Phàn, Doãn.

Trong đó phái Hà Bắc gần kinh thành nhất, cũng nổi danh nhất, được rất nhiều quan lại quý nhân, văn nhân nhã khách ưa chuộng. Cuối thời Thanh, nhà họ Doãn sinh ra một thiên tài, tên gọi Doãn Điền. Nhà họ có một tuyệt kỹ vá gốm gọi là Phi Kiều Đăng Tiên, vừa tinh xảo lại đẹp mắt, rất phù hợp để biểu diễn ngón vá hoa trước mặt người khác. Doãn Điền tài hoa tuyệt thế, thiên bẩm cực cao, vừa học thành tài đã làm chấn động kinh thành. Nghe nói đồ vật trong cung hỏng đều vời ông ta tới sửa, thậm chí còn từng biểu diễn trước mặt Lão Phật Gia.

Có điều thuật Phi Kiều Đăng Tiên tuy đẹp mắt, nhưng có một cấm kỵ. Tổ tiên họ Doãn từ xưa đã răn rằng: tuyệt kỹ này quá tinh diệu, cướp hết tài khéo của tạo hóa, nên dễ bị trời xanh ghen ghét. Vì vậy một người không được dùng quá số đại diễn, nhiều hơn tất sinh họa. Kinh Dịch có viết, “Số đại diễn năm mươi, chỉ dùng bốn mươi chín32.”

Doãn Điền lừng danh kinh thành, bản thân ông ta lại cố ý dựa vào nó để tạo dựng tăm tiếng, chẳng biết đã biểu diễn Phi Kiều Đăng Tiên bao nhiêu lần, từ lâu đã vượt quá số đại diễn. Chẳng ngờ vừa qua đại thọ ngũ tuần, ông ta đã đổ bệnh nặng, hẳn là do vi phạm điều tối kỵ. Doãn Điền hối hận cũng đã muộn, tự biết mình chẳng còn nhiều thời gian, muốn truyền lại tuyệt kỹ này thì lại không có con trai, chỉ có một con gái là Doãn Đan.

Nghĩ đi nghĩ lại, ông ta đành loan tin rằng muốn tìm người ở rể, của hồi môn là Phi Kiều Đăng Tiên.

Tin này vừa truyền ra đã làm chấn động cả kinh thành. Ai ai cũng biết giá trị của tuyệt kỹ này, người đổ xô tới xin ở rể đông như cá diếc qua sông. Nhưng Doãn Đan con gái ông ta khăng khăng không chịu, thậm chí còn dọa sống dọa chết. Doãn Điền tra hỏi mãi, cô mới thú thật rằng mình đã phải lòng một người trong Minh Nhãn Mai Hoa.

Doãn Điền nghe vậy thì ngạc nhiên xen lẫn giận dữ. Ngạc nhiên là bởi Minh Nhãn Mai Hoa bấy giờ là Thái Sơn Bắc Đẩu trong giới giám định cổ vật, địa vị cao hơn một thợ vá gốm nhiều; giận dữ là vì, Minh Nhãn Mai Hoa vị thế hiển hách, ắt không đời nào chấp nhận để con cháu mình đi ở rể người ngoài. Ông ta hỏi con gái kẻ đó rốt cuộc là ai, Doãn Đan mới thưa rằng, là con trai trưởng nhà họ Dược của Huyền môn, tên Dược Thận Hành.

Nhà họ Dược nắm giữ mảng gốm sứ, quan hệ mật thiết với nhà họ Doãn chuyên nghề vá gốm, thường ngày vẫn qua lại khăng khít. Dược Thận Hành và Doãn Đan quen biết rồi yêu nhau, chỉ là chưa dám thưa với người lớn trong nhà xin cầu hôn.

Doãn Điền tìm đến nhà họ Dược bàn bạc, quả nhiên nhà bên đó cương quyết tỏ ý: “Doãn Đan gả sang đây thì không sao, nhưng bảo Dược Thận Hành đi ở rể thì nhất định không được, đó là người kế nghiệp mà chúng tôi dốc lòng bồi dưỡng.” Doãn Điền vô cùng khó xử, nếu thuận theo nhà họ Dược, e rằng thuật Phi Kiều Đăng Tiên sẽ thất truyền. Cuối cùng chuyện này cứ giậm chân tại chỗ mãi.

Doãn Điền khó nghĩ là bởi, nhà họ Doãn đã cấm ngặt không được để lọt tuyệt kỹ này ra ngoài. Ông ta đành khuyên con gái suy nghĩ lại.

Nào ngờ lúc này Doãn Đan đã có mang, bụng ngày một lớn. Cứ lần lữa mãi thì chẳng mặt mũi nào ra ngoài nữa. Hay tin, Doãn Điền như sét đánh ngang tai. Chẳng còn đường nào khác, ông ta đành gọi Dược Thận Hành đến bên giường, nói rằng mình quyết định gả Doãn Đan vào nhà họ Dược, cũng bằng lòng truyền Phi Kiều Đăng Tiên cho Dược Thận Hành, nhưng buộc Dược Thận Hành phải thề không được dạy lại cho người nhà họ Dược, chỉ một mình mình biết mà thôi.

Khi nào Doãn Đan sinh được con trai thứ thì cho mang họ Doãn để thừa kế ngón nghề này.

