3- Lớp đất cháy
Tòa nhà đã gần xuống cấp, lớp vữa trên tường bong ra để lộ hỗn hợp những thanh tre mảnh, trên mỗi ô cửa sổ bảng kính, mấy mảnh giấy hình cánh hoa được xếp theo dạng vòng cung. Nếu không có tấm biển “Tập thể Tokui” chắc không ai nghĩ nơi này có người sống.
Yoshie đứng chôn chân nhìn tòa nhà. Trong lúc nhìn ngắm, anh chú ý đến cách người ta tạm biệt nhau và hiểu ra đây là một loại nghi thức.
Nghĩ vậy, không hiểu sao càng nhìn anh càng thấy tòa nhà như hũ đựng tro cốt bọc vải trắng. Sợ không còn cơ hội trông thấy lần thứ hai, anh vội vã nhìn như muốn in hình bóng đó vào tận đáy mắt.
Đầu tiên là hai cây cột phủ bột đá hoa cương ở cửa ra vào, tiếp đến căn phòng bên trái là tiệm giặt là. Một người đàn ông nhỏ thó mặc sơ mi trắng đang di chuyển chiếc bàn là hơi nước kiểu cũ, thái độ chuyên tâm phủ hồ* đó trông thật lạnh lùng.
Lớp đặc biệt được phủ đế tạo kiểu dáng, giữ nếp và độ cứng của quần áo mới.
Bên phải là phòng trống. Trên nền bê tông ở cửa ra vào có đôi xăng đan, giày trẻ con, những dụng cụ nghịch cát đã hoen gỉ chuyển màu đỏ, một đống phân không biết của chó hay của con nít, chỉ mỗi bình cứu hỏa là sáng chói. Trong nhà mặc dù đang là ban ngày lại hệt như trong hang, từ ngoài nhìn vào không thấy rõ lắm, hành lang ở giữa, hai bên là hai dãy phòng, mỗi dãy có ba phòng, mỗi phòng rộng 10m2. Cuối hành lang là nhà bếp, rẽ phải sẽ thấy phòng vệ sinh, rẽ trái là cầu thang lên tầng hai, ngay dưới cầu thang có căn phòng rộng 4,5m2.
Một lần nữa nhìn bên ngoài tòa nhà, bức tường màu xám lõi gỗ trát vữa, mái lợp ngói màu xanh lá cây, phía ngoài căn phòng trên tầng hai treo một chiếc khăn mặt bay phấp phới theo gió, trên tay vịn đặt ba chậu cây cảnh.
Nhà tập thể này nằm ở một góc ngã tư đường, ba góc còn lại là nhà tập thể phức hợp mới xây, tường bê tông khang trang. Cuối con đường chạy ra biển là cửa hàng bán rượu tự ủ với cái tháp tỏa sáng lấp lánh, trông như nhà máy liên hợp sản xuất dầu khí. Núi Rokko bị con đê cạnh tuyến đường sắt của Bộ Vận tải che khuất, làn sương mỏng màu tím bốc lên ở lưng chừng núi trông như có đám cháy.
Trước chiến tranh, đến tận khi xảy ra trận không kích đầu hè năm 1945, tập thể Tokui từng là kí túc xá của nhân viên Công ty Xe buýt thành phố Kobe, Yoshie ở ngay gần đó nên vẫn nhớ được.
Cả một vùng biến thành bình địa trơ trụi, anh vẫn nghĩ thứ đáng kể nhất còn lại sau đám cháy là ngôi trường tiểu học và Hội trường Lớn, nhưng có vẻ cũng chỉ là ảo giác. Còn tòa nhà này chắc do quá xuống cấp nên cuối cùng được bán lại cho tư nhân, cũng chẳng cầu kì gì, lấy luôn tên theo tên khu phố và trở thành nhà tập thể.
Không hiểu vì sao Shariman Kinu lại đến sống ở đây.
Hằng tháng Yoshie gửi 10.000 yên cho bà Kinu, người mẹ nuôi đã chăm sóc anh mười hai năm. Một bà lão 69 tuổi không người thân thích hiển nhiên được hưởng trợ cấp theo Luật Bảo hộ Đời sống, nên tổng cộng bà có hai mươi mấy nghìn yên. Chỉ cần trả 4000 yên là được ở căn phòng có nắng chiếu vào, chẳng việc gì phải ở tập thể Tokui không khác mấy nhà hoang, hơn nữa còn là căn phòng dưới cầu thang đối diện khu vệ sinh này.
Yoshie gửi tiền từ phòng kế toán Công ty Sản xuất Nghệ thuật nơi anh làm việc đến ngân hàng Kobe chi nhánh Rokkomichi. Kinu thường gửi anh bưu thiếp như để thông báo đã nhận được tiền với những dòng chữ không bao giờ thay đổi, “Rất cảm ơn con tháng nào cũng quan tâm đến mẹ, số tiền con chuyển giúp mẹ rất nhiều. Mẹ gửi cho con một ít đồ như thường lệ, hi vọng con sẽ thích. Chú ý giữ gìn sức khỏe.”
Hai ngày sau đó Yoshie nhận được gói tảo biển tẩm gia vị rẻ tiền. Hồi nhỏ anh rất thích món này, nhưng giờ đây khi quà được gửi về nhà, anh lại có cảm giác nặng nề nên hay tặng lại cho ai tình cờ gặp ở chỗ làm.
“Trưởng phòng, anh có điện thoại!” Chiều qua khi nhận điện, anh cứ đinh ninh người gọi là quản lý của một nhà soạn nhạc, mỗi ngày người đó phải gọi đến hai ba mươi lần, nên anh nhận điện rất thoải mái. Nhưng đây là một giọng khác hẳn những người quen làm cùng ngành, nghe rất rụt rè, ngập ngừng, “Anh có biết bà Kotsuma Kinu không?”
Nghe đến Kotsuma, dù đó là họ cũ của mình, trong phút chốc Yoshie không thể liên hệ được nó với Shariman. Nói chứ cũng hai mươi năm rồi anh chưa nghe người ta gọi cái họ ấy. Các bưu thiếp bà Kinu gửi anh chỉ lật đằng sau nhìn mấy dòng chữ thường lệ rồi vứt vào sọt rác cùng một đống tờ rơi, không bao giờ có ý định đọc lại. Vì vậy anh bất giác buột miệng, “Kotsuma?”
“À chữ này hơi khó, viết là Shariman.”
Nghe thấy Shariman, Yoshie giật mình.
Hai mươi năm trước không ai gọi Shariman là Kotsuma, đến cả thầy giáo ở trường cũng gọi là Shariman. Mỗi lần như vậy anh lại thấy bực bội, không hiểu sao tên họ mình lại như vậy. Bà bấy giờ còn sống có giải thích, gia đình anh ở Fukui từ thời Edo, nhiều đời sản xuất bánh “Butsushari Manju”*, đến thời Minh Trị Duy Tân, người dân được phép mang họ*, thế là gia đình liền lấy họ Shariman theo tên bánh.
Bánh bao xá lợi Phật.
Vào thời Minh Trị (từ 1868), dân số Nhật Bản đã trở nên đông đúc, nhà nước thực hiện chế độ hộ khẩu để dễ thống kê và quản lý, nhu cầu tên họ đầy đủ được đặt ra với tất cả mọi người, nên người dân mới bắt đầu tự chọn họ cho mình. Trước đó dân thường không có họ. Các họ hiện đại của Nhật Bản hầu hết đều hình thành từ thời điểm này.
“Vâng, tôi biết bà ấy.” Bị cuốn theo đối phương, Yoshie lúng túng đáp lại bằng giọng địa phương Kobe.
“Ôi, anh có biết ạ? À không, tôi không nghĩ ra người thân nào của bà, thấy tên và địa chỉ của anh ghi ở dưới tờ giấy trong nhà bếp nên nhờ 104 kiểm tra giúp.” Người nọ có vẻ nhẹ nhõm nên nói trôi chảy hơn.
“Vậy bà Kotsuma Kinu có chuyện gì sao ạ?”
