← Quay lại trang sách

7 - Cảm nhận

Tảo nâu của Mỹ” và “Mộ đom đóm” của Nosaka Akiyuki là những tác phẩm được giải thưởng Naoki lần thứ 58 mùa xuân năm 1968.

“Tảo nâu của Mỹ” ra mắt trên cuốn Phụ lục Văn nghệ Xuân thu số 101 (9/1967), ngay sau đó “Mộ đom đóm” được đăng tải trong cuốn Tuyển tập truyện đọc* số tháng 10/1967. Cả hai đều thu hút khá nhiều chú ý.

Phụ lục Văn nghệ Xuân thu và Tuyển tập truyện đọc là hai tạp chí đăng tiểu thuyết do Nhà xuất bản Văn nghệ Xuân thu (Bungei Shunju) phát hành.

Năm 1962, với “Người viết truyện khiêu dâm”, Nosaka đã gây ấn tượng được với một bộ phận độc giả. Tuy nhiên, phải sau năm 1966, khi tác phẩm này xuất bản thành sách riêng, ông mới được biết đến như một tiểu thuyết gia chứ không phải người viết tạp văn.

Tác phẩm “Du lịch thụ thai” (trong cuốn Tuyển tập truyện đọc số tháng 6/1967) của Nosaka được xét tuyển cho Giải Naoki lần thứ 57, nhưng rất ít thành viên ban giám khảo bỏ phiếu. Còn với “Tảo nâu của Mỹ” và “Mộ đom đóm”, phần lớn ban giám khảo nhất trí tiến cử.

Một thành viên ban giám khảo, ông Kaionji Chogoro đã đánh giá, “Cậu ấy có một tài năng kì lạ, tận dụng điểm mạnh của phương ngữ Osaka để múa lưỡi một cách tự do nhưng không rườm rà. Mọi chi tiết đều được tính toán kĩ, chỉ có thể nói là rất ấn tượng. Mặc dù tôi không thích chất liệu cậu ấy dùng để viết tác phẩm ‘Tảo nâu của Mỹ’ nhưng cách miêu tả trong đây chẳng hề gây phản cảm, không khí truyện quái dị khiến người ta bật cười, tôi thực sự ngả mũ. Còn ‘Mộ đom đóm’ có kết thúc đậm chất Minh Trị*, phong cách quá cũ nên tôi không cảm nhận được, nhưng tác phẩm mang yếu tố tự truyện có lẽ phải như vậy.”

Thời Minh Trị kết thúc năm 1912, ngụ ý cấu tứ, bố cục tác phẩm không được hợp thời, có thể gây khó đọc.

Sau khi tác phẩm đoạt giải, ông Osaragi Jiro cũng đánh giá, “Nosaka Akiyuki viết truyện diễn giải tỉ mỉ nên rất sống động, tôi thấy khâm phục khi cậu ấy có thể kiên trì với phong cách này. Cách viết hoa mỹ ẩn chứa những nếp gấp hiện thực trần trụi, không hề lảng tránh sự tàn khốc hay ghê tởm.”

Bản thân Nosaka Akiyuki cũng phát biểu cảm tưởng sau khi nhận giải, “Không phải tôi tự tin hay gì, mà chỉ là yên tâm. Đứng trên sân khấu trang trọng này, tôi không quá lúng túng hay căng thẳng, chỉ cảm thấy thực sự phấn khởi khi đoạt giải.”

Cả hai truyện đều được xây dựng dựa trên những trải nghiệm của ông, một người thuộc thế hệ đổ nát và chợ đen*.

Từ được dùng để nói về thế hệ thiếu niên sống trong thời kì Thế chiến thứ Hai.

Đặc biệt, “Mộ đom đóm” là trải nghiệm thực sự của ông, có lẽ vì vậy mà tôi có cảm giác ông đã bộc lộ bằng hết những điều cần viết.