Dĩ nhiên Dược Thận Hành nhận lời, Doãn Đan chẳng mấy chốc được gả vào nhà họ Dược. Doãn Điền biểu diễn Phi Kiều Đăng Tiên lần cuối cùng, Dược Thận Hành cực kỳ thông minh, chẳng mấy chốc đã học được. Truyền thụ xong tuyệt kỹ, Doãn Điền đột ngột qua đời. Trước lúc lâm chung, ông ta dặn đi dặn lại Dược Thận Hành, “Không được dùng Phi Kiều Đăng Tiên quá số đại diễn, bằng không ắt bị trời ghen ghét.” Gả vào nhà họ Dược ít lâu, Doãn Đan sinh được con trai trưởng, đặt tên là Dược Lai33. Tiếc rằng lúc sinh nở bị hao tổn sức khỏe nghiêm trọng, chưa kịp sinh con thứ hai thì đã qua đời. Dược Thận Hành yêu thương vợ sâu đậm, ở vậy không tục huyền nữa. Về phần tuyệt kỹ Phi Kiều Đăng Tiên, Dược Thận Hành cũng giữ trọn lời thề, chưa từng truyền cho bất cứ người nào trong nhà họ Dược.

Dược Thận Hành vốn định sau khi lên làm chưởng môn Minh Nhãn Mai Hoa sẽ chọn một người thuộc chi thứ họ Dược cho làm con thừa tự nhà họ Doãn, truyền cho ngón Phi Kiều Đăng Tiên, hoàn thành lời trăng trối của Doãn Điền.

Ngờ đâu tới năm Dân Quốc thứ mười bảy thì gió đổi chiều. Minh Nhãn Mai Hoa bị cuốn vào vụ Tôn Điện Anh trộm Đông lăng, Dược Thận Hành vì thủ tiêu tang vật cho Đàm Ôn Giang mà bị quan phủ bắt giam, kết án mười năm tù. Ngôi chưởng môn rơi vào tay một người tên Hứa Nhất Thành.

Hai năm sau, vì thời thế biến động, nhà tù giam giữ Dược Thận Hành xảy ra vụ cướp ngục, phần lớn phạm nhân đều bỏ trốn. Hay tin Hứa Nhất Thành liền phái người đi tìm Dược Thận Hành, song không rõ tung tích.

Thực ra Dược Thận Hành chưa chết. Ông ta vô cùng hổ thẹn về những việc làm của mình trước đây, không muốn liên lụy tới Minh Nhãn Mai Hoa nữa, bèn nhân cơ hội này mai danh ẩn tích, đổi sang họ Doãn, đi xuống miền Nam, cuối cùng định cư ở Thiệu Hưng. Ở đây ông ta nhận nuôi một đứa trẻ, cho nó đổi sang họ Doãn, lấy tên Niệm Cựu, khấu đầu trước bài vị Doãn Điền coi như người thừa tự. Sau đó ông ta dạy cho Doãn Niệm Cựu thuật vá gốm và Phi Kiều Đăng Tiên, coi như hoàn thành tâm nguyện của cha vợ.

Dược Thận Hành ẩn cư tại Thiệu Hưng một năm, chợt một hôm nói với Doãn Niệm Cựu rằng mình có việc phải lên miền Bắc, dặn Doãn Niệm Cựu trông nom cửa hiệu.

Mấy tháng sau có người từ miền Bắc tới, chuyển cho Doãn Niệm Cựu một bức thư và một cuộn Kim Đáy Bể. Thư là Dược Thận Hành viết, nói rằng có lẽ mình không còn cơ hội về Thiệu Hưng nữa, dặn dò Doãn Niệm Cựu đổi sang nghề thợ bạc, và nhớ rằng không được dùng tuyệt kỹ Phi Kiều Đăng Tiên trước mặt người khác, song không được để thất truyền. Bộ Kim Đáy Bể cũng phải giữ gìn cẩn thận.

Kim Đáy Bể chính là cuộn da bò gài đầy những dụng cụ nho nhỏ mà tôi từng thấy. Song Dược Thận Hành không hề giải thích mình đã gặp chuyện gì ở miền Bắc, sao lại phải gửi người ta chuyển giùm vật này về.

Doãn Niệm Cựu hướng về phía Bắc khóc nức nở, từ đó vâng theo lời Dược Thận Hành, không nhắc nhỏm tới nghề vá gốm nữa, đổi sang làm thợ bạc. Vì vậy hàng xóm láng giềng đều không biết người nhà này vốn làm nghề vá gốm, cứ ngỡ là thợ bạc gia truyền. Về phần Phi Kiều Đăng Tiên, Doãn Niệm Cựu cũng dốc lòng dạy lại cho Doãn Hồng con trai mình, nhưng không cho truyền ra ngoài.

Về sau chiến loạn liên miên, vợ chồng Doãn Niệm Cựu bất hạnh trúng bom mà chết. Doãn Hồng sợ hãi quá độ, sinh ra bệnh tâm lý. Từ ấy, bác ta trở nên rụt rè nhút nhát, không muốn tiếp xúc với người khác, tính tình lại nóng nảy, chỉ giam mình trong tiệm làm đồ bạc kiếm sống. Có điều Doãn Hồng vẫn nhớ kỹ lời cha dạy, chưa bao giờ dám chểnh mảng nghề vá gốm, mấy chục năm nay hễ rảnh rỗi lại luyện tập, thậm chí đến mức gần như ám ảnh cưỡng chế.

