← Quay lại trang sách

Chương 9

Bọn khựa hoảng hồn chạy ngược lại phía sau. Một thằng nhỏ thó, áo quần xộc xệch cứ đứng huơ tay gào lên: chảng chồ, chảng chồ, chảng chồ. Chả hiểu chảng chồ là cái con mẹ gì. Tao nghĩ có khi nó sợ quá gọi bố gọi mẹ nên không bắn thằng ấy nữa. Nhưng về hỏi thằng trinh sát thì mới biết chảng chồ là đứng lại. Cái thằng hô lính đứng lại thì dứt khoát là chỉ huy. Tiếc thế đấy, nếu hiểu tiếng chúng nó, tao bọp mẹ cho nó một phát thì có khi thành anh hùng rồi cũng nên.”

Tấn gặp đại trưởng xin lỗi, đại trưởng cười khơ khớ:

- Cứ bắn chuẩn thế này thì lần sau cậu đái lên đầu tớ cũng được.

Từ sau cuộc đầu tiên, đây là lần duy nhất họ sử dụng xe tăng để mở đường đánh lấn sang ta rồi thôi hẳn, không điều đến loại này nữa.

"Ðại trưởng bảo tao, đánh nhau mà không có xe tăng nó cứ nhàn nhạt thế nào ấy. Cừ rừm.''

Ðêm xuống, bọn anh thay nhau gác. Quá nửa đêm không thấy động tĩnh gì, anh bàn giao cho đại trưởng rồi chui vào bụi cây nằm cạnh Tấn. Ðại trưởng ngủ quên, họ tiến vào mà không hề biết. Thật may là họ cũng không phát hiện ra bọn anh. Họ tưởng bọn anh đã rút hết nên đi lại, gọi nhau í ới. Lúc đại trưởng giật mình tỉnh dậy thì bọn họ đã vượt qua được Thung lũng oan khuất.

“Mày biết vì sao lại gọi là Thung Lũng Oan Khuất không? Vì cuộc đầu tiên có đến hàng vài trăm người cả dân lẫn lính mình bị chúng nó bắt được và đem phanh thây. Sau đó có một đoàn dân binh mò vào lấy đồ thì bị pháo dập, chết sạch. Từ đấy mới có tên là Thung Lũng Oan Khuất."

Bốn người bọn anh bấm nhau trườn sang bên trái, qua cái hỏm nối hai sườn núi để tránh. Ðại trưởng cân nhắc rồi quyết định sẽ vòng sang đánh tập hậu ổ số sáu. Trinh sát gãi đầu nói không biết ổ số sáu có bao nhiêu quân địch ở đó. Ðại trưởng bảo cùng lắm thì đến chục thằng, cứ quyết định tới đấy đã, mọi thứ tính sau. Ðại trưởng bảo bỏ tất cả quân trang lại, chỉ mang súng với lựu đạn, càng nhiều càng tốt, mũ cũng bỏ lại. Anh nhặt tám quả lựu đạn, nghĩ sao lại chỉ mang năm, lẳng ba quả cho Tấn. Tấn khỏe đến mức đạn đeo quanh người thành tấm áo giáp mà đi cứ phăm phăm như không.

Bọn anh vừa di chuyển ra xa được một đoạn thì phát hiện ra có thám báo. Hai tay mang dao và súng ngắn, đi tắt qua viền núi gần chỗ bọn anh.

“Thằng Tấn hốt hoảng giương súng định bắn nhưng may là đại trưởng kịp giữ tay nó lại. Nếu lúc ấy thằng Tấn bắn thì chắc là bọn tao khó lòng sống để lui ra được. Bắt buộc phải bắt sống hoặc thịt bằng dao. Tao nói mình gấp đôi chúng nó, cứ hai người túm một là xong. Ðại trưởng lắc đầu, cừ rừm bảo thám báo thường đi theo nhóm ba thằng, bây giờ mới chỉ có hai, cần phải chờ nốt thằng kia nữa. Chờ đến mấy phút mà không thấy thằng thứ ba lộ diện. Trong khi đó thì bọn Tàu rục rịch chuyển quân, chúng gọi nhau bằng kèn, thổi toe toe, buồn cười bỏ mẹ. Hai thằng kia nghe tiếng kèn thì loanh quanh, nhớn nhác, hết hít lại ngửi, lại cúi cúi dò tìm, toàn động tác của chó cả. Chỉ độ vài phút sau thì pháo của chúng nó từ tít phía sau nã sang khu vực của mình, ở bên dưới. Như thế tức là bộ binh sẽ tràn xuống để lấn sang sau khi pháo đã dập kỹ càng.”

Anh xui đại trưởng cứ thịt hai tay kia bằng súng vì tiếng pháo nổ to thế, khó mà nghe thấy. Ðại trưởng không đồng ý, cho rằng rất dễ phân biệt tiếng súng tiểu liên với tiếng pháo bắn tầm xa. Ðấy là kinh nghiệm mà đại trưởng có được từ đợt Tháng Hai.

Hai tay thám báo dừng lại nói với nhau như hai con chim. Ðại trưởng rút dao, anh rút dao theo, trinh sát với Tấn cũng rút dao. Ðột nhiên tay thứ ba lò ra. Bọn anh chưng hửng.

“Ðó là một thằng giống thằng nhóc, cao chỉ mét tư mét nhăm là cùng, người bé sắt lại, tao thề là có thể xách nó bằng một tay được, nhưng mặt nó lại già nhất.”

Ba tay thám báo ngồi xuống, lại láu táu với nhau. Ðại trưởng phất tay, cả bốn người bọn anh lao vụt tới. Nhìn thấy bọn anh, ba tay thám báo sợ quá, ngã ngửa ra, chân tay cứ chỏng lên, cứng đơ. Ðại trưởng cắm dao vào giữa tim của tay to nhất, cái tay có một vết chàm xanh lét trên mặt. Tấn với anh cùng chẹn họng tay thứ hai, còn trinh sát thì đâm liên hồi kỳ trận vào cổ tay bé nhất, cái tay mà lúc xuất hiện bọn anh tưởng là trẻ con.

“Chúng tao xúm lại lôi cả ba thằng khựa vào sâu trong khe núi. Tao với thằng Tấn túm hai chân hai tay lôi cái thằng bị bắt sống đi như lôi một con chó què. Sau đó tao quay lại xóa dấu máu. Thế quái nào mà máu nhiều quá, thành từng vạt loang hết trên đá, dây ra cả những ngọn cỏ ở ven đường. Máu trên đá thì tao với thằng Tấn đảo ngược lên để xóa được, chứ trên cỏ thì khó, thế là đành phải tuốt cỏ ở chỗ khác rắc lên.”