“Vâng, thật đáng tiếc, bà đã mất sáng nay. À không, mất tối qua, bác sĩ nói thế nhưng mãi sáng nay tôi mới hay tin. Tôi không biết phải liên lạc với ai, bà Kotsuma đã qua đời, anh có biết họ hàng nào khác thì thông báo giúp tôi được không? Tạm thời chúng tôi có thể trông bà một đêm.” Đối phương tiếp tục nói bằng giọng hết sức tử tế.
Đang lơ đãng nghe, Yoshie bỗng nhận thấy những cái nhìn ngờ vực của nhân viên trong phòng, “Xin lỗi đã để anh phải gọi từ xa đến, xin phép cho tôi gọi điện lại sau.”
Mặc dù người ta bảo không sao vì đang gọi từ công ty, nhưng Yoshie vẫn xin số điện thoại. Một phần vì ở chỗ làm không tiện hỏi cụ thể, phần nhiều là anh muốn có thời gian tĩnh tâm.
Rõ ràng Yoshie đã chuẩn bị kĩ tinh thần đối với mọi sự kiện liên quan tới Shariman Kinu, như việc bà tuổi cao có thể ra đi bất cứ lúc nào, hay trước đó nếu bà nằm liệt giường do tuổi già sống một mình, anh cũng sẽ cố gắng sắp xếp ổn thỏa hết sức có thể.
Dù vậy, đến lúc thực sự xảy ra chuyện chắc chắn anh sẽ rất bối rối, nên với những bưu thiếp Kinu gửi cũng chỉ lướt qua dòng chữ trước sau như một rồi tự trấn an mình, cố gắng không nghĩ nhiều đến bà. Nay đột ngột nghe báo bà đã chết, anh bỗng thấy bấn loạn, muốn chạy ngay đến chỗ bà mà lại không biết địa chỉ.
Trước năm 1948, Kinu sống cùng Yoshie trong căn phòng thuê trên tầng hai của một gia đình trong khu phố Shinohara Minami. Đến khi chỉ còn một mình, bà chuyển đến trọ ở gần đền Hachiman.
Cho tới lúc đấy Yoshie vẫn biết rõ nơi Kinu ở, nhưng sau này, anh tự thấy mình sẽ còn tưởng tượng đủ thứ về cuộc sống nay đây mai đó của Kinu nếu biết nơi bà sống, và dù có suy nghĩ hay lo lắng bao nhiêu thì cũng không thể giúp được gì, nên cố gắng không tìm hiểu nơi ở của bà nữa. Anh đã vứt hết bưu thiếp của Kinu đi, giờ không biết làm sao.
“Anh đi công tác hai, ba ngày. Đi Kansai.” Trước hết Yoshie gọi điện về nhà, Reiko vợ anh trả lời vẻ không vui, “Nào, bố lại đi công tác, con dặn bố đừng quên mua quà về đi.” Cô đưa ống nghe cho Toshie mới ba tuổi.
“Bố này, bố mua kem nhé, cả máy bay nữa!” Nghe thằng bé nài nỉ, Yoshie ừ hữ qua loa rồi cúp máy, lập tức nối máy đến Kobe, gọi cho người đàn ông ban nãy.
“Bà Kinu sống ở đâu ạ?” Anh hỏi.
“Bà ấy sống cạnh bến xe Ishiyagawa, anh cứ hỏi thăm khu tập thể Tokui là họ chỉ cho ngay.”
“Anh nói bà mất rồi, vậy trước đó bà có bị ốm lâu không?”
“Không, theo như người trong nhà cho biết thì bà không ốm đau gì, rồi đột ngột ra đi.”
Vậy là Kinu không phải chịu cảnh khổ cực đau ốm một mình trên giường bệnh. Yoshie thấy mình như vừa được cứu rỗi, anh báo với người nọ sẽ đến đó ngay đêm nay. Và đi thẳng ra ga. Anh mang theo 100.000 yên vốn là tiền tạm ứng cho nhà soạn nhạc, nhưng không biết có đủ không.
Hai mươi năm trước, Yoshie đã cùng Kinu lên chính chuyến tàu tuyến Tokai này, bị ép chật cứng, đứng hơn mười bốn giờ trong đám đông hỗn tạp để lên Tokyo, trở về ngôi nhà nơi anh sinh ra, mang theo hộp cơm có những viên cám gạo hấp.
Trên tàu, Kinu bị một người đàn ông to con ngủ gật dựa hẳn vào người, Yoshie lấy khuỷu tay chọc ông ta thì bị húc ngược lại vào đầu. Họ đi tàu chậm, nên mỗi khi tàu dừng lại rất lâu để nghỉ, nước uống công cộng trong ga thực sự là điều cứu rỗi. Dù vậy, đối với phụ nữ như Kinu, việc chen ra từ trong khoang tàu chật ních người là chuyện nằm ngoài khả năng. Bà dấp nước vào chiếc khăn bằng tơ nhân tạo và thấm lên miệng.
“Đến nhà đó rồi con sẽ là con của gia đình họ, phải biết nghe lời đấy. Bố là bố ruột của con nhưng mẹ là mẹ kế, còn anh em khác nữa nên con phải làm sao để mọi người thương mới được.”
Nếu Yoshie còn ở nhà Shariman thì Kinu và anh sẽ cùng gục ngã. Sau khi chiến tranh kết thúc, hai mẹ con bị đuổi ra khỏi nhà với đôi bàn tay trắng. Lúc đó anh mới 12 tuổi, Kinu thì bị bỏng cả hai tay trong trận ném bom, thậm chí không thể tự giặt giũ nên mới quyết định đưa Yoshie về ngôi nhà nơi anh sinh ra. Bà năn nỉ gia đình đó ít nhất cũng cho anh được đi học như những đứa trẻ khác, họ mở cửa hàng bán trái cây ở Nakano, tiền bạc đồ ăn không thiếu nên dễ dàng chấp nhận.
Sau khi ra khỏi ga Kobe, Kinu luôn miệng rót vào tai Yoshie những lời ấy, có lẽ để chuẩn bị tinh thần buông đứa con mình đã chăm bẵm suốt mười hai năm trời, và giờ sẽ cắt đứt mối quan hệ với nó.
Đến Tokyo trời đã tối, hai mẹ con không biết đường, cũng không gặp được bố ruột của Yoshie, mà đáng lẽ ông ta phải ra đón họ.
Cả hai vừa đi vừa hỏi đường, đến Nakano thì đã gần 12 giờ đêm. Cửa vừa mở, một phụ nữ trẻ trông chỉ trạc tuổi con Kinu ra đón, “A, mời hai mẹ con vào! Chắc mệt lắm rồi phải không, chúng tôi cứ lo suốt thôi.”
Đây là mẹ mới của Yoshie.
Một lúc sau bố về. Yoshie được gọi đến chào các anh em và ăn cơm. Từ sau trận ném bom, anh chỉ được ăn đồ ăn phân phối cho nạn nhân chiến tranh, lúc này vừa ăn ngấu nghiến vừa thấy ngại ngùng. Có lẽ cuộc sống lao khổ hai năm nay đã thấm vào người nên anh thấy Kinu thật nhếch nhác giữa cảnh đoàn viên của gia đình họ. Anh nhìn bà, nửa khó chịu nửa xấu hổ như thể đang nhìn người ngoài.
“Sắp phải chia tay rồi nên tối nay con ngủ với mẹ nhé.”
Hai mẹ con được xếp cho ngủ tại phòng khách treo một bức tranh cá chép vượt thác trong góc toko.
Yoshie nằm sấp, vừa ngắm vừa lẩm bẩm, “Tranh vẽ đẹp quá.”
Kinu thì gấp quần áo cho Yoshie, tiện thể dặn dò, “Từ mai con gọi cô ấy là mẹ nhé, cô ấy sẽ yêu thương con. Ở nhà này, chỉ cần con muốn thì học đến đâu cũng được.” Yoshie nghe bà lẩm bẩm “Như vậy mẹ sẽ vui lắm”.
Chẳng nghĩ ngợi gì, anh rơi ngay vào giấc ngủ. Lâu lắm anh mới có được cảm giác thỏa thuê với cái bụng no nê, không hề lo nghĩ liệu mình có thích nghi được với gia đình này, hay có thân thiết được với người mẹ mới hay không.
