CHƯƠNG 9 PHÁ GIẢI BÍ MẬT BỘ CHÓE
Kido Kana? Sao cô lại tới đây?
Cô nàng này có liên hệ sâu xa với tôi. Vụ đầu Phật bắt nguồn từ cô mà ra. Ân oán giữa nhà Kido và gia đình tôi cũng hết sức phức tạp rối rắm. Thậm chí hai chúng tôi còn suýt nữa kết hôn. Có điều sau vụ án đầu Phật, cô đã quay về Nhật Bản, đôi bên không giữ liên lạc nữa. Giờ thấy cô đột nhiên xuất hiện, tôi ngạc nhiên khôn xiết.
“Ơ... Kido, sao em lại đến đây?”
Kido Kana vén mạng che mặt lên, cúi gập người, “Hay tin cụ Lưu qua đời, em vô cùng đau buồn nên đã từ Nhật bay sang, mong được đến viếng ông cụ để tỏ lòng thương tiếc.”
Cô chắp hai tay, nhắm mắt khấn khứa rồi gỡ đóa hoa trắng cài trên ngực xuống, đặt trước di ảnh ông cụ.
“Còn nhớ lần đầu tới Trung Quốc, em đã được cụ Lưu săn sóc rất nhiều. Đầu Phật được trả về Trung Quốc suôn sẻ, cũng nhờ ông cụ thúc đẩy. Còn chưa kịp cảm ơn cho đàng hoàng đã hay tin cụ qua đời, thật là đáng tiếc.”
Kido Kana vừa nói vừa nhìn di ảnh, trong khi tôi chăm chú quan sát gương mặt cô, cố phân biệt câu nào là khách sáo, câu nào là thực lòng.
Phúng viếng xong, hai chúng tôi cùng trở ra ngoài. Nhất thời tôi chẳng biết phải nói gì nên ngại ngùng làm thinh một lúc lâu, cuối cùng Kido Kana lại vuốt tóc lên tiếng trước, “Anh đi uống cà phê với em được không? Có mấy chuyện em đang muốn trao đổi với anh. Vốn định viếng cụ Lưu xong sẽ tới Tứ Hối Trai thăm anh, không ngờ lại tình cờ gặp được thế này, may quá.”
Vừa hay tôi cũng chẳng có việc gì, bèn nhận lời.
Chúng tôi rẽ vào một quán cà phê gần đó, mỗi người tự chọn một món đồ uống. Tôi cắn thìa, đợi cô mở lời. Kido Kana chăm chú nhìn tôi rồi chợt phì cười, “Anh vẫn hay ngượng nhỉ.”
“Khì khì, em quá khen...” Tôi gãi đầu, đáp một câu chẳng đâu vào đâu rồi hỏi, “Dạo này em thế nào?”
“Cảm ơn anh hỏi thăm, em đã tốt nghiệp xong xuôi, giờ đang làm ở Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á, chuyên nghiên cứu phục chế cổ vật, coi như cũng được làm việc trong lĩnh vực mình yêu thích.” Kido Kana đáp, tiếng Trung của cô độ này lưu loát hơn hẳn, xem ra mấy năm nay đã bỏ công học hành nhiều.
“Anh thì sao?”
“Ôi vẫn thế thôi, chẳng có gì khác cả.” Tôi đáp cho qua chuyện, nghĩ đi nghĩ lại vẫn thấy không nên nhắc tới mấy chuyện gần đây thì hơn.
“Kể ra thì duyên phận giữa nhà em và nhà anh cũng thật là kỳ diệu.”
Câu này cô nói rất phải. Nếu muốn truy đến tận gốc rễ thì lịch sử hai nhà chúng tôi phải kể từ thời Đường. Năm xưa vụ cháy minh đường vốn bắt nguồn từ việc khiến Đường sứ Nhật Bản là Kawachi Sakarana sinh lòng thèm muốn tượng Phật ngọc phỏng theo dung mạo Võ Tắc Thiên, dẫn tới nảy sinh xung đột với Liên Hoành, người phụ trách trông coi minh đường. Cuối cùng Phật ngọc bị vỡ làm đôi, đầu Phật được Kawachi Sakarana đem về Nhật. Liên Hoành cũng đổi sang họ Hứa, dặn dò con cháu nhất định phải lấy lại đầu Phật, từ đó Minh Nhãn Mai Hoa mới ra đời.
Tôi nhìn Kido Kana nghĩ bụng, lần này cô tới Trung Quốc là muốn trao đổi gì với tôi đây? Kido Kana tao nhã hớp một ngụm cà phê rồi đặt tách xuống, hai tay xếp trên gối, tỏ ý muốn bắt đầu cuộc trò chuyện nghiêm túc. Tôi cũng vội đẩy tách của mình sang bên, sửa lại vạt áo ngồi ngay ngắn.
“Là thế này ạ, gần đây giới khảo cổ Nhật Bản xuất hiện động thái mới, vì có liên quan tới hai nhà chúng ta, nên em cảm thấy cần phải báo với anh một tiếng.”
“Ồ? Liên quan tới cả hai nhà chúng ta, lẽ nào vụ việc đầu Phật ngọc lại nảy sinh vấn đề gì ư?” Tôi nhíu mày, dạo này tôi đã bù đầu bù cổ rồi, mong rằng đừng sinh thêm rắc rối nào nữa.
“Nhật Bản có bảo tàng tư nhân Shimazu, bên trong lưu giữ một số lượng lớn thư tịch cổ, nhưng hầu như không mở cửa cho người ngoài. Một năm trước, bảo tàng đổi người quản lý, chính sách cũng thay đổi theo, cho phép một số học giả chuyên ngành vào tra cứu. Một số học giả của Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á trong đó có em, hân hạnh là nhóm đầu tiên được phép vào thăm bảo tàng. Tại đó, một đồng nghiệp của em tình cờ tra được một ghi chép liên quan tới nhà họ Hứa.”
“Nếu liên quan tới đầu Phật ngọc và Hứa Hoành, chắc anh cũng biết cả rồi?” Tôi hỏi.
“Không, không liên quan tới đầu Phật ngọc, mà liên quan tới Hứa Tín.”
“Hở? Hứa Tín à?” Tôi ngẩn người.
Theo những gì ông nội tôi tra cứu và Lão Triều Phụng bổ sung thì Hứa Tín là tổ tiên nhà họ Hứa chúng tôi, sống vào thời Vạn Lịch nhà Minh. Ông xuất thân từ Cẩm Y vệ, từng tham gia chiến tranh cứu viện Triều Tiên đánh đuổi giặc Oa, tình cờ chạm mặt con cháu của Kawachi Sakarana là Kido Haruo trên sa trường. Hứa Tín dũng mãnh vô song, thừa cơ lẻn sang Nhật Bản, lấy lại được đầu Phật ngọc từ nhà Kido, đem về Đại Minh. Kido Haruo truy đuổi tới tận Đại Minh, hòng lấy cả đầu Phật lẫn mình Phật về, cuối cùng đôi bên một phen sống mái rồi bỏ mạng ở Kỳ Sơn. Sau khi mất, Hứa Tín được chôn bên cạnh Phật ngọc.
Kido Kana đáp, “Phải, tài liệu mà đồng nghiệp em tra được, có liên quan mật thiết đến Hứa Tín.”
Nghe vậy, tôi hết sức tò mò. Ghi chép về cuộc đời Hứa Tín ở Trung Quốc đã thất tán từ lâu, ông nội tôi dốc hết tâm sức cũng chỉ gom góp được vài nét phác thảo mơ hồ. Thực không ngờ bên Nhật vẫn còn tư liệu lưu lại.
Chuyện trớ trêu như vậy vốn không hề hiếm trong lịch sử văn hóa. Trung Quốc chiến loạn liên miên nên một số lượng lớn tư liệu đã thất tán, trong khi Nhật Bản vốn tích cực hấp thu văn hóa Trung Hoa lại bảo tồn được rất nhiều thư tịch quý giá. Cuối thời Thanh cũng như trong suốt thời Dân Quốc, học giả Trung Quốc thường phải sang Nhật sao chép lại những tài liệu độc bản ấy. Ví như Ngụy Trưng, Chử Toại Lương thời Đường từng viết một cuốn Quần thư trị yếu, tới thời Tống thì thất truyền, về sau có học giả phát hiện ra bản dịch ở Nhật, bấy giờ mới tiếp cận được văn bản đầy đủ.
