CHƯƠNG 10 TUNG TÍCH CHIẾC CHÓE CUỐI CÙNG
Tôi lại bên cửa sổ, nhìn qua tấm kính vẩn bụi bẩn. Cách vách là phòng thẩm vấn, Dược Bất Thị ngồi sau bàn, mặc áo số, nhắm mắt bất động.
Thẩm Vân Sâm bước đến cạnh tôi, vẻ mặt nghiêm nghị, tay lặng lẽ lần một chuỗi tràng hạt gỗ lim.
“Cậu nói chuyện với ông Vũ rồi à?”
“Vâng, vừa nói chuyện hôm qua, ông ấy sẽ chỉ huy Minh Nhãn Mai Hoa phản công.”
Thẩm Vân Sâm thở phào, “Chuyện này đúng là phải có ông ấy đứng ra mới được, bằng không chưa chắc tôi đã chèo chống nổi. Đám người đó ai ai cũng có quan hệ lợi ích sâu sắc với thế lực của Lão Triều Phụng, chẹt đường kiếm tiền cũng như giết cha giết mẹ của người ta ấy.”
“Câu kết với phần tử phạm tội làm việc phi pháp mà còn lý lẽ gớm, không chỉnh đốn lại e rằng Minh Nhãn Mai Hoa sẽ thành ổ tội phạm mất.” Tôi sầm mặt.
Thẩm Vân Sâm đâu phải không biết lợi hại bên trong, chỉ là bắt tay vào làm không dễ chút nào. Minh Nhãn Mai Hoa vốn do Lưu Nhất Minh nắm giữ, bà ta thường bị ba nhân vật cốt cán kia đẩy ra rìa. Giờ đột nhiên không còn ai lấn át nữa, dù bà ta kinh nghiệm dày dạn, thì uy quyền cũng khó mà trấn áp được cả Hội.
“Những chuyện bên ngoài giao cả cho ông Vũ vậy, tôi sẽ tập trung thanh lọc Thanh môn. Giờ là giai đoạn vàng để đẩy mạnh giao thương, không chấn chỉnh nội bộ cho tốt, sẽ để lại mối họa ngầm cực lớn.” Nói sang chuyện làm ăn, Thẩm Vân Sâm lại áp mặt vào lớp kính nhìn sang phòng bên cạnh.
Sáng sớm ra bà ta đã đón tôi tới trại tạm giam hẻo lánh này, nói là hôm nay có cách tra rõ rốt cuộc ai đã sửa đổi bố cục triển lãm. Tôi ngạc nhiên hỏi bà định tra tấn ép cung à, song bà ta đáp rằng mình thích những biện pháp mềm dẻo hơn.
Thẩm Vân Sâm cho tôi biết, tổng cộng có năm kẻ tình nghi đã động chân tay vào khu vực bày chóe “Ba lần ghé lều tranh”. Bà ta đã lần lượt mời cả năm người đó tới hỗ trợ cảnh sát thẩm vấn Dược Bất Thị.
“Bệ đặt 'Ba lần ghé lều tranh' đã bị sửa đổi từ loại mộng hương vòng xẻ rãnh ghép mép sang nêm ngựa phi, đây là thay đổi đóng vai trò chủ chốt. Nêm ngựa phi có một đặc điểm là khi bên trên có vật nặng rơi xuống, nêm gỗ sẽ trượt ra cùng một tiếng cạch rất nhẹ. Thực ra là hai tiếng, trước là tiếng nêm trượt đi trong rãnh, sau là tiếng nêm rời ra khỏi rãnh, rất đặc biệt, khác hẳn những kiểu mộng khác. Tôi đã gà sẵn thoại cho Dược Bất Thị rồi. Cứ theo đúng lời thoại mà thẩm vấn, tên nội gián ắt sẽ lộ ra.”
Thẩm Vân Sâm nói hơi khó hiểu, nhưng nghĩ kỹ lại tôi lập tức hiểu ra chỗ xảo diệu bên trong.
Đây là một cái bẫy cực kỳ khéo léo.
Trong lời cung khai đã được dượt trước, Dược Bất Thị sẽ “vô tình” tiết lộ, khi chạm vào làm đổ chiếc chóe, anh ta nghe thấy một tiếng cạch rất lạ, dù thực ra chưa chắc anh ta đã nghe được. Nếu là kẻ vô tội, sẽ mặc nhiên cho rằng bệ đỡ dùng mộng xẻ rãnh ghép mép, không nghĩ ngại gì nhiều. Nhưng nếu là kẻ nội gián, biết rõ bệ đỡ đã bị sửa đổi, có tật giật mình, nghe nói tói tiếng cạch sẽ đoán ra ngay là do nêm ngựa phi rời ra, ắt hết sức căng thẳng. Âm thanh ấy quá đặc biệt, nếu dân trong nghề nghe được chuyện này thì rất dễ bại lộ.
Phản ứng của người biết và không biết nội tình trước chi tiết này sẽ khác hẳn nhau. Chỉ cần nhìn nét mặt, có thể dễ dàng đoán được kẻ nào là nội gián. Giống như một người bị lao phổi ho sù sụ ngoài đường, người thường không biết nội tình sẽ điềm nhiên đi ngang qua, nhưng bác sĩ chữa trị cho bệnh nhân, nắm rõ bệnh tình người bệnh, sợ lây nhiễm sẽ vội vàng đeo khẩu trang vào. Thế nên ai vừa thấy người bệnh nọ đã lật đật đeo khẩu trang thì chắc chắn là bác sĩ không sai vào đâu được.
Cái bẫy này khéo ở chỗ khi một người bị thẩm vấn, ắt sẽ đề cao cảnh giác, cân nhắc lời lẽ, nhưng khi cho rằng mình là người thẩm vấn, ở vào vị thế có lợi hơn, kẻ đó sẽ mất cảnh giác, rất dễ nói hớ.
Từ xưa biện pháp thẩm vấn đều là lấy trên ép dưới, Thẩm Vân Sâm làm ngược lại, kẻ phụ trách thẩm vấn thực ra lại là kẻ bị thẩm vấn mà không biết. Có thể coi đây là một sáng kiến lớn.
Tôi lại nhòm qua ô cửa kính, thấy Dược Bất Thị ngồi bất động trong phòng, trông rõ là một phạm nhân đã đi đến bước đường cùng. Trong màn kịch này, y là diễn viên xuất sắc nhất, bộ mặt vô cảm ấy có thể che giấu hết thảy cảm xúc trong lòng.
Chẳng bao lâu sau cửa phòng mở ra, một người đàn ông bước vào. Anh ta là chuyên gia về đồ gỗ, không hề có kinh nghiệm thẩm vấn phạm nhân, nên khá rụt rè. Một cảnh sát cao to vạm vỡ đi cạnh anh ta, việc thẩm vấn sẽ do hai người họ phụ trách.
Lý do phía cảnh sát đưa ra là, vụ án này liên quan tới văn vật, có rất nhiều kiến thức chuyên ngành, cần chuyên gia tham gia chỉ đạo. Nghe hết sức hợp tình hợp lý, nội gián không thể nghi ngờ được.
Cuộc thẩm vấn bắt đầu, chủ yếu vẫn là viên cảnh sát cao to kia hỏi. Trước đó anh ta và Dược Bất Thị đã tập dượt mấy lần, tôi hỏi anh đáp, cứ y như thật vậy. Tất cả lời thoại đều đã được lên kịch bản từ trước, hỏi được mấy câu thì âm thầm xoay sang các chi tiết chuyên môn. Viên cảnh sát quay sang nói, “Ôi chao, anh ta nói mấy chuyện này tôi không hiểu lắm. Anh là chuyên gia, hay anh hỏi tiếp nhé?”
Nhắc tới chuyên môn, người đàn ông kia hăng hái hẳn lên, liên tục hỏi han Dược Bất Thị. Dược Bất Thị cũng đã chuẩn bị trước, bất luận đối phương hỏi gì, đều lái về cái bẫy đã giăng sẵn. Anh ta chính là Vương Nhị Tiểu chăn trâu, phải dẫn quân Nhật vào vòng vây mai phục của Bát lộ quân.
“Lúc tôi làm đổ chóe sứ thanh hoa có nghe thấy tiếng lạch cạch, trước đục sau vang, rất lạ.” Cuối cùng Dược Bất Thị cũng nói ra câu then chốt.
“Lẽ nào là tiếng va quệt vào bình phong khảm xà cừ đằng sau?” Người đàn ông kia biến sắc mặt, ghi nhoay nhoáy vào giấy rồi bắt đầu hỏi sang việc bình phong khảm xà cừ có bị quệt tróc ra không.
“Chắc không phải anh ta đâu.” Tôi nói.