Mỉa mai ở chỗ, chính vì cái tính quái gở ấy nên chẳng biết tự lúc nào, tay nghề bác ta đã vượt qua cả Doãn Niệm Cựu và Dược Thận Hành, gần như sánh ngang được với Doãn Điền, chỉ là chưa bao giờ để lộ trước mặt người khác.

Hôm nay, Doãn Hồng bị tôi và tay chủ Lan Kê Trai hợp sức bức ép mới miễn cưỡng giở ra tuyệt kỹ, nhưng kỳ thực sâu trong thâm tâm bác ta cũng mong có cơ hội biểu diễn trước mặt người khác một lần, bằng không công sức khổ luyện cả đời, há chẳng đổ xuống sông sao.

“Chuyện là thế đấy.” Bác Doãn mệt mỏi kết lại, vẫn không hề ngoái đầu.

Tôi ngồi ở hàng ghế sau, lòng ngổn ngang bao điều khó nói. Nghe bác Doãn kể xong, tôi mới hay hóa ra giữa bác ta và Minh Nhãn Mai Hoa còn có mối quan hệ sâu xa như vậy. Thật chẳng ngờ một nhân vật quan trọng nhường ấy của nhà họ Dược lại từng ẩn cư chốn này.

Dược Thận Hành quả là bậc quân tử trọng tình trọng nghĩa, biết giữ lời hứa. Để chuộc tội, ông ta bằng lòng bỏ cả Minh Nhãn Mai Hoa, vì một lời thề mà cam lòng ở ẩn.

“Nhưng tại sao ông ấy lại chọn Thiệu Hưng để định cư?” Tôi hỏi.

“Vì Doãn Đan vẫn luôn muốn tới vườn Thẩm chơi, tiếc rằng mãi không có cơ hội. Lúc xuống miền Nam, Dược Thận Hành đem theo cả tro cốt của Doãn Đan, chôn ở một góc vườn Thẩm. Nghe cha tôi kể, ông ấy thường xuyên tới đó thăm nom, lần nào đi cũng ở cả ngày, mãi cho tới khi lên miền Bắc.”

Tôi cảm khái khôn nguôi, chợt nghĩ tới một chuyện, nhẩm tính mới thấy thời gian ông ta ngược lên phía Bắc chính là giai đoạn ông nội Hứa Nhất Thành nhà tôi dính vào vụ án đầu Phật.

Lẽ nào hai chuyện này liên quan đến nhau?

“Cha bác có biết ông ấy ngược lên phía Bắc làm gì không?”

Doãn Hồng lắc đầu, “Cha tôi vẫn canh cánh mãi, nói rằng muốn làm tròn chữ hiếu với ông cụ, vậy mà đến mộ cụ ở đâu còn không biết. Ông răm rắp vâng theo lời dặn dò của Dược Thận Hành, không dám đi lên miền Bắc tìm người, chỉ đợi ở Thiệu Hưng.” Nói tới đây, Doãn Hồng ngẩng đầu nhìn lên mái vòm lẩm bẩm, “Tôi cứ có cảm giác chúng tôi không phải ở ẩn, mà đang trông giữ một thứ gì đó ở đây.”

Dược Thận Hành chỉ gửi về Thiệu Hưng đúng một cuộn Kim Đáy Bể. Nhưng vừa rồi tôi cũng đã thấy, đó chỉ là một bộ đồ nghề cổ, trên tấm da bò gài mười mấy món dụng cụ nhỏ tinh xảo. Nếu có bí mật gì, e rằng đã bị Doãn Hồng phát hiện từ lâu. Huống hồ, nếu đã muốn họ trông giữ, lại không nói rõ thứ đó là gì thì làm sao trông được?

Có điều giờ nghĩ gì cũng đã muộn, cuộn da bò Kim Đáy Bể ấy e rằng đã rơi vào tay Liễu Thành Thao mất rồi.

Đúng lúc này, Doãn Hồng chợt hỏi, “Vừa rồi anh nói... anh là người nhà họ Hứa à?”

“Đúng thế, Hứa Nhất Thành là ông nội tôi.” Tôi bất giác ưỡn ngực.

Bác Doãn ồ lên nói, “Cha tôi từng nhắc tới cái tên này, ông Hành vô cùng tán thưởng người đó, nói rằng đó là người có tư cách dẫn dắt Minh Nhãn Mai Hoa hơn mình nhiều, bộ Kim Đáy Bể kia, nghe nói cũng là của ông ta.”

Tôi thực không ngờ bộ đồ nghề ấy lại là di vật của ông nội mình. Nhưng nghĩ lại, tôi chợt nhíu mày, “Dược Thận Hành và Hứa Nhất Thành xưng hô ngang hàng à?”

“Chắc thế, Hứa Nhất Thành nhỏ hơn ông Hành mấy tuổi thì phải.”

Lạ thật đấy. Nếu Doãn Hồng nói không sai thì Doãn Niệm Cựu phải ngang hàng với mấy người Hoàng Khắc Vũ, Lưu Nhất Minh, Dược Lai, Thẩm Vân Sâm, cả bố tôi Hứa Hòa Bình cũng phải ở vào hàng ấy. Cứ thế mà suy, há chẳng phải Dược Bất Nhiên và Yên Yên là hàng cháu của tôi sao?

Trước kia lúc nghe Yên Yên kể chuyện về ông nội, tôi đã lờ mờ thấy không ổn, giờ có được chứng cứ xác thực từ Doãn Hồng, đầu óc càng thêm rối loạn.