Ba ngày sau, Yoshie tiễn Kinu ra ga Tokyo, trên cánh tay khuyết tật của bà lỉnh kỉnh nào giỏ táo nào cá hồi.
Cũng như lúc đến đây, khoang tàu chật ních người, Yoshie phải đẩy Kinu vào trong. Không vẫy tay cũng không khóc lóc tạm biệt, chỉ có tiếng thét do bị xô đẩy khi tàu chuyển bánh thay cho lời chia tay.
Anh thờ ơ dõi theo ánh đèn đằng đuôi tàu, không chút buồn rầu quyến luyến, lập tức bị thu hút bởi các tòa nhà như Marunouchi, Đường sắt Quốc gia, Bưu điện Trung ương bề thế nằm bên kia nhà ga đã cháy sập.
Đối với người mẹ mới, Yoshie nhanh chóng thoải mái gọi là mẹ.
Từ ga Shin Osaka, Yoshie chuyển sang tàu điện ngầm Hanshin, đến Ishiyagawa thì đã 9 giờ tối. Anh cứ ngỡ mình biết rõ nơi này, nhưng thật ra cũng chỉ từng lang thang ở đây đợt sau trận không kích. Hai mươi hai năm đã qua, nhà dân mọc lên rải rác nên anh hơi lúng túng, nhưng chắc mẩm cứ đi ngược dòng sông sẽ thấy quốc lộ Hanshin.
Dọc đường, anh gặp ngôi đền Tenjin quen thuộc ở bên phải. Trong sân không một bóng cây, riêng ngôi đền có vẻ mới được xây lại.
Đi tiếp, anh trông thấy Hội trường Lớn hiện ra trong màn đêm, dưới hầm có một nhà ăn nơi anh đã từng vài lần xếp hàng xin cháo trước khi tòa nhà bị cháy. Yoshie bước vào cửa, không có bóng dáng khách hàng, chỉ thấy một người bồi bàn đã luống tuổi. Anh gọi bia, tra tìm tập thể Tokui trong danh bạ, nhưng không thấy. Dù gì cũng thức canh linh cữu, ít nhất phải mang sushi đi.
Yoshie nhìn sang quốc lộ, nhưng chẳng thấy ánh sáng hàng quán nào, nên đành hỏi ông bồi.
“Mấy cửa hàng ở đây không còn mở đâu.”
Quán rượu cũng đóng cửa khi trời tối.
Sau khi về ở Tokyo, lúc học lên cấp ba, Yoshie có đến Kobe thăm Kinu. Đây là lần tái ngộ đầu tiên sau ba năm chia xa.
So với lứa học sinh năm 1950 thời đó, anh mặc bộ đồng phục tương đối đắt tiền. Không biết Kinu đã nói gì với bố Yoshie mà nửa năm sau khi về nhà, anh được đổi từ họ Shariman vẫn mang trước đó thành họ của gia đình. Anh đã hoàn toàn quen với gia đình mới, sống những ngày vô lo hơn cả anh em mình.
“Bố sẽ để ý bên Kinu để bà ấy không phải thiếu thốn thứ gì, nên con không cần lo đâu. Thỉnh thoảng về thăm là được,” mẹ mới trấn an.
Yoshie muốn thể hiện mình là một đứa trẻ có trái tim nhân hậu nên đã tỏ ra lo lắng cho cuộc sống của Kinu, chứ thật ra chẳng để tâm gì đến bà. Thậm chí anh còn tự kiêu vì bộ dạng đẹp đẽ hiện tại khác hẳn cái dáng nhếch nhác nghèo túng ba năm trước của mình, nên năn nỉ mẹ cho mặc quần áo mới khi đến thăm Kinu.
Mãi Yoshie mới tìm ra căn phòng rộng 8m2 ở tầng hai tiệm mạt chược, nhưng không có ai ở nhà. Bà chủ tiệm bảo Kinu đang đi bán bảo hiểm. Yoshie không hề biết bà vẫn đi làm từ bấy đến giờ, nhưng với người phụ nữ sống một mình thì việc này cũng dễ hiểu.
Yoshie đi lang thang một lúc lâu quanh dãy nhà còn sót lại sau trận cháy trước ga Rokko, nơi anh từng rất quen thuộc trước đợt ném bom.
Anh trở lại tiệm mạt chược đúng lúc bắt gặp Kinu đang chạy rầm rập từ tầng hai xuống. Những câu chào hỏi đã chuẩn bị sẵn bỗng bay biến.
“Ôi, có phải Yoshie đó không, lớn quá rồi nhỉ.”
Bị coi như trẻ nhỏ, Yoshie có hơi khó chịu nhưng cảm giác cũng thật thân quen.
Anh bước vào nhà. Phòng ốc trống trơn không có lấy một đồ dùng.
Để ý kĩ thì thấy trong ba năm nay, Kinu đã già đi rất nhiều, mặc váy dài thòng trùm hết nửa bắp chân và áo khoác quê mùa trông như của đàn ông, một trời một vực với bà mẹ ở Tokyo. Anh bỗng cảm thấy khó chịu.
“Đói rồi phải không? Để đặt làm sushi ăn nhé.” Bà đong độ lạng rưỡi gạo từ bao gạo cất trong tủ đồ vào túi giấy. “Mà ở Tokyo chắc con được ăn sushi ngon lắm nhỉ!”
Kinu vội vã ào ra cửa.
Còn lại một mình, Yoshie lén mở tủ, trong đó có hai tấm chăn mỏng, ngăn dưới chỉ có chiếc bát thô kệch như bát cho mèo ăn, cái chén nhỏ. Giỏ mây và hòm quần áo hồi hai mẹ con còn ở Shinohara đều không thấy.
Chắc chắn bà phải có quần áo để thay, nhưng anh chẳng thấy đâu, thay vào đó, trên kệ đặt một bàn thờ Phật mộc mạc.
“Đợi một tí, pha trà đã nhé.” Kinu tự mang về gói sushi đã đặt rồi lại biến đi đâu mất, có vẻ đi mượn ấm trà của bà chủ tiệm mạt chược.
Trong căn phòng tối mờ, Yoshie ngán ngẩm nhìn gói sushi có màu sắc chẳng mấy ngon lành. Bà Kinu thì vội đi lấy khăn lau, rồi chén đựng nước tương, tất tả không yên.
“Ừm...” Yoshie định gọi nhưng tiếng mẹ cứ ứ trong miệng không phát ra được. “Không ăn ạ?” Anh cố tình nói giống giọng người Tokyo.
“Không, không, Yoshie ăn đi đừng ngại, nhưng không biết sushi ở đây có vừa miệng con không?” Kinu dè dặt lặp lại câu nói. “Mọi người nhà đó có khỏe không?”
“Có ạ.”
“Vậy thì tốt quá, mẹ cũng nhờ trời mà vẫn khỏe.”
Kinu xưng mẹ chẳng hề ngần ngại. Màu da bà đã sạm đi, có lẽ do tuổi tác. Yoshie vẫn đinh ninh khi gặp nhau tự nhiên sẽ có nhiều chuyện để nói, vậy mà cũng chỉ được vài ba câu rời rạc. Anh bỗng lo lắng Kinu sẽ bảo ngủ lại, nên gượng gạo nói, “Con bận chút việc bố nhờ, phải đi đã, sau này lại đến.”
Như chỉ đợi có thế, Kimi đáp ngay, “Thế à, thế thì phải làm xong việc bố giao trước nhỉ, ban ngày mẹ đi ra ngoài, nhưng biết lúc nào con đến thì mẹ sẽ ở nhà.”
“Chiều mai ạ.” Dù sao cũng không thể cứ cắm đầu đi luôn, Yoshie đãi bôi lấy lệ rồi nhanh chóng rời nhà.
Đi đến gần nơi đổ nát, anh nghĩ biết đâu lại gặp một người bạn tiểu học nào đó, để được khoe dáng vẻ chỉn chu của mình hiện tại. Nhưng hầu khắp khu đổ nát vẫn y như xưa, chỉ khác bị phủ một lớp đất do mưa xối trôi xuống, cỏ mọc rậm rạp. Trong tầm mắt anh, toàn là hài cốt dưới hầm tránh bom, ngoài ra không mảy may có dấu hiệu con người sinh sống.
