Chương I
Hồng Phát là một nhà in cỡ lớn ở Sài gòn. Cái tiếng lớn ở đây không phải ở chỗ nhà in có nhiều máy móc tân kỳ, hiện đại hóa nhưng là lớn theo ý nghĩa bề rộng, số nhân viên đông đảo, và số lượng ấn loát hàng ngày thật dồi dào của nó. Máy móc được sử dụng ở đây thuộc đủ loại, đủ mọi thế hệ. Cũ nhất là máy chạy bằng bản đúc chì. Cái lò nấu chì lúc nào cũng đỏ rực tuôn ra mù mịt một lớp khói đặc sệt đượm mùi khét của mực, của chì, của bột khuôn hay giấy cháy xém. Thứ đến là loại máy chạy bằng những trang chữ được xếp lại từ những mảnh chữ rời. Rồi đến loại tối tân nhất là loại máy chạy bằng bản kẽm lớn, có bộ phận hút giấy lên tự động. Tổng cộng tất cả các loại máy in từ lớn đến nhỏ cũng phải ngót nghét ba chục cái. Chúng không được xếp vào một khu vực riêng rẽ theo đúng lề lối tổ chức theo khoa học, nhưng lại nằm rải rác ở nhiều nơi. Lý do dễ hiểu là cả cái cơ xưởng này lúc đầu kiến trúc không phải để dành cho ngành in. Thoạt tiên nó là một tiệm chạp phô có mặt tiền cửa sắt trông ra đường phố, cửa tiệm tuy hẹp bề ngang nhưng dài và sâu hun hút, bên trong vừa là chỗ ở vừa là kho chứa đủ loại đồ hàng. Lúc khởi sự làm nhà in, ông Hồng Phát trang bị một số máy móc vừa đủ cho diện tích của một căn tiệm như thế. Về sau phát triển thêm, ông mua căn bên cạnh nữa, căn nữa, cuối cùng tuy nó là một cơ sở in có vẻ bề thế bên ngoài, nhưng bên trong là cả một sự bề bộn luộm thuộm. Kho giấy chỉ là những khoảng trống đặt vừa những cái kệ gỗ ở trên xếp đầy những ram giấy từ mặt đất lên đến tận trần nhà. Phòng rửa phim, tráng kẽm thì đặt ngay cạnh bể nước, quanh năm sàn xi măng ướt nhẹp với những bàn chải, vòi nước, các lọ hóa chất, các thùng kẽm, các dây phơi trông ngổn ngang mất trật tự như một cái nhà giặt công cộng. Chỉ riêng có khu vực xếp chữ là được tập trung ở riêng một nơi, trong một căn phòng dài như một cái hộp, chật chội, nóng bức không có lấy một cái quạt dù chỉ là quạt trần.
Lúc đó mọi sinh hoạt trong phòng xếp chữ vẫn đang tiếp tục một cách bình thường. Nắng gần xế trưa bắt đầu hắt xuống một cách oi ả từ mái trần thấp. Kệ gỗ xếp chữ của Toàn đặt ở chính giữa gian phòng nên đứng ở đó Toàn có thể nhìn thấy hết mọi quang cảnh chung quanh. Những công nhân xếp chữ đi lại lố nhố. Mọi người cử động như những cái máy và chẳng ai buồn mở miệng cất nên lời. Toàn chỉ nghe thấy những mảnh chữ chỉ kêu lách tách khi được bàn tay những cô thợ trẻ xếp thoăn thoắt vào những cái «galet» gỗ. Thỉnh thoảng tiếng hộc chữ được kéo ra những âm thanh nghe vừa khô khan, vừa nặng nề. Lâu lâu lại có tiếng người nào đó cất giọng húng hắng ho. Đã lâu lắm rồi ở đây vắng bặt tiếng cười đùa, nô rỡn, nghĩa là kể từ khi Chi Đoàn Thanh Niên phát động chiến dịch «chấn chỉnh tác phong làm việc của công nhân», một trong những mục tiêu hàng đầu của kế hoạch công tác ngay từ buổi đầu Chi Đoàn mới thành lập.