Kido Kana giải thích, “Satsuma năm xưa là trọng trấn giao thương Trung - Nhật, thương lái qua lại tấp nập, vì vậy nhà Shimazu là lãnh chúa vùng này đã lưu lại rất nhiều hồ sơ tài liệu. Dưới thời Vạn Lịch, bên cạnh lãnh chúa Shimazu Yoshihisa có một thầy thuốc đến từ Đại Minh, tên Hứa Tam Quan. Tuy y ở Nhật, nhưng vẫn canh cánh nhớ về Đại Minh. Khi Toyotomi Hideyoshi quyết xâm lược Triều Tiên, y đã liều cả tính mạng báo tin cho triều đình, nên được triều đình nhà Minh coi trọng. Trong cuốn Tam Quan văn thư mà Hứa Tam Quan để lại, từng úp mở nhắc tới việc có cẩm Y vệ ghé thăm, có lẽ chính là Hứa Tín.”
Té ra khi Hứa Tín lẻn vào Nhật Bản, còn có người tiếp ứng. Thời đó không như ngày nay, một thân một mình đặt chân đến một quốc gia xa lạ mà không có Hoa kiều tại đó hỗ trợ thì rất khó.
“Sau đó Hứa Tam Quan giúp Hứa Tín lấy lại đầu Phật ngọc từ nhà Kido à?”
Kido Kana khẽ lắc đầu, “Trong Tam Quan văn thư không nhắc tới chuyện đó, nhưng em muốn nói tới một việc khác. Hứa Tam Quan nhắc tới một từ khóa có liên quan mật thiết tới Hứa Tín, gọi là sứ Sài. Ừm, phải... gọi là sứ Sài đấy.”
Nghe tới cụm từ này, tai tôi tức khắc dỏng lên. Sứ Sài ư? Đó là loại sứ mang đậm màu sắc truyền kỳ nhất Trung Quốc.
Sứ Sài là sứ lò quan của Sài Vinh, hoàng đế nhà Hậu Chu, được xưng tụng “đứng đầu các loại sứ”. Bấy giờ thợ gốm đã hỏi Sài Vinh muốn nung ra màu sắc thế nào. Sài Vinh ban dụ rằng: “Mưa tạnh trời quang mây tản hết, cứ theo sắc ấy chế làm men.” Về sau trải qua nhiều lần thử nghiệm, cuối cùng cũng làm ra tuyệt phẩm sứ Sài được xưng tụng là “xanh như da trời, sáng như gương, mỏng như giấy, tiếng trong như khánh”. Vì lò Sài tồn tại không lâu nên sứ Sài cũng cực kỳ hiếm. Người xưa có câu rằng “sứ Sài quý nhất, cả đời khó gặp”, dưới thời Minh đã được coi là báu vật vô cùng quý giá, đứng trên cả năm loại sứ nổi tiếng Nhữ, Quan, Ca, Quân, Định. Sau thời Thanh, sứ Sài gần như đã tuyệt tích, thỉnh thoảng mới thấy xuất hiện vài món sứt mẻ, đều được bán với giá trên trời. Ngay cả Huyền từ thành giám cũng than rằng sứ Sài hiếm gặp, cơ hồ chưa từng có cơ hội chạm tay vào.
“Sứ Sài và Hứa Tín có quan hệ gì mà lại được phía Nhật ghi lại vậy?” Tôi sốt sắng hỏi.
Kido Kana đáp, “Theo ghi chép thì bấy giờ nhà Toyotomi có một cận thần mê mẩn đồ trà, ra giá cực cao hòng thu mua những món sứ Sài tinh xảo. Sau đó lại có một nhà buôn Đại Minh nói đã nghĩ cách tuồn được mười món sứ Sài từ Đại Minh sang Nhật Bản. Kết quả sau khi tay lái buôn kia ẵm tiền đặt cọc thì lặn mất tăm. Viên cận thần nhờ nhà Shimazu nghe ngóng hộ, Hứa Tam Quan cũng âm thầm dò hỏi, mới hay Hứa Tín sau khi lấy lại được đầu Phật ngọc, trên đường quay về tình cờ bắt gặp con thuyền Fukukou nọ. Phát hiện trên thuyền giấu sứ Sài, lại đều là vật trong cung, Hứa Tín nổi giận, khăng khăng bắt đối phương quay thuyền về Đại Minh, lên gặp quan trên tự thú. Đôi bên giằng co một hồi, Hứa Tín đánh chìm con thuyền nọ, tiếc rằng mười món sứ Sài kia cũng chìm xuống biển theo.”
Thủy thủ trên thuyền có kẻ may mắn sống sót, quay về Nagasaki. Nhờ thế đầu đuôi việc này mới có cơ hội phơi bày với thiên hạ.
Tôi xưa nay vẫn luôn kính nể cụ tổ Hứa Tín, không ngờ cụ dũng mãnh làm vậy, đoạt lại đầu Phật ngọc đã đành, còn một công đôi việc, chặn đứng con thuyền tuồn quốc bảo ra nước ngoài. Chỉ tiếc nỗi mười món sứ Sài bị chôn vùi dưới đáy biển, không có ngày thấy ánh mặt trời nữa.
Tận mười món cơ đấy, vào thời ấy cũng đã có thể bán được một số tiền khổng lồ. Cứ nghĩ mà xem, cha con Nghiêm Tung quyền thế nhường nào, mà cả đời chỉ gom góp được mười mấy món, trong hoàng cung nhà Minh cũng chỉ có khoảng ngần ấy. Tay lái buôn Trung Quốc kia thật giỏi xoay xở, thó được số báu vật như thế trong cung, chẳng biết đằng sau còn ẩn giấu bao nhiêu thảm kịch.
“Lái buôn Trung Quốc kia họ Ngư, tên Ngư Triều Phụng.” Lúc nói ra cái tên này, Kido Kana nhìn thẳng vào mắt tôi.
Tôi nghe mà sống lưng lạnh toát, vươn cả người về phía trước. Ngư Triều Phụng ư? Chẳng phải là kẻ cùng trông coi minh đường với Hứa Hoành, sau khi Phật ngọc bị đánh cắp lại đổ cho Hứa Hoành tay giữ hòm tay phá khóa, khiến Hứa Hoành phải rời kinh truy bắt kẻ trộm?
Có điều đó đều là chuyện hơn một nghìn năm trước, sao y còn sống đến tận thời Minh được? Thế chẳng hóa yêu quái sao? Nhưng nghĩ lại thì cái tên Ngư Triều Phụng này có thể là biệt danh hoặc trùng tên, có điều người nhà họ Hứa và Ngư Triều Phụng sau hơn một nghìn năm lại đụng độ nhau trên biển, đúng là nghiệt duyên sâu nặng.
“Cảm ơn em đã cung cấp thông tin, làm phiền em quá.” Ngỡ rằng Kido Kana đã kể xong, tôi khom người cảm tạ.
Ngờ đâu Kido Kana cười nói, “Anh kiên nhẫn một chút được không? Em chưa kể hết mà.” Tôi ngượng nghịu vuốt mũi, “Đâu, đâu có. Em cứ kể tiếp, kể tiếp đi...”
Kido Kana nói tiếp, “Nếu chỉ là câu chuyện từ xa xưa thì em gọi điện hay gửi fax cho anh là được rồi, cần gì lặn lội tới đây. Chuyện này chỉ là khởi đầu thôi. Người phát hiện ra Tam Quan văn thư không chỉ có em mà còn mấy nhà sử học nữa. Họ rất hứng thú với con thuyền Fukukou kia, đã công bố đến mấy bài khảo cứu, làm rúng động giới học thuật. Thế là liền có người đề xuất rằng, có cách nào tìm cho được con thuyền nọ, vớt đồ trong đó lên không.”
Nghe đến đây, tim tôi đập thình thịch. Trục vớt kho báu dưới thuyền đắm vốn chẳng phải chuyện hiếm lạ gì. Giờ thuyền đắm dọc bờ biển Trung Quốc tính ít cũng phải mấy trăm cái, rất nhiều thuyền buôn thời Tống xuôi Nam rồi chìm ở vùng biển Đông Nam Á, bên trong đều là hàng quý, rất nhiều công ty đang lăm le nhảy vào khai thác mảng này. Nhưng trong con thuyền kia có đến mười món sứ Sài cơ đấy! Đám thuyền buôn đắm dưới biển Hoa Nam làm sao bì nổi. Nếu vớt lên được sẽ là quốc bảo hàng đầu, e rằng gây chấn động toàn thế giới.
Nhưng biển cả mênh mông, dựa vào vài dòng văn mập mờ, làm sao tìm được con thuyền ấy? Dù có thiết bị tìm kiếm hiện đại, chỉ e vẫn là mò kim đáy bể.
Trông thái độ Kido Kana, tôi có cảm giác cô vẫn còn lời chưa nói hết.