Thẩm Vân Sâm thở hắt ra, “May mà không phải, cậu ta là một trong những chuyên gia nghiên cứu về đồ gỗ Minh Thanh giỏi nhất của chúng tôi đấy, nếu là nội gián thì Thanh môn tổn thất to.”
Nói rồi bà ta ấn công tắc, một ngọn đèn đỏ được lắp kín đáo trong phòng thẩm vấn lóe lên. Viên cảnh sát thấy vậy bèn bảo chuyên gia nọ, “Chúng ta nghỉ một lúc đã.” Nói rồi dẫn anh ta ra.
“Cậu ta sẽ được cảnh sát dẫn sang phòng nghỉ bên cạnh, đợi ở đó tới khi tất cả năm người thẩm vấn xong.” Thẩm Vân Sâm giải thích. Tôi gật đầu, cách sắp xếp này vô cùng kín kẽ. Nếu năm người này phát hiện ra những người khác cũng tham gia thẩm vấn, có thể sẽ sinh lòng hoài nghi, nên bắt buộc phải cách ly riêng trước khi kết thúc.
Chẳng mấy chốc người thứ hai cũng đến, viên cảnh sát cao to lại diễn vở kịch kia lần nữa, cảm giác như thể thời gian đang chảy ngược vậy.
Chưa đầy một tiếng đã thẩm vấn xong bốn người. Biểu hiện của họ đều hết sức bình thường, không có phản ứng gì đặc biệt với tiếng cạch trong lời khai.
Nếu người thứ năm cũng vậy thì chiếc bẫy dày công sắp đặt này đi tong. Tôi và Thẩm Vân Sâm nhìn nhau, lòng đầy lo lắng.
Người thứ năm là một cậu chàng sáng sủa, tóc rẽ ngôi sống mũi cao, cử chỉ khá tao nhã, họ Tăng. Cậu ta từng học thiết kế nội thất tại Italy, sau khi về nước thì lọt mắt xanh nhà họ Thẩm, làm việc trong viện thiết kế trực thuộc. Vừa bước vào phòng, cậu ta đã ngồi vắt chân, đan hai tay vào nhau đặt trên đầu gối, trông rất thong dong.
Viên cảnh sát to cao hỏi han một lượt theo thông lệ rồi mời cậu ta hỏi. Cậu Tăng quan sát Dược Bất Thị một hồi, vẻ thích thú, “Anh là cậu cả đã đi du học của nhà họ Dược đấy hả?”
“Phải.”
“Chóe sứ thanh hoa ấy thực ra là của nhà anh à? Người nhà có nói gì anh không?”
Dược Bất Thị ngẩng lên, lạnh lùng nhìn thẳng vào cậu ta. Tăng cười, “Tôi hiểu rồi, anh chướng tính thế này nên người nhà mới đẩy anh ra nước ngoài, quay sang bồi dưỡng Dược Bất Nhiên chứ gì?”
Câu này rõ ràng là gây hấn, Tăng có vẻ thích chế nhạo Dược Bất Thị, nói năng chẳng chút nể nang gì. Cuối cùng viên cảnh sát buộc phải ra mặt ngăn lại, giục cậu ta mau nói vào chủ đề chính.
Trong lĩnh vực chuyên môn, Tăng rất có trình độ, hỏi liền mấy câu, vừa chuẩn xác vừa lợi hại. Thẩm Vân Sâm thì thầm bảo tôi, những câu hỏi này nghe thì bình thường, nhưng thực ra đều có cạm bẫy. Chỉ cần người kia thuận miệng trả lời, cậu ta có thể bám vào câu trả lời để luận ra những chứng cứ cực kỳ bất lợi, khiến người bị hỏi có khổ cũng không kêu ai được. Nếu là thẩm vấn thật, có lẽ Dược Bất Thị đã cầm chắc tội trạng rồi.
“Thuật lại một lượt những chi tiết khi anh đến gần chóe đi.” Viên cảnh sát bắt đầu hướng cuộc đối thoại vào bẫy.
“Lúc tôi va đổ chóe sứ thanh hoa có nghe thấy tiếng lạch cạch, trước đục sau vang, rất lạ.” Cuối cùng Dược Bất Thị cũng có cơ hội nói ra câu này.
Tăng đang chống tay lên bàn, nghe vậy lập tức ngồi ngay ngắn lại. Cậu ta liếc sang viên cảnh sát, thấy anh ta đang hí hoáy ghi chép, vội lên tiếng hỏi, “Anh nói lại lần nữa đi?”
“Tôi nói rằng tôi nghe thấy một tiếng cạch, trước đục sau vang.” Dược Bất Thị lặp lại lần nữa, nhìn cậu ta đầy khiêu khích.
Tăng vặn, “Anh có chắc mình không nghe lầm không? Hay đấy là tiếng mũi chân anh chạm vào chóe?”
“Không phải.”
Tăng trầm ngâm giây lát rồi nói nhỏ với viên cảnh sát, “Anh ta cố tình dối trá, rặt bịa đặt, toàn dắt mũi chúng ta đi lòng vòng. Tôi đề nghị xóa đoạn ghi chép này đi, tập trung vào chóe sứ thanh hoa thôi.”
Giọng cậu ta hết sức chân thành, đề nghị lại rất hợp tình hợp lý, gần như không hề sơ hở. Nếu là cuộc thẩm vấn thông thường, cảnh sát nhất định sẽ vui vẻ đồng ý. Tiếc rằng đây không phải thẩm vấn thông thường. Thân phận người thẩm vấn đã làm cậu ta mất cảnh giác, để lòi đuôi cáo.
Tôi và Thẩm Vân Sâm nhìn nhau, không cần tiếp tục nữa, dấu hiệu này đã quá rõ ràng rồi.
“Ôi, thằng bé này vốn dĩ tiền đồ thênh thang, là lực lượng nòng cốt để chúng tôi tiến ra thị trường quốc tế mà...” Bà tiếc nuối nói, nhưng đôi mắt vẫn ánh lên đầy sắc sảo, không chút do dự ấn nút. Ngọn đèn đỏ trong phòng thẩm vấn lần này chớp liên tục, Dược Bất Thị và viên cảnh sát kia đều biết đã tóm được nghi phạm. Hai người đồng loạt ngoái đầu, nhìn sang cậu Tăng kia.
Tăng vẫn không hề hay biết, còn nhởn nhơ gõ bàn, khinh khỉnh nhìn Dược Bất Thị, nào có hay cần câu cơm của mình từ nay thế là đi tong.
Viên cảnh sát cao to tuyên bố tạm nghỉ rồi lịch sự mời Tăng ra khỏi phòng thẩm vấn. Dược Bất Thị duỗi thẳng cánh tay phải, giơ ngón trỏ về phía chúng tôi, ra hiệu chiến thắng.
“Thế này thì Dược Bất Thị có thể thoát tội rồi chứ?” Tôi hỏi.
“Nếu chứng minh được cậu ta bị hãm hại thì chắc chẳng mấy chốc sẽ được thả thôi.” Nói tới đó, Thẩm Vân Sâm trở nên giận dữ, “Lần này phải thẩm vấn thật kỹ, tra xem rốt cuộc kẻ nào đã xúi bẩy cậu ta làm vậy, trong Minh Nhãn Mai Hoa còn đồng bọn nào nữa không!”
Bà ta bàng hoàng là phải, thế lực của Lão Triều Phụng đã thâm nhập sâu đến mức này, thậm chí còn thao túng được thiết kế cả một triển lãm quan trọng là vậy, cứ đà này, hậu quả thực không thể tưởng tượng.
Hai chúng tôi bước ra khỏi phòng cách ly, vừa hay chạm mặt Dược Bất Thị được dẫn ra. Tôi bước lên trước, phấn khởi bảo anh ta, “Lần này tóm được con cá to rồi, anh sẽ rửa sạch tội trạng thôi.” Nghe tin tốt, gương mặt Dược Bất Thị vẫn lạnh tanh không chút vui mừng, anh ta chậm rãi lắc đầu, “Tay họ Tăng này có vấn đề.”
“Dĩ nhiên là có vấn đề rồi, bằng không sao lại bắt cậu ta?”
“Ý tôi là trạng thái tinh thần cậu ta có vấn đề. Cậu cũng nghe thấy rồi đấy, ngay từ đầu cậu ta đã vô cớ khiêu khích tôi, thật khó hiểu. Tôi và cậu ta trước đây chưa từng giao thiệp, dù có ở hai phe đối nghịch cũng chẳng đến mức như quân thù quân hằn vậy.”
“Biết đâu tính tình cậu ta vốn đáng ghét như thế thì sao?” Tôi đoán.
Thẩm Vân Sâm chen vào, “Cậu Tăng thường ngày có phần kiêu ngạo, nhưng quả thực không bao giờ khoa trương như hôm nay.”