Nguyệt thuộc bên phòng «montage» vắng bóng hơn ba tháng trời, bỗng nhiên xuất hiện trở lại với danh nghĩa Bí Thư Chi Đoàn. Điều này khiến ai cũng sửng sốt, ngạc nhiên và nhìn Nguyệt với đôi mắt e dè. Nàng làm ra gọn ghẽ, nhanh nhẹn như mọi ngày nhưng vẫn không dấu được vẻ mệt mỏi. Chỉ có đôi mắt của nàng là có nhiều thay đổi. Toàn có cảm giác như nó sắc hơn trước, lạnh lùng hơn trước và đôi khi có vẻ dữ dằn. Hôm triệu tập phiên họp đầu tiên chỉ có thành phần công nhân trẻ được tham dự, Nguyệt ngồi xếp xuống đất ngay trước một cái bàn thấp. Chung quanh nàng đám công nhân cũng lố nhố ngồi trên sàn gạch, chen chúc vòng trong vòng ngoài. Toàn cũng có mặt trong buổi họp đó, nhưng ngồi thật xa. Chàng cố quan sát những nét thay đổi của người bạn gái sau một thời gian vắng bóng, nhưng chàng chẳng nhận thức được gì ngoài cái cảm giác chua xót, tê dại khi thấy những kỷ niệm êm đềm ngày xưa giữa chàng và Nguyệt như đang bị dìm trong một cơn mê rối, hỗn loạn. Nguyệt nói năng hết sức lưu loát, không phải cái lưu loát của một kẻ đã chỉ thuộc bài lâu lâu mà còn nắm vững vấn đề, biết phân tích, đối chiếu, biết gợi lên những thí dụ cụ thể, và trên hết cả là sự duyên dáng biết điểm vào câu chuyện những nụ cười, những ánh mắt, những cung cách ngắt câu, những lúc đổi giọng, và những cử chỉ phụ thuộc khác nữa, tất cả đã làm đám công nhân trẻ chỉ biết trố mắt ra nhìn, nhiều kẻ còn giở sổ tay ra hí hoáy ghi chép để chứng tỏ một thiện chí tối đa trong các giờ sinh hoạt.
Riêng Toàn thì không bao giờ có thể nhớ nổi Nguyệt đã thao thao những gì trong một buổi họp kéo dài ba giờ đồng hồ như thế. Chàng chỉ có cảm giác như tâm hồn của mình luôn luôn bị quằn quại dưới những âm thanh sắc, gọn, kéo dài tưởng như bất tận, chẳng khác gì chàng đang phải chịu đựng một trận mưa rơi. Đã có lúc chàng thấy mình bị ngộp thở đến độ có thể gục xuống mãi mãi ở đó. Chàng cố đưa cái cổ của mình lên cao hơn nữa để với tới gần khuôn cửa sổ nhỏ hẹp, nhìn qua bên kia là một con hẻm nhỏ. Con hẻm bây giờ không còn những âm thanh ồn ào quen thuộc như ngày xưa. Mọi sự ở đây đã thay đổi hết, thay đổi toàn diện như tất cả đã vừa trải qua một cơn lốc phũ phàng, khốc liệt. Chỉ trừ những kẻ đã ra đi, một thiểu số hiếm hoi, như khi cánh cửa bẫy vừa sập xuống thì chỉ có một vài con chim còn ở bên ngoài hốt hoảng vụt cất cánh bay lên trời cao, còn bao nhiêu lọt vào vòng kiểm tỏa hết. Số phận của những người có may mắn vượt thoát được sẽ ra sao, Toàn không thể hình dung được, nhưng chẳng cần mường tượng chàng cũng đã thấy nó khác biệt ra sao đối với những con người còn ở lại như chàng. Hai chữ tự do mặc dù đã nghe, đã nói, đã nhắc nhở hàng mấy chục năm trời, nhưng bây giờ nó mới thực sự thấm thía đối với chàng. Dĩ nhiên là chàng hối tiếc. Hôm gặp Trí hớt hải phóng xe gắn máy trên đường Công Lý, nó cố gắng quanh xe lại vừa thở vừa nói:
– Mày đi không? Cơ hội cuối cùng!
Toàn nghĩ ngay tới Nguyệt, và buổi gặp gỡ với Nguyệt hồi sáng. Nàng đã cho Toàn biết là gia đình nàng không đi vì ba mẹ của nàng không muốn xa Sài Gòn. Rồi Nguyệt nhìn Toàn với một cái nhìn đầy ý nghĩa và nhoẻn miệng cười:
– Còn anh, anh đi không?