Quả nhiên, Kido Kana tiếp tục, “Giới học thuật và giới kinh doanh đều hào hứng với đề nghị này, có thêm nhiều người tham gia nghiên cứu, đi sâu tìm hiểu các tài liệu lịch sử liên quan, kết quả họ thật sự tìm ra một... Tiền thân của Viện nghiên cứu Đông Bắc Á là Hội phong tục China, chắc anh còn nhớ chứ?”
“Làm sao quên được.” Tôi sầm mặt. Chính Hội phong tục này đã viết ra Ghi chép về đồ cổ China, hòng từng bước cướp đoạt các văn vật của Trung Quốc một cách có kế hoạch. Đầu Phật ngọc là một mắt xích quan trọng trong đó. Sau thế chiến, tổ chức này bị xóa bỏ, đổi thành Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á.
“Trong các tài liệu còn sót lại của Hội phong tục, các học giả phát hiện một báo cáo nghiên cứu khả thi được viết vào năm Showa thứ sáu. Theo đó, đã có người đọc được Tam Quan văn tập, nắm được manh mối quan trọng, kiến nghị chính phủ điều chiến hạm tới thăm dò thực địa, tìm cách trục vớt tàu Fukukou v.v...”
Tôi nhẩm tính năm Showa thứ sáu là năm Dân Quốc thứ hai mươi, cùng thời điểm xảy ra vụ án đầu Phật.
“Manh mối đó là gì?”
Kido Kana ngập ngừng giây lát rồi nói chậm lại, “Báo cáo cho biết, họ đã liên hệ với một lái buôn Bắc Bình tên Lâu Dận Phàm, trong tay nắm giữ ghi chép về vị trí đánh đắm thuyền Fukukou mà năm xưa Hứa Tín để lại. Dưới sự phối hợp của chuyên gia Trung Quốc, Hứa Nhất Thành, chẳng mấy chốc đã thu được kết quả. Đề nghị chính phủ Đế quốc coi trọng việc này, điều chiến hạm tới tận nơi khảo sát thực địa v.v...”
Hứa Nhất Thành! Quả nhiên tên ông nội tôi lại xuất hiện. Tôi kinh ngạc nhủ bụng, cái tên Hứa Nhất Thành xuất hiện ở đây, nhất định chuyện này còn nhiều uẩn khúc.
Lâu Dận Phàm nghe cũng rất quen, nghĩ kỹ lại chẳng phải chính là kẻ bị ép nhảy lầu ở nhà hàng Khánh Phong? Mấy người Lưu Nhất Minh tận mắt chứng kiến Hứa Nhất Thành ở nhà hàng Khánh Phong ép Lâu Dận Phàm vào chỗ chết, lấy lòng người Nhật nên mới hoàn toàn thất vọng về ông.
Bấy giờ vụ việc đầu Phật ngọc đã bung bét, chẳng bao lâu sau thì ông nội tôi qua đời. Giờ xem ra trước lúc mất, ông còn hợp tác với người Nhật trục vớt sứ Sài ở con thuyền đắm, thậm chí còn vì việc này mà ép chết một người. Đừng nói ba người Lưu, Hoàng, Dược năm xưa không sao hiểu nổi, ngay cả tôi hiện giờ cũng không kìm được tự hỏi, rốt cuộc ông cụ muốn làm gì cơ chứ?
Theo lời Kido Kana, xem chừng việc lần ấy không thành. Bằng không hiện giờ cũng chẳng phải tổ chức trục vớt lần nữa.
Kido Kana khẳng định thêm suy đoán của tôi, “Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á cũng chỉ tìm được mỗi bản báo cáo đó thôi, về sau thế nào thì không rõ. Phía chính phủ cũng không có ghi chép gì về việc điều chiến hạm trục vớt. Chúng em đoán rằng rất có thể thời đó bản báo cáo này không được chú ý nên đã bị gác sang một bên, xếp xó đến giờ.”
“Báo cáo này ai viết vậy? Giáo sư Kido Yuzo ư?”
“Không, đây không phải chuyên ngành của ông em. Tác giả của nó là một học giả tên Izumida Kunio, chuyên nghiên cứu đồ gốm sứ, cũng là một nhà sưu tầm nổi tiếng. Có điều ít lâu sau khi gửi báo cáo này đi, ông ta đã mất tích một cách bí ẩn, đến nay vẫn không rõ tung tích. Nghe đồn rằng đề án của ông ta bị bề trên phớt lờ, nói báu vật ở Trung Hoa lùng còn không xuể, hơi đâu đi vớt đồ dưới biển. Izumida Kunio tức giận, bèn tự mình ra biển tìm kiếm, có điều đây chỉ là lời đồn thôi...”
Tôi xoa cằm, cảm thấy chuyện này thực khó mà phân định, “Vậy em muốn anh làm gì? Lẽ nào em chỉ muốn kể cho anh biết thế thôi ư?”
Kido Kana ngồi thẳng người dậy, giọng khẩn thiết, “Em trả lại đầu Phật ngọc là vì mong nó có thể trở về Trung Quốc. Anh cũng từng nói với em rằng muốn văn vật của đất nước ở lại trên đất nước mình còn gì. Vị trí thuyền Fukukou bị đắm chắc chắn nằm trong hải phận quốc tế, ai nhanh thì được thôi. Mong anh có thể nhắc nhở Minh Nhãn Mai Hoa cùng ban ngành chính phủ liên quan, để họ chú ý bắt tay chuẩn bị cho mau.”
Tôi nhìn vào mắt cô, chỉ thấy sáng long lanh, không mảy may vờ vịt.
Đột nhiên tôi hiểu ra lý do cô tìm đến mình. Ông Lưu Nhất Minh qua đời, nhà họ Dược chuyên về đồ gốm sứ sa sút không gượng dậy nổi, người duy nhất có thể tiếp xúc được, chỉ còn mình tôi. Tôi bèn đáp, “Làm phiền em quá. Không sao, chuyện về thuyền Fukukou anh nhất định sẽ thông báo ngay tới ban ngành liên quan, nhờ bọn họ chú trọng.”
Về thuyền Fukukou, tôi không lấy gì làm vội. Sứ Sài quả thực giá trị liên thành, ý nghĩa sâu xa, nhưng trục vớt ngoài khơi chẳng khác nào mò kim đáy bể, chỉ dựa theo mấy dòng ghi chép của người xưa không dễ gì thu được kết quả ngay. Giờ tôi phải tập trung tinh thần đối phó với Lão Triều Phụng, việc này cứ tạm đề đạt lên ban ngành liên quan đã. Tuy làm vậy có phần phụ ý tốt của Kido Kana, nhưng việc cũng phải chia ra nặng nhẹ nhanh chậm kia mà.
Kido Kana cũng nhận ra tôi chỉ trả lời cho qua chuyện, cô chớp hàng mi dài vẻ thất vọng, nhưng vẫn gập người tỏ ý cảm tạ. Đoạn cô lấy ra một tài hiệu, nói là bản sao Tam Quan văn thư và Báo cáo của Izumida.
Tôi đón lấy, tiện tay giở ra xem, chỉ thấy chi chít chữ Nhật, đành nhìn chữ Hán đoán ý mang máng. Lật mấy trang vẫn không hiểu đầu cua tai nheo gì, tôi bèn giở luôn xuống trang cuối, là hai tấm ảnh đính kèm Báo cáo của Izumida, bên cạnh còn chú thích một hàng chữ Nhật bằng bút máy.
Nhìn qua tấm ảnh, tôi không khỏi sững sờ, đầu ong lên lùng bùng. Người tôi chúi về phía trước, xô vào bàn, làm đổ cả tách cà phê, thứ dung dịch màu nâu vàng chảy loang quá nửa tấm khăn trải bàn. Kido Kana kêu lên một tiếng khe khẽ, ngực áo cũng bị vấy mấy giọt.
Nhưng tôi chẳng bụng dạ đâu để ý mấy chuyện đó, bối còn mải nhìn chằm chằm vào mấy tấm hình.
Ấy là hai tấm ảnh đen trắng, không có người, chỉ có một giá gỗ. Trên giá bày năm chiếc chóe sứ thanh hoa vẽ tích cổ, dàn thành hàng ngang. Bố cục hai tấm giống hệt nhau, chỉ khác góc chụp, hòng thể hiện đầy đủ hoa văn hai bên bộ chóe.
Ảnh chụp đã lâu nên hơi mờ, nhưng vì chụp cận cảnh nên vẫn thấy rõ phác họa tổng thể của chóe sứ thanh hoa. Tôi trông thấy “Ba lần ghé lều tranh”, “Thắp nhang vái trăng”, “Quỷ Cốc Tử xuống núi”, “Đóng quân trại Tế Liễu”, còn chiếc thứ năm tôi không nhận ra.
Trong bộ năm chóe này, tôi từng chính mắt thấy ba cái, giả mạo một cái. Khoảng thời gian này, tôi ngày đêm đều nghĩ đến chúng, cũng chính chúng đã làm cả tôi lẫn đám tay chân Lão Triều Phụng rối loạn.