Uống hết một cốc bia, Yoshie ra khỏi nhà ăn dưới hầm, bên ngoài bóng tối đã bao trùm. Quán giải khát Mũ Đỏ ở bên phải có từ trước chiến tranh, còn dãy nhà tiếp theo anh không thấy quen.
Yoshie vào hàng thuốc lá hỏi tập thể Tokui, họ bảo anh men theo quốc lộ đi về hướng núi sẽ thấy ngay khu lắp ghép phức hợp đấy.
Đến trước một tòa nhà kiểu mới, Yoshie đi qua đi lại hai, ba lần mãi cũng tìm thấy, ngó vào cửa lớn đang mở nhưng không thấy bóng người.
“Xin lỗi, có ai trong nhà không?” Yoshie hỏi như hét lên. Két! Cửa căn hộ bên phải xịch mở, một đứa trẻ khoảng 10 tuổi ngó ra.
Thấy anh, nó đưa tay phải lên đầu, bàn tay đang nắm lại hướng lên trên và xòe ra “Hây” rồi chui tọt vào nhà như cũ.
“Ai đấy?” Giọng đàn ông khản đặc hỏi đứa trẻ.
“Xin lỗi, có ai trong nhà không?” Yoshie gào lên lần nữa. Lần này, từ căn hộ bên trái một phụ nữ mắt lác nhỏ bé như trẻ con bước ra, vừa chỉnh lại quần áo ngủ vừa hỏi, “Ai đấy ạ?”
“Tôi là người quen của bà Kotsuma Kinu.”
“À anh đến rồi đấy ạ.” Nói rồi bà ta hét, “Người biết bà Shariman đến rồi đấy!”
Mọi người từ năm căn hộ ở hai bên đổ ra.
Yoshie lúng túng, “Tôi rất xin lỗi đã đến muộn.” Anh cúi đầu chào quanh rồi hỏi về người đàn ông trưa nay đã gọi điện cho mình, nhưng không thấy.
“Anh ta trông coi bà suốt từ nãy, nhưng giờ cũng muộn rồi nên... Đi hướng này.” Yoshie được dẫn đi, vừa bước vào hành lang đã thấy mùi hôi từ khu vệ sinh xộc vào mũi. Rầm nhà dưới chân có lẽ đã long ra nên hành lang rung lên theo nhịp bước.
“Anh cẩn thận đầu nhé.”
Không cần phải nhắc, vì nếu anh không khom hẳn người thì chẳng thể chui xuống dưới gầm cầu thang. Chỉ có nhõn một bóng đèn tròn lờ mờ ở ngay chân cầu thang. Anh vẫn khom người bất động, đột nhiên đèn sáng.
Ngay dưới chân Yoshie, Kinu nằm đó, người phủ vải trắng.
Phải nói là căn phòng quá chật chẳng làm được gì. Chỉ chừng 4,5m2, trần còn đổ xéo do là gầm cầu thang, không có cửa sổ.
“Bác sĩ bảo bà già yếu rồi, ra đi thanh thản.” Người đàn ông to béo nói từ sau lưng.
Yoshie để ý nhìn mới thấy nam nữ xung quanh ai cũng mặc áo bông đã thòi cả bông ra ngoài hoặc blouson tồi tàn, khác xa bộ áo vest thương gia chỉn chu của anh.
Nhưng hơn hết Yoshie thấy cách ăn mặc đó không khác gì báng bổ người đã khuất.
“Tang lễ thì sao bây giờ nhỉ? Anh là người thân của bà Shariman phải không?”
Lại là Shariman, ngực anh như nhói lên. “Tôi không phải người thân của bà ấy, nhưng những việc hậu sự tôi xin phép được lo nốt. Rất cảm ơn mọi người đã giúp đỡ thời gian qua.”
Đáng lẽ anh nên mang bia hay gì đó đến để tăng thêm dũng khí. Đột nhiên phải đối mặt với cái chết thương tâm của Kinu, mặc dù chết do già yếu thì không phải đau đớn gì, nhưng những lời bâng quơ của hàng xóm, từng câu từng chữ vào tai anh đều như trách cứ.
Yoshie thế chỗ người trông thay, đặt đầu Kinu quay về hướng Bắc, đây có lẽ là việc duy nhất anh làm được để giúp bà yên giấc.
Bước qua đầu Phật, anh đặt thi thể bà vào phía trong, đêm trực linh cữu không lư hương cũng không nén hương, chỉ có một cục nến trên chiếc đĩa nhỏ sứt mẻ, chắc có ai đó đã ngồi canh cho bà.
Nhác thấy vẻ mặt Yoshie trở nên nghiêm trọng, có người nhắc, “Nào, trẻ con ra về hết đi, không có gì dễ nhìn đâu.”
Như nhận được hiệu lệnh, mọi người đồng loạt tản đi.
Yoshie mạnh dạn lật miếng vải trắng lên.
Mặt Kinu lộ ra còn đen hơn cả mặt chuột, một mùi khó ngửi xộc đến. Mắt bà nhắm nhưng miệng hé một nửa, lộ cả phần lợi chỉ còn năm chiếc răng trắng sáng. Lật tiếp tấm chăn mỏng ra, hai tay bà đặt ngay ngắn trên ngực.
Yoshie kiểm tra đường gân màu vàng trên mu bàn tay, đó là vết sẹo lồi do bị bỏng trong trận ném bom. Lúc Kinu còn sống nó có màu đỏ tươi, giờ đây trên nền da đen sạm lại không khác gì một sinh vật lạ nổi lên, nhầy nhụa. Những ngón tay bà đan vào nhau như muốn che đi vết sẹo đau đớn cả khi đã chết, hơn là chỉ đơn thuần chắp tay lại.
Yoshie biết đến trận ném bom mùng 5 tháng Sáu năm 1945 khi đang sơ tán ở nhà người chú tận Kitakawachi. Năm ngày trước đó, anh thấy khói bốc lên mịt mù từ Osaka, Kobe ở xa nên chỉ chịu ảnh hưởng ở mức độ các đám mây bị nhuộm mờ chút ít. Đợt không kích ở Osaka, mẹ cũng ghé qua xem tình hình của anh nên sau khi Kobe bị ném bom, anh chắc chắn mẹ hoặc bố sẽ đeo ba lô đến đón mình, nhưng chờ mãi không ai đến.
Ngày thứ ba sau trận ném bom, chú phải đi xem tình hình nhà anh. Khi chú về trời đã tối muộn, tưởng Yoshie ngủ rồi nên nói toạc ra với người trong nhà, “Kenzo xong rồi.”
“Xong là sao, có nặng lắm không?”
“Nặng lắm, chị Kinu thì bị bỏng đang trong bệnh viện, nhà Shariman coi như đi tong.”
Yoshie chỉ biết bố nuôi Kenzo của anh là trưởng một bộ phận trong công ty thương mại làm về dầu ăn, dù phải sống dựa vào lương thực phân phối nhà anh vẫn thừa dầu ăn. Có lần bố bị người ta chỉ trích là xu nịnh vì biếu dầu ăn cho thầy giáo tiểu học của anh. Ông cũng gửi cho chú hai thùng dầu 18 lít coi như tiền nuôi dưỡng anh.
Yoshie không hiểu “xong rồi” nghĩa là chết, mà cứ nghĩ kiểu bị tóm lấy ném bay ra xa như trong môn sumo, nên anh buồn lo cho vết bỏng của mẹ hơn. Nhưng nếu để mọi người biết anh vẫn thức, thì việc có người xong rồi và bị bỏng sẽ hoàn toàn thành hiện thực.
Ngủ thôi, ngủ dậy nhất định bố mẹ sẽ đến đón mình, anh len lén hít nước mũi rồi cứ thế chìm vào giấc ngủ.
Nhưng đó không phải giấc mơ. Người ta thậm chí không tìm thấy xác của bố, mẹ thì bị bỏng thân trên, phải vào viện Watanabe.
