← Quay lại trang sách

Chương 8

Mình hỏi. Lái xe vẫn nhìn thẳng phía trước:

- Nghe nói chỉ có vài người đi chôn.

Xuống dốc, tiếng lốp ràn rạt trên mặt đường nhựa. Ven đường, giữa những xum xúp nhô lên một cái cây gầy ngẳng đỏ rực tựa như vệt máu bất thần tóe ra từ vết thương nào đó. Hai con bò nâu đen rướn cổ ngoạm lá cây, chân chúng dầm trong cái rãnh nước dưới thành ta luy. Giữa bùn và cứt bò, dòng nước vẫn rỉ rách chảy, trong veo, mê mải. Theo tay hắn chỉ, Phổ Ba hiện ra. Một dãy nhà xám nằm trên đường rãnh cao cao như sống trâu. Ðó là khu phố đẹp, nhà phần lớn bằng gỗ, có đến hàng trăm năm rồi. Ðây từng là nơi trung chuyển thuốc phiện của cả vùng Ðông Bắc.

Xe quẹo vào con đường đất nhỏ, men theo hàng rào đá cao ngang bắp chân thi thoảng lại chìa ra vài ba nhánh cây dại xanh ngắt, sau đó dừng lại trước ngôi nhà bằng gỗ đã đen thui, mái cũng đen thui. Con chó mực đang nằm giữa sân sủa rổm lên. Chủ nhà chạy ra. Râu tóc ông ta chải chuốt trái ngược hẳn với bộ quần áo bộ đội rách rưới đang khoác trên người. Thấy hắn, người đàn ông rối rít xua con chó ra góc sân rồi mở rộng cửa ngôi nhà. Hắn nói ngay:

- Cho xem đi.

Chủ nhà khệ nệ ôm một chiếc bình bằng đồng ra. Lúc này mình mới biết mục đích chính để rẽ vào Phổ Ba của hắn. Hắn mua đồ cổ. Thảo nào lúc ở nhà, khi nghe nói về kế hoạch đi, ông già hắn đã nhắc hắn nhớ ghé qua Phổ Ba. Ông già hắn là người sưu tập đồ cổ hay buôn đồ cổ thì mình không rõ. Chỉ biết nhà bày chạc đồ cổ, từ tượng nhỏ bằng ngón tay út tới thanh bát xà mâu cao gấp đôi người. Mình nhớ thấy mình tò mò hỏi chiếc mâm đồng bày trịnh trọng trên cái giá bằng gỗ mun lớn, ông già hắn bảo đó là chiếc mâm hai đáy của Ngọa Long tiên sinh Ðào Duy Từ chế cho Chúa Sãi để ra Bắc trả sắc phong. Lúc ấy mình không tin vì nghĩ ngay cả những dân chơi đồ cổ khụ nhất của Hà thành cũng chẳng dám mơ nhìn thấy cái mâm huyền thoại đó, huống hồ một ông già ở nơi đèo heo hút gió này. Thoạt đầu ông già hắn còn giữ ý, sau khi uống với nhau mấy chén rượu ông hăng hái, sôi nổi lên. Ông kể chuyện đời ông như kể cuộc đời của kẻ khác chứ không phải ông nữa. Mười sáu tuổi ông trốn nhà tham gia cách mạng, đánh nhau sày vẩy với phỉ ở liên khu Việt Bắc, suýt bị dân Mèo mổ bụng tại Mã Pí Lèng. Ông bảo cuộc đời ông oai hùng nhất là được tỉ thí Pạc-hoọc với ông Ðàm Quang Trung khi cả hai đã uống rượu say tí bỉ ở Ngân Sơn. Ông lắc đầu lè lưỡi thán phục tài bắn súng bách phát bách trúng của Ðàm Quang Trung. Mình không biết hình dáng khẩu Pạc-hoọc như thế nào, nghe có vẻ cổ lỗ vời xa quá. Ông vẫn giữ một khẩu làm kỷ niệm, hứa sẽ cho mình xem. Sau đó cả mình lẫn ông không nhớ tới chuyện xem khẩu súng nữa.

Hắn gần như quên phắt có mình với Trang đi cùng, ngồi sụp xuống vần vũ món đồ. Chiếc bình cao khoảng 60 phân, hình dáng thon thả, miệng loe, thân bình chạm nổi mấy bông cúc, đặc biệt có hình một đôi bướm khắc chìm rất sinh động. Mình ý tứ rủ Trang ra ngoài sân để hắn và chủ nhà làm việc với nhau. Lái xe thì đã lỉnh đi từ lúc nào. Trang bảo:

- Em hơi ân hận.

Mình cầm tay Trang, cảm nhận một luồng điện yếu ớt sau lớp da mỏng. Tay Vân Ly không mềm yếu, ẩm ướt như Trang. Tay Vân Ly hơi khô và cứng, nó chẳng biểu hiện gì cả khi mình nắm lấy nó.

- Anh có thấy thế là quá nặng tay với chị ấy không?

