← Quay lại trang sách

4 - Nuôi dưỡng đứa trẻ đã chết

Trên đường dốc dựng đứng, một con chuột đang cố trèo lên, theo sau là một con chó chân ngắn đuổi đến. Nước nhỏ thành giọt theo từng bước chạy của chuột ta, chắc trước đó nó bị nhúng nước. Chẳng mấy chốc, chú chó đã ngoạm được con chuột, mang bộ mặt tinh quái như vừa xong việc sai vặt ở hàng thịt quay về bên cậu thiếu niên ăn mặc kiểu đầu bếp.

Cậu ta cầm bẫy chuột lên, đập mạnh xuống đất giũ sạch nước. Một con chuột khác bốc cháy như quả cầu lửa, xộc đến chạy vòng quanh gốc cây bên đường, rồi đột ngột oẳn mình như bà cụ già.

Bồi bàn quấn nịt bụng xanh da trời cười ha hả nhìn nó bốc khói mù mịt, chân đi guốc đá bay. Con chuột bị lật ngửa, tứ chi giãy khẽ.

Quá trưa Chủ nhật, trước cửa hàng thuốc lá đã đóng cửa đặt cái xô mới đang nhúng một chiếc bẫy chuột. Con chuột bên trong tựa như động vật thủy sinh, chẳng có vẻ gì khổ sở, thò mũi ra từ mắt lưới của giỏ bẫy, nhìn trời qua làn nước, xung quanh không một bóng người.

Mỗi khi chứng kiến cảnh lũ chuột bị tra tấn bằng lửa hay bằng nước đến chết, tôi thường chôn chân tại chỗ, nhìn chăm chăm và tin chắc một lúc nào đó mình cũng sẽ như vậy, nhất định sẽ bị giết như con chuột này với cách thức ấy, cứ thế nhìn xoáy vào đôi mắt không chớp, cái đuôi dài và những cọng râu đang run lên.

Và cuối cùng, giờ tôi đã thành chuột, nhẹ nhõm khi đã quen là một con chuột.

“Cớ sao lại hành động độc ác như vậy? Hả? Đứa trẻ đáng yêu như vậy? Đừng có im lặng thế, nói gì đi chứ!” Viên cảnh sát hình sự rút từng tấm từ tập ảnh dày, được năm, sáu tấm thì lia lên bàn, quay xuôi ảnh về phía Hisako. “Nhìn lại đi, tại sao lại làm thế với một đứa trẻ vô tội? Nghe này, không phải nó ngủ đâu, nó chết rồi đấy, cô đã giết nó!”

Hisako vẫn tiếp tục im lặng, đưa mắt nhìn xuống mấy tấm ảnh nhưng không có vẻ sẽ cử động.

“Tại sao? Bị chồng lừa dối nên oán hận làm thế để dằn mặt à? Hay bồ bịch thằng nào nên đứa bé thành cục nợ? Đưa tay ra!”

Hisako làm theo lệnh, viên cảnh sát hình sự nắm chặt ngón tay cái của cô như xem tướng tay.

“Giết bằng bàn tay này phải không? Tại sao vậy, tại sao lại siết chết đứa trẻ mình mang nặng đẻ đau hả? Cô cứ im lặng thì không ai hiểu được đâu, nói ra đi, tại sao lại dùng những ngón tay này bóp nghiến cổ đứa con đáng yêu của mình như thế? Bóp đến nỗi lằn cả cổ nó lên!”

Hisako bỗng thở dài, nhìn vào mặt viên cảnh sát hình sự. Họ cứ thế nhìn nhau, im lặng hồi lâu. Viên cảnh sát chán nản, đập đập tập ảnh đang cầm xuống bàn, mở cửa gọi một nữ cảnh sát có vẻ đang đợi ngoài hành lang vào phòng.

“Bé Nobuko giờ đã lên thiên đường, còn cô cũng nên nói cho mọi người biết tội lỗi của mình, vì bé Nobuko. Cô đã rất yêu nó đúng không? Hàng xóm bảo tôi thế. Vậy thì tại sao? Cô không có tự tin nuôi đứa bé nên người à? Không phải vậy đúng không? Cô có vẻ khỏe mạnh cơ mà?” Nữ cảnh sát sụt sịt, lấy ra bức ảnh chụp khuôn mặt đã chết của Nobuko, có lẽ đây là một mánh khóe nghiệp vụ. “Chắc con bé đau đớn lắm, không tin nổi mình lại bị chính mẹ ruột, người mình tin tưởng nhất trên đời giết hại. Khi đó, vẻ mặt cô thế nào nhỉ?” Nữ cảnh sát bỗng nhiên nói một cách sắc lạnh, nhưng Hisako vẫn vô cảm.

Vẻ mặt thế nào ư? Một vẻ mặt rất bình thường thôi. Giết Nobuko xong, khi tỉnh táo lại tôi đã thấy mình đang ngồi trước bàn gương ba cánh, thờ ơ nhìn mặt mình và cả đầu giường của Nobuko phản chiếu trong ấy. Dù sao nó cũng chỉ là một đứa trẻ hai tuổi ba tháng, giết thì giết thôi, hơi thở không loạn nhịp, mồ hôi cũng không đổ, có lẽ chỉ trông hơi xanh xao.

Tôi ngồi trong căn phòng mỗi lúc một tối, cầm lược chải tóc, không hề hoảng loạn vì đây là chuyện hiển nhiên, để giết Nobuko tôi đã phải nuôi nó lớn đến tận lúc này. Tôi phải biến thành chuột, phải thành chuột, để bị giết theo kiểu tra tấn bằng lửa hoặc nước.

“Cô đến tháng hả? Đừng im lặng nữa, nói gì đi chứ! Cô không thấy Nobuko rất đáng thương sao? Cô có phải quỷ dữ không hả? Chồng cô đến rồi, anh ta đang phát điên lên đòi giết cô đấy. Nghe nói anh ta rất yêu con bé, hay mua quà cho nó, hai bố con thường ngủ cùng nhau, sáng đến nó lại chui vào giường với bố. Đừng có nói là cô ghen tị với con bé chứ hả, hả? Tại sao cô lại giết con bé? Cô không bình thường hả? Người bình thường sao làm ra được chuyện này?”

Hisako đưa tay cầm lấy tấm ảnh chụp cận mặt Nobuko được đặt gần mình, nhìn chăm chú như thể đang ngắm nét mặt rạng rỡ trong ngày lễ Shichi-Go-San* của con gái, bật cười.

Lễ 3-5-7, rơi vào ngày 15/11, lễ mừng trưởng thành ở các độ tuổi ba, năm, bảy cho trẻ con. Thông thường, bé gái tổ chức khi lên ba, bảy tuổi, bé trai tổ chức khi lên ba, năm tuổi.

“Có gì lạ hả? Có cái gì đáng cười? Cô...!” Nữ cảnh sát đứng bật dậy giật lấy tấm ảnh, vô cùng giận dữ. Vừa lúc ấy, lại một cảnh sát hình sự đi vào, thấp giọng nói, “Anh thử hỏi tình hình thế nào đi, chúng tôi không thể kết thúc được vụ này.”

Anh ta nói với Teizo, chồng của Hisako.

Nữ cảnh sát xếp lại các tấm ảnh của Nobuko và đi ra.

“Đúng là cô đã làm hả? Hả?” Teizo nói bằng giọng bình tĩnh không ngờ.

“Phải.”

“Phải? Cô...” Tiếng đồ vật va chạm vang lên đầy hung bạo, Teizo định túm lấy Hisako nhưng bị cảnh sát giữ lại. Hisako nhìn lên Teizo, thắc mắc đây rốt cuộc là ai. Cho đến sáng nay, lúc tiễn anh đi làm thì anh vẫn là chồng cô, nhưng người đàn ông trước mặt bị ánh sáng từ đèn bàn thấp chiếu ngược lên, gào thét vùng vẫy ầm ĩ này, cô thấy cứ như người xa lạ.

Phải rồi, giờ mình đã là chuột, đơn độc, không bố không mẹ, cũng chẳng có chồng.

“Nói lý do đi! Tại sao giết nó, trả Nobuko cho tao, con đàn bà này!” Teizo đẩy viên cảnh sát hình sự ra, nhoài người qua bàn chụp lấy Hisako, vươn tay nắm tóc cô định kéo ngã xuống. Tiếng gào ngăn cản và tiếng gầm giận dữ đan xen nhau, rồi lập tức yên lặng.

Sức nóng từ cái túm tóc vẫn làm da đầu Hisako tê ran.

Không ai hiểu được. Ở khoa sản bệnh viện, tôi mệt lả nằm vật ra. Tôi đã vật lộn suốt mười bốn tiếng từ khi cơn đau đẻ bắt đầu.