Dĩ nhiên là Toàn lắc đầu. Chàng còn muốn nói thêm một câu nữa, đó là «ở đâu có em thì ở đó có anh», nhưng trong bầu không khí chán chường của cơn sụp đổ toàn diện, Toàn không thấy tha thiết nói gì thêm, ngay cả một câu tỏ tình. Sau đó, Toàn chào Nguyệt rồi vội vã bỏ về. Biến cố sụp đổ Sài Gòn ùa đến nhanh chóng quá làm chàng tê liệt hết mọi cảm nghĩ. Chàng đã tìm tới Vinh, một người bạn thân để khóc vùi với nó. Bây giờ gặp Trí ở giữa đường, Toàn chỉ nắm lấy tay nó và nói:
– Thôi, chúc mày nhiều may mắn.
Trí không còn kịp suy nghĩ gì hơn, quầy quả phóng xe chạy tiếp. Bây giờ nó đang ở Mỹ và Toàn thì đang ở đây, trong căn phòng ngập ngụa mùi mồ hôi, mùi hơi người và mùi thuốc lá khét lẹt. Ở phía trước mặt, Nguyệt vẫn tiếp tục nói. Hình như nàng đang phân tích về những thủ đoạn bóc lột công nhân của giới chủ tư sản khởi đi từ sự đề cao tuyệt đối vai trò của lao động làm ra của cải vật chất. Những của cải vật chất đó, phần vào tay công nhân thì hết sức hạn hẹp, nó không đủ để tạo cho công nhân một chỗ làm thoải mái, an toàn lao động và bảo hiểm tối thiểu cho những khi ốm đau tật bệnh. Còn cái thặng dư đó, nó đã biến thành những nhà lầu, những xe hơi, những vòng vàng, những chiếc nhẫn hột soàn trên tay những bà chủ chỉ biết ăn không ngồi rồi, đi mua sắm và đánh bạc. Nguyệt thao thao nói bằng cả nhiệt tình hàng hải của mình. Nói cho ngay, những điều mà Nguyệt vừa nói ra không phải là những sự kiện bịa đặt. Nó hiển nhiên ngay trong quang cảnh lụp sụp, tối tăm, hỗn độn ở cái nhà in này. Bác Định già suốt đời hút mùi khói chỉ ở lò đúc mà không có lấy một dụng cụ bảo vệ lao động. Những người làm việc ở khu lò đúc luôn luôn được nghe thấy tiếng bác húng hắng ho. Tiếng ho ấy ai mới nghe lần đầu thì cảm thấy lấn cấn, khó chịu nhưng riết rồi cũng quen đi như tiếng xành xạch của máy chạy, như tiếng vòi nước tuôn xối xả trong phòng rửa kẽm, như tiếng đạo bàn xén giấy chạy sầm sầm từ trên cao đổ xuống cắt ngọt lịm những chồng giấy, chồng sách cao ngất ngưởng. Trong nhà in không có lấy được một tủ thuốc. Người công nhân hôm nào ốm đau bệnh tật thì phải nghỉ và tự lo liệu lấy, không được trả lương. Và dĩ nhiên ở những hãng xưởng tư, không hề có chế độ hưu dưỡng lúc tuổi già. Một vài dữ kiện kể trên dĩ nhiên là không thể diễn tả hết đời sống tối tăm, không có gì bảo đảm cho tương lai của mỗi công nhân. Nhưng hầu như chưa có ai ở đây đặt những chi tiết ấy trở thành những vấn đề. Mọi sự cứ thế diễn tiến trong nhiều năm qua, như một sự kiện đương nhiên, như số kiếp những kẻ nghèo khổ vốn đã là như thế, trong khi ông Hồng Phát đã giàu lại giầu thêm, xưởng in của ông đã bành trướng lại bành trướng thêm. Toàn đã nhận thấy điều đó, nhưng lòng chàng vẫn ấm ức một điều, phải chi những lời tố cáo ấy phát xuất từ cửa miệng một anh công nhân, một chị cán bộ, có lẽ Toàn dễ chấp nhận hơn là từ một thiếu nữ Sài gòn, gốc «ngụy» một trăm phần trăm như Nguyệt. Đối với chàng điều đó có vẻ trái khoáy. Nó giống như
Nguyệt đang chường ra trước mặt chàng chân dung của một kẻ phản bội. Xã hội miền Nam đã cưng chiều, nuôi dưỡng nàng trong ngần ấy năm không phải để cho nàng nói lên những lời tố cáo khốc liệt đến như thế.