Khi anh quay lại thì thấy trinh sát với đại trưởng đang hỏi cung cái tay bị bắt sống. Tay đó sợ, mặt xanh nhợt, môi run bắn lập bập vào nhau, mắt cứ trợn ngược lên toàn lòng trắng. Ðại trưởng hỏi, trinh sát phiên dịch lại. Tay thám báo vừa nói vừa liếc nhìn con dao còn sẫm vết máu trên tay đại trưởng, như sợ rằng như nếu dừng lại thì sẽ bị đâm chết ngay lập tức. Tay đó nói nhanh đến mức trinh sát phải ngắt lời nhắc nhở nói chậm lại. Bọn anh biết phía sau tiểu đoàn này còn có một tiểu đoàn phối thuộc nữa đang đến tiếp ứng để đánh nống xuống. Ðại trưởng chuyển con dao lên gại gại má càng làm cho tay thám báo khiếp đảm. Ðột nhiên tay đó không nói nữa, ngã vật ra, co rúm người lại, hai tay chộp lấy đầu giấu sâu trong cổ. Tay đó

nằm thành một hình tròn. Ðại trưởng nghĩ ngợi rồi nói với trinh sát:

- Bảo nó ngồi dậy, khai tiếp thì cho sống.

Trinh sát nói một tràng. Nghe xong tay thám báo hé mắt nhìn bọn anh sau đó rụt rè ngồi dậy, mắt tràn đầy hy vọng. Ðại trưởng hỏi kỹ càng số quân từng vị trí của bọn họ. Khi đại trưởng giở bản đồ, chỉ vào ổ số sáu thì tay thám báo khai ở đó chỉ có bốn lính với một khẩu đại liên, một cối sáu hai li.

- Hỏi nó mật khẩu.

Ðại trưởng nhắc trinh sát. Tay thám báo vừa khai ra mật khẩu, đại trưởng bước một bước rất dài lại và phất tay. Một chớp trắng xẹt ngang qua. Tay thám báo ngật hẳn ra sau, hai chân giãy đạp kịch liệt cày tung tóe cả đá. Vết dao bay ngang cắt cuống họng toác ra và máu cứ ồng ộc xối ướt hết thân tay thám báo.

“Hai tay thằng thám báo bóp chặt lấy cổ để bịt máu nhưng không được. Máu ùa ra các kẽ tay nó, chảy rào rào như nước mưa đổ từ mái hiên xuống. Tao nhìn vào mắt nó thấy chao đảo như mây. Những đám mây mày vẫn thích. Cừ rừm.”

Anh với Tấn lại hì hụi xóa dấu vết sau đó theo trinh sát vòng qua ổ số ba, tiếp cận ổ số sáu, cái ổ quan trọng làm nhiệm vụ yểm trợ cho những đợt nống xuống của địch. Bọn anh mò vào sát cái công sự chất bằng bao tải cát, thấy súng đạn để rải khắp nơi. Bốn tay lính mặt non choẹt mải nhai lương khô đến mức khi bị bắn chết mồm tay nào tay ấy còn đầy khựa, còn nhoe nhoét cả.

“Không cần phải dùng đến mật khẩu. Cừ rừm. Tao bắt chước thằng Tấn nhặt lương khô bảy linh hai của bọn khựa tranh thủ ăn cho đỡ đói. Mày biết không, những vết đạn pháo từ cuộc đầu vẫn còn nguyên ở chỗ mà bọn tao gọi là ổ số sáu này.

Lại keng keng rồi. Lúc đếch nào cũng phải ngủ đúng giờ. Cừ rừm cái trại điều dưỡng ngớ ngẩn.”

Dấu chấm đậm đà thông báo rằng thật tình thì chính anh cũng không muốn viết nữa. Là mình đoán thế.

Không hiểu sau khi viết lại những dòng này, anh ngủ, có mơ thấy súng đạn nữa không? Mình chưa bao giờ hỏi anh câu đó. Bọn anh chiếm ổ số sáu, nhưng sau đó bị vây gọng kìm, phải liều lĩnh tìm đường thoát ra.

Trong sổ ghi của anh, lần thứ hai xuất hiện tiếng họ: Thản xâu.

Trang vẫn ngồi lì trong xe, chắc đã quá chán ngán cái cảnh núi non này rồi. Không có mục đích thì chỉ cần nhìn núi một lần là đủ cho một đời. Lái xe tè xong, vừa kéo khóa quần vừa tiến lại gần mình, nét mặt thỏa thuê, nhẹ nhõm:

- Hồi trước còn thấy rõ những hố pháo cơ, bây giờ cây cỏ lấp hết cả.

- Nếu tinh mắt vẫn còn thấy. Nhìn cái hủng hoắm xuống kia không? Chín người bị chôn sống ở đấy đấy.

Hắn đến cạnh từ lúc nào, nói oang oang

- Chín em trong đội văn nghệ quân đoàn bị bắt rồi bị đem chôn sống dạo tháng hai.

- Không hiếp à?

Mình buột miệng hỏi rồi ngẩn ra vì thấy câu hỏi của mình quá thô lỗ. Hắn lắc đầu, giọng hơi chút tư lự:

- Khi bọn địch rút, người ta đào lên thấy trong miệng cô nào cũng nhét đầy truyền đơn.

Họ được bới lên và đưa về chôn tại nghĩa trang của huyện. Lần nào đi công tác qua hắn cũng vào thắp hương cho họ, cho chín cô gái văn công đó. Mình thắc mắc tại sao biết là bị chôn sống thì hắn bảo những người trốn trong núi nghe tiếng họ kêu gào mà không dám ra cứu vì bọn địch còn đóng ở đó. Mình cho là cực vô lý, theo hắn nói miệng cô nào cũng nhét đầy truyền đơn thì làm sao mà kêu được. Hắn hơi ngẩn ra rồi xua tay như đuổi tà:

- Thì nghe nói lại thế, bản thân tôi cũng có nhìn thấy quái đâu.

Khói thuốc lại lẫn với làn không khí đặc quánh bay lờ lớ lơ trên miệng vực.

- Chết rồi chúng nó mới nhét truyền đơn vào.

Lái xe nói hơi dằn như có ý cảnh cáo sự nghi ngờ của mình với sếp của anh ta.

Trang sốt ruột mở cửa xe bước xuống. Từ cái hũm đó lần ra xung quanh thấy còn rất nhiều những vùng lồi lõm khác chẳng hiểu có phải do đạn pháo hay tự nhiên mà thế. Cỏ và cây làm nhòe đi hết cả. Tuồng như hối hận vì đã bực với mình, hắn chỉ tay sang ngọn núi kế tiếp bảo đó chính là cổng trời. Năm ấy tại đây đại quân của họ bị một trung đội dân quân tự vệ ta cầm chân mất hai ngày không nhích lên được. Cánh thám báo luồn sang phía Ðông, tìm thấy một khe núi và đã đặt cối cá nhân câu từ đó sang cổng trời. Cả trung đội dân quân tự vệ chết không còn một ai và đạo quân lớn của họ lại rầm rập vượt lên, sau đó từ cổng trời đổ tràn xuống như một dòng lũ ngạo mạn, khinh khi. Ðó là lúc cả nước nôn nao, phấp phỏng.

Có tới vài cổng trời ở vùng này mà không xác định được cái nào chính, cái nào phụ. Mình nghĩ đây là lý do khiến cho rất nhiều người biến mất.