“Cháu đã học lớp Năm rồi, hãy đến chăm sóc cho mẹ đi, ở đấy không có y tá, để mẹ một mình tội nghiệp.” Thím anh nói không sai, nhưng có lẽ thím còn lo hơn khi không biết phải làm gì với một đứa trẻ côi cút.
Bệnh viện Watanabe nhìn ra bờ biển Ashiya, thím đưa Yoshie đến ga Ashiyagawa thuộc tuyến đường sắt Hanshin.
Khi đi bộ dọc bờ sông Ashiya, anh không thấy chút vết tích nào của trận ném bom, chỉ có xe kéo của người đi lánh nạn qua lại không ngớt.
“Cháu đừng sợ nhé, mẹ cháu quấn băng kín mít nhưng sẽ khỏi ngay thôi.” Thím vừa nói vừa ném vào miệng quả dưa chuột nhỏ bằng ngón út hái từ vườn nhà bên bờ sông.
Khi Yoshie tới bệnh viện, cuộc không kích đã qua được một tuần nhưng tình trạng vẫn hỗn loạn như cháy nhà. Ai cũng quấn băng đầy đầu, tay, chân, người ngợm bê bết máu.
Có người liên tục dụi mặt vào cánh tay để thổi bay những con dòi chui ra từ băng vải, có người bị khói làm mù mắt đưa tay quờ quạng tìm lối đi.
Tòa nhà cốt thép nên khá vững chãi, Yoshie lên tầng hai, thấy hành lang xếp la liệt nào bếp lò nào than, cửa ra vào các phòng bệnh đều mở toang, chắc trong phòng quá nóng.
Kinu đang ở phòng bệnh số 11. So với tình trạng của bà thì những cảnh tượng rùng rợn anh vừa thấy ở phòng chờ mới chỉ là khởi đầu.
Thân trên Kinu quấn kín băng, chỉ hở mấy lỗ đen ở mũi, miệng và mắt. Từ những chuyển động nhè nhẹ ở phần băng bị lỏng ra mới thấy được bà vẫn còn thở.
“Nghe nói khi ra khỏi hầm tránh bom thì nhà sập xuống.”
Hầm tránh bom nhà họ ở dưới căn phòng rộng 10m2 hướng ra vườn. Nhớ lại không khí lạnh lẽo dưới hầm, Yoshie mới bất giác cảm nhận được thực tế nhà đã cháy rụi. Anh đứng chết trân, không tin nổi người như con ma nằm trước mắt đây chính là mẹ mình.
Kinu huơ huơ cánh tay đang buộc trên cao, lẩm bà lẩm bẩm.
“À, chị muốn đi tiểu phải không?” Thím lôi cái bô dưới gầm giường ra, thô lỗ lật tấm vải trắng đang phủ trên người mẹ lên. Ga giường nhuốm một màu đỏ.
“Có phải mẹ sẽ chết không? Lúc trước cháu nghe nói một đứa bạn học có mẹ bị thổ huyết rồi cứ thế mà đi, có phải mẹ sẽ giống thế không?” Yoshie lùi lại.
Thím nghiêm mặt bảo, “Đừng lo, đây là kinh nguyệt, chọn lúc nào không chọn lại ngay lúc này.” Và lấy cái giẻ gần đó thấm máu đi.
So với thân trên, thân dưới của mẹ không có lấy một vết thương nhỏ, Yoshie nhìn mà thấy khó hiểu vô cùng. Trong lúc đó, Kinu huơ huơ cánh tay cuốn kín băng như ra hiệu không được không được.
Yoshie khát khô cổ, muốn uống nước nhưng không biết có cốc chén không, muốn mở cánh cửa tủ dài tầm 90 phân trong phòng thì phải dời thi hài của Kinu đi chỗ khác. Anh nghĩ chắc dưới bếp sẽ có nên đến xem.
Người phụ nữ nhỏ thó mắt lác đang bắc nồi lên bếp ga, mỗi khi nước sôi trào ra lại mở nắp vung, nói giọng như hát, “Tôi đang nấu udon, xong sẽ mời anh ăn.”
Trong căn bếp chung này không có tủ lạnh, cũng không có nồi cơm điện hay lò nướng, chỉ có những cái nồi, cái thớt đã mang dấu ấn thời gian chất lộn xộn lên nhau. Anh đang nghĩ nơi đây thật yên tĩnh, thì chợt nhận ra dường như tivi họ cũng không có.
Các căn hộ chỉ cách nhau cánh cửa gỗ ép, nếu ai đó xem tivi hẳn sẽ lọt tiếng ra ra. Yoshie cảm thấy kì quặc nên quay về bên Kinu.
“Mua cho mẹ thuốc trị tụ cầu khuẩn được không?” Đây là câu đầu tiên mẹ nói trong bệnh viện Ashiya.
Thím anh đã nhờ một bà cụ khó tính, người thân của bệnh nhân khác cùng viện, chăm sóc mẹ. Mọi việc nấu nướng giặt giũ ngoài hành lang đều phó mặc cho người ta. Chỉ có việc vệ sinh của mẹ là họ không muốn làm nên trở thành nhiệm vụ của Yoshie. Những lúc đó, bà cụ ra ngoài, căn phòng ngập mùi hôi thối đến nỗi Yoshie phải quay mặt nhìn ra khoảnh sân đốt rác.
Anh bỗng nghe tiếng mẹ nghẹn ngào nhưng rất rõ ràng, “Xin lỗi con, xin lỗi con.” Mẹ viết lên giấy chữ “Tụ cầu khuẩn” rồi rút một tờ 10 yên kẹp giữa quyển sổ tiết kiệm ngân hàng nhét trong người ra.
Tàu điện Hanshin cuối cùng cũng hoạt động trở lại. Yoshie cầm tiền lên tàu. Lần đầu tiên anh thấy quang cảnh đổ nát, đến mua thuốc ở nhà thuốc Hachimansuji nhưng không có can đảm tìm về tàn tích nhà mình, chỉ lấy mốc trường tiểu học và Hội trường Lớn để áng chừng vị trí.
Nửa tháng sau, phần thương tích quấn băng to sụ của Kinu lành lại. Đầu tiên, mặt bà được tháo băng, một phần trán, mũi và má biến thành những mảng màu loang lổ, rồi đến phần băng ở vai, chỉ còn đôi bàn tay mẹ dùng để vẹt than lửa đè lên người là còn đau, đám dòi cố sống cố chết mút chặt vào miệng vết thương.
Trong thời gian này, số người bị thương vẫn tăng vùn vụt vì những lần bom nổ hay súng máy oanh tạc. Khi cấp cứu vào đợt cao điểm, ngay cả bệnh viện cũng không nhân nhượng. Mẹ suýt bị đuổi ra khỏi viện.
“Sau này chỉ cần bôi dầu điều trị dài hạn là được.”
Mùng 2 tháng Bảy, khi mẹ mới cử động được các đầu ngón tay thì phải ra thật.
Nhà chính của dòng họ Shariman ở Fukui, nhưng họ không hòa hợp với Kinu. Chẳng có chỗ nhờ vả nào khác, hai mẹ con đành đến Harue nương nhờ một phụ nữ bằng tuổi mẹ thuộc nhánh khác của dòng họ. Người này trước vẫn thường thư từ qua lại với mẹ, nhưng khi đến đón, thấy mẹ dẫn theo một đứa trẻ và bản thân lại không cử động được bình thường thì bà ta ghét bỏ ra mặt, cho hai mẹ con ở nhờ trong một góc xưởng dệt. Lúc hai người đến nơi cũng vừa tối, không biết họ có chuẩn bị cơm nước cho không thì đứa con họ mang cơm hộp đến.
Yoshie mừng rỡ mở nắp hộp, chỉ có một quả dưa chuột muối lăn lục cục. Suốt dọc đường không ăn không uống, cứ ngỡ sẽ có cơm mà cũng chẳng được, hai mẹ con vừa uống nước vừa chia nhau gặm mỗi người nửa quả dưa chuột muối mặn chát, gạt nước mắt đi ngủ.