Nếu chuyện này là thật thì phiền phức to. Hóa ra chúng tôi là chú cháu yêu nhau à!

Doãn Hồng nào có biết những ý nghĩ lộn xộn trong đầu tôi. Bác ta thở dài, quay về tư thế cầu nguyện, nhắm mắt lại, “Những gì kể được tôi đã kể cả rồi, anh đi đi.”

Bấy giờ tôi mới nhớ ra mình còn việc chính chưa làm. Vội lắc đầu thật mạnh, tạm gạt hết những suy nghĩ miên man ra khỏi đầu, rút mảnh sứ vỡ trong túi áo ra đưa cho bác ta.

“Bác xem hộ mảnh vỡ này có gì đặc biệt không.” Giọng tôi cứng rắn, không cho phép thoái thác.

Doãn Hồng biết nếu không làm theo ý tôi thì không xong, đành quay lại, cầm lấy mảnh sứ, ngắm nghía thật kỹ.

“Sứ thanh hoa thời Minh à? Chóe vẽ tích cổ ư?” Doãn Hồng vừa xem vừa phán đoán, về cơ bản là đúng. Động đến chuyên môn, giọng bác ta tự tin hẳn.

Thợ vá gốm am hiểu khá sâu về đồ gốm sứ, có lúc còn biết nhiều hơn dân chơi gốm sứ. Dân sưu tầm thông thường hay để tâm tới hình dạng, màu men, lịch sử lưu truyền v.v... thiên về giám định và phân loại dưới góc độ thẩm mỹ, còn dưới góc độ của thợ vá gốm, họ chỉ thấy đây là một món đồ khiếm khuyết, men đọng thế nào, hoa văn rạn ra sao, họ xem xét tính chất của đồ vật, nghiên cứu thành phần của đồ vật. Khác biệt ở đây cũng từa tựa giữa giám khảo chấm thi hoa hậu và bác sĩ.

“Chủ yếu muốn nhờ bác xem cho vệt trắng này.” Tôi nhấn mạnh.

Doãn Hồng xoay miếng sứ trong tay, bắt đầu nhìn tới vệt trắng trên tay áo Gia Cát Lượng. Sợ nhìn không được rõ, bác ta còn giơ lên trước mặt, soi dưới ánh nắng từ ngoài chiếu vào, ngắm nghía thật lâu.

Đột nhiên bác ta đứng dậy, tôi cứ ngỡ ông bác này lại định bỏ chạy, chẳng ngờ bác Doãn sải bước đi đến trước bục giảng đạo, cạnh đó có một gian phòng nhỏ để cha xứ nghỉ ngơi và chuẩn bị. Cửa phòng không khóa, Doãn Hồng đi thẳng vào, lấy ra một chiếc ca sắt tráng men, trên ca còn đề dòng chữ “Phần thưởng nhân ngày 8-3 của đơn vị XX”, trông hoàn toàn lạc quẻ với không khí trong nhà thờ.

Doãn Hồng lắc cái ca, bên trong vẫn còn nước trà thừa. Bác ta ngâm mảnh sứ vào chừng hai phút rồi lấy ra xem, đoạn lại ngâm vào, lại lấy ra. Cứ thế ba lần, bác ta mới gật gù, trông ánh mắt như đã tìm ra câu trả lời.

“Bác phát hiện được gì rồi à?” Tôi hỏi.

Doãn Hồng trỏ cho tôi mép vệt trắng nọ, bấm cả ngón tay vào. Tôi giương to mắt, nhìn theo đầu ngón tay bác ta, song chẳng nhìn ra gì hết. Doãn Hồng giải thích, “Men trên đồ sứ gọi là hồ kính, thông thường không biến đổi theo thời gian. Nhưng nếu điều kiện quá kém, lớp men sẽ bị ăn mòn, một số phần còn mềm bở, dùng vật sắc cào sẽ thấy có bột rơi ra, gọi là xương xốp, tên khoa học là vôi hóa.”

Thợ bạc thông thường đều để dài móng ngón tay cái, tiện bấm vào bạc đánh dấu. Bác Doãn cào nhẹ móng tay vào lòng vệt trắng, tôi thấy rõ kẽ móng tay bác ta dính ít bột trắng.

“Thợ vá gốm hành nghề, ngại nhất là gặp phải xương xốp, bất luận là đục lỗ hay mài mỏng, men cũng sẽ bong mất một mảng, rất khó xử lý.”

“Nói vậy thì vệt trắng này cũng là dấu vết xương xốp ư?”

Giọng Doãn Hồng thoáng nghi hoặc, “Đúng là xương xốp, nhưng lại có vẻ như cố ý tạo ra. Anh nhìn lớp men quanh vệt trắng này, như thể có những đốm vôi hóa li ti, nổi lên bề mặt, đó là bột bạc được rắc lên. Anh gõ thử sẽ thấy, thật ra chất sứ vẫn rắn đanh, không hề bị mủn. Thời Dân Quốc có một phương pháp làm giả, cố ý tạo ra dấu xương xốp, hòng biến gốm mới thành gốm cũ.”

Hiểu biết của tôi về đồ gốm sứ vô cùng hạn hẹp, nghe mà phải mất một lúc mới hiểu, nhưng cũng đại khái nắm được ý của Doãn Hồng. Thông thường chất men ở viền khu vực xương xốp bị vôi hóa đóng vai trò vùng đệm giống như đồng bằng đệm giữa rừng rậm và thảo nguyên, nên không mềm hẳn cũng không rắn hẳn.