Trang đang ngó những ngọn samu xanh đen, hoăn hoắt như những đầu mác hung dữ. Nắng vàng rộ xòa trên những dãy núi xa, bầu trời dày đặc mây mà chẳng đám nào ra hồn. Lái xe nhìn đồng hồ nhưng không có vẻ sốt ruột. Hắn thọc hai tay vào túi, hơi ưỡn bụng ra trước trông vừa ngông nghênh, xấc xược, vừa dâm đãng.

- Mình đi được chưa các anh?

Trang giục khi thấy nắng xói lên đỉnh đầu.

Xe xuống thấp phía dưới và tiến vào thung lũng với những bãi ngô được khuôn lại bởi hàng rào đá xám xếp rất khéo. Mình nhớ lời của cậu lễ tân nói về cái ma trận đá, nhủ thầm nếu đây chính là ma trận ấy thì cậu ta ngoa ngoắt quá. Ngô mới chỉ cao xấp xỉ đầu gối. Từng đám, hai ba người lởn vởn ở giữa những bãi ngô, áo quần cũng xám như đá, nếu nhìn thoáng qua dễ nhầm họ là đá. Thi thoảng ở các bờ đá có cắm một chiếc que trên đó buộc túm mấy dải không rõ giấy hay vải, màu sắc lòe loẹt, khe khé. Những dải ấy lật phật vờn lên khi có gió sau đó lại xuôi xuống thõng thượt, tang tóc và tiềm ẩn những cảm giác chết chóc.

- Bùa đấy.

Thấy mình cứ ngoái nhìn theo những dải màu lùng bùng ma quái ấy, hắn giải thích, giọng ráo hoảnh.

- Khiếp.

Trang buột miệng, mặt nhăn lại. Hắn nới cổ áo. Qua kính chiếu hậu mình thấy hắn nhếch môi khinh khỉnh. Xe rồ nhanh hơn. Một con lợn xồng xộc đuổi theo xe, nó đen đủi, gọn gàng, bước chạy thoăn thoắt. Hắn gõ gõ ngón tay vào kính xe, bảo:

- Loại này mà ăn thì phải biết, chả kém gì lợn rừng.

Lái xe dí thêm:

- Lợn rừng chính hiệu chứ còn gì nữa.

Nếu như thế thì những đàn gà lục cục ven đường kia cũng là gà rừng. Mình vui vẻ nói ra điều ấy, lái xe đồng tình ngay, bảo gà rừng cũng chỉ vậy thôi có khác gì nhau đâu.

- Tóm lại thì ở trên này không phân biệt được đâu là của nhà, đâu là của rừng - Hắn mon men pha trò, ngoái cổ nhìn Trang, nhấp nhẳng - Cho nên cũng không phân biệt người nhà hay người rừng.

Cả bọn cùng cười. Lái xe nói:

- Em Trang cẩn thận đấy, bị nhầm với gái bản là không về được dưới xuôi đâu.

Trang hùa theo:

- Em cũng đang mong như thế, có khi lại hay.

Hắn rống lên:

- Lại có thằng khóc hết nước mắt.

Ðúng lúc đó điện thoại của Trang đổ chuông. Nghe cách nói chuyện, mình biết người gọi là ông Chiến. Mặt Trang bình thản, giọng vẫn đều đều vâng dạ nhưng nhìn tay cầm điện thoại mình đoán có gì đó không tốt. Khi Trang cất máy, mình vờ ngó ra ngoài, coi như không hề quan tâm tới cuộc nói chuyện ấy. Hắn lại ngả đầu ra sau, mắt nhắm lại. Cú điện đã cắt đứt hẳn cuộc nói chuyện vui vẻ tếu táo. Bánh xe rèn rẹt lăn. Phía trước, ở lưng chừng dãy núi xanh lam chắn ngang như bức tường thành, con đường hiện ra, nhỏ như nét vạch bằng đầu đinh hằn sâu vào thân núi. Phải lên đến sáu tầng, trông rợn gáy. Mình bảo Trang:

- Bọn mình sẽ đi đường ấy.

Trang ngó theo tay mình với vẻ hờ hơ, dù cao hơn nữa, sáu chục tầng thì cũng đâu có gì đáng bận tâm. Dãy núi chắn ngang đã ngay sát mũi xe và ở chỗ có cây gạo to đến ba người ôm chưa chắc đã hết vòng, chân dốc bất ngờ chìa ra.

- Bắt đầu rồi.

Hắn nói, sửa lại tư thế ngồi cho vững. Bên trái, phía mình ngồi, không thể nhìn thấy gì vì vách núi bịt kín, còn bên phải, chỗ Trang lại trống hoác đến phát ớn. Mình hỏi Trang có cần đổi chỗ cho đỡ sợ không thì Trang không đáp, chỉ lẳng lặng lách sang tráo vị trí. Có đoạn vào cua, đuôi xe thò hẳn ra ngoài mép vực, những lúc ấy mình gần như nín thở. Xe bò lên đều đều, bền bỉ. Sức mạnh vô cảm của máy móc phát huy ở những chỗ này. Tai mình bắt đầu ù đi vì áp suất thay đổi.

Tiếng xe từ lúc nào không rõ ràng nữa mà lùng bùng, mờ nhạt như bị chặn bởi một tấm kính dày. Mặt lái xe không căng thẳng nhưng rất tập trung. Chỉ có hắn và Trang là bình thản đến mức đáng khâm phục. Ðã qua được một khoanh, có thể nhìn xói thẳng xuống giữa đỉnh cây gạo. Nới rộng tầm nhìn hơn chút nữa thì phát hiện ra cái thung lũng mình vừa đi qua khá rộng, có hình dáng giống với hình dáng của bản đồ thành phố Hà Nội. Méo mó, nham nhở như chiếc lá bị sâu gặm từ ngoài vào. Thung lũng thường là nơi giao cắt các nền văn hóa, hắn bảo thế, theo hắn, nơi này là điểm gặp giữa văn hóa Sơn Vi với văn hóa Bắc Sơn và một phần của văn hóa Hòa Bình. Không hiểu do giọng hắn hay do sự xa xôi của các nền văn hóa mà mình nghe thấy ù rè ghê gớm.

Trang mở điện thoại, thấy không có sóng thì nhét luôn nó vào cái hõm dùng để gạt tàn thuốc lá ngay trong cánh cửa xe. Mình hỏi lái xe độ cao trên này bao nhiêu. Mình nói rất to mà nghe tiếng vẫn nhỏ cho nên nghĩ có thể lái xe không nghe thấy. Nhưng anh ta đáp ngay:

- Hơn hai nghìn.

Có lẽ còn lâu mới lên được tới đỉnh.

Bây giờ thì xe đang ro ro trôi xuống theo quán tính.

Bọn họ đã gà gật, cái chủ đề về quặng bán sang bên kia bị bỏ lại đến cả chục cây số. Trang cũng ngủ, cái đầu nhỏ bé gật gù, lúc sang trái khi sang phải. Mình không buồn ngủ, cũng có thể mệt quá mà thành ra không ngủ được.