Trang hỏi lại lần nữa. Mình lắc đầu. Dù sao thì cũng đã xẩy ra, chỉ mong Vân Ly không bỏng nặng, không như ảo giác mình nhìn thấy trên khuôn mặt người đàn bà Lô Lô vừa rồi.

- Không nhắn gì cho anh à?

Mình vẫn canh cánh chờ tin đáp lại của Vân Ly nhưng không thấy. Có thể Vân Ly đang phải nằm viện điều trị những vết bỏng. Trang thở dài thành tiếng. Mình nói đùa để khỏa đi nỗi ưu tư của Trang:

- Anh buồn.

Trang tròn mắt nhìn mình rồi nhìn vào trong nhà, nơi hắn đang săm soi và mặc cả chiếc bình đồng cổ với tay chủ.

- Buồn vì cái gì?

Ðiện thoại của mình báo có tin nhắn. Mình nuốt khan, thọc tay vào túi lôi điện thoại ra vừa mở tin vừa tủm tỉm trả lời:

- Buồn ị.

Trang phá lên cười. Tiếng cười giòn giã, sảng khoái. Chị Thu trả lời, “Hieu oi, la qua.” Mình hiểu chữ lạ ở đây là cảm thán. Lại tiếp một tin nữa, nội dung y hệt. Thường thì do xúc động người ta hay bấm gửi hai lần cho một tin. Cũng có thể là chị Thu sợ tin không đến được với mình nên phải bấm lần nữa cho chắc. Mình đắc chí cười thành tiếng giòn giã chẳng kém gì Trang. Cái chữ ơi trong tin nhắn cột chặt mình vào ý nghĩ chị Thu vừa thủ dâm vừa gọi tên mình. Vậy là mình không phạm sai lầm.

Lái xe quay lại cùng với một thằng bé trạc mười lăm, mười sáu. Thằng bé nhìn bọn mình, cười hiền lành.

Lái xe bảo thằng bé là họ hàng duy nhất của người đàn bà ấy. Ba người theo thằng bé ra phía sau con dốc.

Mả của người đàn bà ấy nằm khiêm nhường ở góc trong cùng, sát với thửa ruộng xăm xắp nước. Bên dưới cái gò đất lêm lêm này là một người từng có cuộc đời lẫy lừng khắp vùng biên ải. Vấn đề ở chỗ bà ta có uy vũ bằng người đàn bà ăn thịt người ở dốc Hạ Lang không.

Trang dửng dưng quan sát ngôi mả xấu xí sau đó lại lảng ra chỗ cao ngó xa xa. Phổ Ba thật buồn, buồn đến mức thằng tiểu yêu của mình cứ xìu xuống.

Cuối cùng thì cuộc mua bán cũng kết thúc. Hắn hớn hở gọi mọi người vào uống nước. Chiếc bình cổ vẫn để trân trọng giữa bàn và chủ nhà đang loay hoay làm gì đó ở gian trong. Mình nghĩ ông ta cất tiền. Hình như khoái trá vì mua được món hàng ưng ý, hắn hỏi rất to:

- Thế nào, Phổ Ba có độc đáo không?

- Ðộc đáo.

- Mình khen lấy lệ, cho vừa lòng hiếu khách của hắn.

- Thi thoảng lên đây ở một tháng cũng được.

Hắn nhếch môi cười. Rời Phổ Ba đến hơn chục phút lái xe mới lộ ra là gặp lại cô bạn gái. Cái khoảng biến mất đến nửa tiếng đồng hồ của lái xe là có lý do. Hắn hỏi:

- Chỉ gặp nói chuyện suông thế thôi à?

Lái xe cười:

- Ban ngày ban mặt, lại có đầy người ở nhà nên chịu chết. Dúi cho bọn em nó mấy gói kẹo rồi chuồn nhanh.

Hắn định nói nữa nhưng hình như ngại Trang nên lại thôi. Mình cũng biết hắn sẽ nói gì, nếu không có Trang. Chiếc xe lạng tránh một đứa trẻ không rõ trai hay gái chạy vụt qua đường làm đầu mình va mạnh vào đầu Trang. Hắn bật ra câu chửi và mình thấy rõ nỗi khiếp đảm choáng váng trong giọng hắn. Nếu lái xe không phản xạ nhanh thì chắc đứa nhỏ đã nằm bẹp dí dưới bánh xe và lại cái cảnh tung tóe rợn gáy như tay họa sĩ gàn dở nào đó hắt cả xô màu đỏ ra đường. Mình nhíu mày nhớ vụ đụng xe lần đi Quảng Ninh với Vân Ly. Hiếm có vụ tai nạn giao thông nào gọn gàng, sạch sẽ như thế.

Máy bộ đàm xèn xẹt. Có ai đó gọi cho họ. Người cầm bộ đàm chăm chú nghe rồi nói:

- Vâng vâng, thế à? Ừ, cứ triển khai tiếp tục hướng đó... À mà khoan đã. Tiền thưởng quý này đã có chưa?

Thế hả, ừ, mình hỏi thế thôi. Thế nhé.