Mép vệt trắng trên mảnh sứ nọ rất cứng, không mang đặc tính của vùng đệm, mà được cố tình rắc bột bạc lên giả làm xương xốp.

“Mép mảnh vỡ này rất giống bị người ta cắt ra...” Doãn Hồng lẩm bẩm.

“Không thể nào, tôi tận mắt thấy chiếc chóe đó đổ vỡ, sau mới nhặt lấy một mảnh vỡ trong đó mà.”

Doãn Hồng bỏ qua luôn chủ đề này, “Anh có thấy vệt trắng trên những chiếc chóe khác không? Vị trí có giống nhau không?”

Tôi nghĩ lại, đến giờ mình mới chỉ được thấy chiếc chóe “Ba lần ghé lều tranh” và bản sao của chóe “Quỷ Cốc Tử xuống núi”, vệt trắng trên hai chóe lần lượt nằm ở ống tay áo của Gia Cát Lượng và Quỷ Cốc Tử.

“Vậy là đúng rồi. Để thể hiện các nếp áo nên chỗ đó thường tô nhiều men, dẫn tới bị đọng men, sờ lên sẽ thấy hơi gồ. Đồ phấn thái thời Đồng Trị có một loại gọi là men sóng nước, cũng tương tự như vậy. Lợi dụng độ dày ấy, người ta có thể giấu đồ vào bên trong, gọi là túi men.”

“Ồ? Làm sao thế được?” Tôi buột miệng. Đồ gốm sứ phải nung trong lò mấy nghìn độ, bên trong có giấu thứ gì cũng tan chảy hết. Dạo trước tôi đọc Ỷ thiên đồ long ký34, kể rằng trong kiếm Ỷ Thiên và đao Đồ Long có giấu Võ Mục di thư và Cửu âm chân kinh, song đâu có chuyện đó được, khi rèn đao kiếm, sách vở gì cũng sẽ cháy trụi, tương tự chuyện này thôi.

Doãn Hồng thong dong đáp, “Đâu nhất thiết phải là sách. Nếu khắc mấy chữ lên phôi thì vẫn giữ lại được như thường. Thời Minh có câu chuyện kể rằng một thợ gốm đổ bệnh nặng, sợ sau khi mình chết đi con rể sẽ cướp hết gia sản của đứa con trai út, nên đã dốc lòng nung ra một bình gốm. Sau khi ông ta mất, con trai ông ta được chị gái và anh rể nhận nuôi, gia sản cũng rơi vào tay họ, chỉ còn giữ được chiếc bình nọ bên người. tới khi đứa con trai mười lăm tuổi mới rạch túi men ra, thấy di chúc của cha khắc trên phôi gốm. Nó mang bằng chứng lên cáo quan, cuối cùng cũng lấy lại được gia sản.”

“Ý bác là trong túi men của chiếc chóe này cũng ẩn chứa thông tin gì ư?”

Doãn Hồng lật miếng sứ, phơi vệt trắng ra, “Ẩn chứa thông tin gì thì tôi không biết, nhưng rõ ràng thứ bên trong đã bị lấy đi rồi. Vệt trắng này là dấu vết để lại sau khi rạch túi men đấy. Để đề phòng người khác phát hiện, kẻ ấy đã ra sức sửa sang và ngụy trang cho vệt trắng, khiến nó trông chỉ như một vệt xương xốp.”

“Sao lại thế được? Tôi từng xem xét quanh mép vệt trắng, thấy trơn nhẵn phẳng lì, liền lạc với mặt sứ xung quanh. Nếu đã bị rạch ra, sao sửa lại không chút tì vết như vậy được?”

Đắp men cũng chẳng phải chuyện gì hiếm lạ. Thoa men đã pha chế lên chỗ cần sửa, cho vào lò nung, lấy ra là xong, thậm chí men rạn cũng có thể làm phỏng theo. Nhưng ngón này chỉ dùng được với gốm sứ đơn sắc chứ không thể là phẳng mối ghép trên bề mặt gốm sứ, thể nào cũng để lại một vệt xước. Ví như men sứ thanh hoa, nếu bị rạch ra tuyệt đối không thể đắp điếm lại như cũ được.

Doãn Hồng nhìn tôi đầy thâm ý, “Không có gì là tuyệt đối hết. Trên đời có một tuyệt kỹ vá gốm có thể rạch túi men ra rồi sửa sang lành lặn như mới, đó chính là Phi Kiều Đăng Tiên.”

“Hở?” Tôi sững sờ, Phi Kiều Đăng Tiên không phải kỹ thuật dùng vàng bạc trám lại gốm sứ ư?

Đã nói đến nước này, Doãn Hồng cũng chẳng kiêng kỵ gì nữa, bèn giải thích cho tôi. Hóa ra bốn chữ Phi Kiều Đăng Tiên không phải chỉ một kỹ thuật cụ thể, mà là một ngón nghề. Thợ gốm dùng lực cổ tay để điều khiển nước men hoặc dung dịch vàng bạc, phủ lên vị trí cần thiết trong thời gian cực ngắn, vừa có thể nạm vàng khảm bạc, vừa có thể tách men bồi men, sau khi sửa xong không để lại dấu vết gì.

Nguyên lý này cũng như sơn tường vậy, đưa từng nhát chổi thì có đều đến đâu cũng thấy vết chổi, nhưng nếu hắt cả thùng sơn lên thật khéo sao cho phủ kín cả mặt tường, thì sẽ trơn láng như gương.