Lái xe nghiêng người khổ sở và chiếc xe lượn một đường xóc óc vào cua. Ánh đèn chiếu thẳng vào ta luy, có thể thấy những cây dương xỉ loại nhỏ lá khía và những khúc gỗ mục nhấp nhánh ánh lân tinh lẫn bên dưới các đám cỏ khô xác.

Có một người còn tỉnh táo, mình không hiểu họ phân công nhau từ lúc nào. Một người tỉnh táo, im như khối sắt, lạnh lùng, dữ dằn như khối sắt. Nếu bây giờ xe lao xuống vực, luôn luôn mình giả thiết thế, thì bọn họ ngủ vĩnh viễn luôn. Ở những cung đường thế này thì ám ảnh người ta không phải là đỉnh cao chất ngất của núi mà là sự tăm tối thẳm sâu của vực. Lái xe huýt sáo, thoạt tiên mình không rõ bài hát gì vì giai điệu nghe lạ hoắc, dần dà mới nhận ra đó là Thiên Thai. Thật khó hình dung Thiên Thai được huýt sáo bởi dạng người này, trong cái đêm mịt mùng dềnh doang này. Có một mùa đào rong ngày tháng chưa tàn phai một lần, mình khoái câu đó nhất, chính xác hơn là khoái cái giai điệu buông hờ hững của nó, nhưng xem ra lái xe bắt không đúng nhịp cho nên giai điệu trở thành nhễu nhợi.

- Bài gì mà nghe quen quen thế nhỉ?

Khối sắt - cái người cao to nhất - kẻ tỉnh táo còn sót lại tò mò. Lái xe cố huýt cho hết rồi mới thủng thẳng bảo:

- Của Văn Cao.

Lại một cua nữa lần này xem ra có vẻ gấp hơn, sát sàn sạt hơn vì thấy hai tay lái xe gần như bắt chéo nhau. Người mình đổ nghiêng về một bên, những kẻ ngủ cũng xô nghiêng theo. Con đường loáng lên như dòng nước xiết và êm.

- Con em gái em mới thực sự là fan hâm mộ của Trịnh.

Lái xe nói, giọng khô khốc. Người to cao sửa lại tư thế ngồi, đầu nhô về phía trước như sắp sửa lao ra khỏi xe.

Có đám cháy lớn ở sườn núi. Lửa đỏ nhoi nhói từng đám cùng với khói đặc quánh. Nhưng chỉ nhìn thấy khói khi nó còn trong tầm hắt sáng của lửa, cao hơn, xa hơn thì nó lẫn với cái bàng bạc của sương.

- Anh nhớ lần mình vào Tây Nguyên săn tụi thằng Mạnh sẹo không? Dân nó đốt mấy khu rừng toàn lim với táu cỡ vài người ôm mà chả thấy xót gì cả.

Lái xe lên tiếng. Người kia ậm ừ:

- Dân nào cũng vậy, đói là đốt tất. Ðến cả cung vua phủ chúa họ còn đốt, sá gì lim với táu.

Bây giờ thì đổ dốc gần như thẳng đứng, lái xe dận chân phanh dí dị mà xe vẫn lao với tốc độ khá lớn vì toàn bộ trọng lực đều dồn hết về phía trước. Ðám cháy cứ chờn vờn, day dứt. Mình nhớ lửa từ thân thể Vân Ly. Ðêm ấy lửa cũng day dứt như thế, nhưng giãy giụa tợn hơn rất nhiều. Em thề không làm gì cả, có làm gì đâu. Nếu chị làm gì thì cho chị xin lỗi. Nhưng với lửa thì lời xin lỗi là vô ích. Lửa lượn lờ ma quái trên khuôn mặt Trang, sờ sẫm, vuốt ve mặt thằng Quých và thằng Hiệp. Khi ấy có điện thoại của ông Chiến gọi và mình thấy Trang vừa nhìn lửa vừa bình thản nói: “Em đang ở hàng vịt quay Bắc Kinh.” Bây giờ Trang cũng đang gà gật như phần lớn bọn họ. Cái cổ nhỏ nhắn, hơi gầy, cong cong về phía trước như ngọn măng nhỏ. Mình rất hay hôn lên cái hõm cổ ấy vì Trang thích. Trang bảo ngày bé bố cũng hay thơm Trang như thế. Ðó là lần thứ hai, cũng là lần cuối cùng mình nghe Trang nhắc tới bố. Mình cũng chỉ biết rằng bố mẹ Trang mất khi Trang mới chín tuổi. Trong Trang còn gì nữa, hay chỉ là cái thế giới hoang liêu mà mình từng nhìn thấy? Chiếc áo màu tím nhạt hơi ửng sang vàng hồi chiều mình còn thấy rõ các nét in hoa chìm cầu kỳ tinh xảo, bây giờ đã lẫn với bóng tối thành một mảng. Vân Ly cũng mặc cái áo ấy, y chang thế, mình biết nó được mua tại cùng một địa điểm và do một người mua. Trang đã tặng Vân Ly một chiếc. Áo của Vân Ly chắc đã cháy nham nhở, đã phát tán theo gió thành những vụn li ti trên cánh đồng vắng lập lờ ấy. Lúc lửa bén vào áo Vân Ly, tốc lên phần cổ, mình thấy vải vặn xoắn lại, đau đớn tột cùng, sau đó bở tung ra bất lực như bàn tay co lại rồi duỗi vào phút cuối. Áo Trang thì vẫn đang ở ngay cạnh mình.

Lái xe đã chuyển hẳn câu chuyện sang cô em gái của anh ta từ lúc nào mà mình không rõ. Em gái của anh ta số cũng long đong, chồng đẹp giai, hiền lành, nhưng con cái thì lại khó đến mức bế tắc. Mình có cảm tưởng như anh ta đang nói về chị Thu.

- Chúng nó tốn đến cả mấy trăm triệu mà chả ăn thua gì.

Lái xe phân trần với người to cao, giọng xa xót thay cho cô em gái.

Mình rất muốn nói với lái xe rằng người đã mê nhạc Trịnh thì số phận không bao giờ suôn sẻ cả.

- Con gì kìa?

Người to cao hỏi. Lái xe đáp:

- Chồn. Mắt bắt đèn thế chỉ có chồn.

Con chồn không cắt được mạch chuyện thân phận cô em gái của lái xe. Mình thấy lái xe nói nhiều hơn bình thường, tuồng như để chống lại cơn buồn ngủ.

Anh Thuận bảo, nói nhiều chính là tổ sư của bệnh trầm cảm.

Anh bỏ nhà đi đâu đó hai ngày, vừa mới về. Quần áo, râu tóc tươm tất như đi chơi chợ tỉnh. Tra hỏi mãi cũng không nói. Mình đoán anh về thăm trại điều dưỡng cũ, bác Lâm cũng đoán thế, nhưng mẹ quả quyết không phải, còn anh đến đâu mẹ cũng chẳng biết.