Thực không ngờ chúng lại xuất hiện trước mặt tôi một lần nữa, dưới một tầng nghĩa khác.
Không, nói chính xác hơn là phơi bày ý nghĩa thực sự của chúng. Trước đó chúng tôi đấu đá kịch liệt quanh bộ chóe năm, nhưng thực ra chẳng ai hiểu gì, cũng chẳng biết vì sao phải tranh giành chúng. Đám Liễu Thành Thao, Âu Dương Mục Mục tranh cướp là vì Lão Triều Phụng muốn có, còn tôi giành giật là vì không muốn Lão Triều Phụng có được. Nhưng vì sao Lão Triều Phụng lại muốn có, thì ngoài lão ra chẳng một ai hay biết. Có lẽ Dược Bất Nhiên cũng biết, nhưng chắc chắn gã không đời nào nói.
Tôi cố gắng để tay không quá run, cầm chắc hai tấm ảnh rồi chăm chú quan sát chiếc chóe thứ năm.
Bốn chiếc trước, tôi đã thấy ba, chiếc thứ tư tuy chưa thấy nhưng cũng biết chủ đề là Tây sương ký. Chỉ riêng chiếc thứ năm là hoàn toàn không biết vẽ gì. Giờ bí ẩn ấy đang phơi bày ngay trước mắt tôi.
Chóe thứ năm vẽ cảnh đánh trận. Nhân vật ở vị trí trung tâm đang vung roi thúc ngựa, đầu chít khăn hai cánh vểnh lên. Phía sau là một viên đại tướng râu dài cầm roi sắt, sau nữa còn một vài binh lính chạy theo. Đằng xa có hai viên tướng võ đuổi nhau, người đằng trước tay cầm đinh ba quay lại đỡ, kẻ phía sau vung giáo dài đâm tới.
Trong số các võ tướng nổi danh của Trung Quốc, chỉ có mấy người cầm roi sắt, tôi vắt óc nhớ lại ký ức thuở nhỏ nghe bình thư, nhanh chóng nảy ra một cái tên - Uất Trì Cung! Cảnh này hẳn là Uất Trì Cung xông pha cứu chúa: Lý Thế Dân đánh Vương Thế Sung, bị Đơn Hùng Tín bao vây. Lý Thế Dân một mình chạy vào rừng, sắp bị bắt tới nơi thì Uất Trì Cung thúc ngựa chạy tới, chỉ ba chiêu đã đánh đuổi được Đơn Hùng Tín, cứu Lý Thế Dân về doanh trại.
Nên chiếc chóe thứ năm này hẳn là “Uất Trì Cung xông pha cứu chúa”.
Tôi thở hắt ra một hơi dài, cuối cùng đã biết chiếc chóe thứ năm trông thế nào rồi. Song sóng gió trong lòng không sao lắng xuống, trái lại càng lúc càng cuộn trào.
Trong lúc tôi chạy đôn chạy đáo vì bộ chóe thì phía Nhật Bản cũng bắt đầu khởi động kế hoạch trục vớt thuyền Fukukou. Dường như trong cõi u minh tự có ý trời xui khiến, để tôi biết tới sự tồn tại của bộ chóe năm trước khi họ bắt tay vào việc.
Chuyện này có thật là trùng hợp không?
Tôi cầm ảnh lên, hỏi Kido Kana chú thích bên cạnh nghĩa là gì. Kido Kana đáp, “Dịch thẳng ra là 'những vật quan trọng chỉ lối tới con thuyền đắm', nhưng câu này khá tối nghĩa, giới học thuật đến nay vẫn tranh luận liên miên, chẳng biết năm chiếc chóe này có liên quan gì tới vị trí đắm thuyền?”
Vừa hay tôi lại biết câu trả lời cho bí ẩn này. Trong năm chiếc chóe ẩn chứa năm câu mật ngữ, trước mắt tôi đã có được ba. Nếu Báo cáo của Izumida chính xác thì năm câu đó rất có thể ám chỉ vị trí địa lý nơi đắm thuyền!
Nhưng năm câu mật ngữ nọ rất khó hiểu, lộn xộn không rõ nghĩa, có lẽ là một loại mật mã hoặc ám hiệu nào đó.
Tôi sực nhớ bác Doãn có nói, những chiếc chóe này từng được róc ra rồi vá lại bằng Phi Kiều Đăng Tiên một lần. Lẽ nào lần ấy chính vào năm Dân Quốc thứ hai mươi ở nhà hàng Khánh Phong? Nhưng ông nội Hứa Nhất Thành của tôi đâu biết Phi Kiều Đăng Tiên, bấy giờ người duy nhất nắm được tuyệt kỹ này là Dược Thận Hành. Cũng chính vào năm 1931 ấy, ông Dược Thận Hành đã từ Thiệu Hưng vội vã trở lên miền Bắc rồi không quay lại nữa.
Một câu chuyện lờ mờ hiện lên trong đầu tôi: Ông nội tôi câu kết với Izumida Kunio, đoạt lấy bộ chóe năm của Lâu Dận Phàm ở nhà hàng Khánh Phong, rồi vời Dược Thận Hành lên miền Bắc róc ra, định dựa theo tọa độ trên đó mà ra biển tìm kiếm.
Song vẫn có rất nhiều điểm mâu thuẫn. Trước hết ông nội tôi không đời nào lại câu kết với người Nhật, nhất định ông còn có dụng ý khác; thứ hai, nếu đã ra biển thì cần gì mất công vá lại bộ chóe nữa? Huống hồ Dược Thận Hành đóng vai trò gì trong chuyện này? Cuối cùng là kết quả tìm kiếm ra sao? Phải biết rằng ông nội tôi đã bị xử bắn công khai...
Tôi lật tấm ảnh lại, trông thấy vỏn vẹn ba chữ: “Lão Triều Phụng”. Nét chữ giống hệt với chữ viết ở mặt trước. Còn có một mũi tên trỏ vào vùng biển Hoa Đông. Là thế nào đây? Sao Lão Triều Phụng lại xuất hiện trong Báo cáo của Izumida?
“Anh Nguyện?”
Tiếng gọi của Kido Kana kéo tôi rời khỏi mớ suy nghĩ rối rắm, quay về với thực tại. Tôi ngượng nghịu cười trừ, xin lỗi cô vì vừa rồi mải nghĩ ngợi đến thần người ra.
Kido Kana gọi phục vụ lại, nhờ thay khăn trải bàn và đổi tách khác rồi tò mò hỏi, “Anh nghĩ gì thế?”
Tôi không muốn giấu giếm cô, bèn thành thật thuật lại vắn tắt mọi chuyện về bộ chóe năm, cho cô xem hai trong ba câu mật ngữ, chỉ trừ câu lấy được trong chóe “Ba lần ghé lều tranh”. Không phải tôi nghi ngờ cô, chẳng qua trong tình hình này, phải hết sức thận trọng.
Kido Kana không ngờ đằng sau chuyện này còn ẩn giấu một bí mật sâu xa đến vậy nên luôn miệng trầm trồ. Có điều cô cũng nói không hiểu nổi mấy câu đó có nghĩa gì.
“Nói vậy thì may mà chuyến này em đến Trung Quốc báo tin cho anh, bằng không cả hai chúng ta đều mù mờ không hiểu gì cả.”
“Kido này, anh xin phép hỏi em một câu hơi thất lễ, em đừng giận nhé.” Tôi nghiêm trang nói, hai tay chống xuống bàn. Kido Kana thoáng ngạc nhiên, nhưng cô vẫn gật đầu, tỏ ý sẽ không để bụng.
“Trong chuyện này có rất nhiều trùng hợp, khiến anh hơi lo lắng. Từ năm Dân Quốc thứ hai mươi trở đi, những ghi chép về bộ chóe năm và thuyền Fukukou ở cả Trung Quốc và Nhật Bản đều bị chôn vùi, không ai nhắc tới. Giờ chủ đề này lại đồng thời được cả hai nước khơi ra. Phía Nhật Bản tìm được Tam Quan văn thư và Báo cáo của Izumida, phía Trung Quốc thì Lão Triều Phụng ra tay với chóe 'Ba lần ghé lều tranh', còn định bắt cóc bác Doãn thợ bạc. Những chuyện này xảy ra gần như đồng thời, không thể chỉ là trùng hợp được.”
“Ý anh là...”
Tôi từ từ thở ra, nêu lên suy đoán của mình, “Anh ngờ rằng hai bên vốn đã thông đồng với nhau nên mới hành động thống nhất như vậy.”