Mình hình dung ra những giọt nước mắt của Trang lăn trên gò má và rơi xuống bóng tối dưới chân. Con người ta cũng như giọt nước mắt, từ không mà thành có, tràn đầy những tình cảm vớ vẩn cho tới lúc rơi xuống vỡ tan trong bóng tối.

- Vẫn chưa có tiền thưởng.

Người cầm bộ đàm thông báo cho cả xe, dĩ nhiên trừ mình với Trang. Người bé nhất bảo:

-Bà Vân này chúa là chậm. Chả chịu quan hệ với cục để lĩnh tiền cho nhanh.

Người to cao nói:

- Chưa hẳn thế. Cái gì cũng có kỳ hạn của nó.

Người bé nhất cãi:

- Kỳ hạn gì, bọn xê mười hai đấy, luôn lĩnh trước anh em mình hàng tuần.

Người cầm bộ đàm xuê xoa:

- Lĩnh trước thì tiêu trước, sốt ruột làm gì.

Người bé nhất phản bác:

- Ðồng tiền ngày một mất giá, tiêu chậm một ngày là thiệt một ngày.

Lái xe hỏi người cầm bộ đàm:

- Ðợt này mình được khá không?

- Chả ăn thua, nếu có thì hy vọng vào vụ thằng Hải xồm.

Ra vậy, chính nhóm này ba tháng trời truy đuổi ròng rã từ miền trung vào tận Kiên Giang để tóm Hải xồm.

Mình biết vụ đó, nó được đăng tải liên tiếp sáu kỳ trên Công An Nhân Dân cách đây gần năm.

Người to cao nói:

- Vụ ấy nếu các cụ biết điều thì phải bơm kha khá cho anh em mình.

Người cầm bộ đàm xua tay, trong vùng sáng trước mặt cánh tay anh ta bỗng dưng rất nhỏ bé:

- Các cụ bây giờ ke sỉ, tính từng đồng một. Mình nghi là không có gì.

Lái xe bảo:

- Lẽ ra cứ phải tính theo đầu người, anh em mình bắt được bao nhiêu đứa thì phải thưởng luôn bấy nhiêu cho mình.

- Các ông đã giết anh ấy.

Ðột nhiên Trang lên tiếng, giọng khàn khàn. Không ai thèm phản bác, ngoái lại cũng không. Bên ngoài, bọn họ xem ra còn bình thản hơn, đeo đẳng, kiên nhẫn. Vẫn duy nhất một người lướt trước đầu xe. Im lặng. Gió rít lên bên ngoài và ở cái khoảng tối hai bên cạnh xe đom đóm xanh chói nhập nhòa thành từng vạt lớn. Cái đêm đầu tiên khi anh từ trại điều dưỡng về, mình nhớ đom đóm cũng nhiều như thế. Chúng bay từng quầng, nhoi nhói, tê dại làm chao đảo cả thị xã.

Mình với anh lang bang đi dọc theo trục phố chính. Mọi lần về, mình chỉ loanh quanh trong nhà, cùng lắm là sang bác Lâm chơi nên cũng không để ý. Giờ đi với anh mới thấy thị xã thay đổi nhiều. Nhà lấp khấp, đủ các loại mái, cái nhọn, cái tròn, cái phẳng lừ, cái nghiêng vát như chực tuột xuống. Thị xã đã thực sự trở nên xa lạ.

- Chưa chắc tao đã ở đây lâu.

Anh nói, phẩy tay như xua đuổi thị xã ra khỏi tầm mắt rồi tiện thể quờ lấy một nắm đom đóm. Anh lắc cật lực làm đám đom đóm mệt lử sau đó xòe tay. Những con đom đóm phát ra thứ ánh sáng thoi thóp, hấp hối. Anh lật úp bàn tay, đom đóm rơi xuống, lả tả bất lực nhưng khi gần chạm đất đột nhiên chúng bừng tỉnh xòe cánh bay chéo lên. Nhìn theo những con đom đóm, mắt anh mờ mờ ngây dại. Ði chán, hai anh em mua rượu về uống đến tận khuya. Mẹ giục mình ngủ mai còn dậy sớm ra bến xe.

- Ngủ trước đi.

Anh gần như gắt lên với mẹ. Mình hỏi:

- Sao anh lại hỗn thế?

Anh nói:

- Kệ tao.

Mình bảo:

- Kệ thế nào được, anh thế là mất dạy, cực mất dạy. Em không thích.

Anh lầm bầm:

- Bà ấy phá đám tao.

Anh hận mẹ vì đã giải tán cái tổ ấm của vợ chồng anh. Mình đã hiểu vì sao buổi sáng khi thấy bác và mẹ đến trạm điều dưỡng đón, anh đã quát tướng lên làm mẹ phải day mặt đi khóc, còn bác Lâm thì sửng cồ lên. Anh đe bác:

- Tôi là thương binh, đừng có lếu láo với tôi, không xong đâu.

Bác Lâm trề môi xòe bàn tay hộ pháp vỗ vào hạ bộ bồm bộp, bất chấp cả ban giám đốc trại điều dưỡng cùng với bao nhiêu nữ y tá đứng ở đấy, nói:

- Thương binh như mày cũng chẳng bằng cái lông dái ông đây này. Có về không thì bảo.