Giữa lúc nửa tình nửa mê đó...

“Vâng, là một bé gái.” Đột nhiên vật gì nằng nặng đặt bịch một cái lên bụng.

Trước mắt tôi, Nobuko được một cô y tá bế, khóc váng lên bằng cái giọng chẳng giống một đứa trẻ. Trong giây lát tôi đã nghĩ “À nó giống Teizo”. Nhưng lập tức, một cảm giác sợ hãi trào dâng, khi đó tôi vẫn chưa nhận ra chân tướng sự việc, dù cũng mang máng biết đó là hình dáng rõ ràng hơn của nỗi lo lắng ngày một tăng từ khi biết mình mang bầu. Tôi rời mắt khỏi cục thịt mềm oặt không tự lo cho bản thân được kia.

Năm thứ ba sau khi kết hôn, Hisako mang bầu ở tuổi 24, Teizo lúc đó đang làm việc cho đài phát thanh. Họ sống trong căn hộ hai phòng 10m2 của cư xá theo tư tưởng hiện đại không cấm trẻ con, nên có thể thoải mái sinh nở.

Teizo cũng không hề bối rối, như một điển hình của người bố tốt trong phim truyền hình trên tivi. Nhưng khi chỉ còn hai vợ chồng, anh bỗng nói, “Sách nuôi dạy con đúng là, mỗi quyển viết một kiểu.” Có lẽ khi chuẩn bị tài liệu cho đài phát thanh, thỉnh thoảng anh có nhặt ra đọc thử.

“Cứ đẻ hả, thực sự không sao chứ?” Khi biết mình mang bầu, Hisako nhiều lần hỏi Teizo.

“Cũng đến lúc phải có con rồi, hơn nữa con so mà bỏ là không tốt đâu,” Teizo trả lời hơi vô tâm, nhưng mấy ông bố ai chẳng vậy.

“Cơ mà em sợ.”

Teizo cho rằng Hisako đang làm nũng, “Ai cũng thế mà, việc sinh một đứa trẻ mà nghiêm trọng thế thì dân số đã không tăng lên nhiều thế này.” Một cuộc đối thoại không có gì đặc sắc giữa hai vợ chồng lần đầu sinh con.

Sau khi hết ốm nghén, Hisako đặt may đồ bầu. Có lẽ đứa trẻ cảm thấy thoải mái khi cô vào bồn tắm, cô nhận ra thai nhi cử động, uốn lượn như sóng, bụng dưới căng phồng của cô đung đưa.

Mỗi lần như vậy, Hisako đâm ra bất an. Nhưng khi tâm sự với mẹ Teizo...

“Ai cũng thế hết. Có câu cứ phải thử mới biết được còn gì, thật đấy.”

Bà cố gắng thuyết phục Hisako rằng các bà bầu đều giống nhau, vì là lần đầu mang bầu nên lo lắng không thôi.

“Nếu là con trai anh sẽ đặt tên, con gái thì nhường em.”

Gần tới ngày sinh, mẹ chồng đến ở cùng, thấy Teizo nói vậy thì xen vào, “Mặt Hisako trông góc cạnh hơn, chắc chắn là con trai rồi.”

Cô nghe đoạn đối thoại đầy phấn khởi đó mà thấy như chuyện người ngoài. Cô nghĩ lung tung, hỏi cả người có kinh nghiệm trong đám bạn của mình thì được chia sẻ, “Đúng đó. Tôi cũng phát bực, cứ nghĩ đó là chuyện người khác, con trai con gái thế nào chẳng được, bị rối loạn thần kinh luôn.”

Hisako thà bị rối loạn thần kinh rồi nổ tung còn hơn. Trước kia, cô thấy rất bình thường mỗi khi Teizo về nhà muộn liền hai, ba ngày, người nồng nặc mùi rượu, ăn nói bỗ bã, coi như chuyện thường ngày của người làm kinh doanh.

Nhưng sau khi mang bầu, cô trở nên trầm mặc, hễ ngủ dậy lại cảm giác như đã chạm đến chân tướng của nỗi sợ hãi đó, một nỗi sợ khó tả, như kí ức về giấc mơ đang phai mờ.

Teizo càu nhàu, “Đủ rồi, không giống em chút nào, mang bầu mà bị trầm cảm gì đó.”

Hisako cũng tự thuyết phục mình rằng đây chỉ là chứng trầm cảm khi mang bầu, cố xua đi nỗi sợ hãi nhờ những trải nghiệm chín chắn hơn lứa tuổi của bản thân.

Mẹ Hisako mất trong trận ném bom ở Yamanote, Tokyo ngày 25 tháng Năm. Sau chiến tranh, cô vừa đi học lớp Bảy trường nữ sinh vừa làm nội trợ. Bố cô là bác sĩ làm việc cho công ty bảo hiểm nhân thọ, đi làm như nhân viên làm công ăn lương.

Sau khi Nhật Bản bại trận, sáng Hisako dậy sớm nấu bánh canh bột mì và cháo, chiều tan học lại nhanh nhẹn đi nhận lương thực phân phối lúc có lúc không. Bố đã chuyển đồ trợ cấp của công ty về nên không cần vất vả lùng mua ở chợ đen, dù vậy, so với đám con gái cùng lứa tuổi sống trong gia đình còn mẹ, cô sớm rành quán xuyến việc nhà.

Tốt nghiệp xong, Hisako vào làm cho một nhà xuất bản, tính cô ân cần, chu đáo, lại giỏi tiếp khách trên bàn rượu, viết chữ như nam giới, biệt danh là Chako*. Có lần cô phỏng vấn một nghệ sĩ phát thanh, lúc kết thúc người đó hỏi, “Này, lương tháng của cô được bao nhiêu?”

Khi trẻ con nói tên “Hisako” người lớn thường nghe thành “Chako”, nên những người tên Hisako hay có biệt danh là Chako.

Hisako có sao nói vậy, nhanh nhẹn trả lời nên ông ta rất thích, “Vậy đến làm cho tôi, tôi trả lương cao hơn 50%.” Thế là cô chuyển việc. Trong lúc làm trợ lý cho nghệ sĩ, Hisako hay ra vào đài phát thanh nên biết Teizo. Teizo là một mỹ nam dính vô số lời đồn đại về chuyện gái gú, ban đầu cô chỉ coi anh như một tên công tử bột. Sau đó họ gặp nhau trong phòng tổng duyệt của đài, anh ngang nhiên ôm Hisako từ sau lưng, hôn môi cô, rồi nói như thể đang say mà lại dứt khoát, “Chúng ta kết hôn nhé?”

Hisako còn đang bán tín bán nghi, cứ nghĩ anh ta sẽ tấn công nhanh thì anh mời cô đi ăn, xem phim mà không hề có cử chỉ sàm sỡ nào. Cuối cùng cô hoàn toàn bị chinh phục, xin phép bố cho kết hôn. Cô cũng không ngờ mình lại bị cuốn theo anh, hôn sự cứ dần dần mà thành tằng tằng mà tiến như thế, chẳng có thời gian nghiêm túc suy nghĩ về cảm giác của một người cha bị cô con gái duy nhất bỏ lại. Nhưng cô nhận ra đây lại là chuyện tốt khi nghe ông nói với giọng hài lòng về Teizo, “Được rồi, con cũng sắp ổn định, bố đi tìm người nào đó vậy.” Nghệ sĩ nọ thậm chí năn nỉ Hisako tiếp tục làm việc, nên lương của hai người gộp lại vào năm 1956 thừa sức sắm chiếc tivi đầu tiên cho gia đình mới.

Hisako tự chuẩn bị váy cưới và tư trang mang theo về nhà chồng. Tuần trăng mật hai người đi Kyoto, ngoài tai nạn xấu hổ vì bị vấp ngã ở bậc thang nhà ga, mọi việc khác đều suôn sẻ. Lần đầu chung chăn gối, Hisako đỏ mặt thì thầm với Teizo, “Anh đã kìm nén lắm phải không? Cảm ơn anh.”

Sau này, thỉnh thoảng Teizo gợi lại chuyện đó và nói rằng anh rất ngạc nhiên khi nghe thấy cô nói những lời nữ tính như vậy, khiến cô bối rối vô cùng.

Năm thứ ba của cuộc hôn nhân, họ chuyển từ cư xá nội thành đến ở nhà mặt đất. Nhân dịp này, Hisako nghỉ việc. Cô chỉ qua lại với bố ở mức độ cùng ăn bữa cơm sinh nhật hay trao đổi bưu thiếp Giáng sinh, với cô không có tin nghĩa là vẫn bình an. Cô trở thành một người vợ đúng nghĩa, hơn nữa còn có dấu hiệu mang bầu, cuộc sống của cô vợ trẻ êm đềm, không thiếu thứ gì.