Chúng tôi đang nói chuyện, chợt thấy đằng xa nhốn nháo cả lên, có tiếng chân chạy rầm rập rồi một người hô lớn, “Bác sĩ, mau gọi bác sĩ đến đây!” Chúng tôi giật mình hớt hải chạy đến. Tôi nhanh chân xông qua cửa văn phòng, thấy Tăng nằm vật ra trên băng ghế dài, miệng sùi bọt mép, hai mắt trợn ngược, tay chân co giật liên hồi.
“Chuyện gì thế này?” Tôi hỏi viên cảnh sát cao to. Anh ta cũng sợ toát mồ hôi, cuống quýt đáp vừa rồi dẫn Tăng vào phòng, chỉ đưa cho cậu ta một cốc nước ấm, ngoài ra không chạm vào thứ gì cả. Uống xong cốc nước, cậu ta lập tức thành ra như thế.
Tôi nhìn quanh phòng, thấy cốc trà bằng sứ trắng vẫn còn trên bàn, bốc khói nghi ngút, vội đi đến đậy nắp lại, cố không chạm vào thành ngoài cốc, cẩn thận giữ gìn chứng cứ quan trọng.
Đầu độc giết người ngay trong trại tạm giam à? Lão Triều Phụng cũng to gan thật đấy!
Thẩm Vân Sâm đứng trước cửa, rụng rời nhìn tình trạng của Tăng. Bà sải bước đi đến, định đỡ lấy hai tay cậu ta, song cả người cậu ta đã trượt xuống khỏi ghế.
Cũng may vụ án xảy ra ngay trong trụ Sở Công an nên chỉ hơn một phút sau, bác sĩ pháp y và mấy cảnh sát hình sự đã lật đật chạy đến. Phong tỏa hiện trường, kiểm tra tình hình người bị hại, xử lý thành thạo đâu ra đấy.
Tăng đã thôi co giật, pháp y ngồi xuống kiểm tra một lát rồi đứng dậy tuyên bố cậu ta đã tử vong.
Tuyên bố này như sét đánh giữa trời quang, đừng nói Thẩm Vân Sâm, ngay cả tôi cũng không chấp nhận nổi. Tôi hỏi có phải chết vì trúng độc không, pháp y cảnh giác nhìn tôi không đáp. Viên cảnh sát cao to kéo nhân viên pháp y sang một bên rì rầm trao đổi mấy câu rồi quay ra bảo tôi, “Họ phải đợi báo cáo khám nghiệm tử thi đã, có điều phán đoán sơ bộ là không liên quan đến nước ấm.”
Anh ta cố tình nhấn mạnh điểm này, bởi vừa rồi chỉ có anh ta và Tăng ở trong phòng, anh ta còn rót nước cho Tăng nên đang là kẻ bị tình nghi nhiều nhất.
Gặp phải biến cố bất ngờ, tôi và Thẩm Vân Sâm không thể ra về ngay, đành ở lại trong phòng chờ đợi kết quả khám nghiệm tử thi. Dược Bất Thị đã được giải về phòng giam từ lâu, xảy ra sự cố này, anh ta sẽ phải chờ thêm một thời gian nữa mới được thả.
Thẩm Vân Sâm hỏi, “Cậu có để ý thấy triệu chứng trước khi chết của cậu ta rất giống Dược Lai không?”
Nghe bà ta nói vậy, tôi liền nhớ ra. Lúc Dược Lai tự tử, tình trạng cũng hệt như vậy. “Lão Triều Phụng...” Tôi nghiến răng, gằn từng tiếng. Lão già này nguy hiểm ở chỗ, lão không chỉ ngang nhiên làm giả lừa gạt mà còn sẵn sàng lấy mạng người ta chẳng chút nương tay.
“Lẽ nào kế hoạch lấy gậy ông đập lưng ông này đã bị Lão Triều Phụng phát hiện?” Thẩm Vân Sâm lẩm bẩm, nhưng ngay sau đó lại lắc đầu, “Không thể nào, chi tiết kế hoạch chỉ có tôi, cậu và Dược Bất Thị biết, ngay cả viên cảnh sát kia cũng mới được sắp xếp tới phối họp từ hôm qua thôi.”
Tôi buột miệng hỏi, “Việc sắp xếp cho năm người kia tới thẩm vấn là từ bao giờ vậy?”
“Hai hôm trước, người của công an lần lượt báo cho họ, nhưng họ không biết những người khác cũng được gọi tới.”
“Nếu cậu Tăng kia là người của Lão Triều Phụng, khi nhận được tin này, nhất định sẽ báo với lão. Có lẽ từ lúc đó Lão Triều Phụng đã sinh lòng nghi ngờ, bày ra cách giết người bịt miệng.”
“Tăng nhận được thư mời hỗ trợ thẩm vấn từ chính Sở Công an, đây là đi thẩm vấn người khác chứ đâu phải bị thẩm vấn, chắc Lão Triều Phụng không nghi ngờ chứ?” Thẩm Vân Sâm nửa tin nửa ngờ, nhíu mày, “Nếu ngay cả chuyện này cũng nhìn ra được, há chẳng phải lão đã thành tinh rồi sao?”
Tôi chậm rãi lắc đầu, “Có lẽ... Lão Triều Phụng không cần nghi ngờ. Giờ sản nghiệp của lão đang bấp bênh, Minh Nhãn Mai Hoa cũng bắt đầu thanh lọc chỉnh đốn toàn diện. Lão cần phải ngăn chặn tổn thất! Xử lý cậu Tăng, cắt đứt manh mối, chúng ta sẽ không còn vin vào đâu để điều tra được nữa.”
“Ý cậu là ngay từ đầu Lão Triều Phụng đã định giết cậu ta bịt miệng rồi ư?” Thẩm Vân Sâm trợn tròn mắt, tay run run. Bà ta là người giỏi kinh doanh buôn bán nhất trong Minh Nhãn Mai Hoa, nhưng lại hiếm khi phải đối diện những việc thế này.
“Có thể lắm.”
Tôi nheo mắt. Thủ đoạn của Lão Triều Phụng, tôi đã quá rành rẽ. Lão ta cực kỳ đa nghi, ngay thuộc hạ cũng chia ra để trị, phân thành năm chi phái, không ngừng đấu đá lẫn nhau. Nếu có gì nguy hiểm, lão sẵn sàng hy sinh một chi phái để bảo toàn những chi còn lại, như thạch sùng đứt đuôi. Huống hồ Tăng chỉ là một quân cờ, lão đương nhiên muốn vứt lúc nào thì vứt.
Nhìn từ cái chết của cậu ta, đủ biết Minh Nhãn Mai Hoa muốn rà soát chỉnh đốn không hề dễ dàng như trong tưởng tượng, nhất định sẽ dấy lên gió tanh mưa máu. Chẳng trách cụ Lưu Nhất Minh mãi không dám xuống tay, bởi thật sự có thể chết người!
Đúng như Thẩm Vân Sâm nói với tôi trước kia: thời bây giờ, mọi thứ đều phải xem xét dưới góc độ lợi ích. Muốn nói đến lý tưởng, đạo đức, tín ngưỡng thì cứ việc, nhưng một khi dính đến lợi ích, thái độ sẽ thay đổi hẳn. Chặt đứt đường làm ăn của người khác cũng bằng giết cha giết mẹ người ta, họ lại chẳng liều mạng với mình?
Thẩm Vân Sâm và tôi cùng cười nhăn nhó. Trận này chẳng biết chúng tôi thua hay thắng nữa.
Ba tiếng sau, báo cáo giám định pháp y được đưa ra. Nạn nhân trước đó đã nuốt một viên nang có chứa xyanua, sau khi uống nước ấm, viên nang tan ra, xyanua ngấm vào dạ dày dẫn tới tử vong. Đồng thời pháp y cũng chỉ ra rằng, dù không uống nước ấm, viên nang cũng sẽ hòa tan trong vòng vài tiếng đồng hồ. Cũng có nghĩa khi Tăng bước ra khỏi cửa, số phận cậu ta đã được định sẵn.
Trong cái rủi có cái may là đã loại trừ được khả năng người trong Sở Công an đầu độc, mọi người đều thở phào, bằng không đây lại thành vụ án long trời lở đất rồi.
Quá trình điều tra sau đó rất phức tạp, phải kiểm tra ở nhà Tăng còn viên nang nào nữa không, mấy ngày gần đây cậu ta đi những đâu, thường tiếp xúc với những người nào v.v... Là người đứng đầu Thanh môn, Thẩm Vân Sâm có quyền lên tiếng nhất trong việc này, nên bà ta đã chủ động trao đổi với cảnh sát.
Về phần Dược Bất Thị, chúng tôi đã bảo lãnh cho anh ta tại ngoại chờ xét xử.