Những buổi họp tương tự thường kéo dài từ ba đến bốn giờ. Do đó bao giờ khi tan họp thì trời cũng đã tối hẳn. Đám công nhân trẻ ùa ra khỏi phòng cười nói ồn ào như học trò vừa tan khỏi một lớp học. Dư âm của mỗi buổi họp vẫn còn gây xôn xao ở nhóm này, nhóm kia, tụm năm tụm ba ở dọc hè phố hay chỗ để xe của công nhân. Riêng Nguyệt thì chẳng bao giờ ra về cùng một lượt với mọi người. Nàng còn bận bịu thảo luận thêm với một nhóm nhỏ cốt cán, thu hẹp trong vòng năm ba người. Nhiều khi nàng ra về thì phố xá đã vắng tanh. Có hôm nàng ngủ lại ở ngay trong nhà in, trên những đống giấy chất cao. Nàng có tác phong của một cán bộ thực thụ.
Những cố gắng của nàng đã đem lại ở đây nhiều sự thay đổi thấy rõ. Phòng ốc được tổng vệ sinh trong hai chủ nhật liền với sự tham dự của tất cả mọi công nhân. Hình ảnh, cờ quạt, khẩu hiệu được treo la liệt khắp mọi chỗ. «ĐÂU CẦN THANH NIÊN CÓ, ĐÂU KHÓ CÓ
THANH NIÊN», chính cái khẩu hiệu này Toàn đã được giao nhiệm vụ đem đóng nó trên tường. Nền trắng, chữ đỏ, kẻ bằng sơn bóng. Ánh nắng ở những lỗ thông hơi trên trần nhà hắt xuống làm Toàn thấy chói mắt mỗi khi ngước lên nhìn. Đối với Toàn, tất cả những thứ đó chỉ làm cho chàng thêm mệt mỏi suy sụp. Chàng thèm nghe một giọng hát nghêu ngao, một tiếng cười rúc rích, ngay cả một câu văng tục vì những chuyện cãi vã không đâu về một cảnh trên đài truyền hình tối hôm trước, về một phim đang chiếu ở Sài Gòn hay một cuộc đi chơi ngày chủ nhật mà dư âm của nó còn kéo dài tới cả tuần sau. Những thứ ấy đã lui vào dĩ vãng tưởng như hết sức xa xăm. Bây giờ, đến ngay như loại lém lỉnh, xí xọn nhất như Ngọc, như Hà, như Thủy cũng bỗng nhiên trở thành câm nín như một lũ hến. Trông căn phòng này, ai bước vô cũng chỉ còn nghe thấy những tiếng mảnh chữ kêu rào rào lúc chúng được bốc từ học xếp chữ vào những cái galet gỗ cầm ở tay, tiếng những thanh filet chì bị chặt theo đúng ni tấc nghe sắc và gọn từ một cái máy nhỏ để ở góc phòng và lâu lâu mới nghe thấy tiếng hỏi han về công việc của bác Phong, người chef typo già làm việc như một cái bóng ở phía bàn mise.
Chỉ có lúc Nguyệt bước vào phòng là sự im lặng lúc đó mới được phá vỡ. Nàng vẫn có giọng nói ồn ào, sôi nổi và tiếng cười ròn rã ngày nào. Nhưng bây giờ nàng đã ở một vị thế khác. Như một kẻ vừa rời khỏi một tập thể quen thuộc để bước qua một lằn ranh.
Tại chỗ đứng mới này, nàng có quyền ra những mệnh lệnh mà chẳng ai dám bàn cãi hay muốn bàn cãi, cho dù Nguyệt đã sử dụng giọng nói ngọt ngào để diễn tả ý muốn của mình một cách vồn vã, thân thiện:
– Cái biểu ngữ này còn thấp quá phải không bà con.
Thôi đề nghị anh Thanh với chị Hà sửa lại giùm đi.
Rồi Nguyệt tiến lại phía Toàn một cách làm ra vẻ tự nhiên. Nàng ngó lên trang sách mà Toàn đang gắn ở trước mặt để xếp chữ. Cuốn sách đầy rẫy những ký hiệu toán học nhức mắt. Nguyệt bông đùa:
– Cẩn thận nghe anh Toàn. Anh mà lộn, bên dàn montage tụi tôi phải cắt dán ná thở đó.