Cuối cùng ngày trở dạ cũng đến, những cơn đau để bắt đầu từ buổi sáng. Mẹ chồng và chồng đưa Hisako nhập viện, chiều đến, như định trước, Teizo chơi mạt chược với bạn và đợi ở nhà.

Đúng 9 giờ tối, sau khi đứa trẻ chào đời, anh xuất hiện trong bộ vest tối màu, “Đây là lần đầu tiên gặp con mà, nên anh phải mặc trang phục chỉnh tề nhất đấy.” Nhưng bấy giờ đã muộn, Teizo không gặp được Nobuko. Thay vì phấn khởi trước sự quan tâm của chồng, Hisako lại thấy có gì đó trống rỗng. Nhớ tới cảm giác nhớt nhớt, nặng nặng trên bụng mình, cô lúc lắc đầu trong bóng tối.

Sau khi được xoa bóp, sữa của Hisako bắn ra mạnh đến nỗi chạm tới trần nhà. Có lẽ do Nobuko không biết cách bú, nên khi được cho ti con bé cứ khóc váng lên. Hisako phải hút sữa ra bình cho bé bú tiếp. Ngày qua ngày, những nếp nhăn như nếp gấp đèn lồng căng dần, trông con bé ra hình ra dạng hơn, Hisako mới yên tâm. Cô hiểu nỗi sợ hãi kia thực sự chỉ là nỗi lo chung của các bà bầu.

Bảy ngày trôi qua, họ trở về nhà. Hisako pha sữa bột cho con, đưa núm cao su lên môi để kiểm tra nhiệt độ, bỗng một lượng sữa lớn chảy xuống, ọc một cái cô bị sặc. Vị của sữa và cảm giác âm ấm đó khiến cô thấy quen thuộc.

Hộp sữa bột lúc nào cũng đặt cạnh bàn gương của mẹ. Lên lớp Năm tôi đã để ý đến chuyện làm điệu. Trong chiến tranh, cả ruy băng cho bé gái cũng không được nhuộm màu, nhưng tôi vẫn ngắm không biết chán bản thân mình trong gương với bộ đồng phục ngày hội thể thao, hay đi đôi tất trắng vào ngày nghỉ lễ, tiện thể liếm thìa sữa bột nhỏ trong hộp sữa.

“Hisako, tội nghiệp em còn bé, em không ăn được gì ngoài sữa cả, con còn ăn được bánh mì hay cơm.” Không phải mẹ bắt gặp tôi liếm sữa, nhưng thấy lượng bột hụt đi là biết ngay tôi đã nhón ăn. Đồ ngọt lúc đó chỉ có những cục đường đen, hay kẹo đường nâu trong gói quà thăm hỏi lính ra trận người ta bán trái phép. Vị ngọt dễ chịu của sữa bột không gì sánh bằng, nên mẹ không trách mắng gay gắt một đứa trẻ đang tuổi ăn và thèm đồ ngọt như tôi, cũng không giấu hộp sữa đi dù biết sữa đang hết dần.

Lúc đó em bé mới sinh có lẽ được nửa năm. Một lần, trên đường cùng mẹ đi bệnh viện về, tôi thấy người ta đang diễn tập phòng tránh bom. Bụng mẹ lúc đó rất to, người của đội dân phòng thấy mẹ không mặc quần thụng, bụng to thì biết ngay đang chửa nên trách cứ, mẹ xấu hổ lắm. Tôi nghe thấy mẹ nói với một người họ hàng, “Đây là đứa trẻ làm mất thể diện của tôi đây, đã ngoài bốn mươi rồi mà lại...” Thế là tôi cũng ghét nó.

Nhưng khi chào đời, nó lại là một đứa em gái rất đáng yêu. Mùa xuân năm 1943, hôm ấy sắp xếp lại lớp nên tôi được về sớm, về đến nhà thấy mẹ đang nằm trên sàn, bên cạnh có bà đỡ. Tôi được dẫn đến nhà của người họ hàng ở Yotsuya. Không hiểu sao tôi chỉ lo mẹ cứ thế mà chết, đi ra cửa lau nước mắt để mọi người không nhìn thấy, có một đứa bé hí ha hí hửng nhìn bộ dạng sụt sịt của tôi.

Hôm sau, tôi đến thẳng trường, khi quay về phố Takagi thì đã chiều tà. Trong bóng tối, mẹ và em bé đang ngủ, bầu ngực mẹ cho em bé bú phồng lên căng tròn đến kinh ngạc. Bố viết tên em gái ra giấy, dạy tôi đọc, là “Ayako”.

Đến giờ nghĩ lại tôi vẫn thấy mình đã rất yêu Ayako, lúc nào xếp hàng mua sắm cũng địu em theo như một đứa bé còn đi nhà trẻ không chịu rời búp bê. Tôi cho Ayako ngồi ở khe nhỏ giữa cái đài và bàn thờ Phật đặt trên nóc tủ trong phòng trà, quay lưng lại thắt nút dây trước ngực. Thấy vậy mẹ khen, “Con tháo vát quá.”

Tôi rất yêu em gái nhưng vẫn không bỏ được tật liếm trộm sữa bột của con bé. Không rõ việc phân phối lương thực thế nào, nhưng trong hầm tránh bom dưới sàn nhà còn rất nhiều sữa bột, nên chắc chắn dù tôi có liếm thì Ayako cũng không bị thiếu phần. Không chỉ vậy, tôi còn gói bột sữa vào phong bì bằng giấy xi măng, đem đổi lấy lạc của một người bạn. Sữa bột mà ngậm trong miệng sẽ dính bết vào thành miệng, thành má, đặc quánh lại, há to miệng soi gương sẽ thấy khoang miệng trắng xóa, làm tôi nhớ đến câu chuyện về đứa trẻ chết vì bệnh bạch hầu. Tôi bị ép phải nghe kể về đứa bé bị một lớp màng trắng chặn ngang cổ họng, ho ăng ẳng như chó sủa rồi chết.

Teizo yêu con vừa phải. Sự xuất hiện của Nobuko cũng không thay đổi nhịp sống của anh từ trước tới nay. Hơn nữa anh vừa chuyển sang đài truyền hình mới thành lập nên không thể lấy cớ con nhỏ để xin về sớm.

Nhưng những tối về muộn, nhìn Nobuko đang nằm trong nôi mây, anh ngắm mãi không chán khuôn mặt say ngủ của con, đêm đến con bé khóc toáng lên anh cũng không cáu giận, thỉnh thoảng ở nhà được đến chiều thì giúp Hisako tắm cho bé, anh có sức nên làm rất tốt.

“Thể dục cho bé nào, chân phải dài ra nhé,” vẫn là những kiến thức thu được từ sách nuôi dạy trẻ, anh xách ngược con bé lên làm Hisako thót tim.

Khi được tám tháng tuổi, Nobuko bị cảm lạnh, uống thuốc hạ sốt xong lại tiêu chảy liên tục. Con bé gầy và yếu đi thấy rõ. Teizo và bà nội cuống cuồng hết thay bác sĩ lại giận cá chém thớt, ồn ào một trận kinh thiên động địa. Trong khi đó Hisako không hề nôn nóng, cô tin thể nào con bé cũng khỏi.

“Lòng tin của người mẹ quả thật vĩ đại, anh cứ ngỡ hết cách rồi, đến đài mà cứ nghe tiếng chuông điện thoại là giật mình, lúc đi về lại lo có chuyện xảy ra, tới mức không dám tiến gần đến nhà, thế mà em chẳng cuống gì cả.” Teizo nói.

“Không chết dễ thế đâu, sức sinh tồn của trẻ con mạnh lắm đấy.”

“Thì biết vậy, nhưng con bé bé thế này, sống được thôi đã thấy kì diệu rồi.”

“Anh thật là...” Cuối cùng cả hai cười ồ.

Hisako không hiểu sao mình lại không lo lắng. Tất nhiên cô có để ý đến tình trạng hơi thở, nhiệt độ lên xuống của con bé, nhanh chóng thay gối nước và cho uống thuốc, nhưng con bé tiêu chảy lâu là vậy, phân ra như nước gạo, đến mẹ chồng cũng bảo nên chuẩn bị tinh thần, vậy mà cô vẫn bình tĩnh. Đó là niềm tin theo bản năng của người mẹ đã mang nặng đẻ đau ư?

Đúng như dự cảm khi trước, thỉnh thoảng có một ý nghĩ thoáng qua đầu tôi. Như trời sáng dần lên sau màn sương mù, tôi bắt đầu thấy rõ ràng, nhưng cố không chấp nhận nỗi sợ hãi đang hiện hình ấy.