Hay tin cậu Tăng chết, Dược Bất Thị không khỏi kinh ngạc. Anh ta nói Tăng tự dưng gây sự với mình trong lúc thẩm vấn, có lẽ muốn truyền đạt gì đó, tiếc rằng giờ đã chẳng thể hỏi cậu ta cho ra nhẽ nữa.
“Bà Sâm đã cùng cảnh sát tới nhà và phòng làm việc của cậu ta rồi, biết đâu lại tìm được manh mối gì đó.” Tôi nói.
Dược Bất Thị cười nhạt, “Lão Triều Phụng đã định đầu độc cậu ta thì đời nào còn để lại sơ hở lộ liễu như vậy nữa? Chỉ tổ phí công thôi.”
“Vớt vát được chút nào hay chút nấy. Nghĩ theo hướng lạc quan thì ít nhất đã lại nhổ được một cây đinh của Lão Triều Phụng trong Minh Nhãn Mai Hoa.”
Dược Bất Thị nhún vai, vẻ không đồng tình.
Chúng tôi vừa nói vừa rời Sở Công an. Bước ra khỏi cửa, Dược Bất Thị dừng lại, bảo tôi đợi một chút rồi nhắm nghiền mắt ngẩng cao đầu, hít sâu một hơi thả lỏng người. Gương mặt anh ta hiện lên vẻ ngây ngất hiếm thấy, có điều chỉ trong một thoáng đã trở về với bản mặt lạnh nhạt vốn có.
“À phải, tôi vẫn chưa cảm ơn anh.” Tôi áy náy nói. Việc ở Hàng Châu suy cho cùng là anh ta hy sinh bản thân để cứu tôi, tự chui đầu vào tròng, để tôi được tự do tiếp tục điều tra.
Dược Bất Thị nhìn tôi, “Tốt nhất là cậu nên tra ra manh mối có giá trị tương đương đi.”
Tôi hỏi Dược Bất Thị tiếp theo đây anh định đi đâu, phúng viếng Lưu Nhất Minh hay thăm Hoàng Khắc Vũ? Hay là về nhà họ Dược nghỉ ngơi trước đã? Dù sao giờ ai cũng biết anh ta đã về nước, chẳng cần phải giấu giếm nữa. Ngờ đâu Dược Bất Thị búng tay đánh tách, buông ra ba chữ: “Tứ Hối Trai.”
Sao anh ta lại muốn tới đó? Tôi nghĩ ngợi đoạn nói, được thôi.
Hai chúng tôi về cửa tiệm của tôi, đang loay hoay mở cửa thì thím Vương hàng xóm lại ló đầu ra, vồn vã hỏi han, “Này Nguyện ơi, lần trước hai cô kia có đánh nhau không?” Làm tôi dở khóc dở cười.
Bước vào phòng, tôi quét tước qua quýt một lượt, mở cửa cho thông gió, phủi sạch bụi bặm trên mặt quầy rồi tiện thể sạc pin cho chiếc điện thoại di động vẫn quẳng ở nhà. Dược Bất Thị nhìn quanh ngó quất, nhận xét: “Cậu đúng là không biết làm ăn, về sau tôi sẽ lên cho cậu một bản kế hoạch kinh doanh.” Tôi nhăn nhó cười đáp mình làm gì có thời gian trông nom cửa hàng, mấy tháng nay toàn vào sinh ra tử thôi.
“Đấy là tôi nghĩ cho tương lai của cậu thôi. Một cửa hàng nhỏ thì lời lãi được bao nhiêu, phải nhập vào một hệ thống lớn mới được.”
“Đợi đã, anh định bán tôi đấy à?”
“Thẩm Vân Sâm là người có đầu óc và tầm nhìn kinh doanh nhất trong Minh Nhãn Mai Hoa, tôi đã trao đổi với bà ta rồi, có thể sẽ trở về giúp đỡ bà ta. Tứ Hối Trai của cậu sau này cũng nhập luôn vào hệ thống ấy mà đẩy mạnh phát triển.” Dược Bất Thị nghiêm túc đề nghị.
Thẩm Vân Sâm kết hợp với Dược Bất Thị có vẻ khá phù hợp, chưa chừng lại gây dựng nên một đế chế buôn bán cổ vật lớn cũng nên! Nhưng tôi không ham hố mấy chuyện này.
“Được rồi, chuyện này để sau hẵng nói, chúng ta lo việc trước mắt đã.” Tôi kéo ghế cho anh ta ngồi rồi đi đun nước.
Dược Bất Thị gật gù, “Cậu nói phải. Dù sao có bàn cậu cũng chẳng hiểu, tới lúc đó cứ nghe theo sắp xếp là được.”
Tôi đỡ trán, “Vào việc chính đi, vào việc chính đi.”
Dược Bất Thị ở trong tù đã nghe chuyện tôi đại náo Trại Tế Liễu, nhưng chỉ biết láng máng, không nắm được đầu đuôi và các tình tiết cụ thể. Lại thêm từ sau khi về Bắc Kinh, tôi đã nghe được một đống bí mật từ Kido Kana, Thư Viện và ông Hoàng Khắc Vũ, đang cần tìm người sắp xếp lại hộ, Dược Bất Thị là lựa chọn phù hợp nhất.
Nghĩ kỹ lại thì, đi được đến ngày hôm nay không phải nhờ công của tôi, tôi chỉ là chân chạy thôi, công thần thực sự là Dược Bất Thị. Nếu không phải anh ta khăng khăng đòi tôi hợp tác, tới Vệ Huy vén một góc bí mật bộ chóe lên, có lẽ tôi đã xồng xộc chạy đi gặp Lão Triều Phụng thật rồi. Tới lúc đó sự tình sẽ thế nào, tôi thực không dám tưởng tượng, nhưng nhất định là thê thảm hơn hiện giờ.
Thế nên tôi không chút giấu giếm, kể lại tỉ mỉ mọi chuyện cho anh ta nghe, từ nhà hàng Khánh Phong đến bác Doãn ở Thiệu Hưng, từ Hứa Tín thời Minh tới mốc định vị trong bộ chóe. Chỉ duy nhất không nhắc tới vấn đề vai vế, bởi chuyện đó không liên quan tới thuyền Fukukou, nói ra chỉ thêm khó xử. Thực khó tưởng tượng nếu Dược Bất Thị biết luận vai vế mình phải gọi tôi bằng chú, anh ta sẽ có thái độ ra sao.
Giờ những thông tin tôi nắm được quá mức lộn xộn, đầu óc tôi đã rối lên không sao sắp xếp lại được, đành cậy vào tư duy sáng sủa của Dược Bất Thị để tìm ra đột phá, tính xem bước tiếp theo nên làm gì.
Nghe tôi kể xong, Dược Bất Thị nhắm mắt, trầm tư suy nghĩ hồi lâu. Tôi biết tâm trí anh ta đang hoạt động với cường độ cao nên cũng không quấy rầy mà đứng dậy pha hai chén trà Hoàng Sơn mao phong. Trà vốn có sẵn trong tiệm, trông thấy nó, tôi nhớ ngay tới chuyện ở Trại Tế Liễu. Ban đầu Liễu Thành Thao còn định đánh lừa để tôi tưởng rằng đang ở Hoàng Sơn.
Chẳng biết đã bắt được Liễu Thành Thao hay chưa, tên này rất liều lĩnh, nếu bị dồn vào đường cùng chuyện gì y cũng dám làm.
Dược Bất Thị bưng chén trà lên, thổi lá trà nhấp một ngụm rồi hỏi có cà phê không, tôi chổng mông lục tủ hồi lâu mới moi ra được non nửa hộp chẳng biết còn lại từ bao giờ. Dược Bất Thị trông mà cụt cả hứng, bảo thôi.
Anh ta bảo tôi, “Để tôi liệt kê cho cậu, nhà hàng Khánh Phong là một manh mối, nhà họ Dược là một manh mối, bộ chóe thanh hoa vẽ tích cổ là một manh mối, thuyền Fukukou cũng là một manh mối, còn cả hành tung của Izumida Kunio, sự thay đổi của Cơ Thiên Quân, những thăng trầm của nhà họ Hứa các cậu, tất cả cứ xoắn xuýt vào nhau, muốn gỡ ra từng mối thực sự rất khó.” Nói đến mỗi manh mối anh ta lại xòe một ngón tay, cuối cùng cả mười ngón cũng không đủ đếm.
Tôi rầu rĩ gật đầu. Gần đây tôi thu được quá nhiều tin tức, đầu sắp nổ tung đến nơi. Ban đầu thì khổ vì quá ít manh mối, chẳng biết bắt đầu từ đâu, giờ phát hiện được quá nhiều manh mối cũng chẳng hay hớm gì, càng thêm rối.