Dù sao Harue cũng là vùng nông thôn, chỉ cần đăng kí là được phân phối gạo, nhưng chia thành nhiều đợt nhỏ. Lần nhận phân phối gạo đầu tiên, Yoshie đến lấy ở kho gạo bên bờ sông. Anh đang vác cái bao nặng trịch lên lưng, bỗng đáy bao bị bục, gạo trắng tuôn ra rơi xuống dòng nước trong veo, hòa lẫn với rong rêu, chìm xuống đáy. Yoshie quá đỗi sửng sốt, thẫn thờ nhìn theo hồi lâu, quên cả túm chỗ thủng lại.
Tháng Bảy bình yên trôi qua, ngón tay của Kinu cũng dần cử động lại. Sang tháng Tám, bầu trời nhuốm sắc thu.
“Từ năm ngoái đến năm nay tuyết phủ tận 3 mét đấy, cái cửa kính kia bị vỡ cũng là do sức nặng của tuyết.” Một người dân trong vùng chỉ tay lên cửa sổ tít trên cao. Chỉ dựa vào cái chăn được phát cho thì không thể vượt qua cái lạnh, nên cần phải chuẩn bị trước. Hai mẹ con ra sông nhặt thân cây trôi nổi trên dòng nước, nhưng chỉ được toàn cành nhỏ.
Một người hàng xóm biết rõ hoàn cảnh của hai mẹ con đã bán lại cho Kinu một chiếc chăn với giá khá đắt. Bấy giờ họ vẫn còn gần 30.000 yên tiền tiết kiệm, định sẽ dè sẻn sống trong hai hay ba năm.
Ai ngờ Nhật Bản thua trận, hai mẹ con quay về Kobe.
Cũng không có mục đích gì đặc biệt, chỉ là sống ở thành phố quen thuộc vẫn thích hơn nhiều so với nơi lạnh giá này. Lúc đó cái chăn lại trở thành gánh nặng, nhưng mẹ vẫn cố chèn ép mọi thứ trong 30 cân hạn mức hành lý, khiến các ngón tay vốn không gập được của bà rớm máu.
Ngày 31 tháng Tám, hai mẹ con thuê nhà ở thị trấn Shinohara Minami dưới chân núi Rokko, sau đó đến hỏi thăm nhà chú ở Kitakawachi.
Trước khi sơ tán đến Fukui, họ đã muốn nương nhờ ở đó nhưng người chú từ chối, viện cớ nơi đây gần trận địa pháo cao xạ, hai mẹ con nên đến nơi an toàn hơn. Không ngờ câu nói thành sự thật, cả nhà chú thím bị nổ bom chết hết.
Trên đường về, lần đầu tiên Kinu và Yoshie trông thấy đống đổ nát của nhà mình. Thứ mùi cháy khét hai mẹ con đã ngửi quen vẫn chưa hề bớt nồng, cỏ mùa hè mọc lên rậm rạp, mưa xối tạo ra những ổ gà sâu hoắm trên khắp mặt đường. Họ không xác định được chỗ nào với chỗ nào, phải một lúc lâu mới tìm thấy bờ tường quen thuộc.
“Nhà mình ở đây này!” Kinu ầm ĩ kêu lên như thể ngôi nhà vẫn còn đó, chưa bị cháy. Giữa hai cây cột đá sừng sững ở cổng có một ống sắt to lăn lông lốc.
“Bố con chắc chắn đã ở chỗ này ngay trước khi mẹ chạy trốn, mẹ nghe bố hét lên hỏi mẹ có sao không.” Cho tới thời điểm đó, Yoshie chỉ trông ngóng được ở cạnh Kinu vì ngày bà đến và ngày bà đón anh cứ thay đổi xoành xoạch, không hiểu sao anh chẳng hề nghĩ đến bố. Nghe mẹ bảo bố ở chỗ này, anh thậm chí còn thấy kì quái.
“Có lẽ Shariman Kinu muốn được yên nghỉ bên cạnh chồng.”
Tập thể Tokui cách chỗ nhà cháy chưa đầy 200 mét.
“Anh muốn ăn một bát mì không?” Người phụ nữ mắt lác đưa một bát tô ngang qua thi thể. Yoshie không từ chối, nhận lấy đặt xuống chiếu, thấy là kitsune udon* liền để cạnh đầu Kinu thay cho makura dango*.
Mì udon với đậu phụ rán. Kitsune nghĩa là cáo, người Nhật cho rằng loài cáo rất thích ăn đậu phụ rán nên đã đặt tên như vậy.
Makura nghĩa là gối, đây là loại bánh cúng dango đặt bên gối người đã khuất trong đêm trông linh cữu. Bánh dango thường hơi dẹt và nhiều màu, nhưng loại dango cúng này phải tròn như quả bóng, màu trắng.
Mẹ có mối hận với món udon. Khi giám đốc công ty Kenzo từng làm đến Kyoto, Kenzo cùng Kinu dẫn theo Yoshie đến chào hỏi và đề nghị trả phụ cấp thôi việc, ông ta bèn lặn mất tăm nửa năm.
Đến tận khi bố không còn nữa, ông ta vẫn nhắc đi nhắc lại, “Tôi không nghĩ anh Kenzo đã chết, tôi có cảm giác anh ấy đang sống ở đâu đó.”
Cuối cùng Kinu chỉ nhận được 3000 yên cho gần hai mươi năm công tác của chồng. Lúc đó giá gạo là 120 yên một cân rưỡi nên số tiền này chẳng đủ để mua một bao 60 cân.
Trong căn phòng tiếp khách thô sơ, hai mẹ con được mời bát udon, vừa gắp mì lên bắt đầu ăn thì trời bỗng đổ mưa. Kinu nói, “Nếu bố còn sống, dù không cử động được, dù lâm vào hoàn cảnh này mẹ cũng chấp nhận.” Bà đưa mắt nhìn mu bàn tay nứt nẻ vì lạnh của mình.
Năm 1946, vào học kì ba, Yoshie chuyển đến lớp Năm trường tiểu học Rokko, cuộc sống của anh trở lại như cũ. Còn Kinu, đầu tiên bà mua một chiếc máy khâu để nhận sửa quần áo, nhưng vì ngón tay cử động không linh hoạt nên công việc không mấy thuận lợi.
Tiếp đến bà mở sạp bán đồ khô trước ga Rokkomichi. Vùng này cháy sạch, tổ dân phố đã tứ tán khắp nơi nên rất thoải mái, mỗi tội đồ khô bị mưa ướt sẽ thối rữa.
Sau đó Kinu làm nghề chuyên chở gạo, đi tàu điện chật cứng người đến Kakogawa, Kawauchi để mua gạo nhập trái phép. Kinu thường để tay trước ngực, che mu bàn tay đi.
Thay vì xấu hổ với bạn bè về bà mẹ gớm ghiếc, Yoshie càng được khích lệ tinh thần, lao vào học còn chăm chỉ hơn khi nhà chưa bị cháy. Năm lớp Sáu, anh đứng đầu khối cả học kì một lẫn học kì ba, mọi người đều bảo với thành tích này anh có thể vào một trường cấp hai hàng đầu.
Đó cũng là lúc Kinu không còn cố được nữa. Đúng hơn là một kẻ cùng buôn gạo đã dụ bà rút 80% tiền tiết kiệm đang bị khóa ra, cùng hùn vốn kinh doanh để có thu nhập ổn định đưa con trai đi học thêm, chuẩn bị cho thi cử. Nhưng hóa ra tất cả chỉ là trò lừa đảo để chiếm đoạt tiền của bà. Dù tiền tiết kiệm bị khóa nhưng hằng tháng cứ rút ra 500 yên thì cuối cùng cũng hết, bà chỉ còn cách nhờ vả nhà mẹ đẻ của Yoshie.
Tháng Hai năm 1947, gần tới thời gian chuẩn bị thi lên cấp hai của Yoshie, Kinu nghiêm túc ướm hỏi, “Yoshie, con có thích học không?”
Anh thắc mắc không hiểu tại sao mẹ lại hỏi vậy vào lúc này, nhưng cũng trả lời, “Có ạ.”