Anh có tiền, cỡ hai triệu, toàn loại mới coong. Anh không đưa cho mẹ mà đem phát cho trẻ con trong thị xã mỗi đứa một tờ. Bọn trẻ láu cá, cứ tráo nhau luồn ra luồn vào, mỗi đứa được đến ba bốn tờ. Bác Lâm xót tiền, mò sang gây chuyện bảo anh là loại bất hiếu, vô tâm. Có tiền không đưa cho người nuôi mình mà đem dán đít thiên hạ. Anh cự lại anh có tiêu chuẩn đàng hoàng, nhà nước trả tiền để mẹ nuôi anh, mà có khi mẹ còn cấu véo thêm vào đấy nữa là đằng khác. Bác Lâm lại vỗ bồm bộp vào hạ bộ gầm lên:

- Mấy cái đồng trợ cấp của mày có mà... - Tự dưng bác ghìm lại được, thở đánh sượt, bảo - thằng này hết thuốc chữa rồi.

Chuyện anh vung vít hết hai triệu trở thành đề tài đàm tiếu cho cả thị xã. Sau đó anh lại thu lu cả ngày trong góc của mình, hai mắt trợn trạo, thao láo trông rất ngỗ ngược.

Hôm mình về thị trấn lấy dấu xác nhận bản kê khai lý lịch cũng đúng lúc anh nhấp nhổm đi lần nữa. Mẹ chỉ cái ba lô lép xẹp của anh đang để ở bậu cửa, lắc đầu không nói gì. Anh đang cạo râu trong nhà, thấy mình liền xẵng giọng:

- Về làm gì?

- Anh định đi đâu đấy?

Mình hỏi ngược lại.

- Không liên quan tới mày.

Anh yếu ớt đáp trả, cất con dao cạo râu vào túi ngực áo.

- Em biết anh đi đâu rồi, em biết cả tiền anh lấy ở đâu nữa.

Anh ngồi sập xuống, qua luồng sáng chiếu xiên từ cửa sổ vào, khuôn mặt anh hốc hác hơn trước rất nhiều. Nhưng đôi mắt anh mới làm mình thắt ruột. Ðôi mắt thật lạ, cứ lóng lánh trong màu đỏ tươi như nước quả dâu.

- Tại sao anh lại lấy tiền của họ?

Mình nghiêm giọng hỏi. Anh hơi giật mình, hai bàn tay vấu váp xoắn nhau, đảo lên lộn xuống như hai đô vật.

- Chúng nó cho tao - Mãi lâu sau anh mới đáp thất thanh - tao không xin. Cừ rừm.

Mình lắc đầu cay nghiệt. Anh lại đuội ra, quai hàm nhay nháy như đang nhai kẹo cao su:

- Tao không có gì cả cho nên tao có quyền đòi hỏi.

Mình ngồi xuống cạnh anh, biết rằng mẹ đang lắng nghe từng lời ở bên ngoài. Mình thấy anh có vẻ tỉnh táo, sáng suốt.

- Họ không nợ nần gì anh.

- Thế bọn đéo nào nợ tao?

Anh gân cổ hỏi, mắt lại song sóng đỏ.

- Không bọn nào hết.

Mình dằn giọng đáp. Anh ngẩn ra, quai hàm ngừng nhai. Hình như anh bắt đầu nghĩ ra xa hơn vì mình thấy màu đỏ dịu đi, nhưng ngay sau đó nó lại bùng lên dữ dội hơn. Màu đỏ không phải của nước quả dâu nữa mà của máu. Anh quài tay đấm vào mặt mình. Cú đấm không trực diện, đường cua chéo nên mình tránh được và anh ngã lăn xuống nền nhà. Mẹ xô vào. Anh còn nằm chỏng vó lên, đầu cố gượng để khỏi tì hẳn xuống đất. Mình rất muốn đá cho anh một cú nhưng bắt gặp cái nhìn buồn nẫu của mẹ thì bỏ ra sân. Bác Lâm sang hỏi, mình nói dối là anh bị ngã. Bác Lâm vuốt bụng bảo:

- Tưởng gì, thằng ấy có ngã vào tàu hỏa cũng kệ mẹ nó.

Mình nhìn ra ngõ, thi thoảng một chiếc xe máy vè vè phóng qua. Những nóc nhà lô xô khập khễnh với đủ màu sắc, đủ chất liệu. Tự dưng mình có cảm giác con ngõ dẫn vào nhà mình như ngắn hơn và ngôi nhà của mẹ con mình nhỏ đi.

Bác Lâm kéo mình sang nhà bác. Sân bày chạt tượng. Chùa Vận Phúc mới sửa lại, nới rộng ra nên thêm nhiều tượng. Những tiếng gõ chi chát ran khắp nơi. Mùi gỗ ngai ngái trộn với bụi mùn vẩn lên khiến mình hắt hơi liên tục. Một bức tượng phật to, cao đến gần hai mét đặt bệt dưới đất. Ðài sen chưa được ghép, những cánh sen bằng gỗ to lớn văng vít trông giống như bông sen tàn. Bác Lâm hỏi:

- Mày thấy ông này thế nào?

Sẵn cơn bực tức trong người, mình nhệch miệng dè bỉu:

- Phật phọt gì mà mặt nhạt như nước ốc.

Bác Lâm không vừa lòng:

- Ngứa cả đít.

Bác vùng vằng nhưng lại dúi vào tay mình nắm tiền, hạ giọng:

- Cho vào túi ngay đi.

Mình theo bác vòng ra dãy tượng la hán nhỏ ở cuối sân.

- Cố mà làm việc cho nó tử tế - Bác nói, tay gõ công cốc lên đầu các pho tượng để kiểm tra - mày mà đéo ra gì nữa thì mẹ mày đổ mất.

Thái độ của bác chân tình, hơi chút xa xót. Mình thấy cay cay sống mũi.

- Thằng kia có chửi thì chửi thế, chứ nó cũng là đứa gánh nạn cho cả họ.

Bác nói xong bỏ vào nhà. Cái dáng to, thô với bước chân thình thịch của bác làm mình nhớ tới bố.

- Mẹ cái lão già kia, có giỏi ra đây, ông thì ông cho một phát.

Tiếng anh réo the thé ngay sát hàng rào. Mình chạy vội ra thấy anh đứng chống nạnh, mặt vênh lên. Hai bên hông anh đeo lủng lẳng hai hòn đá được buộc bằng dây dù, sau lưng khoác chéo một thanh gỗ. Thấy mình anh hùng hổ bảo:

- Lùi ra để tao nã cho nó mấy viên chết bỏ đời nhà nó đi.

Anh gỡ cái thanh gỗ ra, kẹp vào nách, lia một vòng, miệng kêu rẹt rẹt. Ðám thợ bỏ làm chạy xộc ra xem càng khiến anh hăng tiết vịt.

- Mày đã bằng mấy thằng khựa chưa.

Anh rống lên. Mình nhắm mắt lại. Một cái gì đó đang rời đi vĩnh viễn. Bác Lâm đứng ngẩn tò te nhìn anh.