Chợt nhớ sau khi kết thúc vụ đầu Phật ngọc, Lão Triều Phụng gọi điện cho tôi, trong điện thoại lão ta có nói một câu rất kỳ lạ, hỏi tôi còn nhớ Ngư Triều Phụng không. Bấy giờ tôi cứ ngỡ lão ta muốn ám chỉ mình là con cháu Ngư Triều Phụng, muốn tìm con cháu nhà họ Hứa báo thù, giờ xem ra không phải, có lẽ lão ta muốn ám chỉ con thuyền Fukukou đời Minh.
Còn cái tên Lão Triều Phụng mà lão tự xưng, e rằng cũng là một biệt hiệu ngụ ý sâu xa, rằng lão đã nắm được vị trí thuyền Fukukou từng chở Ngư Triều Phụng bị đắm. Ít ra thì dựa trên Báo cáo của Izumida là vậy.
Nhưng vẫn có một điểm mâu thuẫn. Nếu Lão Triều Phụng đã biết vị trí thuyền đắm thì cần gì phải mất công tìm bộ chóe năm?
Nghe tôi nêu ra suy đoán của mình, Kido Kana bàng hoàng bưng miệng đầy kinh hãi. Cô đỏ bừng mặt, rối rít giải thích rằng mình không biết gì cả. Tôi vội phân trần rằng mình không hề nghi ngờ cô. Thực ra nếu không nhờ lần này cô tới Trung Quốc viếng ông Lưu Nhất Minh, e rằng tôi vẫn bị bưng mắt bịt tai, ù ù cạc cạc.
Kido Kana buồn rầu cúi gằm mặt, “Em không ngờ chuyện lại thành ra thế này, em cứ ngỡ đây là một cuộc nghiên cứu và thảo luận học thuật thôi. Vô cùng xin lỗi anh.” Tôi xua tay ý bảo chuyện này không thể trách cô. Cô là một cô gái Nhật đơn thuần, làm sao biết được giới cổ vật lường gạt hãm hại nhau như cơm bữa. Những âm mưu và thủ đoạn nham hiểm ấy thực sự ngoài sức tưởng tượng của cô.
Biết được chuyện này, tôi đâm ra căng thẳng. Nếu chỉ riêng phía Nhật Bản định trục vớt thì khả năng thành công không cao, nhưng Lão Triều Phụng cũng nhúng vào thì khác. Rốt cuộc lão đã nắm được bao nhiêu bí mật về bộ chóe năm, tôi hoàn toàn không rõ. Kết hợp kỹ thuật trục vớt của Nhật Bản và những thông tin Lão Triều Phụng nắm trong tay mà tôi chưa hay biết, bọn họ hoàn toàn có thể trục vớt được thuyền Fukukou.
Tới lúc đó mười món sứ Sài quốc bảo sẽ lưu lạc ra nước ngoài mất.
Tôi không thể chấp nhận kết cục này.
Thời gian bỗng dưng gấp rút hẳn lên.
Thấy tôi đưa mắt nhìn mấy tấm ảnh, Kido Kana hiểu ra ngay, gượng cười nói, “Nếu phá giải được ý nghĩa mấy câu mật ngữ kia, có lẽ sẽ tìm ra cách, nhưng chứng khó hiểu quá, e rằng phải tới vài thư viện lớn tra cứu tài liệu mới được.”
Nghe cô nói, trong đầu tôi chợt nảy ra một ý. Tôi mừng ra mặt, vội đứng phắt dậy, “Ồ? Đúng nhỉ! Em nói phải lắm! Nếu không có việc gì khác thì em đi với anh một chuyến nhé.”
“Đi đâu hả anh?”
“Như em nói đấy, tới chỗ Thư Viện.”
Thư Viện không phải thư viện thật, mà là một người. Gã này chuyên buôn sách cũ ở phía Nam Bắc Kinh, mệnh danh không gì không có, muốn gì gã cũng tìm ra được, chỉ cần ra giá hợp lý. Lúc trước giữa cơn phong ba Thanh minh thượng hà đồ, cũng nhờ gã giúp đỡ, tôi mới có thể thuận lợi giải quyết, dẹp yên sự vụ.
Kể ra thì Thư Viện còn là do giáo sư Trịnh giới thiệu cho tôi.
Tôi dẫn Kido Kana thẳng tới phía Nam thành phố, ghé một ngôi làng ven đô gần Phong Đài. Nơi đây lúc nhúc toàn những căn nhà cấp bốn lè tè, bị mười mấy con hẻm nhỏ ngoằn ngoèo cắt ra thành mấy chục khu phố đan xen phức tạp. Trên đường đầy vũng nước đọng và rác rưởi, mỗi khi gió thổi, bụi bặm bẩn thỉu lại bay mù mịt.
Kido Kana khẽ chau mày, giơ khăn tay lên bịt mũi, theo sát phía sau tôi. Chúng tôi xăm xăm đi thẳng vào ngõ, băng qua nhà xí công cộng hôi rình, qua bãi rác ruồi lượn vo ve và tiệm uốn tóc hỗn tạp, rẽ ngoặt mấy lần rồi cũng tới được cuối một con ngõ trước khi cô ngất xỉu.
Nơi này vẫn chẳng có gì thay đổi, hai cánh cổng sắt gỉ ngoèn đóng im ỉm, trên cửa là số nhà viết nguệch ngoạc bằng phấn, giữa sân sừng sững một cây dương.
Tôi đập cửa rầm rầm, nghe bên trong vẳng ra tiếng cắm cảu, “Đừng gõ nữa, nhà không có ai đâu!” Tôi hét lên, “Hứa Nguyện đây!” Bên trong lặng thinh giây lát rồi vang lên tiếng chân lệt xệt, cánh cửa hé mở, một bài hình không gian ló ra.
Diện mạo Thư Viện đặc biệt chuẩn chỉnh, mặt tròn, mắt tam giác, mũi hình thang, miệng như hai đường lượn sóng.
Trông thấy tôi, y cau có hỏi ngay, “Ông làm gì giáo sư Trịnh rồi?” Tôi không ngờ y lại hỏi độp một câu như vậy, nhất thời chẳng biết trả lời sao. Thư Viện nói thêm, “Ông ta còn đang nợ tôi mấy trăm tệ tiền sách, giờ lại chơi trò mất tích. Tôi biết ngay có liên quan đến ông mà.”
Tôi gượng cười, biết giải thích thế nào đây. Thấy tôi cười gượng, Thư Viện tức tối xua tay, “Đừng kể khổ với tôi, hôm nay ông không trả nợ cho ông ta thì đừng hòng tìm sách.”
Đoạn Thư Viện chống tay vào mép cửa, làm bộ đóng sập bất cứ lúc nào. Gã này ngoài tiền ra thì đến thân thích cũng chẳng nhận. Tôi đành móc ví trả hộ tiền sách cho giáo sư Trịnh. Đúng là chẳng đâu vào đâu, ông ta đã phản bội chạy về phe Lão Triều Phụng, tôi còn phải trả nợ thay.
Thư Viện cầm xấp tiền, nhổ nước bọt vào ngón cái đếm soàn soạt. Kido Kana lẩn ra sau lưng tôi, sợ dính bẩn. Đếm xong y hài lòng cuộn tiền lại nhét vào túi rồi mở rộng cửa mời chúng tôi vào.
Tôi ngờ rằng khoảnh sân này của y bao năm nay vẫn vậy. Lúc nào cũng thấy sách vở chất đống cao ngất nghểu, trong ba tầng, ngoài ba tầng, trên bồn hoa, trong xe ba gác, bên bậu cửa sổ, rặt những sách là sách, chẳng biết nếu mưa ập xuống y làm sao dọn kịp vào nhà nữa. Tôi từng đến đây mấy lần, cũng đã quen với cảnh tượng này. Kido Kana không ngờ trong khoảnh sân nhỏ lại có cả khung trời mới mẻ với ngần ấy sách vở, cô sáng mắt lên, định cúi xuống lật xem.
Thư Viện lườm cô, “Xem cũng phải trả tiền đấy nhé.” Kido Kana giật mình rụt tay lại. Tôi vỗ vai cô, ý bảo đừng chấp y. Thư Viện xách một chồng sách buộc dây gai, ném xuống trước mặt tôi, “Sách của giáo sư Trịnh đây.”
Tôi giật bắn mình, “Ông đưa tôi làm gì, tôi cũng đâu biết ông ta biến đi đằng nào.” Thư Viện trợn mắt, “Đằng nào ông cũng trả tiền rồi nên cầm sách đi. Còn ông làm sao giao cho ông ta, tôi không cần biết. Cứ để mãi ở chỗ tôi, phải thu phí kho bãi nữa.”