Ở một góc sâu trong tim, tôi đã mong Nobuko chết đi. Tôi tự nhủ một người mẹ sao có thể mong con mình chết, nhưng đúng là tôi đã mong con bé cứ thế mà ra đi khi mới tám tháng tuổi. Nobuko phát triển tốt, tám tháng tuổi đã bám vào cửa trượt để đứng lên, trông như thể sẽ bước đi ngay được. Sau trận ốm nó lớn hơi chậm, nhưng điều đó khiến tôi thấy yên tâm.

Xưa kia em Ayako của tôi béo quay đến nỗi hàng xóm cứ xui cho nó dự thi Béo khỏe béo đẹp. Tối hôm Tết, có lẽ lúc đó nó mới được tám tháng tuổi, tôi đẩy cái xe đồ chơi Ayako thích đi ngang qua bàn sưởi*, con bé đổ người tới trước bước đến chỗ tôi, mặc dù nó ngã lăn ra ngay nhưng người đầu tiên nhìn thấy Ayako bước đi chính là tôi.

Bàn ngồi bệt phủ chăn, bên dưới có đặt thiết bị sưởi.

Nobuko bám vào cửa trượt như thể muốn đi thám hiểm, con bé nhìn tôi rồi lại nhìn cái chiếu. Chồng tôi hét toáng lên cổ vũ, “Lại đây, đi đi nào!”

Tôi chỉ muốn nhắm mắt bịt tai.

“Cứ thế này thì tốt biết mấy,” tôi buột miệng.

“Thì đúng rồi, lúc nào cũng như vậy thì... Mà không, phải hai tuổi cơ, người ta bảo lúc đó là đáng yêu nhất. Rồi con bé sẽ lớn lên, chẳng mấy chốc mà thành cô dâu thôi, không biết con gái bố sẽ lấy người thế nào nhỉ?” Chẳng hề nhận thấy nỗi sợ hãi của tôi, Teizo dùng máy ghi âm ghi lại đôi từ bập bõm “happi, babu” của Nobuko.

Cuối năm 1944, bố không thích đi sơ tán theo đoàn thể nên đưa Hisako đến Niigata, ở nhờ nhà mẹ đẻ một cấp dưới của bố. Họ mở cửa hàng bán buôn vải dệt, nhà theo phong cách Kyoto, cửa hẹp nhưng đi vào trong có cả sân vườn. Hisako được nhường cho một gian trên tầng hai của ngôi nhà, cứ mười ngày bố hoặc mẹ lại đến thăm. Trong nhà có một đứa trẻ trạc tuổi nữa nên Hisako sống rất vui vẻ. Sau bốn tháng, cô phải quay lại Tokyo để vào học trường nữ sinh. Bước xuống ga Ueno, tưởng đâu trong sân ga sẽ có đám học sinh xếp thành vòng tròn hát vang, nhưng không, chỉ có một phụ nữ trung niên gào khóc, hiến binh canh chừng bà nghiêm ngặt. Mới có bốn tháng mà nơi này đã thay đổi đến sững sờ, cứ như đang ở một đất nước khác. Khu phố Takagi hiện rõ dấu vết của những tòa nhà bị tháo dỡ.

Ngôi nhà tràn ngập thứ mùi quen thuộc, và quả nhiên chế độ cấm đèn đuốc còn khắt khe hơn cả ở Niigata. Ayako nhào vào người cô.

Mùa đông năm ấy tuyết rơi dày, người ta bảo sẽ không nhập rau và cá về nên mọi người đều hoang mang. Tôi đã quen với việc phân phối lương thực ở Tokyo nên lại thấy lạ lùng. Thỉnh thoảng khu cảng Niigata mới xuất hiện máy bay B29 đến thả thủy lôi, còn thì vô cùng bình yên như chưa từng có chiến tranh. Tôi cũng quen với tuyết nên thường giúp cào tuyết trên mái nhà. Dù gì con trai họ còn phải dựa vào bố nên người trong nhà đối xử rất tốt với tôi, cô bé bằng tuổi cũng tỏ ra kính nể, có lẽ do tôi mang đến rất nhiều sách và búp bê. Khi tôi trở về Tokyo, hai đứa vẫn thư từ qua lại. Cô bé đó dùng chữ La tinh viết tên lên giấy còn tôi thì giải mã, nên được đặt biệt danh là nữ tiểu quân nhân.

Nobuko sau đó phát triển bình thường. Qua ngày sinh nhật của bé, Hisako ngập trong việc nhà, hết việc nọ đến việc kia nên quên bẵng nỗi sợ hãi đó. Nhưng một lần, Teizo say rượu đưa cho Nobuko hộp bánh quy to, bảo là quà của nhà tài trợ. Con bé ngằn ngặt mè nheo đòi ăn nên Hisako đành mở ra, có rất nhiều bánh trong đó.

Nobuko không ăn mà lấy bánh làm đồ chơi, nó cầm bánh bẻ lách tách, rồi vứt từng cái một vào thùng rác.

“Nào, con không được làm thế, lãng phí quá,” Hisako chỉ mắng bình thường, nhưng con bé òa khóc kinh người, có lẽ do là con một nên nó hay nhõng nhẽo.

“Thôi không sao, con nó đã biết gì đâu,” Teizo dàn hòa.

“Nhưng như vậy là không được, vứt đồ ăn đi thật quá phí phạm!”

“Thì đúng rồi, nhưng không cần phải quát ầm ĩ lên như thế...”

“Anh im đi, đây là con tôi!”

“Đủ rồi, em làm Nobuko sợ đấy!”

“Vậy anh đừng nói nữa, thỉnh thoảng anh mới ở nhà, cứ chiều con như vậy cũng không tốt cho nó đâu!”

Teizo hiển nhiên thấy khó chịu, anh im bặt. Nobuko đứng trong góc nhà, không hiểu được tình hình nên cứ nức nở không thôi.

“Nobuko, con đem những miếng bánh đã vứt trả về chỗ cũ ngay!”

“Nói thế nó cũng không hiểu đâu!”

“Anh trật tự đi!” Hisako nước mắt lưng tròng, hung hăng đáp trả.

Teizo ôm lấy Nobuko, có vẻ đã chịu thua, tự mình nhặt những chiếc bánh quy trong thùng rác, Nobuko cũng nhanh chóng bắt chước.

“Quá là xa xỉ, cơm không thích là bỏ dở, nước lọc không uống, chỉ thích nước trái cây.” Sau khi bình tình lại, Hisako nói.

“Thì đúng rồi, trẻ con bây giờ toàn thế, thời chúng ta chỉ vứt đi một hạt gạo cũng bị ăn mắng.” Đàn ông đúng là không thể nổi giận đùng đùng quát mắng trẻ con được. Chắc ăn thua nhau ở cái tự tin của người sinh ra nó, Teizo nói đùa.

Không phải, tôi cáu Nobuko ăn bánh kẹo phí phạm hay kén ăn này nọ, không phải vì lý do đó. Ngay sau khi tôi trở về Tokyo, ngày 10 tháng Ba xảy ra một trận ném bom. “Khu phố Takagi sẽ bình an vì ở ngay cạnh bệnh viện chữ thập đỏ,” chẳng ai tin điều này nhưng vẫn đi kháo nhau. Vì đã từng nếm trải thảm họa động đất, bố tôi quyết định nếu có chuyện xảy ra cả nhà sẽ lánh nạn đến bảo tàng mỹ thuật gần đó, vì trú ở quảng trường rất nguy hiểm.

Ngày 25 tháng Năm, 10 giờ tối, còi cảnh báo máy bay địch vang lên, bố lập tức ném mọi thứ như máy khâu, thực phẩm xuống hầm tránh bom trong sân nhà rồi đậy chiếu, còn chưa kịp phủ đất lên thì phía Shibuya đã sáng rực, gió ầm ầm, tiếng bom nổ kinh hoàng như đè bẹp đầu mọi người.

Tôi ngẩng phắt lên nhìn trời, vô vàn ngọn đuốc chập chờn trên bầu trời đêm, trôi dần về phía Bắc. Mẹ cõng Ayako, bố cầm xô ngẩng lên nhìn vô định. Không ít trường hợp bị hun chín trong hầm tránh bom, nên khi trốn trong hầm mà thấy bom cháy rơi xuống phải chạy ra dập lửa ngay. Nhưng khi số lượng bom cháy nhiều thế kia, chẳng ai buồn ra dập.

Giữa sự tĩnh lặng đến lạ lùng chợt vang lên tiếng coong, coong, coong, thứ gì đó vừa rơi xuống mái ngói, rồi tiếng nổ đì đùng vang lên.