Toàn không ngừng đầu lên. Chàng thấy rõ một nỗi chua xót đang tràn ngập trong lòng. Bấy lâu nay, em chỉ có ngần ấy điều để nói với anh sao? Mà Toàn cũng đâu chờ đợi gì ở nàng một câu nói. Chỉ nhìn ánh mắt của nàng là đủ. Nó không còn là ánh mắt trìu mến dành riêng cho chàng mỗi lần gặp chàng dù ở ngay giữa đám đông. Tình cảm riêng tư hầu như đã chấm dứt. Nàng không bầy tỏ một cử chỉ nào dù chỉ thoáng qua để tạo cho chàng một sự yên ổn, một cảm giác êm dịu như một luồng gió mát thoảng qua. Không. Từ lâu lắm rồi Toàn không còn tìm được ở nàng bất cứ một dấu hiệu tình cảm nào. Nàng đã hoàn toàn lột xác, thản nhiên, tàn nhẫn như nàng mới chỉ vừa thay xong một lớp áo ngoài.
Bây giờ thì Nguyệt đã bước tới dàn của mấy cô đang ngồi xếp những trang tiểu thuyết. Nàng reo lên:
– A! Đã xếp chữ đến cuốn «Thép đã tôi thế đấy» rồi hả. Cuốn này là sách gối đầu giường của thanh niên Liên Xô đấy.
Giọng nói của nàng lọt thỏm vào khoảng im lặng mênh mông. Những kẻ không ưa Nguyệt thì cúi thấp hơn nữa trên những trang chữ. Những kẻ muốn lấy điểm với nàng thì ngước nhìn lên với ánh mắt làm như tươi cười. Nhưng không ai nói lên điều gì cả vì tất cả đều lúng túng, ngượng nghịu khi phải phát biểu những điều ca tụng hay vuốt đuôi về những sự kiện hoàn toàn xa lạ đối với họ. Sự im lặng này cứ kéo dài mãi ra khiến cho bầu không khí mỗi lúc một mang thêm vẻ ngột ngạt, trơ trẽn. Nguyệt cũng thấy rõ điều đó nên chỉ sau một lúc cố gắng gây ồn ào, tạo vẻ thân mật, nàng cũng vội vã bỏ đi. Mái tóc dầy, óng ả buông lơi trên tấm lưng thon nhỏ. Nguyệt vẫn đẹp như bao giờ. Vẻ đẹp tuy đã dấu diếm trong chiếc áo bà ba giản dị, nhưng chính cung cách ăn mặc này, nó lại làm cho nước da của nàng trở nên trắng hơn, hai bờ vai tròn trĩnh và bộ ngực như căng hơn sau lớp áo phin mỏng.
Tuy ăn lương bên dàn montage, nhưng Nguyệt dành tất cả thì giờ cho công tác tổ chức. Hôm tốt nghiệp khóa học cấp tốc ở Thành Đoàn Thanh Niên về, nàng trao cho ông Hồng Phát một mảnh giấy giới thiệu nhỏ. Chẳng ai biết được mảnh giấy chứa đựng những gì trong đó, nhưng ông Hồng Phát đã vội vã ra lệnh cho công nhân quét dọn căn phòng làm việc của chính ông để chuẩn bị bàn giao cho nàng. Nhưng Nguyệt cương quyết từ chối ơn huệ đó. Nàng tươi cười:
– Chỗ làm việc của bác xin bác cứ tiếp tục sử dụng.
Cháu chỉ xin một cái bàn nhỏ thôi đủ rồi.
Sau đó nàng tự ý kê dọn chỗ làm việc của mình, gồm một cái bàn gỗ nhỏ có nhiều ô kéo, một cái ghế đẩu xinh xinh tất cả kê vừa đúng cái khoảng trống ở chân cầu thang lối lên một căn gác xép dùng làm kho chứa hình ảnh, bản kẽm và phim chụp đã dùng rồi. Hàng ngày đi làm, Nguyệt sử dụng chiếc xe đạp mà nàng vẫn dùng khi còn là sinh viên ở Văn Khoa. Chỉ có chiếc cặp táp bằng da có khóa đồng sáng loáng khi trước thì đã được thay thế bằng một cái túi vải đeo vai màu xanh đậm. Mọi hồ sơ, giấy tờ, tài liệu học tập, Nguyệt đều nhét vô cái túi đó, cộng thêm một cái lon guigoz chứa đầy thức ăn trưa mà hầu như công nhân nào ở đây cũng đều chuẩn bị bữa trưa như thế. Nói chung lại, mọi thứ ở Nguyệt đều giản dị, đơn sơ mặc dù trong cái đơn sơ và giản dị ấy vẫn hàm chứa một vẻ thanh cao, kiêu kỳ ở khuôn mặt thanh tú của nàng, ở mái tóc mây bồng bềnh của nàng, ở đôi môi chín mọng, không phấn son mà vẫn đỏ ủng như hoa đào nổi bật trên làm da mịn màng, trắng muốt.