Dược Bất Thị lại nói, “Trong quản trị kinh doanh, có nguyên tắc Theseus. Thần thoại Hy Lạp kể rằng, vua đảo Crete cho xây nên một mê cung cực kỳ phức tạp, ở chính giữa mê cung là con quái vật đầu bò mình người tên Minotaur. Vô số anh hùng quyết tâm xông vào, song đều bị lạc lối trong đó, cuối cùng làm mồi cho quái vật. Về sau có một chàng trai tên Theseus, cầm theo một cuộn chỉ tìm đường vào mê cung tiêu diệt quái vật, rồi bất luận cảnh trí xung quanh thay đổi ra sao, anh ta lại lần theo sợi chỉ đã rải rời khỏi mê cung an toàn.”
Tôi hiểu ra ngay điều anh ta muốn truyền đạt, “Ý anh là phải nắm bắt mâu thuẫn chủ yếu, buông bỏ những mâu thuẫn thứ yếu hả?”
“Đúng thế, khi đứng trước một mớ những sự việc lộn xộn, cậu phải lọc ra được phần quan trọng nhất, luôn bám sát sợi chỉ. Bằng không cái gì cũng muốn quản, cái gì cũng muốn lo, cuối cùng sẽ chỉ lạc trong mê cung không ra nổi.” Dược Bất Thị đĩnh đạc giảng giải như đang dạy học.
“Ân oán cũ ở nhà hàng Khánh Phong, bốn câu chuyện của ông tôi, ân oán giữa nhà họ Hứa và Cơ Thiên Quân v.v... đều là thứ yếu! Giờ việc quan trọng nhất là gì nào? Mau trục vớt thuyền Fukukou lên, đừng để Lão Triều Phụng nẫng tay trên!”
Nghe anh ta nói vậy, tôi chợt thấy tư duy sáng sủa hẳn ra. Quả đúng thế. Chỉ cần nắm chặt vấn đề then chốt là thuyền Fukukou, những chuyện khác có thể giải quyết dễ dàng.
Lỡ như để người Nhật trục vớt được thì dù tôi có tra ra rõ ràng tới đâu cũng vô ích.
Dược Bất Thị nói, “Thế nên việc quan trọng nhất hiện giờ là cậu mau tổ chức ra biển trục vớt thuyền Fukukou.”
Tôi sực nhớ ra, cũng tới lúc gọi điện cho Đới Hải Yến rồi. Nếu cô thuận lợi tìm ra tọa độ thuyền đắm thì mâu thuẫn chủ yếu của chúng tôi đã giải quyết được quá nửa.
Tôi báo với Dược Bất Thị một tiếng rồi ra ngoài, tìm một nơi gọi được điện thoại đường dài, gọi cho Đới Hải Yến.
Đới Hải Yến bắt máy rất nhanh, “Tôi đã tham vấn một giáo sư chuyên ngành thiên văn, bản thân cũng tự thử nghiệm, về cơ bản đã nắm được nguyên lý thuật khiên tinh rồi.”
“Là thế nào cơ?” Tôi siết chặt ống nghe, hỏi dồn.
“Như anh đã biết, thuật khiên tinh lấy góc sao làm mốc định vị. Còn về phần đo lường góc thế nào thì người xưa có một bộ công cụ chuyên dụng gọi là bảng khiên tinh.”
“Đó là cái gì?”
“Tôi lục tìm được bản vẽ trong thư viện rồi, thực ra đó là mười hai miếng gỗ vuông làm bằng gỗ mun hảo hạng. Kích thước các miếng khác nhau, miếng lớn nhất mỗi cạnh 24 xăng ti mét, gọi là bảng mười hai lóng; miếng sau ngắn hơn miếng trước 2 xăng ti mét, miếng nhỏ nhất mỗi cạnh chỉ có 2 xăng ti mét, gọi là bảng một lóng. Lại dùng ngà voi làm thành một khối lập phương nhỏ, khuyết bốn góc, độ dài bốn đoạn khuyết lần lượt là một phần tư, một phần hai, ba phần tư và một phần tám của một lóng tay.”
Tôi không giỏi các môn tự nhiên, càng nghe càng mông lung, bèn hỏi dùng thứ đó xác định vị trí thế nào.
Đới Hải Yến đáp, “Trong thuật khiên tinh quy định mấy cột mốc cố định như sao Bắc Cực, sao Đăng Lung Cốt, sao Chức Nữ, sao Bố Ti, sao Hoa Cái v.v... Khi cần xác định vị trí, người đo sẽ đứng ở đầu thuyền, tay trái giơ ngang, cầm chính giữa bảng khiên tinh dựng thẳng, mắt nhìn lên bầu trời. Làm vậy cánh tay sẽ song song với mặt biển, bảng khiên tinh vuông góc với mặt biển.”
Tôi chỉ tiếc nỗi không thể gọi điện thoại truyền hình như trong truyện khoa học viễn tưởng nên không cách nào lý giải bằng trực quan. Đới Hải Yến cũng hiểu điều đó, bèn kiên nhẫn giải thích, “Ví như muốn đo sao Chức Nữ nhé, thì cứ giơ tay đúng tư thế ấy, sao cho cạnh trên bảng khiên tinh nhắm vào sao Chức Nữ, trước hết dùng miếng tám lóng, cao quá, đổi thành miếng bảy, vẫn cao, lại đổi sang miếng sáu thì vừa in. Buộc một sợi chỉ vào đầu trên bảng sáu lóng, kéo đến vai, vậy là bảng khiên tinh, sợi chỉ và cánh tay tạo thành một tam giác vuông, mà sợi chỉ là cạnh huyền. Dùng bảng mấy lóng thì góc giữa mặt biển và sao sẽ là chừng ấy lóng. Phần lẻ phía sau có thể dùng khối vuông khuyết góc để thể hiện.”
Tôi sực vỡ lẽ, “Tính được độ cao của sao thì có thể tính ra vĩ độ rồi.”
“Chính xác, ví như nói 'Đông Bắc sao Chức Nữ mười một lóng mặt nước' có nghĩa là, trước hết anh dùng la bàn xác định hướng Đông Bắc, sau đó lại dùng bảng khiên tinh đo độ cao của sao Chức Nữ, nếu dùng bảng mười một lóng mà cạnh trên trùng với sao Chức Nữ, cạnh dưới trùng với mặt biển, chứng tỏ là vị trí chính xác. Nếu không được như vậy, anh phải đi tiếp.”
Tôi mở cờ trong bụng, gần như không nén nổi vui mừng, té ra kỹ thuật của các bậc tổ tiên lý thú đến vậy. Những thuật ngữ rắc rối khó hiểu như sách trời, qua lời giải thích của Đới Hải Yến đã trở nên tinh diệu lạ thường.
“Thực ra thứ này không chỉ có tác dụng xác định vị trí mà còn là một chỉ dẫn để tìm đường trên biển. Ví như sao Bắc Cực nằm ở hướng chính Bắc, ngày đầu tiên anh đo độ cao là bốn lóng, ngày thứ hai ba lóng, chứng tỏ thuyền đang đi về hướng chính Nam. Sao Chức Nữ ở hướng Đông Bắc ngày đầu tiên cao sáu lóng, ngày thứ hai cao năm lóng thì nhất định con thuyền đang nhằm thẳng hướng Tây Nam. Nguyên lý đo đạc này rất gần với kính lục phân38, chẳng qua không chính xác bằng thôi.”
“Vậy 'Cơ long ra biển dùng giáp mão kim sáu canh' là nghĩa làm sao?”
“Kim ý chỉ đường thủy, người xưa dùng kim chỉ nam để chỉ hướng khi đi biển, nên tục gọi là đường kim. Giáp mão là phương hướng, ý chỉ phương Đông. Ý cả câu này là, từ Cơ Long, tức cảng Cơ Long Đài Loan, xuất phát đi về hướng Đông mười hai tiếng, ấy là hướng chính. Khi sắp tới nơi lại dựa theo góc sao trong mấy câu sau để đo đạc, điều chỉnh hướng đi.”
“Giờ cô có thể quy đổi vị trí cụ thể ra thành kinh vĩ độ hiện đại không?”
“Anh chỉ cho tôi ba câu, tôi cũng chỉ có thể khoanh vùng cho anh một hải phận thôi, chẳng khác gì không nói. Anh phải biết rằng càng có nhiều mốc định vị thì vị trí xác định càng chuẩn. Ít nhất cũng phải có bốn mốc mới đủ cấu thành điều kiện tiên quyết để ra biển trục vớt.” Đới Hải Yến thẳng thắn nói.
Tôi khẽ thở dài, quả nhiên đâu có dễ thế. Mò kim đáy bể ở biển Hoa Đông cũng ngang với ở Thái Bình Dương... Xem ra không tìm đủ năm chiếc chóe thì rất khó xác định được tọa độ chuẩn.