Truyện “Tảo nâu của Mỹ” xoay quanh những hồi tưởng tâm lý hỗn loạn của người chủ công ty sản xuất phim quảng cáo, khi vợ chồng già người Mỹ đã về hưu mà vợ anh ta quen được trong chuyến du lịch Mỹ trước đó đến chơi nhà. Trong sâu thẳm tiềm thức, anh ta mang một mặc cảm tự ti đối với quân chiếm đóng sau khi Nhật Bản thua trận. Tác phẩm mô tả nỗi sợ hãi và sự tủi nhục của anh ta khi phải trộm đồ tiếp tế cho tù binh Mỹ để thỏa mãn cơn đói nhất thời, đan xen với những kí ức như ăn thử hồng trà mà tưởng là “tảo nâu của Mỹ”, tạo nên sự trùng hợp mang tính tượng trưng giữa thời điểm sau khi thua trận và thời điểm hai mươi hai năm sau đó. Có thể cho rằng tâm trạng của nhân vật chính Toshio trong truyện cũng chính là suy nghĩ của tác giả ở thời điểm hai mươi hai năm sau.

“Mộ đom đóm” là truyện ngắn với văn phong đặc sắc, viết về cuộc đời trước khi chết của Seita, một đứa trẻ lang thang qua đời do suy dinh dưỡng vào ngày 21 tháng Chín năm 1945, trong nhà ga Sannomiya thuộc tuyến đường sắt quốc gia, và em gái Setsuko. Seita, một học sinh lớp Chín, rời xa người mẹ đau ốm, cõng em gái trên lưng chạy đi lánh nạn. Khi gặp lại cũng là lúc mẹ của hai anh em bị bỏng nặng và hấp hối vì lửa bom. Sau khi mẹ mất, hai anh em nương nhờ nhà người họ hàng xa nhưng bị mọi người trong nhà lạnh nhạt, liền rời đến trú trong hang tránh bom gần đấy. Ở cái hang đó, cậu cùng đứa em gái nhỏ bắt đom đóm bỏ vào màn thay đèn, chật vật sống qua ngày. Tuy nhiên Setsuko ngày càng gầy yếu, cuối cùng ra đi. Seita đặt thi thể của em gái vào giỏ mây, rắc vỏ đậu tương và xếp cành cây khô lên để hỏa thiêu. Khi ngọn lửa bùng lên, vô vàn đom đóm theo đàn bay đến xung quanh, Seita đã nghĩ rằng Setsuko sẽ cùng chúng bay lên thiên đường.

Đây là tác phẩm đặc biệt gây ấn tượng trong số các tác phẩm của Nosaka Akiyuki, có thế nói là xuất phát điểm văn học của ông.

Truyện bắt đầu với hình ảnh cậu bé Seita nằm chết trong nhà ga. Một nhân viên ở đây tìm thấy hộp kẹo nơi đai quấn bụng của cậu và ném đi. Từ trong hộp, những mẩu xương nhỏ lăn ra, đó là hài cốt của em gái Seita. Tiếp theo, câu chuyện quay ngược trở về trận ném bom quy mô lớn ở Kobe, và lần lượt kể lại những sự kiện trước đó theo trật tự thời gian. Cấu trúc truyện đảo từ cuối lên nhưng lại vô cùng tự nhiên, tác giả tận dụng phương ngữ Osaka độc đáo, trình bày theo phong cách hoạt ngôn, làm sống lại bầu không khí đương thời.

Nosaka Akiyuki học lớp Chín khi Kobe xảy ra trận ném bom quy mô lớn. Bấy giờ, ông đang theo học trường Cấp hai Kobe 1 cấp thành phố.

Mùng 5 tháng Sáu nhà bị cháy, ba ngày sau ông phải đến nương nhờ nhà người họ hàng xa ở Manchitani, Nishinomiya. Ông đào trong đống đổ nát những thứ đã chôn ngoài vườn như thức ăn, rượu, quần áo, rồi mượn xe bò kéo đi, mồ hôi nhễ nhại. Đến đê Shukugawa thì trời đã tối, bên cạnh có con sông nhỏ chảy róc rách, trông thấy đàn đom đóm đông đúc bay quanh, ông mới thực sự cảm thấy mình đang sống.