Tuy nhà tôi và hàng xóm hình như đều không có gì bất thường, nhưng...

“Không được bỏ tay ra đâu đấy!” Bố đẩy tôi vào giữa, bắt đầu rảo bước, ra đến đường tàu điện va phải dòng người hỗn loạn thì gào hét chửi rủa. Trên tầng hai một ngôi nhà nhìn ra đường, đám người nọ túm tụm chỉ trỏ khói lửa như không liên quan đến mình, rồi lại nhìn về phía đền Jingu.

Bầu trời đêm nhuộm đỏ, tiếng đạn rơi, bom nổ vẫn vang lên không ngừng. Chúng tôi đến phố Minami, thấy tàn lửa bay thành một đường, căn nhà gặp phải chuỗi tàn lửa đó đột nhiên bùng cháy.

Quay trở lại phố Kasumi, đi qua Hiroo thì thấy vùng đất cao bên trái yên lặng như tờ, chúng tôi liền leo lên con đường hẹp và bắt gặp một hang động tránh bom, người dân có lẽ đã sơ tán hết nên không còn ai cả.

Thầy giáo dạy piano của bạn tôi ở vùng này, tôi cũng biết đôi chút nên hơi yên tâm. Mẹ bỏ Ayako trên lưng xuống đưa cho tôi, rồi cùng bố đứng trước cửa hàng, nhìn về biển lửa qua những tàng cây.

Ayako chẳng sợ sệt gì, đòi tụt xuống. Tôi nhìn quanh hang động đang rực lên nhờ ánh lửa phản chiếu. Như chộp được chút sơ hở đó, tiếng bom rơi vọng lại. Đầu tiên tôi lấy ngón tay bịt kín mắt mũi như đã được chỉ dẫn rồi ôm lấy Ayako phủ phục xuống đất. Đến khi ngẩng lên nhìn về phía bố, tôi thấy mẹ ngã ở cửa hầm.

“Lấy bông băng, bông băng!” Ông cuống lên.

Tôi đến gần thì bị đẩy trở lại. Mẹ nằm đó, hoàn toàn bất động.

Một mảnh bom cháy hay bom cỡ nhỏ ghim sâu vào ngực mẹ nên tôi không thấy được ngay, miệng vết thương chỉ khoảng năm li nhưng mẹ tắt thở ngay tại chỗ.

Nhà họ hàng ở Yotsuya cũng bị cháy hết, họ hàng ở Nakano thì là trung úy lục quân nên đã tham gia chiến đấu, chúng tôi đành đến trú ở nhà đồng nghiệp của bố.

Tang ma tiến hành vội vàng, thậm chí không kịp dâng mẹ một nén nhang.

Trưa ngày 27, bố gom tro cốt của mẹ vào chiếc hộp đơn sơ mang về, im lặng vuốt tóc tôi mãi.

Tôi cõng Ayako trên lưng, một lần nữa quay lại Niigata.

Niigata cũng đã thay đổi. Sau khi thiêu trụi các thành phố lớn, mục tiêu của đoàn máy bay B29 dời sang tỉnh lẻ. Ai cũng biết điều đó, nên từ nửa năm trước cái vẻ thảnh thơi, bình chân như vại nơi đây đã tan biến, người ta đào hầm tránh bom, nghĩ đủ mọi cách hòng sống sót, có cơ hội thì nào vượt cầu chạy về phía Đông, nào trốn ra biển. Tình hình lương thực cũng xấu đi, đồng nghiệp của bố bỏ Tokyo trở về Niigata cho rằng nước Nhật đã đến lúc chấm dứt. Chắc chắn người dân cũng đã chuẩn bị tinh thần. Không khí gia đình tôi đến ở nhờ cũng khác hẳn, tôi giờ đây chỉ là một đứa trẻ cháy nhà lại ôm theo em nhỏ.

“Búp bê và sách cháy hết rồi, thật đấy.” Cô bé cùng tuổi tôi ngoài mặt tỏ ra thông cảm, nhưng rõ ràng có ý kinh miệt như muốn bảo “Thử nhìn lại mình xem”.

Ai cũng thấy dường như Hisako rất yêu trẻ. Không chỉ Nobuko, mà hễ nghe tiếng trẻ khóc ở nhà nào gần đó là cô lại chạy đến dỗ dành thay mẹ nó. Thỉnh thoảng có người phải nhắc khéo hành động xen vào chuyện người khác của cô, “Người ta bào trẻ con khóc cũng là cách để vận động đấy.”

Tuy nhiên mỗi khi nghe tiếng trẻ con khóc váng lên, Hisako lại thấy bồn chồn. Nếu là trẻ nhà hàng xóm cô chỉ cần tránh đi chỗ khác, nhưng với Nobuko, mỗi khi bố về muộn nó lại giận dỗi, đến khi quá giấc là quấy không cho ai yên. Nó cứ liên tục như vậy, làm Hisako có lần phải điên tiết hét lên, “Nín ngay! Nói bao nhiêu lần con mới hiểu đây! Đừng khóc nữa, không mẹ cáu đấy!” Cô quắc mắt giận dữ, con bé sợ hãi òa khóc.

Hisako bịt tai, sang phòng khác giam mình trong đó. Khi bình tĩnh trở lại, cô nhờ Teizo (bấy giờ đã về) rằng từ giờ anh tan làm sớm hơn một chút.

Đài truyền hình chỗ Teizo vừa mới đi vào phát sóng nên anh từ chối, nghe xong lý do thì cười bảo, “Làm gì đến mức, em không phải quan trọng hóa việc trẻ con khóc quấy buổi tối đâu, kệ nó khóc chán sẽ ngủ thôi.”

Nhưng dần dần, Hisako không chịu được việc ở riêng với Nobuko vào buổi tối nữa. Không phải tối nào Nobuko cũng khóc, nhưng cứ nghĩ đến tiếng khóc Hisako lại thấy bứt rứt, đành pha loãng whisky của Teizo với nước rồi uống. Nobuko càng lớn, chân tướng nỗi sợ hãi cô hằng kìm nén càng hiện hình.

Cuộc sống ở Niigata rất khổ cực. Bố đưa chúng tôi đến đây, nhưng bố vừa về Tokyo thì thái độ của gia đình chủ nhà hoàn toàn thay đổi. Căn phòng trên tầng hai giờ là của người con trai nên chúng tôi phải ở trong nhà kho tường đất. Nhà kho có hai tầng, nhưng nguyên một khu đã chất đầy những thứ linh tinh từ dụng cụ đồng áng như nón lá, cuốc, áo tơi đến tranh chân dung, tượng bán thân bằng gỗ, hộp đựng sách ảnh. Chưa kể sắp sang hè mà nơi này không có nổi một cửa sổ.

“Ở đây rất an toàn, kiên cố hơn cả hầm tránh bom đấy,” ông cụ nói vậy chứ thật ra họ muốn tránh tiếng khóc của Ayako. Tối hôm hai chị em vừa đến đây, con bé đã khóc toáng lên. Tôi không bị mất tinh thần vì cái chết của mẹ, có thể vì quá đột ngột nên chưa cảm thấy gì, hoặc vì tôi không muốn khóc trong thời buổi vốn đã rối ren.

Bố nói sẽ cố gắng đến thăm như lần trước. Nhưng với tình hình giao thông hiện nay, nghĩ tới quãng đường đến Niigata chật cứng người đi sơ tán là hiểu, nên tôi nói bố không cần lo.

“Cháy đến thế thì không còn ném bom nữa đâu.” Bố xoa đầu tôi, “Trông nom Ayako nhé, con bây giờ là chị rồi đấy.” Tôi gật đầu mạnh mẽ, lúc đó tôi rất hăng hái, nhưng giờ, khó khăn đầu tiên là thiếu thốn thức ăn.

Gia đình sống ở nhà chính là hộ có máu mặt với người dân gần đó, họ vẫn có gạo ăn qua ngày. Ayako mới hai tuổi bốn tháng, tôi phải đặt bếp lò trước nhà kho đất, nấu khô dầu đậu tương, cao lương hay ngô để ăn, nước thì đi lấy ở giếng. Cuộc sống mới ổn định chút ít thì Ayako nhớ mẹ. Sáng ra, cô bé cùng tuổi đến trường, khi đi ngang qua cố ý nói cho chúng tôi nghe, “Chẳng ngủ được gì cả, ồn quá mà.” Tôi nghĩ tiếng Ayako khóc suốt đêm qua trong kho chắc không vang đến tận nhà họ, nhưng không hiểu sao vẫn thấy chột dạ.