Anh lẳng lặng khoác ba lô lên vai. Cả chặng đường dài ngót tám chục cây anh không nói với mẹ một câu nào.

Ðêm ấy là đêm duy nhất rượu không làm cho mình say được. Hai anh em uống thun thút trong khi đom đóm nháo nhào bên ngoài. Thi thoảng mẹ sốt ruột đi ra nhưng bắt gặp ánh mắt quắc lên của anh lại nhẫn nhịn quay vào. Anh cúi đầu, cằm tì xuống ngực, hai vai nhô lên nhòn nhọn, xương xẩu như hai khuỷu cánh dơi.

- Mày đọc chưa?

Rất lâu sau anh mới ngẩng mặt lên hỏi. Mình nói mới lướt sơ qua, nhưng chữ anh viết ẩu, nhiều đoạn không luận ra được. Anh tươi tỉnh trở lại, bảo:

- Chỗ nào không luận ra được thì chỗ ấy khốc liệt nhất. Tao xúc động quá nên mới viết ngoáy.

Mình hỏi:

- Có đỉnh Tà Vần thật không?

Anh ngẩn ra:

- Tao cũng không rõ.

Mặt anh chợt nghiêm trang, các nét thẳng đuột, chỉ có khuôn miệng hơi hé ra như

miệng hang:

- Không chơi với bọn khựa được đâu.

Sau đó là chiến dịch tẩy chay chúng nó mất cả vài tháng trời. Anh dị ứng với tất cả những gì liên quan tới họ. Hành động đầu tiên là anh đập vỡ cả cái phích màu đỏ có in hình con công xòe đuôi, sau đó tới cái quạt Lifan, nồi cơm điện cũng bị đập méo. Ðến cả cái đài cũ bác Lâm mua hộ mẹ, có chữ Nhật cũng bị anh ném bay ra sân vì tưởng đó là chữ của khựa. Anh tẩy chay họ đến mức bác Lâm phải gào lên với anh:

- Tiên nhân cái thằng rồ kia, không dùng hàng Tàu thì dùng hàng nước đéo nào bây giờ.

Anh chỉ tay vào bác, giọng ráo hoảnh:

- Ông cũng là khựa. Cút mẹ ông về đi.

Cơn tẩy chay rồ dại ấy cũng nguôi, anh trở lại bình thường. Có lần mình thấy anh mang tấm huy hiệu Mao Trạch Ðông ra lẩn mẩn lau bóng lại. Tấm huy hiệu ấy ông chuyên gia cho hai anh em mỗi đứa một chiếc. Mình đã đánh mất, chính xác là đem nộp cho cô giáo dạo bắt đầu xảy ra cuộc chiến, còn anh thì giấu nhẹm đi cho nên vẫn giữ được. Anh dùng tiền trợ cấp thương binh mua cho mẹ cái nồi cơm điện Tàu mới thay cho cái cũ đã bị hỏng vì cơm chín không đều. Thi thoảng anh lại đần ra ngắm nghía những chữ viết trên chiếc quạt điện. Không hiểu lúc ấy trong đầu anh nghĩ gì. Anh ngày một trầm uất hơn. Ðang ăn bát cơm có thể rơi khỏi tay anh bất cứ lúc nào mà anh cũng không biết, vẫn đưa bàn tay không lên miệng, dùng đũa vét vào lòng tay. Phải đến khi mẹ nhắc anh mới sực tỉnh ra.

Những lúc như thế, anh nhìn mảnh bát vỡ, nhìn cơm canh vung vãi dưới chiếu với vẻ mặt thực sự khó tả. Một vẻ mặt buồn đến mức mẹ không dám nhìn, phải quay đi. Thời gian sau anh nhập viện vì những cơn đau đầu. Người ta chuyển anh từ bệnh viện tỉnh về lại trại điều dưỡng. Anh ở đó hơn tháng rồi trốn về nhà với mẹ.

Hẳn là giờ này anh Thuận đang cặm cụi đánh vật với những tài liệu bằng tiếng Nga để quên đi căn bệnh mất ngủ.

Xe chậm lại một cách cảnh giác, lần này vì tảng đá hộc nằm chềnh ềnh giữa đường. Một tảng đá xám lớn cùng với dăm ba tảng đá nhỏ khác rải rác. Vật cản này không hiểm nguy nhưng vẫn cảnh cáo rằng để hạ sơn được thì còn nhiều những trắc trở nữa. Lên đã khó, xuống còn khó hơn.

- Lở à?

Người bé nhất the thé hỏi vọng lên. Lái xe đáp cụt lủn:

- Lở.

Xe vẫn nổ máy nhưng lái xe đã xuống, hì hục vần mấy tảng đá cỡ nhỏ ra ngoài rìa để lấy chỗ cho bánh xe lách vào. Người cầm bộ đàm mở cửa định xuống theo, lái xe bảo:

- Không cần đâu, xong rồi.