“Tôi hiểu rồi, cảm ơn cô.”
“Đừng quên giao hẹn giữa hai chúng ta đấy nhé, nếu anh định ra biển thì phải cho tôi theo.” Đới Hải Yến nhắc.
“Chắc chắn, chắc chắn rồi.”
“Nghe giọng anh là thấy đãi bôi rồi.” Đới Hải Yến nói toạc móng heo, không chút nể nang.
“Làm gì có chuyện! Người nhà họ Hứa chúng tôi xưa nay chưa bao giờ lừa ai, bằng không cứ để sét đánh chết.” Tôi thề độc.
“Nói dối và sấm sét chẳng liên quan gì nhau cả, tôi cần một lời bảo đảm chắc chắn hơn thế.”
Tôi bảo hay là thế này, tôi viết giấy cam đoan, công chứng đàng hoàng rồi gửi cho cô nhé. Đới Hải Yến nghĩ ngợi rồi đáp, cũng được đấy.
Tôi đúng là không sao hiểu nổi cô ta.
Quay trở về, tôi thông báo ngay tin mới nhận được cho Dược Bất Thị. Dược Bất Thị tỏ vẻ tán thưởng, “Kỹ thuật khiên tinh này hay đấy, rất khoa học. Với trình độ khoa học kỹ thuật thời Minh mà nghĩ ra được cách tinh diệu như vậy đúng là không phải vừa đâu. Đới Hải Yến có phải cô gái lần trước từng giúp cậu phá giải bí mật trong Thanh minh thượng hà đồ không?”
“Đúng rồi.”
“Nếu cậu lý trí và suy nghĩ có trình tự được như cô ấy thì chúng ta đã bớt phải đi lòng vòng rồi.”
Nhìn bản mặt nghiêm nghị của anh ta, tôi thầm nghĩ nếu tôi nói với anh sự thật về vai vế, thì liệu anh còn vênh cái mặt lên với ông chú này được không.
Ôi thôi, việc chính còn chưa xong, so đo mấy chuyện vai vế này làm gì.
Tôi sắp xếp lại suy nghĩ rồi nói, “Giờ vấn đề hiện tại là chúng ta làm sao tìm được hai chiếc chóe còn lại. Không tìm được thì không có mốc định vị, không có mốc định vị thì không ra biển được. Chuyện này chắc chắn Dược Bất Nhiên biết. Nếu hắn chịu nói thì đỡ biết bao.”
Nghe nhắc đến em trai, Dược Bất Thị cười nhạt, “Nó đã không muốn nói thì đừng hòng ai lay chuyển được. Thằng em tôi một lòng một dạ đi theo Lão Triều Phụng rồi.”
“Ừm... cũng không hẳn đâu. Dược Bất Nhiên giấu nhẹm Lão Triều Phụng chuyện đã gặp tôi ở miếu Đường vương Hàng Châu. Lúc ở Trại Tế Liễu, hắn cũng giúp tôi rất nhiều. Tôi cứ có cảm giác, Dược Bất Nhiên không hẳn là cùng một bè với Lão Triều Phụng.”
“Đó là vì cậu vẫn còn giá trị lợi dụng. Cuối cùng Trại Tế Liễu bị tiêu diệt, nó là người lợi nhất còn gì.” Dược Bất Thị làm tôi cứng họng. Giọng anh ta lạnh băng, “Cậu bơn bớt ảo tưởng đi, phải nhìn thẳng vào sự thật, đừng nhân nhượng với kẻ địch.”
Tôi chẳng có cách nào phản bác anh ta, đành thở dài.
Cả tuần sau đó trôi qua trong bận rộn mà yên ả. Cảnh sát tập trung lục soát nhà Tăng, quả nhiên chẳng thu được manh mối gì có giá trị. Trái lại Minh Nhãn Mai Hoa dưới sự lãnh đạo của Hoàng Khắc Vũ và Thẩm Vân Sâm rầm rộ ra quân, lại thêm cục trưởng Lưu từ phía ban ngành chức năng phối hợp, bắt đầu tiến hành thanh lọc thị trường văn vật. Cảnh sát kiểm tra và niêm phong một loạt tiệm đồ cổ, bắt không ít băng nhóm làm đồ giả và buôn lậu văn vật, thậm chí còn gô cổ bảy tám toán trộm mộ. Mười mấy tờ báo chuyên ngành và đại chúng đều đăng bài chuyên đề, truyền thông nước ngoài cũng quan tâm, thậm chí ngay cả Bản tin thời sự của đài trung ương cũng góp tiếng nói, thanh thế rất lớn.
Những kẻ xui xẻo này đa phần đều có tên trong tập danh bạ của Trại Tế Liễu. Phía cảnh sát cứ theo đấy mà lần, lại có Minh Nhãn Mai Hoa hỗ trợ về chuyên môn, thế như chẻ tre, bắt đâu trúng đó. Thành quả bên này càng huy hoàng, thế lực của Lão Triều Phụng càng tổn thất. Dù đợt tấn công này không thể trừ tận gốc thế lực của lão thì cũng khiến nó tổn hại nặng nề.
Đúng như đạo lý xưa nay trong giới cổ vật, đồ giả sở dĩ muốn phỏng theo đồ thật, là vì chính bản thân nó cũng cho rằng đồ thật tốt hơn đồ giả. Bởi vậy thế lực làm hàng giả có lớn mạnh đến đâu cũng không được quang minh chính đại, mãi mãi phải lẩn lút trong bóng tối. Việc làm ăn trong bóng tối của Lão Triều Phụng phất lên như diều gặp gió, nhưng chỉ cần lôi ra ngoài ánh sáng là cơ đồ ấy sẽ tan biến như băng tuyết.
Sự thật là lòng chính trực trong tim, dù có lúc suy yếu, có lúc ngủ quên, nhưng đó là lẽ phải, là chính đạo. Nếu thật giả giao tranh, cuối cùng nhất định tà không thể thắng chính. Chuyện này chẳng liên quan gì tới thế lực hay thủ đoạn cả, mà là lẽ trời.
Trong một tuần này, tôi một mặt nhờ Kido Kana thu thập thêm tài liệu từ phía Nhật Bản, một mặt tập trung vào các manh mối hòng tìm hai chiếc chóe còn lại. Phương Chấn nói đã báo cáo lên trên, xin ý kiến về việc trục vớt con thuyền. Nhưng tất cả công tác chuẩn bị này đều phải có tiền đề là tôi tìm được mốc định vị chính xác.
Ngày nào tôi cũng gọi điện đến Nam Xương, tinh thần bác Doãn coi như đã ổn định, cả ngày chỉ nằm bò ra bàn thao tác, chẳng có thay đổi gì. Dược Bất Thị thì lặn mất hút chẳng thấy tăm hơi, không biết bận bịu chuyện gì. Kẻ này chẳng mấy thiết tha với các quan hệ cá nhân, nếu không có việc gì thì cũng chẳng buồn giao thiệp.
Hôm nay tôi đang ngồi thần ra trước tấm bảng đen vẽ đầy những vòng tròn và đường nối trong tiệm. Tôi mượn bảng từ trường tiểu học bên cạnh, viết tất cả những manh mối và nhân vật đã biết lên đó, rồi nối với nhau, nhằm sắp xếp lại suy nghĩ cho sáng rõ. Những chuyện liên quan tới bộ chóe quá mức phức tạp, nào thì từ thời Minh, thời Dân Quốc, rồi liên quan tới cả Nhật Bản và Trung Quốc, bao nhiêu bí ẩn xung quanh nhà hàng Khánh Phong, mấy nhân vật thần bí đã mất tích cùng vụ án đầu Phật. Mỗi lần nghĩ tới tôi lại thấy đầu nhức như muốn nổ tung, một tấm bảng đen làm sao giải quyết nổi, phải dùng đến máy tính điện tử may ra.
Đang chìm đắm trong mê cung không sao thoát ra được, chợt tôi thấy tủ kính trưng bày bên cạnh rung lên. Mấy pho tượng Phật nhỏ bằng ngọc trong tủ rung rinh dịch khỏi vị trí ban đầu, như thể sắp xảy ra chuyện lớn vậy.
Ông Phật dời chỗ, ắt có sự lạ.
Tôi vội tì lên mặt tủ quầy, cúi đầu nhìn, quả nhiên chiếc điện thoại di động đặt trong tủ đổ chuông. Tôi cầm máy a lô, đầu kia vang lên giọng Yên Yên.
“Ừm... anh... anh Nguyện à.” Từ sau khi biết chuyện vai vế, cách xưng hô của cô với tôi cũng có phần khang khác. Gần đây chúng tôi không gặp nhau, e khó xử, còn về quan hệ giữa hai người phải định nghĩa như thế nào thì chờ khi nào chuyện này sáng tỏ mới tính. Giờ cô chủ động gọi điện tới, nhất định có chuyện quan trọng.