- Mày đã bằng mấy thằng khựa chưa?

Anh rống lần nữa, như tiếng dội lại từ vách núi. Sau đó anh ngã quay ra đất, chân tay giãy đạp, miệng sùi bọt. Mình xốc anh lên vai vác về nhà và nhận ra anh nhẹ như một đứa trẻ. Anh oằn oại trên vai mình, thều thào:

- Khéo mất lựu đạn của tao.

Mình giật hai hòn đá ném ra xa. Tiếng đục chạm lại chi chát ran ran. Phía sau anh em mình là mấy chục pho tượng Phật chờ điểm nhãn.

Ðến chiều thì anh nằng nặc khoác ba lô ra đi. Cố mấy cũng không tài nào thuyết phục nổi anh nên mẹ phải nhờ đám thợ của bác Lâm sang trói nghiến anh vào cột nhà. Anh chửi, chỉ có một câu, lặp đi lặp lại, thống thiết:

- Chúng mày trói ông thế này, Tàu nó mà sang thì lấy ai ra cản.

Anh chửi suốt đêm đến tảng sáng thì im. Mẹ nghĩ anh mệt nên để anh ngủ đến gần trưa mới vào xem thì anh đã biến mất. Dây trói bị cắt bằng dao. Rất lạ ở chỗ làm cách nào mà anh có thể lấy dao và tự cắt dây được vì tay anh bị trói quặt ra sau. Bác Lâm nghe mẹ thắc mắc thì nói xua đi:

- Nó là lính chiến, việc này ăn thua chó gì.

Từ đấy anh thỏa sức lang thang vạ vật. Ðôi ba lần mình gợi ý nên đưa anh về trại điều dưỡng nhưng bác Lâm không đồng ý. Bác lý luận nếu về trại điều dưỡng, họ sẽ cho vào khu điều trị tâm thần mà ở đấy thì đối xử chả khác gì con vật. Thà bằng cứ để anh ở ngoài cho nó thoải mái. Mình nghe cũng bùi tai nhưng sau này mới hiểu đó là ngụy biện. Lý do chính không phải bác thương anh mất tự do mà sợ mẹ mất đi số tiền trợ cấp của anh. Nếu chuyển anh về chỗ cũ thì hiển nhiên chẳng có gì ở lại với mẹ mình nữa. Số tiền sẽ rơi vào tay trại, có thể vài cá nhân nào đó sẽ hưởng nó vụng trộm.

Ðược lang thang anh khỏe ra, dẻo dai hơn, không là gánh nặng cho người thân nữa. Thời gian đầu mẹ còn nghe ngóng dõi theo những bước lang thang của anh, còn sầu não tím tái vì những lời bàn tán của dân thị xã, nhưng sau rồi mẹ cũng quen dần đi và đôi lúc mình thấy mẹ coi như anh vẫn đang ở trại điều dưỡng như hồi xưa.

Mình cũng chẳng có thời gian quan tâm nhiều tới anh nữa. Khi được quyết định tăng lương lần thứ ba, mình sung sướng bắt xe khách về nhà chơi. Mình ăn vận tinh tươm, chững chạc đúng như một viên chức nhà nước. Qua Phổ Yên, ngó xuống cửa hàng vợ chồng Hằng thấy xe máy tháo lốp xếp hàng dài chờ thay. Mẹ dọn nhà gọn gàng, sạch sẽ hơn mọi lần. Bước vào, mình giật nảy vì chỗ anh hay ngủ trước đây có một người to lớn ngồi lù lù ngược chiều với ánh sáng. Hóa ra đó là một bức tượng la hán. Vì thiếu chỗ nên bác chuyển tượng sang để tạm mấy bữa. Mình loanh quanh nửa buổi thì thấy chán. Sau khi đấu tranh mãi, mình quyết định hỏi mẹ về anh. Mẹ lại thoắt buồn bảo nghe đâu anh không ở Ðu nữa mà về Ðồng Hỷ. Sáng hôm sau mình lấy xe máy của bác Lâm đi ngược tới trung tâm của huyện Ðồng Hỷ, nhẩn nha, vừa ngó cảnh, vừa để mắt kiếm anh. Ðến ngã ba trung tâm, nơi có vòng xuyến lớn, mình hỏi người bán nước mía, chị này nói cũng có người tâm thần ở đây nhưng hai hôm nay hình như đã chuyển ra bờ sông. Mình vòng xe rẽ vào con đường người đàn bà bán mía chỉ. Lối nhỏ oằn èo, xệu xạo dẫn ra rìa sông nhỏ, một nhánh của sông Cái. Vẫn không thấy tăm hơi anh đâu, chỉ những bãi rau xanh mướt trải dài ra tận mép nước. Mình biết chắc chắn anh không thể ở đây vì chẳng có vị trí nào khả dĩ để anh có thể ngả lưng.

Quay trở lại trục đường chính của huyện thì gặp anh ngồi dưới gốc cây xà cừ rất to, phía trước cổng ngân hàng huyện. Mình dừng xe ngắm anh từ xa. Áo quần anh rách nhiều hơn, bẩn hơn nhưng người thì vẫn thế, vẫn xương xương, tóc bờm xờm, sống mũi cao sổ thẳng từ thùy trán xuống. Anh ngồi bó gối, chiếc ba lô rách nhừ lòi ra đủ những thứ chứa bên trong nó. Một người phụ nữ dắt xe từ trong ngân hàng đi qua trước mặt anh. Anh ngẩng lên, đưa tay trái gá chéo góc trán như chào chỉ huy. Người phụ nữ gật đầu mỉm cười vẻ độ lượng rồi nổ máy xe. Mình tiến lại gần. Anh như vừa bước ra từ trận chiến, mặt loang lổ những vết bẩn, râu tua tủa, bơ phờ, một khúc gỗ tròn nhẵn bóng bắt chéo sau lưng. Không hiểu anh kiếm “khẩu súng” ấy ở đâu. Có vẻ như anh hơi nhận ra mình, chỉ là hơi thôi, vì mắt anh sáng lên rất nhanh sau đó lịm lại như cũ. Mình tắt máy xe, dựng chân chống, cúi xuống bảo anh:

- Về nhà đi.

Anh xích ra nhường chỗ cho mình ngồi, lắc đầu:

- Tao còn phải luồn sâu đánh cho mấy thằng chó chết ấy biết mặt đã. Cừ rừm. Cứ về trước đi, khéo dính

mìn đấy.

Mắt mình cay xè. Mình không khóc nhưng cổ thì nghẹn lại. Từ anh phả ra mùi khó chịu, vừa chua vừa tanh. Vài ba người tò mò ngoái nhìn anh em mình.

- Ðói không?