Bước sang tháng Bảy, nhà kho đất nóng nực, Ayako và tôi nổi đầy rôm sảy, người trong nhà chính mở cửa sổ ra cho đỡ nóng, nhưng chỉ hơi có tiếng khóc là đóng sập cửa lại. Tôi không biết làm sao, đành cõng con bé đi dọc bờ sông ở Higashibori. Không có cơn gió nào, ngọn lá liễu cứ rủ xuống chẳng chút lay động. Mặc kệ tôi đung đưa hay hát ru Ayako cũng không nín. Gần đó có công trường máy tiện, tôi nhồi sắt vụn vào bao rơm đựng gạo, chất bên lề đường, đặt con bé lên đó rồi thở phào lau mồ hôi, xung quanh không có lấy một bóng người.

Ayako khóc cũng phải thôi, nó mới chỉ hơn hai tuổi đã phải xa mẹ, hơn nữa còn đói, nóng, đến tôi cũng muốn làm nũng với ai đó, nhưng tiếng khóc của nó thì khó chịu thật. Con bé khóc nên tôi cũng bị mất ngủ, liên tục bảo, “Nín đi, đừng khóc nữa.” Cuối cùng, tôi đánh Ayako. Tôi đặt con bé ngồi trên bao rơm, ban đầu chỉ lấy tay vả đầu, nó vẫn không chịu nín nên tôi nắm tay lại đấm nó. Con bé bị đánh đau nín khóc, tôi bèn ôm nó lên và quay về nhà kho đất.

Từ khi biết chắc Ayako sẽ nín nếu bị đánh, tối đến hễ thấy con bé có dấu hiệu chuẩn bị khóc nhèo nhẹo cả đêm, tôi lại giơ tay lên dọa. Đó là kiểu ru em ngủ của tôi.

Vừa đọc báo Teizo vừa nói, “Em ơi em ngủ cho ngoan, các bà mẹ hát ru sẽ vỗ nhẹ mông con mình.” Cứ thấy bài báo nào nói về việc dạy con là anh lại cắt ra hoặc đọc to cho tôi nghe, có lẽ anh không hiểu được thái độ của tôi đối với Nobuko.

Anh giải thích rằng không nên đánh vào mông, làm thế sẽ ảnh hưởng đến cột sống, gây chấn động não bộ. Tôi cười không tin thì anh gắt lên, “Xương trẻ con rất mềm, chỉ cần một chấn động nhỏ là ngất ngay. Bố mẹ tưởng nó ngủ, nhưng thật ra não trẻ hay bị chấn động khi bị vật gì đó nện nhẹ vào đâu.”

Tôi bỏ ngoài tai những lời này, mà không, đúng hơn là tôi rất hiểu. Tôi thấy ngực mình cuộn lên cơn buồn nôn không thể chịu nổi, tựa như những tia lửa tóe ra từ que pháo hoa. Chấn động não à, có phải mỗi khi bị tôi đấm Ayako lại ngất đi như mấy tay đấm bốc kém cỏi, nên mới im bặt không? Hằng đêm tôi đều đánh ngất một đứa trẻ mới chỉ hơn hai tuổi sao? Vặn vòi nước xối ào ào trong bếp, vẩy lên người, tôi cố gắng không nghĩ nữa, cố gắng, nhưng cố đến mấy màn đêm trong nhà kho đất đó vẫn hiện lên trong đầu.

Không chỉ đánh em, cũng như trước đây từng liếm trộm sữa bột, tôi vui mừng khi Ayako bị đau bụng, và độc chiếm gần hết suất ăn phân phối mỗi ngày một ít, trong khi con bé chỉ được ăn nước cháo loãng. Thỉnh thoảng họ phát cho khoai sấy, củ cải, trứng, cá, Ayako mới lên hai, vậy mà tôi cố tình giấu hết đồ đi, ăn ngấu nghiến một mình. Chính vì thế con bé nhanh chóng suy yếu. Khi bố gửi thư và tiền cho hai chị em, tôi dùng để mua chè zenzai ở cửa hàng chè cạnh đền Hakusan và ăn luôn. Vì bản thân, tôi mặc kệ sống chết của Ayako.

Chiến tranh kết thúc, bố đến đón.

Ông nói như thể không có chuyện gì xảy ra, “Từ giờ chúng ta sẽ sống tốt hơn, đã để con vất vả nhiều, bố rất xin lỗi.”

Hai bố con tôi thuê nhà sống. Trong sự bảo bọc của bố, có lẽ do bận rộn với công việc nội trợ nên những chuyện ở Niigata nhanh chóng trôi đi, trong mơ tôi cũng không nhớ lại. Đến khi kết hôn, đúng hơn là năm 1955, một trận cháy lớn xảy ra ở Niigata, tôi biết nhà bán vải dệt đó cũng bị cháy nhưng không có cảm xúc gì đặc biệt. Thế mà sau khi sinh Nobuko, tôi bỗng thấy như bị ai đâm dao vào người. Ngay sau khi sinh tôi vẫn chưa sao, nhưng chẳng bao lâu, nhất cử nhất động của Nobuko đều gợi lên kí ức về Ayako. Khó khăn lắm tôi mới giam hãm được những kí ức đó, thế mà chỉ vì bài viết trên báo Teizo đọc cho, mọi thứ lại trồi lên.

Tôi bịt tai lại khi nghe tiếng trẻ khóc, là để trốn tránh kí ức hồi ở nhà kho đất. Tôi phát cáu khi Nobuko ăn bánh vãi tung tóe, là do vô thức so sánh với Ayako chỉ được ăn nước cháo loãng suốt gần hai tháng.

Tôi đã quên hẳn, mà không, tuy chưa hoàn toàn tự thuyết phục được bản thân rằng đó là những trải nghiệm đặc biệt của chiến tranh, tôi vẫn tự nhủ hai tháng đó chỉ là một giấc mơ thời hậu chiến. Bị cuốn vào những khó khăn của sinh hoạt hằng ngày, tôi cũng chưa từng quên mình đã cướp đi sinh mạng của em gái bằng chính đôi tay này. Dù không trực tiếp xuống tay, nhưng bỏ đói khác gì hạ sát nó.

Tôi còn nhớ, rất rõ, mình giết Ayako thế nào. Trớ trêu thay, khi đứa trẻ tôi sinh ra càng tới gần tuổi chết của Ayako, nỗi sợ kia càng rõ ràng. Nobuko đã đanh thép lên án tội ác của tôi bằng gương mặt ngây thơ, vui tươi, và những từ ngữ mới bập bẹ nói.

Nhìn Nobuko khóc váng lên, tôi lại nhớ mình từng đánh ngất một đứa trẻ.

Thấy Nobuko đòi nước hoa quả, tôi lại nhớ mình từng cướp đồ ăn của một đứa trẻ.

Tôi sẽ yêu thương con bé cả phần của Ayako. Nếu có cỗ máy thời gian, tôi sẽ đem bánh quy, kẹo, bánh quế ở đây cho Ayako, những ngày cuối cùng trong nhà kho đất đó, con bé đã không còn khóc được nữa, chỉ nằm đấy im lìm. Nước mắt tôi lã chã rơi, nhưng không thể lảng tránh. Tội lỗi của tôi, sẽ không biến mất.

Ngày 13 tháng Tám năm 1945, theo chỉ thị của thị trưởng thành phố Niigata, toàn bộ người dân bắt đầu sơ tán. Bom kiểu mới ném xuống Hiroshima và Nagasaki là bom nguyên tử, người ta bảo mọi thứ trong đường kính hai cây số từ nơi bom nổ đều bị thổi bay hoàn toàn. Tôi nghe mà không có cảm giác chân thật. Trước đó sức phá hoại kinh khủng nhất là bom một tấn, nhưng nhiều nhất cũng chỉ ảnh hưởng đến một khu phố. Người ta có dạy tôi về những góc chết bom không ném đến, mặc quần áo trắng để phản xạ ánh sáng sẽ tránh được nguy hiểm. Có tin đồn nơi nào đó trong số những thành phố còn lại của Nhật Bản là Kyoto, Nara, Kanezawa, Niigata, quận Setagaya hay Suginami ở Tokyo, khu Morinomiya ở Osaka sẽ là nơi thứ ba bị ném bom nguyên tử.

Niigata cảnh giác cao độ từ đợt Nagaoka bị thiêu rụi gần đây, mọi người cuống cuồng đi tá túc ở thiền viện ngoại ô, bấy giờ là mùa hè nên họ còn ngủ lang cả trên các con đường phân luống hay đê sông Agano.

Khoảng cách từ đảo Saipan đến Tokyo và Niigata gần như tương đương, nhưng Niigata ở xa hơn một chút, trong thành phố cũng không có cơ sở hạ tầng bề thế nào ngoài nhà máy lọc dầu, bớt đi phần nào cảm giác cùng đường nên mọi người có thể chạy trốn trong ngày. Về nguyên tắc, người dân không được phép mang theo bất cứ tài sản gì ngoài phần lương thực dùng trong lúc chạy.