“Sao vậy? Ông nội em vẫn khỏe đấy chứ?” Tôi lo lắng hỏi.
“Vẫn khỏe ạ. Em gọi điện để báo với anh, có tung tích chóe 'Uất Trì Cung xông pha cứu chúa' rồi.”
Nghe vậy, tôi mừng như bắt được vàng.
Trong năm chiếc chóe, “Chu Á Phu đóng quân trại Tế Liễu”, “Quỷ Cốc Tử xuống núi” và “Lưu Bị ba lần ghé lều tranh” đều đã xuất hiện, chỉ có “Tây sương ký thắp nhang vái trăng” và “Uất Trì Cung xông pha cứu chúa” là chẳng thấy tăm hơi. Hôm ấy trò chuyện với Hoàng Khắc Vũ, ông cụ cũng nhận lời sẽ huy động quan hệ của mình, lùng sục một lượt trên toàn quốc xem có tìm được không.
Hoàng Khắc Vũ là một trong những bô lão còn lại của Minh Nhãn Mai Hoa, uy thế không thua Lưu Nhất Minh, quan hệ cũng cực rộng. Có ông cụ giúp đỡ, tôi tin rằng chẳng mấy chốc sẽ có kết quả, nhưng thực không ngờ chỉ sau một tuần đã tìm ra.
Biết tôi hiểu lầm, Yên Yên giải thích, “Cái này là em tìm được, không liên quan gì tới ông cả.”
“Em á?”
Tôi thực không dám tin. Không phải coi thường Yên Yên, nhưng so với ông nội, cô vẫn còn quá non nớt. Nghe tôi nói vậy, Yên Yên có vẻ phật lòng. Tôi phải dỗ dành mấy câu, cô mới chịu nói rõ.
Thì ra ông Hoàng Khắc Vũ quả thực đã huy động quan hệ khắp nơi để lùng tìm, hô hào cả nhà họ Dược góp sức, nhưng mãi chẳng có tiến triển gì. Hoàng Yên Yên chợt nhận ra họ đã rơi vào điểm mù, tất cả đều tập trung tìm kiếm trong giới cổ vật mà bỏ qua một nơi cũng dồi dào tài nguyên, phải tội không mấy ai chú ý - bảo tàng.
Đồ sưu tầm trong Cố Cung lẫn các bảo tàng địa phương đều có giá trị hơn xa những món lưu thông trên thị trường. Chẳng qua vì văn vật trong bảo tàng không thể mua bán, không phải hàng hóa, chỉ phục vụ triển lãm nghiên cứu nên thường bị người trong giới cổ vật nửa vô tình nửa cố ý ngó lơ. Song thật ra bất luận là ở Trung Quốc hay nước ngoài, thì viện bảo tàng mới là nơi quy tụ văn vật đích thực.
Nghĩ tới điểm này, Yên Yên bèn tự đi mượn danh sách văn vật sưu tầm trong các bảo tàng ở Trung Quốc để tra cứu. Cuốn danh sách này rất dày, bên trong liệt kê văn vật chủ chốt trong tất cả các bảo tàng hạng một, hai và ba của Trung Quốc, mỗi năm năm lại cập nhật một lần. Danh sách đồ gốm sứ cực nhiều, may mà có hướng dẫn tra cứu rõ ràng nên cô có thể tra luôn được các chóe sứ vẽ tích cổ dưới thời Vạn Lịch nhà Minh.
Kết quả là tra ra được thật.
Ở Yên Đài, Sơn Đông có bảo tàng Thương nghiệp Phúc Kiến xây dựng vào năm 1958, là đơn vị sự nghiệp cấp huyện. Bảo tàng tổng hợp địa phương này quy mô không lớn nhưng có hoạt động học thuật rất mạnh. Sơn Đông tổng cộng chỉ có ba bảo tàng đủ tiêu chuẩn tiến hành công tác đào bới khảo cổ theo nhóm, thì đây là một trong số đó. Bảo tàng chủ yếu trưng bày các hiện vật về văn hóa buôn bán trên biển ở Phúc Kiến và đồ ngọc, đồ sắt, đồ đồng Sơn Đông, đồ gốm sứ khá ít, cũng chẳng có văn vật hạng một. Có điều trong danh sách đồ trưng bày lại có một chóe sứ thanh hoa vẽ tích cổ thời Vạn Lịch, chỉ không nêu thông tin chi tiết.
Nếu là người khác, có lẽ đã lướt qua. Nhưng Yên Yên tỉ mỉ cẩn thận, để ý thấy ghi chép này bèn nhờ bạn ở Yên Đài tới tận nơi xem, xác nhận hình vẽ trên đó đúng là Uất Trì Cung xông pha cứu chúa.
Chuyện này kể ra thật khó tưởng tượng. Ông Dược Lai hay Lão Triều Phụng đều là hạng lõi đời trong ngành này, Dược Bất Nhiên, Liễu Thành Thao, Âu Dương Mục Mục cũng là những tay sành sỏi trong đám trẻ tuổi, bấy nhiêu cao thủ hàng đầu đánh nhau sứt đầu mẻ trán, thậm chí mất cả mạng để tìm bộ chóe, vậy mà chiếc chóe “Uất Trì Cung xông pha cứu chúa” bày lù lù trong một bảo tàng nhỏ lại chẳng được ai nhìn ngó đến.
Chỉ có thể giải thích rằng đó là khoảng tối dưới chân đèn. Mọi người đều bị điểm mù tâm lý che mắt, chỉ chăm chăm vào thị trường cổ vật mà quên mất cổ vật không chỉ tồn tại trên thị trường.
Tôi chợt cảm khái khôn xiết. Chuyện này nói thì dễ nhưng làm lại khó. Đồ sứ thanh hoa nhan nhản trong các bảo tàng trên cả nước, chóe vẽ tích cổ cũng chẳng thiếu gì, phải xác nhận từng đặc điểm một, cuối cùng mới chốt lại được bảo tàng Thương nghiệp Phúc Kiến ở Yên Đài, hẳn là mất rất nhiều công sức. Yên Yên đã vất vả nhiều rồi.
“Cảm ơn em nhé, Yên Yên.” Tôi chân thành cảm tạ. “Ừm... không có gì, việc em nên làm thôi mà.” Giọng nói đầu kia hơi ấp úng, cô vội vã cúp máy.
Tôi thở dài, Yên Yên vẫn đang trốn tránh. Tôi cũng chưa biết phải giải quyết chuyện này ra sao, cảm thấy còn khó khăn hơn cả tìm thuyền Fukukou nữa.
Không nghĩ ngợi lung tung nữa, lo việc chính cái đã!
Tôi lập tức báo cho Dược Bất Thị. Hai chúng tôi mua ngay vé tàu chuyến gần nhất, chạy tới Yên Đài.
“Cậu phải tính trước xem tới nơi rồi thì làm thế nào.” Dược Bất Thị chống cằm nhìn ra rặng cây chạy ngược ngoài cửa sổ, bảo tôi.
Tôi ngồi trên ghế nhắm nghiền mắt, nghĩ kỹ mới thấy chuyện này đúng là hóc búa.
Mục đích của chúng tôi không phải cái chóe, mà là mốc định vị trong chóe. Nhưng giờ nó đang là hiện vật trong bảo tàng, đừng nói róc ra lấy mốc định vị, mà ngay muốn mở tủ kính sờ thử cũng phải báo cáo hết cấp này đến cấp khác. Chúng tôi không phải Lão Triều Phụng, không thể làm chuyện trộm cắp mà phải đi theo lối chính thống, ấy mới là vướng tay vướng chân.
Kể cả tôi dựa thế Minh Nhãn Mai Hoa gây áp lực, lấy được chóe ra, thì cũng làm sao róc nổi? Người duy nhất biết kỹ thuật Phi Kiều Đăng Tiên là bác Doãn đã hóa điên, không thể nhờ bác ta thi triển lần nữa được.
Ôi, cứ nghĩ tới mấy chuyện này là rối tinh cả đầu. Tôi thầm nhủ, tới đâu hay đấy vậy. Bất luận thế nào cũng phải lấy được nó ra cái đã.
Dược Bất Thị đọc vị ra ngay, liền cười nhạt, “Nếu thấy không ổn thì dùng cách của tôi đi.”
Tôi hiểu ý anh ta, con người này học kinh tế thì còn cách gì được chứ? Tôi vội nói, “Đó có phải tiệm đồ cổ đâu, cũng không nằm trong kế hoạch kinh doanh của anh với bà Sâm, đó là bảo tàng đấy, anh đừng có làm thế.”