Nhưng không xong. Khi lái xe phủi tay định trở lại thì mới thấy cái cạnh trên của tảng đá nhô ra quá nhiều và phải vần được tảng đá to thứ hai nằm gần đó xe mới qua được. Mà tảng đá này thì phải cần tới ba bốn người. Thế là thêm hai người xuống, còn người bé nhất ở lại canh chừng. Ba người bọn họ mắm môi, mắm lợi xoay quanh tảng đá mà nó chỉ nhúc nhích đôi chút sau đó ì ra. Người cầm bộ đàm nói gì với lái xe và anh này trở lại xe bảo người bé nhất xuống còn mình với Trang vẫn ngồi yên trên đó. Lái xe cẩn thận đóng hết cửa xe, tắt máy, rút chìa khóa. Bóng tối ùa vào, chỉ trong chớp mắt cả mấy người bọn họ biến mất tăm. Khi mắt mình đã quen với bóng tối toàn phần thì họ lại hiện ra phía trước. Vậy là không đến nỗi tối lắm. Trời miền núi về đêm có ánh sáng khác, lìm lịm tỏa từ bên trong ra. Mình nhìn rõ bốn người bọn họ xoay tảng đá thứ hai như xoay chiếc cối đá lớn. Tảng đá chuyển động theo nhịp hô lấy đà của lái xe. Trong khi vần đá, người cầm bộ đàm vẫn ngoảnh mặt về phía xe với vẻ cảnh giác cao độ.

- Em có sợ không?

Mình hỏi Trang. Ðây là câu hỏi thẳng thắn nhất từ khi hai đứa bước lên xe của bọn họ. Trang lắc đầu chán chường. Mình ngả người gại gại đỉnh đầu vào hõm cổ Trang.

Cuối cùng tảng đá cũng lui một chút vào bên trong. Bọn họ trở lại, ai cũng thở hồng hộc, mặt và cổ nhóng nhánh còn lưng áo thì đổ sẫm từng mảng lớn.

- Mẹ, vài cú thế này thì chết luôn.

Lái xe vừa mở cửa vừa ca cẩm. Người to cao xô mình xích vào trong. Người bé nhất luồn vào xe như chiếc lá, êm ru gọn ghẽ. Một bàn tay to chắc xù xì lần từ cổ tay này sang cổ tay kia của Trang. Trang vùng vằng hắt tay anh ta ra. Tiếng máy xe rồ cao như hậm hực và bắt đầu chuyển bánh. Khi đi ngang qua mình kịp nhìn thấy tảng đá to nhất, nó chiếm một phần ba đường, y như trường hợp chuyến lên của bọn mình. Những tảng đá luôn luôn chọn vị trí quái gở nhất, oái oăm nhất để dừng lại.

Vầng sáng phía trước lại trượt dài theo con đường và con đường trở thành dòng sông. Mình thả lỏng người nhấm nháp lại cái khoái cảm dịu dàng khi chỉ có hai đứa. Ở đoạn đường tít phía dưới lóe lên vệt sáng rồi tắt lịm đi, sau đó lại hiện ra quét loang loáng lên sườn núi.

- Có xe đi ngược lại.

Người nhỏ bé nhanh nhảu nói. Tiếng ì ì vọng tới trong khi xe vẫn êm ro trườn xuống và lái xe liên tục bẻ vô lăng từ bên nọ sang bên kia. Rồi ánh sáng đối đầu nhau, chóa lóa với tiếng rần rần, trầm trầm của động cơ xe tải. Hai chiếc xe tải lớn đang bò ngược lên. Khi chúng đi qua, lái xe mới bảo:

- Xe chở quặng bán trộm sang Trung Quốc.

Người nhỏ bé láu táu:

- Dân mình cũng lạ, cái gì cũng có thể buôn lậu được.

Lái xe bảo:

- Bọn chúng nó toàn chạy đêm, xe nào cũng chất thừa hàng vài chục tấn. Làm gì mà đường không xuống cấp nhanh.

Như để minh họa cho lời nói, chiếc xe sập xuống một ổ gà. Mọi người lại dúi dụi vào nhau. Lái xe nói lúc ở huyện ủy có nghe cô văn thư kể cách đây hơn tuần có một chiếc xe đang lên dốc, đâu như cái đoạn phía dưới kia một chút, bất ngờ bị nổ lốp và lăn xuống vực. Cả người và xe tan tành như cám. Hình như đến bây giờ vẫn chưa nhặt hết mảnh vụn.

- Thế mà vẫn cứ liều lĩnh kéo nhau lên nhỉ?

Người to cao nói. Người nhỏ cười hích lên định nói nhưng lái xe đã lấp nhanh:

- Lãi gấp ba bốn lần, thằng nào mà chẳng liều.

Người cầm bộ đàm xen vào:

- Cái chính là tại bên kia, họ cứ nống giá lên rồi đùng một cái lại đánh tụt xuống. Ở Lạng Sơn vừa rồi đấy, dưa hấu với vải chết hàng loạt, hàng trăm tấn thối mốc bên này cửa khẩu, đổ đi cũng khó.