Giảng giải xong, Doãn Hồng cầm mảnh sứ lên nói, “Phi Kiều Đăng Tiên chỉ có một khuyết điểm là cần chất dẫn. Mà chất dẫn này gặp chất theophylline trong trà sẽ ngả vàng. Nên không được dùng cách này để sửa lại đồ trà. Anh nhìn này.”

Dứt lời bác ta chìa mảnh sứ cho tôi, đưa mắt ra hiệu. Tôi nhớ vừa rồi bác ta đã ngâm mảnh sứ vào nước trà, vội đón lấy xem thử, quả nhiên thấy trong lòng vệt trắng hơi ngả vàng.

Tim tôi thót lại. Vệt vàng này chứng tỏ bộ chóe năm chiếc đã bị người ta dùng Phi Kiều Đăng Tiên rạch túi men, sau đó vá lại gần như hoàn hảo. Sở dĩ nói gần như hoàn hảo là bởi vẫn còn một vệt trắng không che giấu được, nên họ mới cất công rắc bột bạc xung quanh, giả làm xương xốp vôi hóa.

“Tuyệt kỹ này ngoài người nhà họ Doãn và Dược Thận Hành ra, còn ai biết dùng không?”

“Đâu ra, đây là tuyệt kỹ bí truyền của nhà họ Doãn mà.”

Tôi nhắm nghiền mắt lại, ngả người vào băng ghế nghĩ ngợi. Lẽ nào... lần cuối Dược Thận Hành về miền Bắc, có liên quan tới bộ chóe này? Ông ta không trở lại, nhưng lại gửi người cầm về bộ Kim Đáy Bể vốn của Hứa Nhất Thành sau khi xảy ra vụ án đầu Phật không lâu. Vậy có phải ông nội tôi cũng có liên quan tới bộ chóe năm chiếc kia không?

Quan trọng nhất là, Lão Triều Phụng vội vã phái Liễu Thành Thao tới Thiệu Hưng tìm truyền nhân của Phi Kiều Đăng Tiên, chứng tỏ lão rất coi trọng bí mật giấu trong mấy chiếc chóe. Lão biết hiện giờ cả Trung Quốc chỉ có Doãn Hồng nắm được tuyệt kỹ này, bác ta là chìa khóa duy nhất để mở bí mật.

Đả thông được một điểm, toàn cục sáng hẳn ra. Từng mảnh vỡ dần dà được tôi gom lại, thắp lên một con đường sáng sủa giữa sương mù, toàn cảnh bức tranh dần trở nên rõ nét. Dược Bất Thị nói phải, chỉ những manh mối mình tự tìm ra mới thực sự đáng tin. E rằng Lão Triều Phụng cũng không ngờ tôi đang đập vỡ từng mảng tường thành lão dày công dựng lên ở một nơi lão không hề hay biết, hòng đánh vào thành trì của lão.

Những việc cần làm tiếp theo đã rõ như ban ngày. Điều mà kẻ địch nôn nóng muốn có, tôi phải ra sức ngăn cản. Chỉ cần tôi khống chế được Doãn Hồng trước, ắt có thể gỡ gạc lại tình thế phần nào.

Giờ đã đến điểm mấu chốt để xoay chuyển cục diện, tôi cũng nên bắt đầu phản công thôi!

Tôi cầm lấy mảnh vỡ từ tay Doãn Hồng, đứng bật dậy, toàn thân bừng bừng ý chí chiến đấu. Doãn Hồng hơi ngả người ra ghế, mệt mỏi hỏi, “Những gì biết tôi đã nói cả rồi, giờ tôi đi được chưa?”

“Mạc Hứa Nguyện đang ở trong tay Liễu Thành Thao, tôi không thể để thêm người vô tội bị liên lụy nữa. Bác phải giúp tôi cứu cô ấy ra.”

“Không liên quan đến tôi.” Doãn Hồng thẳng thừng từ chối.

Tôi chắp tay sau lưng, thong thả đi đến trước bục giảng đạo, ngước nhìn lên cây thập giá rồi quay sang bảo bác ta, “Cây muốn lặng mà gió chẳng dừng, dù tôi có đi, chúng cũng không đời nào tha cho bác. Từ lúc chúng xông vào cửa tiệm, bác đã không thể sống yên ổn nữa rồi, trừ phi chúng đạt được ý nguyện hoặc bị đánh bại.”

“Bọn chúng... đâu có biết tôi ở đây...” Doãn Hồng tái mét mặt.

Tôi cười đáp, “Bác cá không? Trong vòng mười lăm phút nữa, nếu chúng tìm tới nhà thờ này thì tôi thắng, bác phải đi theo tôi; còn nếu không ai tìm đến thì bác thắng, tôi tự đi cứu người.”

Doãn Hồng cân nhắc hồi lâu, cảm thấy khả năng thắng khá cao, bèn nhận lời. Tôi kéo tay áo bác ta trốn vào sau bục giảng đạo. Bục gỗ ở đây vừa cao vừa rộng, đủ để hai chúng tôi núp bên trong, buông tấm nhung dày che lại là gần như không thể nhìn ra.

Chẳng bao lâu sau bên ngoài vang lên tiếng đẩy cửa, tiếp đó là tiếng chân rầm rập giẫm lên sàn gỗ. Tiếng chân lượn một vòng quanh nhà thờ, đang định nhảy lên bàn tiệc thánh thì nghe một tiếng hét kinh hãi, “Các người đang làm gì vậy?”