“Mong là vậy.” Dược Bất Thị buông ba tiếng gọn lỏn rồi quay ra ngắm cảnh vật bên ngoài. Thấy anh ta không có hứng thú nói chuyện, tôi hài lòng ngồi nhắm mắt dưỡng thần. Bất giác tôi lại nhớ tới lần trước cùng Dược Bất Nhiên tới Thiên Tân, cùng là ngồi tàu, nhưng đi với gã thú hơn nhiều.
Dược Bất Thị thình lình nhìn sang, “Có phải cậu đang nghĩ đi với Dược Bất Nhiên vui hơn bao nhiêu không?”
Gã này... biết đọc suy nghĩ người ta à? Tôi vội cúi gằm mặt như học trò đọc truyện vụng trong lớp bị thầy tóm được. Dược Bất Thị nheo mắt nhìn tôi một lúc lâu rồi đổi tư thế ngồi, nói đầy thâm ý, “Kể cho cậu nghe chuyện về Dược Bất Nhiên nhé.”
“Hở?” Tôi ngẩn người, sao bỗng dưng anh ta lại nổi hứng kể chuyện vậy.
“Dạo Dược Bất Nhiên học cấp hai, trong lớp có một đứa con ông cháu cha mới chuyển đến. Thằng đó hoành hành ngang ngược, phách lối hết sức, thầy cô giáo cũng chẳng dám động vào. Kết quả chưa đầy nửa học kỳ, thằng lỏi đã bị kiểm điểm vì tội nhìn trộm phòng tắm nữ nên phải chuyển trường. Người khác không biết, song tôi biết rõ, tất cả là do Dược Bất Nhiên bày ra. Nó mất hơn một tháng, bất chấp nguy hiểm có thể bị phát hiện, khoét một lỗ hổng trên tường phòng tắm nữ, sau đó chọn đúng lúc cô hiệu trưởng đang tắm thì hẹn thằng kia đến bên tường, để thằng đó bị tóm tại trận. Bắt được cả người lẫn lỗ, chứng cứ rành rành, thằng con ông cháu cha kia đành phải tiu nghỉu chuyển đi.”
Chuyện này hay thật, hóa ra từ lúc học cấp hai, Dược Bất Nhiên đã tai ác vậy rồi.
“Cậu có biết chuyện này đáng sợ nhất là gì không?” Dược Bất Thị hơi cao giọng, ánh mắt cũng lóe lên sắc lạnh, “Ngoài tôi ra, chẳng ai biết là Dược Bất Nhiên làm. Họ không sao ngờ được một thằng nhóc cả ngày cười hì hì lại có thể bày ra cái bẫy độc địa làm vậy. Ngay cả tôi cũng chỉ đoán được dựa trên những dấu vết nho nhỏ từ hành vi thường ngày của nó. Để đạt được mục đích, Dược Bất Nhiên có thể hành động kín kẽ đến nhường ấy, đồng thời nó cũng giấu kỹ ý nghĩ thật sự của mình, chẳng để một ai thấy được.”
Tôi hít vào một hơi.
Dược Bất Thị nói tiếp, “Người khác thì ngoài mềm trong cứng, còn thằng em tôi lại ngoài cứng trong mềm, giữa còn phủ một màn sương. Chẳng ai nhìn thấu được nó rốt cuộc đang nghĩ gì. Cậu có hiểu ý tôi không? Nếu đối đầu với nó thì đừng ôm bất cứ ảo tưởng hay tâm lý cầu may nào hết, cũng đừng hòng suy đoán tâm tư nó. Xét trên một góc độ nào đó, nó còn khó đối phó hơn cả Lão Triều Phụng đấy.”
Dứt lời anh ta lại quay ra nhìn cửa sổ, bỏ lại tôi, giờ đã không sao ngủ nổi nữa.
Tới Yên Đài, chúng tôi không chút chần chừ, đi thẳng đến bảo tàng Thương nghiệp Phúc Kiến.
Bảo tàng Thương nghiệp Phúc Kiến ở Yên Đài nằm trong một ngôi nhà cổ khá đặc biệt, ấy là miếu Thiên hậu Mân Nam. Mái hiết sơn hai lớp, rường cột chạm trổ, phía trên lợp ngói lưu ly xanh biếc, vô cùng tinh xảo, đậm sắc thái Mân Nam. Năm xưa để cầu bình an khi đi biển, thương nhân trong đoàn thuyền buôn Phúc Kiến đã cho xây một loạt miếu thờ thần biển suốt dọc tuyến đường. Giờ người ta lại trưng dụng một trong những nơi đó làm bảo tàng nên mới gọi là bảo tàng Thương nghiệp Phúc Kiến.
Những bức điêu khắc đá tinh xảo trước cửa miếu và đại điện là một điểm đặc sắc ở đây. Đọc bảng chú thích thì năm xưa tất cả gạch đá ở đây đều được chuyển từ Tuyền Châu tới, quanh rường cột, đòn dông, mái hai lớp có đến gần trăm bức phù điêu đủ màu, cái nào cũng có điển cố. Tiếc rằng chúng tôi chẳng có bụng dạ nào thưởng thức, mua vội hai vé vào cửa rồi hối hả bước vào.
Trước tiên phải nhìn tận mắt, xác định xem có đúng chiếc chóe cần tìm không đã, rồi nghĩ cách sau.
Bảo tàng không rộng, khách tham quan thưa thớt, chẳng ai để tâm chăm chút bảng tên hiện vật. Giờ mọi người chỉ háo hức với buôn bán kinh doanh, bảo tàng lớn ở các nơi còn vắng, huống hồ bảo tàng nhỏ thế này.
Chúng tôi dạo một vòng, thấy bên trong trưng bày khá nhiều hiện vật, nổi bật nhất là quả cân sắt nạm đồng khắc chiếu thời Tần, chắc là hiện vật chủ chốt của bảo tàng. Đồ gốm sứ khá ít, nhưng cũng có tầm mười mấy món, chủ yếu là đồ nhà Thanh, ví như chén vàng hai quai men pháp lang thời Càn Long, cốc sứ thanh hoa vẽ bát tiên v.v..., chưa kể bình mai hoa văn dây cuốn của trấn Cảnh Đức thời Minh, bát men thiên thanh lòng loang tía lò Quân thời Nguyên, có cả mấy món từ lò Kiến Dương, lò Việt thời Tống.
Chỉ không thấy chóe thanh hoa vẽ tích cổ thời Vạn Lịch.
Chuyện này thật lạ. Rõ ràng Yên Yên đã nhờ bạn ở Yên Đài tới kiểm tra, xác định có thật kia mà. Sao chúng tôi vừa đến nó đã biến mất?
Hay là Lão Triều Phụng lại nẫng tay trên rồi? Tôi và Dược Bất Thị nhìn nhau, đều không giấu nổi lo âu. Lần này tới Yên Đài, ngoài Yên Yên chỉ có hai chúng tôi biết với nhau, lý ra không thể để lọt tin tức. Nhưng nếu đối thủ là Lão Triều Phụng thì cũng khó mà nói chắc.
Chúng tôi vội tìm người hướng dẫn hỏi han, nhưng đó chỉ là một cô gái trẻ, ngoài bài thuyết minh học thuộc ra thì chẳng biết gì hết. Cô bị chúng tôi hỏi đến vã cả mồ hôi, đành nói để đi xin ý kiến cấp trên. Ngờ đâu cấp trên đã đi công tác, chẳng biết bao giờ về.
Lúc này một người trung niên đeo kính đi đến, thái độ nhã nhặn, hỏi chúng tôi có việc gì. Anh ta là đàn ông Sơn Đông điển hình, khuôn mặt đen nhẻm, da nứt nẻ nhăn nheo, thoạt trông đã biết suốt ngày dang nắng. Chỉ có đôi mắt tròn ngời sáng, toát lên vẻ nho nhã.
Anh ta tự giới thiệu mình tên Lương Ký, trùng tên với một viên tướng chuyên quyền độc đoán dưới thời Hán, là chuyên gia của bảo tàng Thương nghiệp Phúc Kiến, tôi trò chuyện với anh ta mấy câu, Lương Ký đã sáng mắt lên, xoa tay mừng rỡ nói, “Các vị là dân trong nghề đây mà.”
Người Sơn Đông có tiếng nhiệt tình, hễ hợp chuyện là rôm rả như quen thân từ lâu. Qua cuộc nói chuyện, tôi được biết Lương Ký phụ trách công tác khảo cổ điền dã, có điều gần đây kinh phí của bảo tàng eo hẹp nên hoạt động khảo cổ bên ngoài phải tạm dừng. Anh ta chẳng còn việc gì làm nên chạy đến bảo tàng. Vừa rồi trông thấy chúng tôi gặng hỏi hướng dẫn viên, biết chúng tôi không phải khác