Sau đó không lâu, mẹ gói đôi giày cổ cao kiểu quân đội chắp vá và sơ mi mua lại của quân nhân vào túi, gửi đi. Hai mẹ con ngay cả một người quen để nhờ vả hay ai đó đến quấy quả đều không có, thư từ cũng không thấy, Yoshie nghĩ bụng kì quái, không hiểu bà đang làm gì.
Kinu chỉ dặn, “Cố học hành cho tốt, vào được trường sẽ có người chu cấp cho con.”
Chắc không phải nhà mẹ đẻ đặt điều kiện anh phải vào được cấp hai mới nhận về, mà có lẽ Kinu muốn Yoshie, con nuôi của mình, ít nhất khi trở về nhà đã trở nên chín chắn biết điều đúng với lứa tuổi.
Khi Yoshie choàng tỉnh khỏi dòng kí ức thì trời đã sáng, anh nhét tờ giấy chứng tử đặt bên gối vào ngực áo. Bên ngoài đã thấy người đi làm nhưng ở khu nhà tập thể này vẫn chưa ai dậy.
Yoshie ra khỏi tòa nhà, đến ủy ban quận để nộp giấy khai tử và lấy giấy cho phép hỏa táng. Trên đường đi anh rẽ qua nhà tang lễ đặt quan tài và ô tô, một tiếng sau sẽ có.
Trong lúc đó anh đi dạo, nhìn lại tàn tích đổ nát trước đây. Nhà cửa đã mọc lên thành hàng, nhưng vẫn còn những khoảnh đất trống nổi bật. Yoshie đi đến chỗ trước đây là nhà Kotsuma, đường sá thay đổi nhiều nên anh chỉ có thể áng chừng vị trí. Nơi đây nay đã mọc lên ba khu nhà tập thể xây bằng bê tông cốt thép, có vẻ là kí túc xá của công ty nào đó. Tòa nhà thế này chắc khi xây móng họ phải đào rất sâu, không biết có đào được hài cốt của bố Kenzo không? Với lượng thuốc nổ đựng trong ống sắt to như vậy, có lẽ xác ông đã nổ tanh bành, anh suy nghĩ miên man.
Khi Yoshie trở lại tập thể Tokui, bọn trẻ con chạy ra đầy hành lang, thấy thi thể của Kinu thì thét lên một tiếng rồi chạy đi.
Yoshie không mắng, chỉ lấy tay chặn lại để chúng đứng yên ngoài cửa. Người của nhà tang lễ đã đến, nhưng cửa phòng quá hẹp để đưa quan tài vào nên họ đành đặt ở hành lang, đem thi thể Kinu ra. Yoshie nâng phần chân của bà, cùng họ đưa vào áo quan. Thi thể bà đã bớt cứng, da đen sẫm hơn.
“Có thể đưa đi hỏa táng luôn hộ tôi được không ạ?” Người của nhà tang lễ nhìn anh ngạc nhiên, thông thường dù chỉ tổ chức tang lễ trong gia đình, người ta vẫn mời sư khất thực đến đọc kinh. Anh phải nói với họ, “Tang ma xong xuôi tôi sẽ làm đầy đủ mọi thủ tục, được không ạ?”
Sau khi họ mang Kinu đi, anh mở cửa tủ tường, thấy trong đó có một cái chạn nhỏ và hòm đựng quần áo chỉ đựng bọc vải ở một bên.
Nhận anh về rồi, bố đẻ của Yoshie vẫn thường qua lại thư từ với Kinu. Ông phải gửi Yoshie đi làm con nuôi vì mẹ ruột anh hậu sản, đẻ xong cứ ốm yếu dần rồi mất. Ông thương cảm sâu sắc với Kinu, từng buột miệng nói, “Bà Kinu chắc cũng lam lũ nhiều, thân gái một mình vất lắm.”
Nghe những lời bằng quơ đó, Yoshie cảm thấy như mình đang bị trách móc thì ông bảo, “Con không phải buồn, bố sẽ lo liệu chu đáo cho bà ấy.”
Khi vừa trở về, Yoshie đã khóc nghĩ đến cảnh Kinu rên rỉ vì những vết sẹo bỏng bị nứt giữa đêm. Dù vậy, về sau anh thấy thoải mái hơn hẳn, sống cuộc sống sung túc của một học sinh con nhà khá giả. Rồi vào làm việc ở Công ty Sản xuất Nghệ thuật, tháng lương đầu tiên nhận được anh đưa hết cho bố.
“Con đem biếu bà Shariman đi.” Có lẽ ông thấy áy náy khi một mình tận hưởng cử chỉ hiếu thảo này của anh. “Để bố giữ hộ vậy, nhỡ có ngày bố phải sống dựa vào con. Mà chắc không có chuyện đấy đâu.” Ông nói đầy hàm ý, nhưng năm đầu tiên Yoshie không đưa gì cả.
Đến năm công tác thứ ba, công ty nhận ra tài quản lý của Yoshie nên ngoài lương cứng anh còn được chia phần trăm, lương tháng của anh thừa để chi tiêu cho bản thân.
“Nghe nói bà Shariman nghỉ làm bảo hiểm rồi, giờ đang đòi nợ thuê cho quán rượu nên kiếm cũng khá.”
Yoshie rất kinh ngạc khi nghe bố kể. Ngành của anh cũng vậy, cứ đến cuối tháng, công ty thường có nhiều người đến đòi nợ. Với những nơi như quán rượu, họ cố tình cử người già khuyết tật đến, cho rằng đối phương sẽ vì thể diện mà buộc phải trả tiền.
Shariman Kinu đang đi làm người đòi nợ thuê cho quán rượu, với cánh tay đầy sẹo bỏng và khuôn mặt đến giờ vẫn mang hai mảng màu mỗi khi trời trở lạnh.
Cứ nhìn thấy những kẻ đòi nợ đến công ty mình là Yoshie lại tưởng tượng ra hình ảnh của bà.
“Con cũng lớn rồi, dù sao cũng không thể quên ơn nuôi dưỡng của bà ấy suốt mười hai năm. Con sẽ trích một phần lương gửi cho bà, bố dặn bà đừng làm những công việc nặng nhọc đó nữa nhé.” Anh nhờ bố rồi gửi tiền.
Có lẽ bố đã viết thư cho bà với nội dung đó nên trong bức thư đầu tiên, Kinu trả lời đơn giản rằng bà rất vui khi anh đã trưởng thành, tiếp đó là những câu chữ quen thuộc.
Sau khi trở về nhà mẹ đẻ, Yoshie không hề gửi thư cho Kinu, mẹ kế thấy vậy thì khuyên anh nên thư từ thăm hỏi. Anh gửi đi nhưng không thấy thư trả lời, bố bảo, “Bà ấy thật mạnh mẽ, chắc bà đang cố chịu đựng để không làm con mủi lòng đấy. Con cũng phải cố lên nhé.”
Có cố hay không thì sau gần một năm luôn trong trạng thái đói khát, nay anh đã được ăn no đủ, sống chẳng thiếu thứ gì. Nói mới thấy, có lẽ do vô sinh nên người phụ nữ ấy có phần mạnh mẽ. Vụ cãi vã với nhà chính Shariman cũng vậy, hay khi có khúc mắc gì với hàng xóm bà cũng không bao giờ nhường nhịn, luôn bắt người ta xin lỗi.
Từ khi trở về Kobe, tác phong như A tu la của bà chắc cũng là một biểu hiện của sự mạnh mẽ. Nhưng không hiểu chuyện gì đã xảy ra với cá tính mạnh mẽ ấy, khi anh đến thăm năm 1950, căn phòng trọ của bà thật tiêu điều. Trước khi nhà cháy, đến cả cửa trượt hay tấm gỗ cho mèo ngồi bà cũng lau chùi bóng loáng, trông như sân khấu kịch.
Hôm đó là ban ngày nên không cần phải đợi, Kinu được hỏa thiêu ngay, mọi thứ đều vỡ thành những mảnh nhỏ, thể hiện sự lão hóa. Yoshie thu nhặt tro cốt vào một cái hũ không tráng men, phân vân nên để ở đâu.