- Tóm lại là không chơi được.

Giọng người nhỏ bé cao vống lên chanh chua. Nếu có anh ở đây hẳn là anh sẽ đồng tình ngay tắp lự. Bởi vì anh đã nói câu đó, không phải một mà tới hai lần. Lần thứ hai anh nói với mình khi cùng nhau ra con sông phía sau thị xã để bơi.

Mình ngước mắt nhìn lên trời còn anh nhìn dòng nước ngầu đục. Có ai thấy họ sẽ cho anh em mình là hai thằng dở hơi. Trớ trêu thay, đó lại là thời gian tỉnh táo cuối cùng của anh. Mình nghe anh kể nhiều chuyện, từ chuyện nọ nhảy xọ sang chuyện kia, không đầu không cuối. Mây đến, một vài vụn lơ vơ, sau đó tích lại và chỉ sau dăm lần chớp mắt nó đã là một đám mây đẹp tròn vo, lúc lắc trên bầu trời.

- Mây ở trên đó có nhiều không?

Mình hỏi, không nghe tiếng đáp, ngoái sang thấy anh đang cúi xuống gỡ một mảnh ni lông bám vào dép. Mẩu ni lông màu xanh nhạt bị gẫy ra, ngay lập tức gió cuốn bay là là dọc theo triền sông cùng chiều với đám mây. Mình thấy mẩu ni lông đó giống như linh hồn mờ nhạt vơ vẩn của một đứa trẻ.

- Làm gì có thời gian cho mây với mò. Lúc nào cũng căng thẳng nhìn trước ngó sau, sểnh cái là dính đạn.

Anh than van. Nhưng khi lên đây thì mình biết rằng chắc chắn anh đã từng chứng kiến những áng mây đẹp. Buổi sớm ở biên ải, nếu có chút nắng, mây sẽ đến ngay lập tức, đến một cách kiêu mạn.

- Không chơi với bọn khựa được đâu.

Anh lại nói, tiếng dẹt xuống dí dị. Sau đó anh dừng lại vạch quần đái thẳng xuống sông và kết thúc bằng một phát rắm vang, sảng khoái. Khuôn mặt anh xanh trắng, gò má nhợt đi, tóc xòa xuống che quá nửa phần trán bên trái. Ðám con gái cùng học với anh đều mê vầng trán ấy bởi nó luôn tỏa ra luồng sáng rờ rỡ. Anh đã từng là học sinh xuất sắc nhất trường cấp ba của thị xã. Vậy mà anh lại là người trượt đại học với số điểm cực thấp.

Cái mảnh linh hồn màu xanh nhạt vẫn vơ vơ vẩn vẩn phía trước. Anh bước nhanh dần, những bước dài gần như chạy, tay phải ép sát mạng sườn còn tay trái xỉa thẳng phía trước, mắt long long rờn rợn. Sau đó anh lại bất ngờ buông thõng cả hai tay:

- Ôi giời.

Mây vẫn trôi, ục ịch, lắc lư, vô tình như di lặc. Có thể anh đang nghĩ tới Hằng và đứa con của mình. Cũng có thể không phải.

- Thằng ấy ở đâu đến?

Anh hỏi, đôi mắt quắc lên nhìn mình như mình chính là thằng ấy.

- Nghe nói nó ở Phổ Yên lên. Dân vô học ấy mà.

Mình đáp, cố tỏ vẻ khinh thị, coi thường. Anh lại sờ cằm, mắt dịu xuống:

- Vô học thì vẫn là người.

Mình không hiểu Hằng mê thằng chữa xe máy ấy ở điểm nào. Ðen đúa, lam nham, tóc cứng, môi như ngón cái và ngón trỏ ép vào nhau, dầy, thâm xịt.

- Biết thế, nhưng cũng tùy từng loại - Mình cãi - có loại oanh liệt có loại lẹp nhẹp.

- Mày nói dối - Anh bảo mình - mày không nghĩ vậy. Hôm nào mày chỉ cho tao nhà chúng nó.

- Ðể làm gì? Anh định chơi lại à?

Anh lắc đầu, thần người nghĩ gì đó, tay phải lại từ từ co lên ép sát mạng sườn nhưng khi tay trái giơ lên nửa chừng thì buông xuống. Trông anh tỉnh táo hơn. Mình cùng anh bơi thi ra gần giữa sông rồi quay lại. Anh vẫn bơi nhanh hơn mình như hồi xưa. Trong nước, anh linh hoạt hẳn, hò hét, vẫy vùng, vung hai tay đập ùm ùm làm bắn tóe lên những vụn trắng xóa. Khi ấy trông anh như một con thuồng luồng mắc lưới, dũng mãnh, quái đản. Mệt lử, cả hai lên bờ nằm dài ra cỏ. Bầu trời đổ ập vào mắt mình và cái linh hồn bé nhỏ, mờ nhạt đã trôi dạt tận đẩu đâu. Thấy im im, mình tò mò nhổm dậy, phát hiện ra mặt anh đầm đìa, mắt đỏ hoe. Anh khóc, nấc lên từng chặp, lật sấp người xuống, giãy đành đạch như cá bị vứt lên cạn. Mình không dám hỏi, cứ mặc anh khóc. Về sau anh khóc không thành tiếng mà nức trong cỏ. Cũng ở ngay tại bờ này, mình đã gặp Hằng ngồi một mình.