Mình hỏi, rất muốn quàng tay ôm lấy anh nhưng hơi ghê ghê. Anh lại cười hiền lành mắt song sóng đỏ. Lúc này mình mới thấy giữa mình với anh có một khoảng cách vời vợi. Tim mình đau thắt. Ước gì anh trở lại như ngày xưa, như cái thời hai anh em còn bé, chạy rồng rồng dọc bờ sông hò hét, bẻ cây múa kiếm, vật nhau tung tóe trên dòng nước đỏ lừ phù sa. Mình mạnh dạn cầm tay anh, bàn tay xương xẩu, nóng rần rật như một con chim. Anh rụt phắt tay lại, quắc mắt.

- Tả khoai.

Bất ngờ anh gào lên và húc cả cái đầu bù xù vào mình. Hai anh em cùng ngã bổ chửng. Ðúng lúc ngã ấy mình thấy trên trời có một đám mây xòe ra hệt như chiếc quạt giấy trắng phau. Anh đấm mình túi bụi, miệng vẫn liên tiếp tả khoai tả khoai. Mình co người lại, vừa tránh đòn vừa hổn hển bảo:

- Mây kìa, nhìn mây kìa.

Nhưng anh không nghe, vẫn tiếp tục cuồng điên giáng vào mình những cú đòn. Mình vùng dậy đẩy anh ra, quát lên:

- Thôi.

Tiếng quát của mình khiến anh dừng phắt lại. Mình phủi bụi bẩn, ngó lại bầu trời, chỉ thấy vài dải mây trắng dài tướp táp, xuề xòa. Ông già làm bảo vệ ngân hàng ra hỏi mình có việc gì không. Ông ta đã chứng kiến tất cả. Mình nói mình là em của anh và đưa cho ông ta tất cả số tiền có được trong ví nhờ ông ta thi thoảng mua cái gì đó cho anh ăn. Ông già bảo vệ ngạc nhiên nhìn mình:

- Chú không sợ tôi lấy à?

Mình lắc đầu, lúc ấy nước mắt mình ồng ộc tuôn ra và ông nhân viên bảo vệ già nhòe đi. Mình cố nói cho rành rọt:

- Anh cháu là thương binh chống Tàu.

Ông già đón số tiền mình đưa, cẩn thận nhét vào túi áo, đứng nghiêm, ngực ưỡn về phía trước và nói:

- Tôi là lính chống Mỹ.

Không phải ông nói với mình mà nói với anh.

Mình nhớ mãi cái tư thế đứng nghiêm ưỡn ngực của ông cựu chiến binh chống Mỹ ấy.

- Càng xuống thấp mù lại càng nhiều, buồn cười thật.

Người to cao lảu nhảu. Ðó là do hơi ẩm từ chân núi bốc ra. Trên cao gió bạt mù đi nên quang đãng, càng xuống thấp gió càng quẩn nên mù càng dồn xoáy tợn.

- Chắc là tí nữa còn không thấy đường cho mà xem.

Lái xe lo lắng tiên đoán. Rồi thì đường cũng mờ mịt, ướt rượt như vừa qua một trận mưa. Ánh đèn nhoáng lên, càng xuống càng nhoáng lên cho tới lúc cả cái vùng trước mặt, trong tầm đèn xe quét, bừng dậy. Ở khoảng giữa ánh sáng loe lóe rát chói do nước từ mặt đường hắt lên với ánh sáng đù đờ của không khí ẩm ướt là vô vàn chấm long lanh lóng lánh của sương bám trên lá. Những long lanh ấy gợi cho mình nhớ tới luồng sáng xanh lịm day dứt từ những lóc thịt không tiêu của anh trong cái đêm sang cát. Mình đã mơ thấy rất nhiều lần đống thịt tỏa sáng ấy, nhưng mình không sợ mà buồn. Da thịt là thứ cô đơn nhất vì dễ bị ruồng bỏ và chà đạp nhất.

Xe tuồn tuột lao giữa các nguồn sáng mà không nguồn nào trong trẻo nguyên chất. Cái đầu lái xe in trên nền sáng đèn biến thành một khối đen méo mó như củ chuối nhổ lên khỏi mặt đất quá lâu ngày.

- Ðến đâu rồi?

Giọng ngái ngủ cất lên làm tiếng ro ro của bánh xe trật đi.

- Còn lâu, cứ tha hồ mà chợp mắt.

Người to cao nói. Người cầm bộ đàm hắng giọng, ngoái nhìn mình với Trang như kiểm tra rồi lại tiếp tục yên tâm nghẹo đầu. Mình nghĩ người này không thể cưỡng lại được giấc ngủ nữa rồi. Báo Công An Nhân Dân số ra Thứ Bảy, Ngày Hai Mươi Mốt, Tháng Tám có bài viết về vụ tai nạn do tài xế ngủ quên khiến chiếc xe khách đâm liên tiếp vào sáu cái xe máy chạy cùng chiều sau đó rúc đầu vào một quán hàng ven đường. Mình nhớ vụ tai nạn này, nhớ cả ngày tháng vì số báo ấy có đăng ảnh của Châu Quang Lồ và nhóm phỉ của ông ta. Trong ảnh nhân vật mang bí danh sô-cô-la trông nghiêm nghị, hơi căng thẳng còn đám thuộc hạ thì mặt mũi lại ngây dại, đờ đẫn nhìn thẳng vào máy ảnh như nhìn vào họng súng. Phía sau họ không thấy phong cảnh vì ảnh bị cúp rất chặt, chớm đỉnh đầu và mớm đầu ngón chân của những nhân vật được chụp. Nhưng chi tiết đáng nhớ nhất là trong số người được chụp ảnh một nhân vật đã nhắm mắt. Có lẽ khi máy chớp, theo phản xạ anh ta nhắm lại cho nên giống như ngủ đứng giữa đám người mất ngủ. Mình có ấn tượng đặc biệt với số báo đó.

Lúc ấy mình đã cố gắng bao quát khung cảnh phía trước và ước tính rằng...

...chỉ còn bốn khoanh nữa là đạt tới đỉnh cao nhất. Hắn nhắm mắt, dùng hai ngón trỏ day day vào hai lỗ tai.

Mình cũng làm theo hắn, lập tức nghe tiếng máy xe nổ to hơn. Âm thanh rù rù quện với mùi khét của máy bị gằn quá lâu. Trang thấp thỏm nhìn vào màn hình điện thoại chờ những vạch sóng hiện ra. Còn lâu mới có sóng khi xung quanh không có bất cứ một cây cột tiếp sóng nào. Trời vắng tanh, lẽ ra ở độ cao này sẽ có đại bàng hoặc chí ít cũng vài chú cắt lượn lờ. Ðịnh hỏi lái xe nhưng nghĩ anh ta đang tập trung quan sát đường, khéo rồi vì câu hỏi của mình mà gây ra thành thảm họa.

- Trên này chim cũng không trụ được. Ghê thật.