Ông hồi tưởng, “Tôi đã không thể thay mẹ hay bố chăm đứa em gái mới một năm bốn tháng tuổi. Thực sự, tôi chẳng biết làm gì hơn ngoài thả những con đom đóm vào trong màn dỗ dành đứa em còn chưa biết gì. Đêm khuya, khi nó khóc, tôi cõng nó ra ngoài hóng gió đêm, những nốt ban, vết chấy cắn nổi lốm đốm trên da nó, tôi lấy nước biển rửa sạch.”

Về sau, em gái Nosaka mất do suy dinh dưỡng, nhưng ông từng nói, “Đến tận bây giờ tôi vẫn ước gì mình đã đối tốt với em như người anh trong truyện ‘Mộ đom đóm’. Tôi chưa nguôi ân hận sâu sắc trước cái chết thê thảm của em. Nhưng ít nhất, tôi đã gửi gắm được những cảm xúc đó vào cậu bé Seita trong truyện. Tôi không tận tụy được như cậu ấy.”

Thành ra, “Mộ đom đóm” không khác nào lời cầu siêu cho cô em gái đã khuất của Nosaka.

Tất nhiên, ông cũng có những lãng mạn thơ ngây ở độ tuổi của mình, có vẻ ông dành niềm yêu mến thầm kín cho cô con gái chỗ ông ở nhờ.

Nói chung, người ta hiểu được rằng “Mộ đom đóm” gắn bó chặt chẽ với giai đoạn nào đó trong quá trình trưởng thành của tác giả.

Nosaka sinh năm 1930. Một năm sau đó xảy ra Sự kiện Mãn Châu*. Năm ông vào tiểu học xảy ra sự kiện Lư Câu Kiều*, đến khi ông học cấp hai thì chiến tranh Thái Bình Dương kết thúc.

Còn gọi là Sự kiện Phụng Thiên, nổ ra ngày 18/9/1931. Người Nhật đặt thuốc nổ đường ray xe lửa của mình, rồi đổ cho người Trung Quốc làm, và mượn cớ này kéo quân đánh chiếm Mãn Châu.

Xảy ra ngày 7/7/1937. Quân đội Nhật tập trận đêm không theo thỏa thuận phía Tây cầu Lư Câu, gần Bắc Kinh. Trung Quốc tưởng bị tấn công bèn kéo quân phản kích. Từ đây mở màn chiến tranh Trung-Nhật.

Nếu chào đời sớm hơn một chút, có lẽ ông đã hi sinh vẻ vang như một chiến sĩ đặc công. Chào đời muộn hơn một chút, có lẽ ông đã về quê theo học trường tiểu học sơ tán và trải nghiệm thực tế chiến tranh thông qua nạn đói. Nhưng thế hệ của ông như một vùng sụt lún giữa thời chiến và thời hậu chiến, không xếp được vào bên nào, là thế hệ tận mắt chứng kiến và cảm nhận sự sụp đổ của những tôn ti trật tự đã tồn tại trước đó.

Đây là thế hệ phải sống nhục vì trôi nổi trong thời kì chuyển giao hỗn loạn. Bấy giờ những tư tưởng thâm căn cố đế như cả thế giới quy về một nhà, quyết tử cho tổ quốc quyết sinh bỗng nhiên biến mất, thay vào đấy là sự xuất hiện của chủ nghĩa dân chủ, hiến pháp hòa bình*. Cảm giác trống rỗng như thể sinh ra từ giả dối và kết thúc cũng phải quay về với giả dối, đây chính là thực trạng bất hạnh vây bủa thế hệ này.

Hiến pháp Nhật Bản ngày nay, được soạn thảo trong thời kì Nhật Bản bị quân Mỹ chiếm đóng sau Thế chiến thứ hai, nổi tiếng với nhiều điều luật coi trọng hòa bình.