- Em có lỗi với anh.

Mình nói thầm trong đầu và tin rằng anh đã nghe thấy.

Sau lần bơi sông ấy, anh em mình không tắm chung lần nào nữa. Mình ngày càng ngại về. Mà mỗi lần về cũng chỉ ở cùng lắm một ngày hoặc ngày rưỡi là chuồn. Mình thấy anh khác quá cho nên cũng ớn. Anh cứ ngồi trong bóng tối, hai mắt thô lố ngó thẳng mà chẳng thấy gì hoặc nhìn xuyên qua tất cả. Miệng anh lập bập không thành tiếng, theo mẹ kể lại thì càng ngày càng lập bập tợn. Ðến bữa, anh ăn rất ít, chỉ và mấy miếng lấy lệ sau đó quay mặt vào tường. Bác Lâm hỏi anh khi bị bắt chúng nó có tiêm gì vào người không. Anh không đáp. Bác Lâm càng tin anh bị tiêm thuốc thần kinh. Bác gừ gầm, miệng sều bọt:

- Có khi chúng nó tiêm lúc thằng bé đang ngủ.

Nghe bác lập luận thế, mẹ lại rên lên.

Hai mắt anh vẫn cứ lao láo, vô can. Ðêm tầng tầng chất ngất thế nhưng vẫn không đè sập được mí mắt anh xuống. Mình nhớ khi mẹ gọi điện bảo mấy hôm rày anh liên tục nhắc mình thì mình khấp khởi bắt xe về ngay. Tới khi thấy anh vung vẩy đi lại giữa sân mình lại có cảm giác rất lạ, không rõ mừng hay lo. Anh vồn vã bắt tay mình, lắc mạnh, cười nhe hàm răng trắng rợn. Chưa bao giờ anh bắt tay mình cả.

- Khỏe chứ?

Anh hỏi mình, chân tình, chí thiết như không gặp nhau hàng vài chục năm. Mình gờn gợn đáp:

- Em vẫn khỏe.

- Tốt, thế là rất tốt.

Anh vỗ vai mình bồm bộp, những cú vỗ mạnh mẽ, suồng sã, có đôi chút kẻ cả.

- Bây giờ chú kể cho anh nghe xem Hà Nội nó thế nào? Khá chứ? Sầm uất chứ? Có bằng thủ đô các nước xã hội chủ nghĩa khác không?

Mình cười, miệng méo xệch. Không biết phải nghĩ thế nào nữa. Anh thì ngồi thẳng lưng trên ghế, hai bàn tay úp lên hai đầu gối, chăm chú ngó mình, chính xác là nhìn vào miệng mình làm như Hà Nội sẽ từ đó hiện ra. Mình nói Hà Nội đông đúc, ồn ào, tạp nhạp đủ loại người. Anh hơi nghiêng đầu, mắt trái nhíu lại như không tin lời mình.

- Nhà cao tầng thì sao?

Anh hỏi, giọng hồi hộp, xô dạt. Mình lắc đầu:

- Cũng leo teo được mấy cái.

- Còn Tháp Rùa, nó vẫn cao đẹp như thế chứ?

Mình hơi ngẩn ra. Mình biết anh chưa bao giờ tới Hà Nội, tại sao anh lại hỏi nó vẫn cao đẹp như thế.

- Vẫn thế chứ?

Anh sốt ruột nhắc lại câu hỏi. Mình đành phải nói thật:

- Nó chưa bao giờ cao đẹp cả. Chỉ nhỉnh hơn cái miếu bà Ðông một tí thôi.

Mắt anh đờ ra và mình thấy một tấm lưới sẫm màu chầm chậm buông trùm lấy đôi mắt ấy. Anh không hỏi nữa, lưng khòng xuống, duy hai bàn tay vẫn úp lên hai đầu gối.

- Tao đã từng khóc ở thung lũng oan khuất.

Anh nói, câu nói không ăn nhập gì, sau đó đứng dậy bỏ ra sân. Thung lũng oan khuất là nơi đại đội của anh gần như bị xóa sổ ở đó.

Bữa cơm chiều anh em mình uống rượu. Bình rượu thuốc bác Lâm cho anh giờ mới được chắt ra. Rượu hơi chát vì ngâm rễ cây nhưng bù lại tuyệt không đau đầu. Mẹ lo vết thương của anh tái phát nên ra sức can. Anh lễ phép bảo:

- Anh em con cũng chỉ uống lần này thôi. Rồi mẹ mang trả cho bác Lâm hộ con.

Ðó là câu nói lễ độ cuối cùng mình nghe từ miệng anh.