Đội dân phòng thúc giục điên cuồng, cảnh sát đạp xe đi tuần. Trời nóng nên người ta nào nướng cơm nắm mang theo, nào nước uống quan trọng hơn cả, ầm ĩ nhộn nhạo không khác gì hiện trường hỏa hoạn xen kẽ công cuộc tổng vệ sinh.

“Làm thế nào với hai đứa nhỉ, chúng tôi đến làng Kizaki, không đưa các cháu đi cùng được.” Bà chủ nhà bảo tôi.

“Phải rồi, không được đâu, đến chúng tôi cũng phải năn nỉ lắm họ mới cho đến, mà đi không lâu nên chắc không sao đâu,” anh con trai từng là cấp dưới của bố nhét áo vest vào ba lô, thậm chí cả băng phiến.

Bà chủ nhà đưa cuốn gia phả và bài vị ra hỏi, “Cho cái này vào nhé?”

Anh con trai trả lời cục súc, “Cho hết vào cái túi ấy!” Cô con gái nhét sách giáo khoa và sách tham khảo vào túi vải, lấy dây buộc bàn tính, thước kẻ với đôi giày lại. Quá trưa, xe ngựa rồi xe kéo lạch cạch lạch cạch đi trốn, xe nào muốn vào Niigata phải có giấy phép.

Tôi ra cửa nhìn dòng người hỗn loạn hướng về phía cầu Bandai. Thay vì sợ hãi bị bỏ lại, tôi lại thấy thoải mái vì người ở nhà chính đi hết, không cần nơm nớp để ý nữa. Một mình tôi hưởng cả ba suất bánh mì khô được trợ cấp nên lấy cho em ăn. Ayako lúc đó đã nằm bất động, trán chi chít mủ rồi vảy do các nốt ban vỡ ra, con bé chắc không còn cả sức để ăn nên chỉ mút chụt chụt một chút.

Nhà nào lâu đời thì có cả quang gánh, chủ nhà đeo ba lô, hành lý chia làm đôi để gánh. Đúng 2 giờ, còi cảnh giới* phát động, đến rồi. Những người đang đi trên đường lẫn những người đang chuẩn bị hành lý đều tất tả chạy.

Còi cho biết có nguy cơ không kích nhưng chưa thấy bóng dáng máy bay. Kêu trước còi cảnh báo (là côi vang lên khi đã thấy bóng dáng máy bay).

“Bà ơi nhanh lên!” Có người đứng trước cửa gọi the thé, nhưng bà lão một mình ở trên tầng hai đóng sầm cửa, cài then.

Xe cứu hỏa chạy, đội dân phòng ở lại để đảm bảo an toàn, cán bộ khu phố không còn đứng trong góc phố nói chuyện, cả trăm binh sĩ cởi trần chạy về phía bờ biển. Ấy thế mà đoàn người đi lánh nạn tràn ra đầy đường lại không có cảm giác đang cấp bách trốn chạy. Một phụ nữ vừa dắt con nhỏ vừa nói gì đó với nó, một người cao tuổi chống gậy không chút hoang mang, một đám hai hay ba học sinh cấp hai đang đùa giỡn. Có rất nhiều người bệnh, người ta trải chăn lên tấm ván cửa cho họ nằm. Không một ai quay lại nhìn thành phố nơi họ đã quen sống.

Trời còn nắng, dòng người di chuyển nối đuôi nhau không ngớt, đến khi tắt nắng đã không còn một ai. Tôi đi xuống bờ sông Higashibori thấp hơn 2 mét so với mặt đường, nhìn đám rong rêu đang bập bềnh trôi trên dòng nước, tâm trí bị xâm chiếm bởi những suy nghĩ vu vơ, “Có nên náu mình trong thuyền chở phân bón đang neo đậu kia trốn đến nơi nào đó thật xa không?”

Trên đầu, tiếng xe đạp lọc xọc đi ngang qua. Tiếng bom đùng đùng vang vọng, bầu trời đầy sao, lúc đó tôi vẫn chưa thấy sợ. Phần vì đã quen với việc ở một mình, một phần có lẽ vì không còn ai nữa nên giờ quan hệ máu mủ với Ayako trở thành chỗ dựa, tôi ôm con bé đã lâu chưa bế, đặt thân hình gầy yếu nhẹ bẫng đó lên lưng, lang thang trong bóng tối.

Tiếng kéo lê gậy sắt của thành viên ủy ban xã đi tuần vọng lại từ xa nhắc nhở đề phòng kẻ trộm, ngoài ra không có một sinh vật sống nào khác. Cái nóng từ ban trưa vẫn chưa dịu lại. Tôi gọi Ayako nhưng con bé không trả lời.

Bố là bác sĩ nên phải đi khắp nơi chữa cho những người bị thương do ném bom, công việc không ngơi tay.

Trong trụ sở của đội dân phòng có bốn, năm người đang uống rượu. Tôi nhớ ngày xưa cùng mẹ đi ăn zarusoba* ở trung tâm thương mại Shibuya, tôi tò mò muốn kiểm tra xem dưới rá còn mì không liền bị mẹ mắng cho một trận.

Món mì soba chấm, được bày trên rá, rắc rong biển.

Khi mẹ trúng đạn ngã xuống, chúng tôi kéo bà vào hầm, bà nặng như đá. Bố chỉ nói một câu “Không xong rồi”. Tôi đến khóc cũng không khóc nổi, tháo khăn tránh bom của mẹ, lấy lược chải tóc cho bà. Ayako lúc đó vẫn chưa biết gì, chỉ nắm chặt lấy bàn tay mẹ hẵng còn ấm.

Từ khi đến Niigata, đây là lần đầu tôi khóc nhòe mắt. Quay về nhà kho đất, tôi đặt như vứt Ayako xuống sàn, nằm vật ra khóc.

Tôi không thể ở yên một chỗ, chạy ra ngoài, rồi lại lẻn vào nhà chính, đi lang thang phòng nọ phòng kia nơi mình đã biết, mở hết cửa này đến cửa khác, những mong mẹ đang ở đó.

Mà không, có lẽ chỉ là do tôi không thể ở yên một chỗ thôi. Bỗng nhiên tôi thấy sợ bóng tối bên ngoài. Đúng lúc đó có tiếng ai gõ nhịp, không lẽ vẫn còn người? Nếu còn, dù là ai tôi cũng muốn theo. Lắng tai nghe, thấy tiếng động vang lên từ nhà bên, tôi vòng ra cửa sau ngó vào. Trong phòng tối om, một bà lão đang ngồi đọc kinh, tay trái giơ lên, âm thanh vọng ra theo nhịp tay của bà.

Tôi đẩy cửa gỗ, nhìn kĩ thì thấy bên trong như gian thờ, nguyên một bên tường toàn bàn thờ Phật. Bà lão không chỉ cử động cổ tay, mà cả người cũng lắc lư từng nhịp, chẳng biết đã nhận ra tôi chưa. Nhưng tôi lưỡng lự không muốn gọi, chỉ thấy rất vui vì có người nên cứ thế đứng tựa vào cửa gỗ, gặm bánh mì khô.

Không biết tôi đã đứng thế bao lâu, bỗng một phụ nữ mặc quần thụng xuất hiện, cũng có vẻ giật mình lùi lại. Thím ta đang dắt một chiếc xe đạp.

“Bà ơi, bà đừng cứng đầu nữa, mau đi thôi!”

Bà lão vẫn không động đậy.

“Nào đứng dậy thôi bà ơi.” Người phụ nữ giọng vẫn cung kính nhưng đã luồn ra sau nâng bà dậy như thế kẹp nách trong đấu vật.

“Không đi đâu, tôi...” Bà nói gì đó rất nhanh, tôi không nghe rõ. Người phụ nữ dắt bà ra như lôi đi, “Mọi người đều lo lắng cho bà, bảo bà có làm sao thì chẳng ai còn mặt mũi đâu gặp tổ tiên.”

“Tôi chết ở đây thôi, cùng với tổ tiên.”

“Nào bà mau lên xe!”

Miệng phản đối nhưng bà lão vẫn ngoan ngoãn ngồi lên yên sau xe đạp.

“Thím ơi, xin hãy dẫn cháu đi cùng!” Thím nọ đẩy xe đi, tôi khàn giọng gọi với từ phía sau. Có lẽ thím ta không nghe thấy, bóng dáng dần tan biến vào màn đêm. Tôi chạy đuổi theo nhưng ra đến ngoài thì bóng dáng chiếc xe đã mất hút.