“Được rồi, được rồi.” Tôi bất đắc dĩ cầm lấy chồng sách, dúi cho Kido Kana giữ. Thư Viện giao nhận xong xuôi mới nhìn tôi, “Lần này ông định cho tôi kiếm tiền gì đây?”
“Tôi muốn tìm một câu.”
Thư Viện nhíu mày, “Trước kia ông tìm mấy quyển sách, giờ tiến hóa hơn, đòi tìm câu à? Tôi làm sao tìm cho ông được, lật từng quyển ra tìm chắc?” Tôi sợ y hét giá trên trời, vội phân bua rằng muốn dựa vào một câu để tìm cuốn sách liên quan. Không nhất định phải y nguyên câu đó, chỉ cần cảm giác tương tự là được.
Nghe tôi đưa ra yêu cầu, Thư Viện chẳng hiểu gì cả, đòi xem là câu gì trước. Tôi đọc cho y một câu: “Cơ long ra biển dùng giáp mão kim sáu canh”. Thư Viện nghe mười chữ này, nghiến răng ken két. Xem ra câu này đã thực sự làm khó được y, đúng là hiếm thấy.
Thư Viện rầu rĩ nghĩ ngợi hồi lâu rồi ngẩng lên hỏi, “Ý ông là không nhất thiết phải giống hệt, chỉ cần cảm giác giông giống là được, đúng không?” Tôi gật đầu. Thư Viện nói cái này khó tìm ra phết, phải trả thêm tiền mới được. Tôi đáp chẳng phải vừa đưa tiền cho ông rồi ư, Thư Viện cãi ngay đó là tiền sách của giáo sư Trịnh, không liên quan tới chuyện này. Gặp phải hạng chỉ biết đến tiền như Thư Viện, tôi đành gượng cười đáp được.
Thư Viện dù sao cũng là kẻ nói lời giữ lời, thỏa thuận xong xuôi liền nói “Chờ một lát”, rồi quay vào nhà. Trong nhà bắt đầu vang lên tiếng lục lọi tìm kiếm có vẻ khá mất sức.
Kido Kana tò mò nhìn quanh, “Đây toàn sách anh ấy sưu tầm à? Sao không bảo quản cho cẩn thận?” Tôi lắc đầu, “Hắn không sưu tầm, mà là con buôn sách cũ, thu mua sách cũ ở khắp nơi về bán. Sách vở đối với hắn chỉ là món hàng thôi.”
“Không ngờ còn có những người như vậy.” Kido Kana xuất thân dòng dõi học thuật, hết sức trân trọng sách vở, không sao tưởng tượng được người ta lại có thể làm như vậy. Tôi cảm thán, “Thực ra không cứ gì sách vở mà cổ vật cũng thế thôi. Có người si mê cùng cực, phát điên phát cuồng, song cũng có người chỉ coi là món hàng, đánh giá chúng qua giá cả. Người si mê là nhà sưu tầm, còn người xem như hàng hóa thì là con buôn cổ vật. Mỉa mai ở chỗ, con buôn phải dựa vào nhà sưu tầm mới làm ăn được, còn nhà sưu tầm cũng phải dựa vào con buôn mới quay vòng được vật báu.”
Nói rồi tôi kể cho cô nghe về biến cố gia đình giáo sư Trịnh. Trịnh An Quốc là một kẻ say mê cổ vật điển hình, vì một món đồ cổ mà đánh đổi tính mạng cả nhà. So ra thì ông Dược Lai lại giống một con buôn hơn. Nghe xong, Kido Kana muôn phần cảm khái, nói rằng ở Nhật cũng có câu chuyện tương tự: Thời Edo có một họa sĩ, để vẽ được cảnh địa ngục chân thực sống động, đã thiêu sống cả đứa con gái mình yêu thương nhất.
Họa sĩ nọ cùng một dạng với Trịnh An Quốc, vì niềm si và thẩm mỹ cá nhân mà bất chấp tình cảm gia đình. Tình yêu cực đoan đến tột độ này rốt cuộc là tốt hay xấu, không thể phân định theo lẽ thường được. Cổ vật cũng vậy, hội họa cũng vậy, đều là một tấm gương thành thật, phản chiếu lòng tham lam và cuồng vọng chân thực nhất trong thâm tâm mỗi con người.
Con người giám định cổ vật, cổ vật cũng giám định con người.
“Vậy giáo sư Trịnh cũng giống như cha mình ư?” Kido Kana hỏi.
Nếu là trước kia, tôi sẽ đáp ngay rằng không phải. Nhưng từ khi thấy trạng thái tinh thần của ông ta ở miếu Đường vương thì tôi không dám chắc. Chưa chừng gen si mê một thứ gì đó đến điên dại của nhà họ Trịnh vẫn luôn tiềm tàng trong máu ông ta, gặp phải tình huống đặc biệt sẽ bộc phát. Ít nhất là lúc ở miếu Đường vương, lời nói cử chỉ của giáo sư Trịnh chẳng khác gì đám cuồng tín, đến Dược Bất Nhiên cũng không chấp nhận nổi.
Thế nên tôi đành gượng cười bảo không biết. Kido Kana cúi đầu, nhìn chồng sách của giáo sư Trịnh trong tay, “Chẳng hiểu người như ông ấy thường thích đọc sách gì nhỉ.”
Đằng nào Thư Viện cũng đang bận lục lọi, bọn tôi đứng đây chẳng có việc gì. Tôi và Kido Kana bèn xúm lại xem trước khi phát điên giáo sư Trịnh đã tìm những cuốn sách gì.
Cả chồng gồm khoảng mười mấy cuốn sách, dày có mỏng có, phần lớn là bản sao thư tịch cổ. Có Võ bị chí của Mao Nguyên Nghi, Ất Tị chiêm của Lý Thuần Phong, Bộ thiên ca của Vương Hi Minh, Linh đài nghi tượng chí của Nam Hoài Nhân, thậm chí còn cả một cuốn Chư thiên giảng của Khang Hữu Vi, có vẻ khá nhiều sách liên quan tới thiên văn.
Tôi thực không ngờ giáo sư Trịnh lại say mê với thiên văn học đến vậy, phải hai phần ba số sách đều là lịch pháp thiên văn thời cổ đại. Kido Kana chợt trỏ một quyển trong số đó nói, “Cuốn này có vẻ không ăn nhập với các cuốn khác cho lắm.”
Tôi ghé lại nhìn, thấy ngón tay cô lướt qua gáy cuốn Võ bị chí của Mao Nguyên Nghi. Mao Nguyên Nghi là một học giả cuối thời Minh, say mê quân sự, luôn canh cánh chuyện nhà Minh dần dà bỏ bê võ bị, nên đã tập hợp tất cả tài liệu quân sự qua các thời kỳ lại thành một cuốn sách, đặt tên là Võ bị chí, những mong được triều đình dùng đến, chấn chỉnh quân đội.
Dĩ nhiên tôi chỉ biết tên sách chứ chưa hề đọc nên không rõ cuốn sách này không ăn nhập ở chỗ nào.
Kido Kana nhìn cái tên trên gáy sách, thoáng vẻ nghi hoặc, “Võ bị chí cũng rất nổi tiếng ở Nhật. Dưới thời Kanbun, nó đã được Suharaya Mohee dịch ra tiếng Nhật, lưu truyền rộng rãi. Em từng đọc một bài khảo cứu liên quan nên có ấn tượng. Theo em nhớ thì Võ bị chí rất dày, tổng cộng hơn hai trăm quyển, hơn hai triệu chữ Hán đi kèm hơn bảy trăm hình vẽ, sao lại mỏng thế này được?”
Nghe cô nhắc nhở, tôi sực hiểu ra. Võ bị chí là cuốn sách tổng hợp tư liệu, bên trong tổng hợp rất nhiều tài liệu quân sự thời cổ đại, từ phép dùng binh, những trận đánh điển hình đến việc hành quân đóng trại, trang bị vũ khí, địa lý hình thế, tình hình thiên văn, chẳng gì không có, có thể coi là bách khoa thư quân sự.
Song cuốn sách trước mặt lại quá mỏng.
“Có lẽ chỉ là một phần nội dung thôi.” Tôi thờ ơ đáp, rồi lại nhìn vào trong nhà. Thư Viện vẫn đang lục tìm, xem ra trong chốc lát không thể có được kết quả.
Song Kido Kana hết sức để tâm, cô ngồi thụp xuống, hai tay đặt lên nút buộc dây cột chồng sách, hỏi tôi tháo ra được không. Tôi nói bừa, “Cứ tháo đi, giáo sư Trịnh không so đo đâu.” Kido Kana bèn thận trọng tháo dây buộc, nhấc những cuốn sách phía trên ra để lấy cuốn Võ bị chí.