Hẳn là giọng cha xứ ở đây. Tiếng chân lập tức dừng lại, một tên hung tợn hỏi, “Vừa rồi có ai vào đây không?” Tôi nhận ra đó là giọng tên tay sai của Liễu Thành Thao. Cha xứ giận dữ mắng, “Đây là đất thánh, các người mau đi đi, không là tôi báo cảnh sát đấy.”

Lúc này Liễu Thành Thao mới lên tiếng, vẫn hết sức nhã nhặn lịch thiệp, “Xin cha tha lỗi, con đang cần tìm hai người bạn, nên khó tránh khỏi nôn nóng, không cố ý xúc phạm đâu ạ. Phúc âm thứ nhất có dạy rằng: nếu các ngươi tha lỗi cho người ta, thì Cha các ngươi ở trên trời cũng sẽ tha thứ các ngươi. Mong cha bỏ quá cho.” Thấy y trích dẫn một câu Kinh Thánh, thái độ của cha xứ cũng dịu hẳn, “Ta không thấy ai vào đây cả, dù có các người cũng phải ra ngoài giải quyết, đừng làm ồn trong nhà thờ.”

Giọng Liễu Thành Thao cao hẳn lên, “Nếu cha có gặp bác Doãn thợ bạc, phiền chuyển lời hộ con, nói rằng chúng con đang bày tiệc khoản đãi ở đình Nhàn Vân trong vườn Thẩm, cô Mạc cũng tới giúp vui, chớ để chậm trễ, phí hoài cả cảnh đẹp.”

Nói rồi y chẳng buồn nấn ná thêm, quay lưng đi thẳng. Cha xứ quay về phía thánh giá cầu nguyện mấy câu, chợt thấy ca nước của mình đặt ngay trên băng ghế. Ông ta thoáng ngạc nhiên, lẽ nào mình lẩm cẩm quên cả cất vào phòng trong? Bèn cầm ca lên nhấp một ngụm, thấy không có gì lạ, mới lắc đầu đem đi.

Bấy giờ hai chúng tôi mới chui ra khỏi bục giảng đạo, tôi đưa mắt nhìn bác Doãn, ý tứ rất rõ ràng: Bác thua rồi.

Doãn Hồng tiu nghỉu, hỏi tôi làm sao biết được chúng sẽ tới đây. Tôi nhún vai, “Dân chơi cổ vật đều cực kỳ tinh mắt. Tôi vừa bước vào đã thấy trong phòng khách nhà bác treo một cây thánh giá, còn có cả tượng Đức Mẹ, bất luận là tay chủ Lan Kê Trai hay Liễu Thành Thao đều sẽ không bỏ qua chi tiết này. Vừa nãy Liễu Thành Thao đứng trên cầu Chữ Bát, chính là để phóng tầm mắt tìm xem xung quanh có ngọn tháp nhà thờ nào nhô lên không. Nếu ngay cả chút chuyện nhỏ đó còn không làm được, y sao có thể trở thành mũi tiên phong của Lão Triều Phụng chứ?”

Doãn Hồng nghe vậy mới vỡ lẽ. Tôi nhìn ra cửa, chợt thở dài, “Hơn nữa tôi ngờ rằng y đã phát hiện ra chúng ta rồi, chẳng qua ngại cha xứ nên không tiện ra tay đó thôi.” Đoạn tôi trỏ vết nước trên lối đi, đó là nước từ bộ đồ ướt sũng của chúng tôi nhỏ xuống lúc mới vào.

“Vừa rồi những lời y nói, tưởng như nói với cha xứ, song thực ra là cố tình nói cho chúng ta nghe. Để chúng ta biết Mạc Hứa Nguyện đang ở trong tay y, ta không tới gặp, cô ấy sẽ nguy đến tính mạng.”

Nghe vậy, Doãn Hồng không khỏi than vắn thở dài. Bác ta suy cho cùng cũng chỉ là một thị dân nhát chết, lại bị tôi buộc phải đương đầu với những kẻ địch hung tợn như thế, quả thực vô cùng bất đắc dĩ. Tôi tóm chặt vai bác ta, đanh mặt nghiêm giọng, “Bác Doãn, tôi rất nể phục hai đời nhà bác ẩn cư Thiệu Hưng giữ nghề, cũng không muốn quấy nhiễu cuộc sống của bác. Nhưng bác biết tuyệt kỹ Phi Kiều Đăng Tiên, ấy là 'ngu phu vô tội, có ngọc là tội', kẻ địch sẽ không thông cảm cho bác đâu. Giờ tên đã lên dây, nếu bác không đứng dậy phản kháng, sẽ bị chúng xơi tái không còn một mẩu xương.”

“Nhưng... nhưng bọn chúng là ai?”

“Kẻ thù của Minh Nhãn Mai Hoa, kẻ thù của ông Hứa Nhất Thành nhà tôi và ông Dược Thận Hành nhà bác.” Tôi chỉ nói tới đó, nếu nhắc đến Lão Triều Phụng, bàn tay đen đằng sau thế lực làm giả cổ vật phạm vi toàn quốc, e rằng sẽ làm bác Doãn sợ chạy mất dép.

Nghe nhắc tới Dược Thận Hành, Doãn Hồng cũng lấy lại được chút can đảm.