Ngồi ở chỗ làm việc, nàng có thể kín đáo quan sát được một phần lớn sinh hoạt ở nhà in: phía bên phải của nàng là văn phòng của ông Hồng Phát, cạnh đó là khu bàn giấy của các nhân viên văn phòng. Phía bên trái của nàng là dàn xếp chữ dàn montage và những kệ giấy cao ngất ngưởng. Bên kia những kệ giấy là những cái máy in chạy với tiếng xành xạch của máy cũ, tiếng ù ù của máy mới, tiếng sầm sập của những máy in rập kiểu cổ, tất cả tạo thành những âm thanh ầm ĩ huyên náo tối ngày, sáng đêm.
Kể từ ngày nhà in hoạt động trở lại khoảng hai tháng sau ngày 30 tháng 4, ông Hồng Phát lúc nào cũng có thái độ của một con mèo bị bẹp tai. Ông bãi bỏ hẳn những buổi dẫn lũ lượt vợ chồng con cái đi ăn điểm tâm buổi sáng ở ngoài tiệm. Ông cũng không dám sắm cho mình một chiếc xe Honda mới để thay thế cho chiếc xe hơi bóng lộn giờ này đang nằm phủ bụi trong garage. Mỗi lần phải chạy công việc, ông chỉ sử dụng chiếc mobylette cũ kỹ mà lúc nổ máy, ông phải dựng nó lên, còng lưng đạp sợi dây xích đến năm bẩy vòng. Mỗi lúc như thế, mặt của ông đỏ rần, mồ hôi vã ra đầm địa trên vai áo, cái bụng phì nộn của ông như muốn thắt lại, nó làm cho ông có cái cảm giác đau đớn như bị ai bóp ở chính giữa khúc ruột. Tình cảnh ấy làm ông muốn phát khóc nhưng ông lại phải cố nở một nụ cười. Cái cười nửa chừng, nửa đoạn ấy nó làm cho hai bên má của ông rúm lại, vành môi trở nên méo sẹo đi. Ông cũng biết nó là vô duyên nhưng đâu có cách nào hơn. Ông tự nghĩ cách mạng đã về rồi, nhăn nhó, than phiền là có thái độ chống phá. Cái dĩ vãng giàu có của ông luôn luôn ám ảnh ông và bắt ông phải chịu đựng ngay cả những cái mà nhiều người khác không thấy cần phải đặt thành vấn đề.
Ở trong nhà in, mọi công việc bây giờ gần như đều có bàn tay của Nguyệt nhúng vào. Nhiều lúc bận rộn, nàng không muốn thế, nhưng bao giờ ông Hồng Phát cũng đẩy việc qua phía nàng:
– Cái này phải hỏi ý kiến cô Nguyệt.
– Cái này phải được cô Nguyệt thông qua.
Bề ngoài thì Nguyệt cứ làm bộ dẫy nẩy lên, nhưng bên trong nàng không khỏi che dấu được sự thỏa mãn, vừa trên phương diện quyền hành, vừa trên phương diện nhiệm vụ. Hôm chia tay ở Thành Đoàn, Vũ đã ân cần dặn Nguyệt:
– Cô phải tranh thủ thấu triệt mọi cơ cấu điều hành ở nhà in Hồng Phát, càng đi sâu được chi tiết chừng nào tốt chừng đó, rồi từng bước giành lấy quyền chủ động trong mọi khâu quản lý, sản xuất và phân phối. Bên cạnh đó là phải nắm vững tình hình, tư tưởng và tác phong của các công nhân, đặc biệt là thành phần công nhân trẻ để chuẩn bị địa bàn cho việc tiến tới thành lập chi đoàn Thanh Niên. Nhiệm vụ của cô cực kỳ khó khăn, nhưng tôi tin chắc cô sẽ làm được.