Mọi thứ vẫn bình thường. Chuyến đi còn dài cho dù mình có hơi se lạnh vì trống trải. Giá có thêm cái gì nữa đắp điếm vào mình thì tốt hơn. Mình nhắm mắt lại, hơi chao đảo vì những sắc màu rin rín quyện với nhau quay tròn ngay sống mũi.

- Ðây, đây là Thung lũng oan khuất, nổi tiếng về oánh chác - Hắn bảo mình - ông có xuống ngó một tí không?

Tất nhiên là xuống. Bọn mình nhoài ra khỏi xe, thi nhau hít thở bầu không khí thoáng đãng. Chỗ này đại đội anh đã quần nhau với họ năm ngày trời. Quân cứ bổ sung thun thút như dốc cát xuống hang. Ngày cuối cùng, tức là ngày thứ sáu, thì cả đại đội chỉ còn lại có sáu mống.

- Bọn họ vào đường này, đấy, còn rút đường này, không, chếch dưới kia một chút cơ.

Lái xe khoát tay vẽ đường quân của họ tiến và rút cho mình thấy rồi lỉnh ra sau xe. Thung lũng oan khuất giống như cái nồi méo, hơi bị lệch về bên trái và chỉ có đúng một con đường xuyên thẳng qua. Ðơn vị anh phục ở đoạn đường đầu tiên dẫn vào thung lũng. Năm ngày trời quân họ xô hết lớp nọ đến lớp kia mà không vượt qua. Ðến sáng ngày thứ năm họ mở trận đánh quyết định trong đó có cả xe tăng yểm trợ tấn công. Tờ mờ sáng họ đã dùng pháo giã liên miên đến hơn tiếng đồng hồ sau đó tới thám báo dò đường, cuối cùng là bộ binh có xe tăng bọc lót phía sau.

“Thằng Vĩnh quê ở Hà Nam sốt ruột quá mới ngỏng đầu khỏi chỗ nấp chửi, địt mẹ chúng mày, xéo cha nó về đi. Ðạn sượt qua mang tai nó, cắm giữa mặt thằng Biên, người Quảng Yên. Tao sợ, rất sợ, chắc chỉ thêm chút nữa là tao bỏ chạy.’’

Thật may đúng lúc anh nhấp chân định chuồn thì đại trưởng hạ lệnh nổ súng. Ðại liên của Vĩnh kéo dài một tràng về phía ụ đất bên trái, nơi có mấy tay lính địch đang nhấp nhô. Anh nghe tiếng súng đại liên như tiếng cười điên dại.

“Cừ rừm. Ðại trưởng lắp đạn vào khẩu B41 cho thằng Tấn bắn. Cái thằng dân tộc này đứng thẳng dậy chỉnh súng đến gần phút mới bóp cò.”

Chiếc xe tăng đang chậm chạp bò lên thì khựng lại sau đó lửa nhoáng ra bám nhằng lấy nó. Ðại trưởng lại nhanh nhảu lắp quả nữa cho Tấn, giục bắn chiếc xe thứ hai đang lách qua chiếc bị cháy để lao lên. Tấn hơi cuống, chân tay rung bần bật, không phải vì sợ mà vì như sau này Tấn bảo với anh, là do mót đái quá. Ðại trưởng tưởng Tấn sợ mới quát tướng lên. Tấn vứt toẹt khẩu súng sang đại trưởng bảo:

- Giỏi thì ông bắn đi.

Ðại trưởng quắc mắt nhìn, Tấn cũng quắc mắt lại. Chiếc xe tăng đã vượt qua được khúc cua, đang quay nòng về phía ổ đại liên của Vĩnh.

“Tao hoảng quá mới kêu:

- Ðại trưởng, nó định bắn thằng Vĩnh đấy.

Ðại trưởng kê khẩu B41 lên vai chĩa về hướng chiếc xe tăng có ngôi sao bát nhất, mắm môi bóp cò.”

Quả đạn lảo đảo lao ra nhưng lại sượt qua sườn chiếc xe tăng, cắm vào một ụ đất nổ tung. Chiếc xe tăng cũng nhả đạn. Anh thấy chỗ Vĩnh khói dựng lên. Hai phát đạn bắn thẳng của chiếc tăng làm Vĩnh và khẩu đại liên tan như cám. Tấn giằng lấy khẩu B41 từ tay đại trưởng, lắp đạn và đứng thẳng lên. Tấn ngắm rất cẩn thận, như là không có súng đạn gì ở xung quanh.

“Tao với mấy thằng nữa vội vàng bắn yểm trợ cho nó. Mày biết không, thằng Tấn vừa ngắm vừa đái ra quần. Ðái xong nó mới bóp cò.”

Chiếc xe tăng bị hất lùi lại, lật nghiêng lộ cả gầm xe. Bắn xong phát đạn đó, Tấn vơ khẩu tiểu liên, chạy xộc lên quét lia lịa về phía bộ binh địch. Bọn anh cũng lao lên theo, vừa bắn vừa văng tục.

“Mỗi khi thằng Tấn sải chân, nước văng ra từ đũng quần nó trông rất đểu.

Tao thuật lại y nguyên đấy, không phịa tí nào hết.