“Chuyện đã đến nước này, bác không thể thối lui được nữa, mà phải hợp tác với tôi mới có cơ sống sót.” Đoạn tôi kéo bác ta đi thẳng ra ngoài. Với những kẻ thế này, có bàn bạc cũng chỉ hao hơi, chi bằng xăm xăm quyết định thay họ cho rồi.

“Anh định tới vườn Thẩm thật ư?” Doãn Hồng sợ sệt hỏi.

“Đúng thế, tôi muốn thử xem Trại Tế Liễu ghê gớm đến mức nào.” Ánh mắt tôi sáng rực.

Muốn cắt đuôi bọn Trại Tế Liễu, tôi chẳng thiếu gì cách. Dù phải cứu cả Mạc Hứa Nguyện, tôi cũng có lòng tin mình sẽ rút lui an toàn. Nhưng làm vậy quá tiêu cực, tôi muốn hành động tích cực hơn. Trại Tế Liễu tuy nguy hiểm, nhưng là manh mối duy nhất dẫn tôi tới Lão Triều Phụng.

Từ trước tới giờ, tôi đều bị người của Lão Triều Phụng truy đuổi, nay đến lượt chúng nên nếm chút mùi đau khổ rồi.

Vùng Thiệu Hưng này nổi tiếng nhất ngoài quê Lỗ Tấn, còn có vườn Thẩm ở ngõ Xuân Ba. Đó vốn là vườn cảnh tư nhân của một nhà buôn họ Thẩm thời Nam Tống, nơi ghi dấu câu chuyện tình nổi tiếng của Lục Du và Đường Uyển. Ban đầu Lục Du và em họ là Đường Uyển kết hôn, hai vợ chồng tâm đầu ý hợp, nhưng vì mẹ Lục Du phản đối mà buộc phải ly hôn. Mười năm sau, Lục Du đi chơi vườn Thẩm tình cờ gặp Đường Uyển, đôi bên nhìn nhau không nói, Lục Du viết một bài từ Thoa đầu phượng để gửi mối tương tư bất lực, Đường Uyển đọc xong u uất quá mà chết, trước lúc lâm chung cũng làm một bài Thoa đầu phượng họa lại, trở thành tác phẩm đại diện cho mối tình thê lương nghìn đời. Khi đã ngoài bảy mươi, Lục Du lại dạo chơi vườn Thẩm, viết nên hai bài thơ Vườn Thẩm, mối tình xưa vẫn canh cánh không quên đã trở thành nỗi đau ông suốt đời khôn nguôi.

Giờ vườn Thẩm đã được trùng tu lại, sửa thành công viên di tích, mở cửa rộng rãi, dân bản xứ và khách du lịch đều có thể vào tham quan. Liễu Thành Thao chọn nơi này để hẹn gặp, quả là chó cậy gần nhà. Lúc chúng tôi đến nơi, mặt trời đã ngả về Tây, khách tham quan túm năm tụm ba trở ra, hẳn sắp tới giờ đóng cửa.

“Hay là báo cảnh sát...” Doãn Hồng vẫn chưa hết phân vân, rón ra rón rén như đi vào địa ngục.

Tôi lắc đầu, “Vô dụng thôi, từ đầu đến cuối Liễu Thành Thao đâu có đe dọa câu nào. E rằng đến giờ Mạc Hứa Nguyện vẫn bị bưng tai bịt mắt, còn chẳng biết mình đang rơi vào nguy hiểm kìa. Nếu gọi cảnh sát đến thì phải trình bày ra sao? Bọn Trại Tế Liễu xảo quyệt ở chỗ, thường ngày chúng sẽ khôn khéo tuân thủ pháp luật, không để lộ mảy may sơ hở, song một khi chúng thấy cần phải ra tay, thì sẽ không do dự đâu.”

Tuy tôi mới chỉ tiếp xúc với chúng một lần, nhưng mùi tanh nồng của đám trộm mộ đủ để tôi hiểu được tác phong làm việc của chúng rồi.

Tôi và Doãn Hồng bước vào vườn Thẩm, song chẳng có bụng dạ nào ngắm cảnh sắc đẹp đẽ xung quanh mà mải miết đi thẳng về phía Bắc. Ở đó có một hồ nước hồ lô và một ngọn giả sơn bằng đá Thái Hồ, di vật đời Tống chính hiệu. Phía trên giả sơn có ngôi đình Nhàn Vân dựng theo lối cổ, Liễu Thành Thao đang đợi chúng tôi tại đó.

Bên dưới giả sơn có mấy tên cao to mặt mũi bặm trọn canh giữ. Vừa thấy chúng tôi đến, chúng lập tức quây lại, trong đó có một tên cao đến hơn mét tám, cơ bắp gồ lên dưới bộ comple, tóm ngay lấy tôi, “Thằng ban chiều mày tạt axit vào mặt là em tao, giờ vẫn đang nằm viện đấy.”

“Rồi sao?” Tôi lạnh lùng vặn lại.

“Liệu đấy thằng ranh, tao tên Long Vương, sớm muộn gì cũng tẩn chết mày.” Ánh mắt hắn dữ tợn, song rốt cuộc vẫn không ra tay đánh người. Trái lại, Doãn Hồng thấy thế thì nhũn cả chân ra, suýt nữa ngã lăn từ trên bậc thềm xuống.

Chúng tôi bước lên giả sơn, thấy Liễu Thành Thao đang nói cười với Mạc Hứa Nguyện trong đình Nhàn Vân, trên chiếc bàn đá trước mặt họ