Nói rồi Vũ xòe tay ra nắm lấy bàn tay mịn màng có những ngón thuôn dài trắng muốt của Nguyệt. Đôi hàng mi của Nguyệt chớp mau và trong một thoáng, nàng chợt bắt lại mối cảm xúc đã chôn vùi trong vùng kỷ niệm sâu thẩm của lòng nàng.
Hồi đó Nguyệt mới chỉ là cô nữ sinh lớp đệ nhị của trường trung học tư thục Nguyễn Bá Tòng. Vũ đang theo học năm thứ ba ở trường y khoa. Hai người quen nhau do một đêm đại hội văn nghệ tất niên tổ chức ở trường Luật. Mối giao hảo mới chỉ trong vòng e lệ, tìm hiểu nhau bước đầu thì đột nhiên Vũ có quyết định bỏ học ra bưng. Thì ra chàng đã có dính líu sâu đậm với một nhóm sinh viên thiên tả và việc rũ bỏ mọi dính líu đến đời sống phồn vinh ở Sài Gòn chỉ là một bước tất yếu phải đi tới. Hôm từ giã Nguyệt lần cuối cùng, Vũ cũng nắm lấy bàn tay búp măng thuôn dài của Nguyệt và nói:
– Anh rất tiếc không thể chia xẻ với Nguyệt tất cả những ý nghĩ của anh. Nhưng anh tự cho rằng việc rời bỏ Sài Gòn là một quyết định sáng suốt. Bởi ít ra nó cũng tước bỏ cho anh những cảm giác ngột ngạt, những đêm ray rứt mất ngủ và thỏa mãn phần nào chí hướng mà anh quyết định theo đuổi. Anh chúc Nguyệt ở lại bình an, và may mắn trong mọi dự định xây đắp hạnh phúc cho cá nhân mình.
Bẵng đi hơn sáu năm, Vũ mới trở lại Sài Gòn, giữa bầu không khí ngột ngạt của một thành phố vừa sụp đổ. Chàng tìm gặp lại Nguyệt ở giờ tan sở làm và kéo nàng vào một quán cà phê ở một khu phố khuất nẻo. Trông Vũ hơi già hơn trước, nước da sạm nắng, dầy dạn phong sương, với đôi mắt sáng hơn trước và nụ cười thì vẫn tươi tắn, ngạo nghễ như ngày nào. Nguyệt nói ngay:
– Em cứ tưởng anh đã quên phứt em rồi ấy chứ.
Làm gì có chuyện ấy, mà trái lại anh luôn luôn mang theo hình ảnh của em trên đường công tác. Em không thể biết được rằng những lúc anh phải trực diện với những nỗi khó khăn, những gian lao, cực khổ, chính hình ảnh của em đã an ủi anh rất nhiều.
Nguyệt cười reo lên:
– Anh đừng có bày đặt mầu mè với em nhé. Những người đã đi làm cách mạng, làm gì còn có chỗ chứa đựng tình cảm riêng tư.
Mặt Vũ hơi sầm lại. Chàng nói bằng giọng gay gắt:
– Em quan niệm thế nào là một con người cách mạng. Bộ họ là gỗ, là đá, hay là thú vật hay sao mà không có tình cảm riêng tư.
Nguyệt hơi sợ hãi trước cơn nóng nảy ùa đến bất tử của chàng. Nàng đang định tìm một lời nào đó để chống đỡ nhưng vì kiếm không ra nên đành cứ ngồi lặng đi, giương đôi mắt thật to với những tia bối rối lên nhìn chàng. Nhưng vẻ mặt của Vũ đã dịu xuống, trong ánh mắt của chàng thoáng một vẻ hối tiếc, rồi trầm ngâm một lát, chàng mới cất tiếng:
– Thế hệ của chúng ta, dưới ảnh hưởng của những thế lực chính trị, đã tràn đầy những ngộ nhận, thậm chí còn nhìn nhau như những kẻ thù. Nhưng bây giờ đất nước đã hoàn toàn được giải phóng, mọi thế lực phản động trên cơ bản đã bị quét sạch, do đó chúng ta còn có đủ thì giờ và điều kiện để xây dựng lại tất cả những cái gì đã đỗ vỡ.