Hồi sắp đính hôn, anh ngại phải giải thích nhiều nên bảo là bà đã mất. Phần mộ gia đình ruột thịt của anh ở Aoyama, nhưng đặt tro cốt Kinu ở đó cũng có chỗ bất tiện. Nếu còn hài cốt của Kenzo thì anh có thể đưa về nghĩa trang ở Fukui, nhưng cả hài cốt lẫn ảnh đều không còn. Chắc bây giờ ông vẫn vẩn vơ đâu đó trên bầu trời.
Yoshie cầm hũ tro cốt quay về tập thể Tokui. Một lần nữa, già trẻ trai gái lại lũ lượt ùa ra, anh thắc mắc không hiểu họ làm gì để sống, kính cẩn đặt hũ tro vào một góc trong căn phòng 4,5m2.
Mặc kệ người ta ngó nghiêng dòm dỏ, anh lục lọi tủ tường, thấy quyển sổ tiết kiệm của Ngân hàng Kobe và một tờ giấy in tên Yoshie cùng tên công ty anh nằm dưới tờ lót tủ chạn.
Sổ còn 1000 yên, hằng tháng vào một ngày nhất định, bà rút toàn bộ 10.000 yên ra. Nửa bên hòm quần áo toàn những mảnh vải nát đến mức muốn làm giẻ lau cũng chẳng được. Trong bọc vải có chuỗi tràng hạt, một quyển kinh, một bài vị mộc mạc viết tên Kotsuma Kenzo và tên tục của ông, cùng một túi gạo. Tất cả chỉ có vậy, quá nghèo túng so với phụ cấp sinh hoạt hai mươi mấy nghìn yên hằng tháng.
Liệu có kẻ xấu nào trong tập thể này ăn chặn của Kinu không?
Yoshie bỗng thấy nghi ngờ, nhưng giờ có nghi ngờ cũng chẳng được gì. Riêng tấm bài vị là không thể bỏ đi, anh gói lại cùng với hũ tro cốt, chỗ còn lại chắc người ta sẽ xử lý giúp. Dù vậy, anh vẫn lấy giấy gói tờ 10.000 yên vào rồi đưa cho người trong tiệm giặt là coi như mở lời, “Xin hãy dùng số tiền này để cúng chay 49 ngày đầu cho bà Kinu.”
Anh nhìn lại tập thể Tokui, trầm ngâm tự hỏi Kinu đã nghĩ gì khi sống ở đây?
“Này anh!” Một người đàn ông đi xe đạp gọi họ của Yoshie. “Tôi là người hôm trước đã gọi điện cho anh đây,” anh ta thân thiện nói. “Nghe kể mọi việc đã ổn thỏa rồi. Tôi cũng định đến giúp nhưng bận chút việc.”
“Không đâu, tôi rất biết ơn anh,” Yoshie cúi chào.
“Sau khi bà Shariman ra đi, mọi người trong khu nhà trọ xôn xao quá nên tôi đành mạn phép gọi anh.”
“Vậy anh không phải người ở đây à?”
Người đàn ông xua tay, “Không phải, đây vốn là nơi cho nạn nhân chiến tranh thuê, nhưng sau đó đủ loại thành phần cũng đến ở nên mới thành thế này. Khu nhà sắp bị phá, họ đến ở hòng gạt lấy tiền đền bù giải phóng mặt bằng.”
Anh ta nói vẻ ngán ngẩm rồi vội vã trấn an, “Bà Shariman không như vậy đâu, nói ra thì không phải, chứ bà rất đáng khâm phục dù cuộc sống khó khăn.”
Anh ta khen thì khen thế, nhưng nhìn vào tình trạng lam lũ nghèo khổ của Kinu, Yoshie không biết đáng khâm phục chỗ nào.
“Chúng tôi đã nhiều lần khuyên bà đăng kí trợ cấp đời sống, vậy mà lúc nào bà cũng bảo tự lo được cuộc sống của mình.”
Kinu không nhận trợ cấp đời sống.
Bố từng nói nếu bà không còn đủ sức lao động thì sẽ được nhận trợ cấp, cộng với khoản tiền Yoshie gửi thì bà sẽ ổn.
“Tôi nghĩ hay là bà Kinu có để dành khoản tiền nhỏ, nếu bà nằm xuống thì kẻ nào đó sẽ lấy mất, nên đã cùng ông bác sĩ tìm kiếm trong nhà và thấy số điện thoại của anh.”
Không hiểu từ lúc nào hai người đã cùng nhau đi bộ về phía núi, nhưng Yoshie như không để tâm đến lời người đàn ông nói.
“Nếu không nhận trợ cấp, mỗi tháng chỉ có 10.000 yên mình gửi thì làm sao đủ cho cuộc sống của một người già?” Mà tại sao bà lại từ chối?
“Nơi này mấy người chủ đất cứ đợi giá đất tăng mãi nên vẫn cứ đổ nát vậy, nhưng cũng đang cho xây dựng dần dần đấy.” Ở đằng xa, máy xúc cỡ lớn đang lật đất ầm ầm.
“Anh có biết bà Shariman khi còn khỏe thường làm gì không?” Yoshie hỏi.
“À, đúng chỗ này đây, bà thường chống gậy đi bộ loanh quanh, một bà cụ tao nhã.”
Chắc Kinu đi vòng vòng không biết chán quanh đống đổ nát như người đi hành hương, muốn nhìn nơi Kenzo đã tan ra thành cát bụi để nhớ về ngày xưa.
“Xin lỗi tôi hỏi khí không phải, anh có phải người đã gửi tiền cho bà Shariman không?”
Người đàn ông ngây ngô hỏi, Yoshie bất giác lắc đầu.
“Vậy à, thế thôi, tôi xin phép.” Người đàn ông cứ thế đẩy xe đạp rẽ sang lối khác.
Còn Yoshie không biết từ lúc nào đã đến cạnh hố sâu 2 mét do máy xúc đào ra.
“Mẹ ơi, đúng là mẹ vẫn luôn nghĩ con là con trai của mẹ, coi việc con trai gửi tiền cho mình làm niềm vui sống. Nếu nhận trợ cấp thì mẹ sẽ có cuộc sống thoải mái hơn, nhưng nó cũng làm giảm đi niềm vui khi nhận tiền từ con trai mình. Mẹ đã sống trong căn phòng 4,5m2 đó chỉ với số tiền mà con, đứa con trai này gửi... À không, còn cả niềm an ủi khi được ở cạnh nơi bố đã mất nữa.”
Vậy mà anh chỉ gửi có 10.000 yên. Nếu biết tâm tư của mẹ thì 20.000 hay 30.000 yên anh cũng gửi.
Giờ Yoshie mới hiểu ra, nếu phải sống dựa vào trợ cấp thì Kinu sẽ ra đi với tâm trạng tuyệt vọng y như hồi bị bỏng.
Lúc này mới hiểu thì cũng đã quá muộn, Yoshie rưng rưng nước mắt ngồi xổm xuống. Chợt anh ngẩng mặt lên, nhận ra từ miệng hố chạy xuống chừng 60 phân có những mảnh vỡ màu đỏ gạch, có lớp đất bị cháy lồi lõm, có thứ mùi ngai ngái quen thuộc.
Phải rồi, đây là đống tàn tích được cát và đất che lấp.
Yoshie loạng choạng nhảy xuống. Trước mắt anh là gạch, ngói, tấm tôn cũ nát, phiến gỗ mục ruỗng, dây kim loại đứt gãy chồng chất lên nhau.
Yoshie úp mặt vào đó hồi lâu rồi mở bọc vải, dùng tay đào phần đất giữa mấy miếng ngói, lấy tấm bài vị mộc mạc của Kenzo và dốc hũ đổ tro cốt của Kinu ra, cẩn thận lèn xuống dưới.
“Đây sẽ là mộ của bố mẹ, cuối cùng hai người cũng được ở cạnh nhau.”
Yoshie xúc đất lấp hố.
Trong lúc lấp, anh mang máng có cảm giác đống đổ nát tiêu điều kia đang hồi sinh, lan tràn sức sống.
Và anh lại ngồi thụp xuống.