Tôi sợ đến nỗi đứng chôn chân ở đó, rồi tiếp tục chạy, giữa chừng nghe thấy tiếng người thì dừng lại, ra là tiếng đài nhà ai vẫn bật.

Đồn cảnh sát ở đầu cầu cũng không còn một bóng người. Đi về bên trái ngã ba sẽ gặp barie chắn tàu, đi thẳng thì đến Shibata, sau khi đến đây sơ tán tôi từng tới nơi này cùng con gái nhà bán vải dệt.

Tôi như phát cuồng, muốn đến chỗ có người, ai cũng được, nên cứ thế chạy trong bóng tối. Một lúc sau, tôi chạy đến nơi có cánh đồng lúa trải rộng bất tận. Con đường duy nhất tuôn dài dưới ánh trăng sáng lấp lánh, nhưng lúc này đây tôi thấy sợ phải xa nhà dân.

“Bố ơi!” Tôi hét lên, như thể đuổi theo tiếng hét, tôi vụt chạy, rồi lại hét lên lần nữa, bỗng...

“Tìm ai đấy?” Một giọng nói ngay gần đáp lại lời tôi, “Có ở đằng trước không, đến trước mà gọi.”

Tôi đưa mắt tìm thì thấy trên đường phân luống, năm sáu người đang cong lưng ngồi. Ít nhiều yên tâm, tôi nuốt nước bọt xuống cổ họng khô khốc. Đi thêm 500 mét nữa, mọi người đang khom lưng ngồi chen chúc nhau, vây quanh một ít tài sản, dụng cụ. Họ hạ giọng như sợ lỡ miệng nói to sẽ trở thành mục tiêu nhắm bắn.

Tôi cứ ngỡ nơi đây sẽ người người nhộn nhịp như lễ hội ngoài quảng trường, nhưng bầu không khí lại yên ắng khác hẳn đám đông ồn ào ban trưa. Tôi cũng chọn một chỗ xa xa ngồi xuống, cởi giày, nhúng chân xuống nước trong ruộng, cuối cùng cũng nhớ ra Ayako.

Tôi nhớ ra, nhưng cũng biết mình không còn sức để quay lại. Tôi chạy đi mà không mang theo gì vì bị giày vò bởi mặc cảm tội lỗi chỉ biết lo cho thân mình, bỏ mặc Ayako.

Tôi tự an ủi, con bé có bánh mì khô, ở một đêm thôi không sao cả, mai trời sáng mình sẽ quay về dẫn nó đến đây, đào một cái hầm tránh bom trên đê sông Agano đằng xa để hai chị em trốn ở đó.

Mà không, hai đứa sẽ lên tàu hỏa về Tokyo, nhỡ bị thả bom nguyên tử thì ở Tokyo vẫn an toàn hơn. Tôi sẽ cõng Ayako, liếc nhìn những người đang khom lưng ngồi thụp xuống đường chia luống như ăn mày kia, nhanh chóng đi gặp bố, để bố chữa cho con bé khỏi phát ban và tiêu chảy.

Khi tôi choàng tỉnh thì trời đã sáng, có người rửa mặt ở con kênh nhỏ dùng để tưới tiêu, có phụ nữ đánh đá châm lửa, có phụ nữ đi vệ sinh dưới bóng giàn phơi lúa rẫy. Số người ở đây ít đi so với tối qua, chỉ khoảng năm, sáu mươi người. Có vẻ họ sống gần đó, về nhà chở trứng và các thứ đến, nhìn qua tựa như một chuyến đi chơi xa.

Tôi bám theo một người đàn ông có vẻ cũng trở về thành phố, bước trên con đường tối qua đã chạy tới đây. Sáng ra, tôi ít nghĩ về Ayako hơn, chỉ còn cảm giác mãnh liệt muốn quay về Tokyo một mình.

Ban ngày dãy nhà lại trông như mọi khi, không có gì thay đổi. Mặt trời đã lên từ lâu, nắng chói chang hun cháy lưng tôi. Đến Higashibori, tôi thấy có người đang đóng ván cửa ra vào, chắc lo lắng cho tài sản trong nhà, có người lại đeo bọc vải trắng. Tôi máy móc đi vào nhà kho đất qua cửa sau của tiệm vải dệt, không biết mình nghĩ gì khi đó, mà dù có gì cũng chẳng nhớ ra.

Khi tôi bước một bước vào nhà kho đất, vụt một cái cả chục bóng đen chạy tán loạn, có thứ gì màu đỏ.

Thứ màu đỏ đó là Ayako, còn bóng đen chạy tán loạn kia là chuột. Không biết mất bao lâu tôi mới hiểu ra Ayako bị chuột gặm.

Khi tỉnh lại, tôi thấy mình đang ngồi co ro dưới hầm tránh bom trong đền Shiroyama. Tiếng đài phát oang oang về trận ném bom ở Osaka, tôi chắc chẳng nghe thấy gì đâu, thế mà làn da như tiếp nhận những rung chấn ầm ầm từ nơi đó, cứ run lên bần bật.

Sáng ngày 15, lệnh sơ tán chấm dứt, thi thể của Ayako được đội dân phòng hỏa táng. Con trai tiệm vải dệt không để ý đến cái chết của con bé, nhưng anh ta ghét máu bẩn ở nhà kho nên đốt lá liễu sam mù mịt. Một con chuột nhỏ bị hun khói thò đầu ra định trốn mà không kịp, bị anh ta giẫm chết. Con chuột thổ huyết, ngửa ra nhìn trời, bầu trời trong xanh không một gợn mây thu nhỏ lại in lên mắt nó.

Ngày 16 bố đến, hỏi chuyện tỉ mỉ gia đình tiệm vải dệt.

Cả đêm bố vuốt tóc tôi vẫn đang khóc rưng rức, chẳng hỏi một lời.

“Chắc là bệnh rối loạn thần kinh của bà mẹ không còn tự tin nuôi con.” Phòng thẩm vấn tối om, viên cảnh sát hình sự kiên nhẫn chờ lời khai của Hisako. Thỉnh thoảng anh ta lại lẩm bẩm một mình, “Đến súc vật còn biết liều mình vì con, có khi cô ta điên rồi.”

Anh ta gõ chiếc bút máy xuống bàn “cộc cộc”, hớp một ngụm trà, “Thế nào, đói rồi phải không?”

Hisako vẫn bất động, chỉ thở dài một hơi.

Bố không nhắc tới, tôi cũng không giải thích gì.

Gần mười lăm năm trôi qua, tôi tự nhủ mình đã quên, nhưng làm sao quên được. Nobuko càng gần đến tuổi Ayako, tôi càng hay nhìn thấy cảnh những bóng đen chạy tán loạn khỏi cơ thể Nobuko đang ngủ, sau đó chỉ còn lại một tảng thịt đỏ nham nhở.

Tôi không thể rời Nobuko dù chỉ một giây. Hơn thế nữa, mỗi khi nhìn Nobuko, tôi lại thấy loáng thoáng gương mặt hốc hác, phủ đầy mủ và vảy của Ayako.

Nobuko khóc làm tôi nhớ đến tiếng khóc đêm của Ayako, vì đói lả mà nghe như tiếng la hét vô thanh vô sắc.

Khi bị bầy chuột bóc tách những vết sẹo trên mặt mình, không biết Ayako đã gọi ai. Bị bỏ lại ở đó, gào khóc và bị chuột tấn công, không biết nó đã cầu cứu sự giúp đỡ của ai?

Còn tôi, tôi chạy trốn một mình. Nếu tôi dẫn nó theo, chỉ hai ngày sau là chiến tranh kết thúc rồi.

Chính tôi đã giết Ayako, hãy tha thứ cho tôi. Tôi nhìn Nobuko mà lại nhìn ra Ayako hai hốc mắt bị khoét, người bê bết máu.

Tôi lấy chăn cố hết sức giấu đi, luôn miệng van nài hãy tha tội cho tôi, thế rồi...

“Lấy chăn trùm ngạt Nobuko, cô thấy thế nào? Đau khổ, hoảng loạn lắm phải không? Cảm giác ấy còn vương lại trên đôi bàn tay cô chứ? Cái cảm giác một cơ thể nhỏ bé cố gắng giãy giụa ấy? Cô thậm chí còn tự thú, tức là vẫn tỉnh táo lắm. Tại sao cô làm thế?”

“Tôi muốn biến thành chuột.”

“Chuột?”

“Tôi muốn biến thành chuột để được giẫm chết, hãy đổ xăng vào người tôi rồi thiêu chết tôi đi, như vậy, nhất định...”

Viên cảnh sát hình sự nhìn chằm chằm vào Hisako, hỏi cô vừa nói gì.

Hisako đưa một tay lên xoa tóc, nhắc lại.

“Giết t?