Mới xem bìa, cô đã ồ lên. Cuốn sách này do nhà xuất bản Thương nghiệp in năm 1956, ngoài bìa chỉ có tên sách và tác giả, bên dưới còn một hàng chữ nhỏ: Tập Chiêm đo. Cô giở lời tựa ra, đọc to cho tôi nghe. Hóa ra chiêm là chiêm tinh, đo là đo lường. Trong Võ bị chí có riêng một tập về chiêm tinh đo lường, viết về thiên văn và hình thế núi sông.
Vậy là đúng rồi. Đống sách này của giáo sư Trịnh đều có liên quan tới thiên văn học, nên tập về chiêm tinh trong Võ bị chí cũng được rút riêng ra, xếp vào đây.
“Người xưa cho rằng thiên văn liên quan mật thiết với hàng hải. Giáo sư Trịnh sưu tầm những tư liệu này, có lẽ cũng vì tìm kiếm thuyền Fukukou đấy.” Kido Kana nói đoạn cầm sách lên chăm chú đọc. Tôi nghĩ bụng đằng nào cũng đang phải đợi, chẳng có việc gì làm, nên tiện tay nhặt cuốn Chư thiên giảng của Khang Hữu Vi lên đọc cùng cô.
Hai chúng tôi chúi đầu đọc sách, trong khi Thư Viện lục lọi trong nhà. Nhất thời cả khoảnh sân im phăng phắc, chỉ nghe tiếng giở sách soàn soạt. Tôi ngồi trên bồn cây, lưng dựa gốc cổ thụ, mắt bất giác nheo lại, cảm giác như đang ngồi trên thảm cỏ trước thư viện trường trung học. Gió nhẹ hiu hiu, lá cây xào xạc, trang sách thơm thơm mùi mực in.
“Ồ? Anh lại đây xem này.” Kido Kana chợt lên tiếng gọi, cắt ngang dòng tưởng tượng viển vông của tôi. Tôi vội gập sách, ghé lại xem. Kido Kana có vẻ kích động, giọng nói run run, tay trỏ vào một trang trong cuốn Võ bị chí.
Đó là một hình vẽ. Chính giữa là một con thuyền thời Minh, bên trên vẽ thất tinh Bắc Đẩu. Xung quanh viết chi chít chữ. Bên phải thuyền viết “Đông Bắc sao Chức Nữ mười một lóng mặt nước”, phía dưới là “Nam môn nhị mười lăm lóng mặt nước” và “Sao Đăng Lung Cốt mười bốn lóng mặt nước”, bên trái viết “Tây Bắc sao Bố Ti bốn lóng mặt nước”, phía trên là “Sao Bắc Thần tám lóng mặt nước”. Rìa bên phải còn một hàng chữ ghi “Bản đồ khiên tinh qua biển từ Sri Lanka tới Sumatra”.
Tiêu đề này dường như nói đến tuyến đường từ Sri Lanka đến Sumatra, nhưng trên hình lại không hề có tuyến đường. Điều khiến tôi chú ý là mấy dòng chữ viết bên lề. Tuy chúng không giống ba câu mật ngữ mà tôi biết, nhưng thể thức và phong cách hành văn gần như tương đồng, nhất là đoạn cuối, đều là “xx lóng mặt nước”.
“Em đọc phần nào đấy?” Tôi hồi hộp thở gấp.
Kido Kana lật lại mấy trang trước rồi nói đây là một loạt các bản đồ, gọi chung là Bản đồ xưởng đóng thuyền Tự Bảo dong thuyền từ cửa Long Giang tới các nước phiên bang, nghe nói là tư liệu hàng hải quý giá Trịnh Hòa lưu lại từ đợt sang Tây dương. Tôi lật xem một lượt, thấy phải có đến mấy hình vẽ tương tự, phong cách từ ngữ y hệt nhau.
Cuối cùng cũng tóm được nguồn gốc của mấy câu mật ngữ kia rồi! Gì mà “mặt nước”, “bao nhiêu lóng” v.v... có lẽ đều là thuật ngữ hàng hải. Nhưng vẫn còn một vấn đề căn bản chưa tháo gỡ được, nếu mấy câu đó đều để chỉ phương vị, rốt cuộc phải giải nghĩa thế nào?
“Có thứ gì kiểu như hình vẽ tuyến đường không?” Tôi gặng hỏi.
Kido Kana lật thêm mấy trang, thấy có một trang gấp, mở ra thì là một tấm bản đồ dài, xem địa thế và địa danh có lẽ là bản đồ đường biển từ Nam Kinh đến Đông Nam Á, bên trên đánh dấu chi chít, ghi chú mười mấy tuyến đường biển và cả trăm địa danh, tuyến đường an toàn, vực nước xoáy, hải lưu, bãi đá ngầm và phương vị thiên văn đều được chú thích rõ ràng tường tận, thực không dám tin kỹ thuật hàng hải của người xưa đã phát triển tới mức này.
Chữ viết trên bản đồ ken dày chi chít, tôi lại không có kiến thức cơ bản về hàng hải, xem một lúc đã chóng mặt hoa mắt, vội nhắm nghiền mắt lại, từ bỏ ý định tìm kiếm manh mối.
Chuyện này phải nhờ người có chuyên môn mới được.
Một lúc lâu sau, Thư Viện mới trở ra, đầu đầy bụi bặm, thở hồng hộc, “Chưa tìm thấy tài liệu các vị cần, hôm nay không xong được đâu, hai người về đi, để mai tôi từ từ tìm.”
“Thôi khỏi, bọn tôi tìm được rồi.” Tôi ngẩng lên, chìa cuốn Võ bị chí cho y. Thư Viện sững ra, đón lấy quyển sách lật soàn soạt mấy trang rồi vỗ đùi đánh đét, “Đúng rồi, tôi quên béng mất, sao lại không nhớ ra là trong quyển này nhỉ?”
Nói đoạn mắt Thư Viện lóe lên sắc lạnh, y nghiêm nghị bảo, “Dù bọn ông tự tìm được cũng phải trả nửa tiền, tôi không mất công cũng mất sức rồi.”
Tôi phì cười, trong số những người tôi quen cũng chỉ có Thư Viện mới mặt dày mày dạn nói ra được những lời này. Bèn đáp, “Được rồi, tôi trả cho ông một nửa thù lao, có điều ông phải tra giúp chúng tôi những tư liệu này từ đâu ra.”
Thư Viện không trả lời, chỉ vê ngón cái và ngón trỏ tay phải vào nhau. Tôi trông mặt đoán ý, vội xòe tiền ra. Cầm tiền rồi, y mới toét miệng, vỗ vào bìa Võ bị chí nói, “Các vị biết chuyện Trịnh Hòa bảy lần dong thuyền sang Tây dương rồi chứ? Sự nghiệp hàng hải ấy vĩ đại làm sao! Về sau đến thời Thành Hóa, hoàng đế lại muốn sang dong thuyền sang Tây dương lần nữa, Trịnh Hòa chẳng phải thái giám ư, nên chuyện này lại giao cho đám thái giám lo liệu. Mà thái giám thời Minh thì được mấy tên tử tế, có một viên quan tên Lưu Đại Hạ sợ phe hoạn quan nhờ thế mà lớn mạnh, gây ra họa lớn về sau nên đã đốt sạch tài liệu hồ sơ mà Trịnh Hòa gom góp được. Những tư liệu tai nghe mắt thấy về cuộc vượt bể đã mất, chỉ còn lại vỏn vẹn mấy mảnh bản đồ trong Võ bị chí. Từ đó trở đi, Trung Quốc chẳng còn ghi chép về hàng hải nào vĩ đại như vậy nữa, kỹ thuật hàng hải cũng thất truyền.”
“Ông xem thử hình này là thế nào?” Tôi giở đến trang có “Bản đồ khiên tinh qua biển từ Sri Lanka tới Sumatra”.
Thư Viện ngẫm nghĩ một lúc rồi lộ vẻ khiêm tốn hiếm thấy, “Chuyện này tôi không rõ lắm, chỉ giải thích được đại khái thôi. Ví như giờ ông muốn đến Thiên An Môn xem kéo cờ, nhưng không biết đường nên tới hỏi tôi. Tôi bảo ông rằng khi nào trông thấy lầu cổng thành, đối diện là bia tưởng niệm, hai bên là Bảo tàng Lịch sử Trung Quốc, Bảo tàng Cách mạng Trung Quốc và Đại lễ đường Nhân dân là tới. Lầu cổng thành, bia tưởng niệm, Bảo tàng Lịch sử Trung Quốc, Bảo tàng Cách mạng Trung Quốc và Đại lễ đường là bốn mốc định vị, chỉ cần thấy bốn cái này, nhất định ông đã đến quảng trường Thiên An Môn.”