Hắn nói, rành rẽ, chắc chắn. Những kẻ sống ở cái vùng thoáng đãng này không chừng đều có thể đọc được ý nghĩ người khác cũng nên. Xe khừng khực giật sau đó thoát ra khỏi khúc cua mà vách núi chắn sát sạt ngay ba-đờ-sốc và một khoảng trời xanh trong veo ùa tới nuốt chửng cả xe. Lời hắn bị bác bỏ không thương tiếc: Có hai bóng chim lầm lừ sóng đôi lượn ngay trước tầm mắt mọi người. Không rõ đó là loại chim gì. Lái xe buông một tay khỏi vô lăng, co duỗi thư giãn, bảo:

- Ðại bàng đấy.

- Vùng này cũng có đại bàng ấy à? Lạ nhỉ?

Mình thắc mắc.

- Nhiều là đằng khác.

Lái xe bình thản khẳng định.

- Chúng nó từng quắp cả trẻ con về tổ để ăn. Còn bắt lợn gà là chuyện bình thường.

Trang rú lên. Lái xe nói người dân tộc đi nương thường mang theo trẻ con, để ở chỗ mát, nhiều khi mải làm quên luôn cả chúng. Ðại bàng từ trên cao thấy đứa trẻ ngoe nguẩy, cho đó là con mồi, thế là vụt xuống quắp lên. Lúc ấy bố mẹ chỉ biết đứng dưới mà ngửa mặt kêu gào. Trẻ sơ sinh dân tộc bắt đầu với thế giới này bằng vô vàn những bất trắc. Không ít đứa bị bố mẹ bỏ quên trên nương, về gần nhà mới sực nhớ, quay lại thì chỉ thấy còn sót một mảnh áo đầy máu với những vết chân hổ to như cái bát tô, chồng chéo.

Lái xe thư thả nói:

- Tháng trước dân trên này bắn được một con gần bốn tạ, mấy ông ở văn phòng tỉnh đánh xe lên mua luôn.

- Mua chứ không tịch thu à?

Mình hỏi có phần xách mé, giễu cợt. Lái xe lắc đầu, giọng sảng khoái, hình như vì đoạn đường phía trước

đang trải ra khá bằng bặn:

- Bà con dân tộc bây giờ khôn lắm rồi, không dễ bắt nạt được họ đâu. Quan gì thì quan, cũng phải xì ra, tiền trao cháo múc luôn.

- Nhưng mà hình như có luật cấm săn bắn hổ cơ mà?

Trang nhổm hẳn lên hỏi. Phía trước, hai con chim trôi dạt trong không trung với cặp cánh xòe ra thẳng căng.

- Luật ở đâu chứ ở trên này chả có giá trị gì. Nếu chính quyền có đến vặn vẹo thì họ lý sự là không bắn nó thì nó vồ mình, vồ lợn của mình. Rất đơn giản.

Hắn không tham gia câu chuyện. Có thể hắn đang mải nhìn đôi đại bàng, cũng có thể hắn ngượng. Lái xe gạt số và xe bắt đầu dâng lên khoanh thứ năm. Vùng này giống như cái kho lưu trữ của thời gian, tất cả những gì đã tuột qua ở nơi khác thì dồn lại ở đây. Dưới kia không mấy ai nhớ tới cuộc chiến nữa, nhưng trên đây nó vẫn tồn tại dai dẳng, vẫn vang vang trong đầu mỗi con người.

- Kia là đất họ rồi.

Hắn bất ngờ lên tiếng, đúng lúc một cách đáng sợ. Cả mình và Trang đều nghển theo tay hắn. Một dãy núi xanh màu ngọc với những đỉnh mềm mại gợi cảm.

- Bên này hay bên kia núi?

Mình hỏi. Lái xe nhanh nhảu đáp.

- Bên kia.

- Từ đây đến đấy cũng khá xa.

Mình lẩm bẩm sau khi ước lượng khoảng cách. Hắn nói:

- Thế mà chỉ nửa ngày họ đã kéo được cả mấy chục chiếc xe tải lên tới đây.

Ðã có một cuộc chiến ở dốc này, không dữ dội nhưng lại khiến cho đại quân của họ choáng váng. Cả đoàn xe hơn hai mươi chiếc bị phục kích, chặn đầu khóa đuôi và súng từ trên cao tỉa xuống. Không một chiếc nào thoát.

- Lần đi với đoàn ông Vần qua đây nghe ông ấy bảo khi họ rút về ba bốn tháng rồi mà cả vùng này vẫn cứ thối inh lên. Huy động dân quân đến chôn nhưng không xuể, thế là cứ kệ cho chim với hổ đến ăn.

Giọng lái xe đều đều, chân chất như đang kể về một đặc tính của bà con dân tộc.

- Chim kéo đến nhiều đến mức cả vùng này lúc nào cũng âm u như sắp mưa.

- Vụ cao bành trướng cũng xuất phát từ đây mà ra chứ đâu nữa.

Hắn kẻ cả cắt ngang lời lái xe. Một con vật nhỏ chạy vụt qua đường, đuôi nó dựng đứng như bông lau đỏ.

- Có thật không hay chỉ là đồn thôi ạ?

Trang hỏi, thái độ tập trung. Bây giờ thì Trang không còn lăm le với chiếc điện thoại nữa vì đã lên quá cao.

- Cũng nửa thật nửa không thật.

Hắn lấp lửng. Lái xe cười, lắc cổ cho đỡ mỏi, bảo:

- Cao thì không rõ, nhưng ma thì người ta đồn là có thật. Ði đêm ở đoạn này lái xe nào cũng gặp không nhiều thì ít ra cũng một lần.

Bản thân lái xe đã gặp hai lần. Mình hỏi những con ma đó mặc gì thì lái xe đáp không rõ lắm, chúng cứ mờ mờ ảo ảo thế thôi. Thi thoảng ma còn xin đi nhờ xe máy của mấy cô giáo xóa mù. Hôm nào trở trời thì ma kêu nhiều, tiếng kêu giống như mèo động tình, lảnh lói, rợn gáy.

Những người đàn ông đi săn đêm hay gặp ma, chúng quẩn lại thành từng đám, trôi dạt vật vờ. Cũng có những con ma hung hãn, thù hận chuyên rình cơ hội để lôi người sống xuống vực. Từ ngày chấm dứt trận chiến, người ta phát hiện ra khu vực dốc này hay xảy ra tai nạn thảm khốc. Huyện đã kín đáo mời hẳn một thầy mo khét tiếng từ Tràng Ðịnh sang làm lễ nhưng cũng chỉ giảm phần nào. Tai nạn vẫn cứ xảy ra, vài tháng lại một vụ ô tô mất phanh xé toang rào chắn bằng thép phi thẳng từ đỉnh cao nhất xuống và mất hút trong những tán cây ở dưới vực. Cách đây hơn tuần một chiếc bảy chỗ chở đoàn tham quan của sở giáo dục tỉnh lân cận cũng mất lái rời khỏi đường. Phải mấy ngày trời mới gom góp đủ các mảnh thi thể để đưa về tỉnh làm lễ truy điệu. Xác xe giờ vẫn còn ở đó. Lái xe nói chính xác tên của người lái chiếc Nissan bảy chỗ kia nhưng mình thì lại chú tâm nhớ tới chi tiết còn thiếu cái đầu của cô giáo trẻ nhất.