Nosaka gặp nạn ở Kobe, mất bố mẹ nuôi và sống cuộc sống của một đứa trẻ lang thang. Có thể nói, ông đã nếm đủ trái đắng của thế hệ đổ nát và chợ đen. Cách sống bất cần đời của ông không hề thay đổi từ thời học đại học phải bươn trải nhiều nghề đến khi làm nhạc sĩ viết ca từ cho bài hát quảng cáo, rồi trở thành một tay ăn chơi đeo kính đen, một ca sĩ được yêu mến xuất thân từ văn đàn, thậm chí là võ sĩ kickboxing nhiệt huyết.

Nosaka Akiyuki từng viết, ở một khía cạnh nào đó, ông cảm thấy gần gũi với Kanbe no Nagakichi*, nhân vật sống nhục sau trận quyết đấu trên núi Kojin. Đó phải chăng là suy nghĩ chung của thế hệ sống tại lằn ranh giữa thời chiến và thời hậu chiến? Họ sợ phải sống, vì càng sống càng thấy tội lỗi.

(1814-1880) Một tay anh chị ở Nhật Bản thời xưa, trong trận chiến tranh giành địa bàn trên núi Kojin đã mất thủ hạ thân thuộc, sau đó lui về sống ẩn dật.

Thế nhưng, ông không khẳng định điều đó một cách rõ ràng. Ngược lại, cái lôi cuốn trong văn chương của ông là cố gắng miêu tả đúng với bản chất để rồi khám phá, thay vì khái quát hóa vấn đề. Cách viết hài hước, đặc sắc và lối kể chuyện hoạt ngôn đã thấm nhuần trong ông.

Bài diễn văn nhận giải của ông có đoạn:

“Nếu được định nghĩa về mình, có lẽ tôi nên tự gọi bản thân là kẻ chạy trốn khỏi thế hệ đổ nát và chợ đen. Hứng chịu trận không kích, dần dần mất đi người thân trong bom đạn và hỗn loạn, còn lại một thân một mình. Tôi quay về phía ngôi nhà đang bốc cháy, chỉ gọi được một câu bố ơi mẹ ơi rồi chạy một mạch lên núi Rokko, cảm giác tội lỗi ấy đến giờ vẫn còn. Không lâu sau, tôi phải vào trại giáo dưỡng trẻ vị thành niên. Trong số những thiếu niên chết dần vì đói và lạnh, chỉ có tôi, như nhân vật chính trong một câu chuyện cổ tích, may mắn được trở lại cuộc sống gia đình. Nhưng ngay cả lúc ấy, tôi vẫn một mình trốn tránh, chạy đi không hề ngoảnh lại. Có lẽ tôi đã quá dễ dãi với bản thân, nhưng đúng là tôi thấy tội lỗi. Tôi luôn chạy trốn.”

Những lời trên cũng được cho là tuyên ngôn của cà thế hệ đổ nát và chợ đen. Tuy tự nhận là trốn chạy, nhưng Nosaka liên tục quay lại bối cảnh đổ nát và chợ đen đó thông qua việc sáng tác.

Có lẽ nét đặc sắc trong văn chương ông nằm ở chỗ ông không than khóc vì mất người thân hay quá khứ đã qua, mà tập hợp tất cả các sự kiện từng nếm trải bằng giọng văn không chút gò bó.

Nhũng trải nghiệm ấy có lẽ quá lớn lao để khái quát và phân tích được. Chính vì vậy, Nosaka coi viết văn là cách duy nhất để giãi bày, điều này thể hiện rõ trong từng câu nói của ông.

Do giới hạn số trang nên tôi chưa có điều kiện đề cập đến các tác phẩm khác, nhưng có thể nói tác phẩm nào của Nosaka cũng toát lên tư tưởng ấy.

Ozaki Hotsuki

Nhà phê bình văn học

12/1971