Y vẫn thao thao nói đến văng cả bọt mép, “Bản đồ này ấy à, không phải bản đồ tuyến đường biển, mà là bản đồ mốc định vị. Ông có thấy năm câu viết bên lề ấy không? Đó là năm mốc định vị tượng trưng cho năm cụm sao. Người xưa đi biển không thể định vị bằng vệ tinh như ngày nay, cũng không có khái niệm kinh vĩ độ. Biển cả mênh mông, không có núi non cây cối để định vị, chỉ có thể dựa vào sao trời mà thôi. Người xưa đã tính góc tạo thành bởi năm cụm sao này trên hải phận giữa Srilanka và Sumatra, để sau này khi đi trên tuyến đường biển đó, bất cứ lúc nào chỉ cần đo góc giữa năm cụm sao và đối chiếu với ghi chép là có thể phán đoán mình đã lệch ra khỏi mốc định vị bao xa. Thế nên bản 'Bản đồ khiên tinh qua biển' này không phải bản đồ tuyến đường biển, mà là bản đồ mốc định vị trên biển.”
“Vậy những chỗ bao nhiêu lóng, rồi mặt nước gì đó nghĩa là sao?”
Thư Viện đáp, “Đây là một kỹ thuật chỉ đường trên biển của Trung Quốc cổ đại, gọi là thuật Khiên tinh,” đoạn ngưng bặt. Tôi đợi mãi, sốt cả ruột, bèn giục y nói tiếp, song y chỉ xòe tay, “Nói xong rồi.”
“Ông chưa giải thích mà.”
“Tôi có biết gì nữa đâu.” Thư Viện thản nhiên đáp.
Tôi suýt thì hộc máu, “Không biết? Không biết sao ông nói hùng hồn thế?” Thư Viện cũng nổi khùng, “Ông tưởng tôi là bách khoa toàn thư đấy à, tôi chỉ là con mọt sách thôi biết chưa, thu lượm được chừng ấy kiến thức đông tây kim cổ là giỏi lắm rồi. Cái môn này chẳng mấy ai quan tâm, lý luận lại khó hiểu, không phải người chuyên nghiên cứu thì chẳng biết được đâu.”
“Vậy ông có biết ai rành không?”
“Không biết!” Thư Viện tức tối đuổi thẳng cổ chúng tôi rồi sập cửa đánh rầm.
Tôi và Kido Kana nhìn nhau cười nhăn nhó, đành cất bước ra về.
Có điều chuyến này đi cũng không uổng, thu được một tin tốt và một tin xấu. Tin tốt là cuối cùng tôi đã làm rõ mối liên quan giữa bộ chóe năm và thuyền Fukukou, năm câu mật ngữ kia hóa ra là mốc định vị trong thuật Khiên tinh, từ đó cũng có hướng điều tra; tin xấu là giáo sư Trịnh tới mượn mấy cuốn sách này, chứng tỏ Lão Triều Phụng đã biết bộ chóe năm ẩn giấu chỉ dẫn về vị trí con thuyền đắm. Lão đã nắm được thông tin trước tôi.
“Làm sao bây giờ đây?” Kido Kana hỏi.
“Anh đang nghĩ tới một người có thể giúp được.” Trong đầu tôi hiện lên một nhân vật.
Rời khỏi khu vực phức tạp kia, tôi tìm ngay một trạm điện thoại công cộng có thể gọi điện thoại đường dài, quay số ký túc xá nghiên cứu sinh đại học Phục Đán Thượng Hải, yêu cầu gặp Đới Hải Yến. Cô sinh hoạt rất quy củ, thông thường giờ này đang đọc sách trong phòng ký túc.
Đới Hải Yến là một trong những phụ nữ tôi nể phục nhất, cô có con mắt phân tích sắc sảo và tư duy logic chặt chẽ, không bao giờ bị cảm xúc tác động. Chuyện gì cô cũng có thể mổ xẻ phân tích, lý giải rõ ràng. Đầu óc của cô nàng dân tự nhiên ấy thừa sức đè bẹp phần lớn đám dân xã hội.
Tôi quen cô qua vụ việc Thanh minh thượng hà đồ. Nhờ cô giúp đỡ trong việc khảo chứng, tôi mói có thể lật ngược tình thế vào phút cuối. Vậy mà sau khi vụ việc khép lại, tôi còn quên cả gọi điện cảm ơn cô.
Với một bộ môn khoa học huyền bí như thuật Khiên tinh này, tôi chẳng thể nghĩ ra ai thích hợp để xin trợ giúp hơn cô.
Chẳng mấy chốc đầu kia đã vang lên giọng lanh lảnh lạnh lùng của Đới Hải Yến: “A lô.”
“Hải Yến à, tôi Hứa Nguyện đây, vụ Thanh minh thượng hà đồ tôi mãi vẫn chưa có dịp...”
“Vào chuyện chính đi.” Cô thẳng thừng cắt ngang đoạn hàn huyên của tôi.
Tôi bèn kể qua cho cô về thuyền Fukukou và bộ chóe năm, lược bỏ khá nhiều tình tiết. Không phải tôi cố ý lừa cô, mà tôi biết cô chẳng thích thú gì mấy chuyện ân oán giang hồ, nhân tình thế thái nên chỉ cần nói tới phương diện kỹ thuật là đủ.”
“Ý anh là muốn nhờ tôi tra cứu nguyên lý của thuật Khiên tinh, quy đổi thành kinh vĩ độ hiện đại để xác định vị trí con thuyền đắm kia chứ gì?”
Thấy cô rút ra kết luận rõ ràng rành mạch, tôi vỗ tay bồm bộp, chính xác.
“Giúp anh thì tôi được lợi gì?”
Tôi cứng họng, trong thoáng chốc còn tưởng mình gọi nhầm cho Thư Viện. Đới Hải Yến cao ngạo nhường ấy, sao giờ cũng bàn đến chuyện tiền nong cơ chứ.
“Hải Yến, cô muốn... tiền à?”
“Hứa Nguyện, nếu muốn bỏ tiền mua chất xám của tôi thì anh không trả nổi đâu.” Đới Hải Yến lạnh lùng đáp, “Tôi chỉ có một yêu cầu, nếu các anh ra biển thì phải cho tôi theo.”
Tôi không ngờ cô lại đưa ra yêu cầu này, “Sao tự dưng cô muốn ra biển vậy, ở trường rảnh quá à?”
“Không liên quan đến anh.”
Tôi lấy làm lạ, nhưng thời gian cấp bách, đành thuận miệng nhận lời cho xong. Đới Hải Yến nói cần thời gian tra cứu, bảo tôi hai mươi ba tiếng sau hẵng gọi lại. Tôi hỏi cô sao không để hẳn hai mươi tư tiếng, cô đáp, “Khỏi cần, hai mươi ba tiếng là đủ rồi.”
Gác điện thoại xong, tôi yên tâm hẳn. Ném vấn đề kỹ thuật nan giải này cho dân chuyên ngành rồi, tôi có thể tập trung làm việc khác.
Kido Kana vẫn kiên nhẫn đứng đợi. Hôm nay nhờ cô nhạy bén mới lần ra được manh mối quan trọng trong Võ bị chí. Nếu không có cô từ Nhật Bản tới thông báo những tin tức đắt giá kia, tôi vẫn còn bị bưng mắt bịt tai, nên có cảm ơn cô thế nào cũng không đủ. Tôi bèn mời cô tới tiệm mình ngồi chơi chốc lát, cô vui vẻ nhận lời ngay.
Tứ Hối Trai lâu lắm rồi không mở cửa, tôi cũng phải về xem thế nào. Vừa đến đầu ngõ đã thấy thím Vương hàng xóm đi tới, trông thấy tôi liền vẫy tay gọi lại. Tôi chưa kịp chào, thím đã nhìn qua vai tôi, trông thấy Kido Kana đằng sau, tức thì ánh mắt thay đổi hẳn, kéo tay tôi ra một góc hỏi nhỏ, “Kia là ai thế?” Tôi đáp là một người bạn từ Nhật sang, ghé nhà ngồi chơi.
Nghe nói là người Nhật, thím Vương ồ một tiếng rồi nói “Cháu phải để ý đừng làm quan hệ hai nước căng thẳng đấy nhé.” Tôi ngớ người, chuyện này liên quan gì tới quan hệ hai nước. Song thím Vương cứ úp mở không chịu nói rõ, quay người đi thẳng.
Tôi cùng Kido Kana rẽ ở khúc quanh, chợt trông thấy một bóng người dong dỏng cao đang đứng trước cửa Tứ Hối Trai.
“Yên Yên à?” Tôi ngạc nhiên.
Nghe tôi gọi, người kia quay lại, quả nhiên là Hoàng Yên Yên. Có điều cô trông võ vàng hơn t