Nguyệt hỏi:
– Anh dùng chữ «chúng ta» theo ý nghĩa nào? Đương nhiên là không thể có em trong đó, bởi lẽ dễ hiểu là em chẳng hề đóng góp một chút gì cho Cách mạng cả.
Vũ xoay lại tư thế ngồi của mình, chàng nhích cái ghế tới gần mép bàn hơn, và chàng say sưa nói:
– Đấy là một nhận thức vô cùng lầm lẫn mà chúng mình phải thảo luận cho ra nhẽ. Có một điều hết sức khẳng định mà em cần phải ghi nhớ, đó là đất nước này, quê hương này không phải của riêng ai. Nó là tài sản chung của tất cả mọi người và ai cũng có phần trách nhiệm của mình ở trong đó, tùy theo cương vị và khả năng của mỗi người. Những người đi làm cách mạng cũng chỉ là đóng góp phần trách nhiệm của mình. Sau bao nhiều năm gian khổ, họ đã đem lại cho quê hương được một số thành quả. Trước mắt là chiến tranh đã chấm dứt, các thế lực phản động đã cuốn gói bỏ chạy, bây giờ mình đã thực sự làm chủ đất nước của mình. Nhưng còn biết bao nhiêu là điều khó khăn đang tồn tại, những nỗi khó khăn còn chồng chất gấp bội so với thời kỳ phải cầm súng chiến đấu. Và như thế, đã đến lúc tất cả mọi người đều phải góp phần của mình để dần dà từ bước một giải quyết những khó khăn đó.
– Nói như anh thì tất cả những người thuộc chế độ cũ đều có một chỗ đứng trong xã hội mới hay sao?
Vũ đập tay nhẹ xuống bàn như để tiếp sức cho lời nói khẳng định của mình:
– Cơ bản là như thế! Nhưng có một điều phải chỉ rõ ra ngay để em nắm vững. Đó là sự kết hợp mọi nỗ lực của toàn thể mọi người phải được chỉ đạo rõ rệt, có tổ chức, có mức độ, chứ không phải là một sự kết hợp ôm đồm, bừa bãi, mất cảnh giác. Thành quả cách mạng tuy hết sức to tát, rực rỡ nhưng vẫn còn non yếu. Em hẳn đã thấy rõ điều đó.
– Và đó là lý do mà chính quyền cách mạng bắt tất cả mọi quân nhân, công chức đi học tập cải tạo?
– Phải nói là họ «được» đi học tập cải tạo thì đúng hơn. Có ba điều lợi ích cơ bản cho chính cá nhân họ: một là họ có cơ hội được học tập về đường lối, chủ trương và cơ cấu tổ chức của xã hội mới qua đó họ có thể xác định vị trí thuận lợi của mình trong việc đóng góp khả năng vào công cuộc xây dựng xã hội mới; hai là thông qua quá trình lao động sản xuất, họ có cơ hội gỡ bỏ những tàn tích cũ để tạo thuận lợi cho sự chuyển hóa nhận thức của mình; ba là sau học tập họ không còn bị ràng buộc bởi những mặc cảm tội lỗi để sẵn sàng một tâm lý hồ hởi, bước vào cuộc sống mới chung vai góp sức với tất cả mọi người.
Nguyệt rụt rè:
– Em nghe nói sẽ có một cuộc tắm máu vĩ đại.
Vũ lại đập tay lên bàn, lần này còn mạnh mẽ hơn lần trước.
– Tầm bậy! Đó chỉ là lời lẽ đồn đại xuyên tạc của những tàn dư phản động cố gắng vớt vát phá hoại trên đường tháo chạy. Rồi em sẽ thấy Cách mạng V.N. rất sáng suốt, sáng suốt gấp bội lần cách mạng tắm máu của Kampuchia, hay Cách mạng Văn hóa của Trung quốc.
Câu chuyện giữa hai người cứ thế xoay quanh những đề tài đang còn nóng hổi trước mắt, và Vũ đã lần lượt trả lời tất cả những câu hỏi nhất thời Nguyệt có thể đặt ra trong lúc đó. Lúc chia tay, trời đã tối mịt. Vũ dúi vào tay Nguyệt một xấp tài liệu và căn dặn nàng hãy để thì giờ đọc cho kỹ lưỡng. Đó là một tập giấy in ronéo đã cũ kỹ, dầy khoảng chừng hơn tám chục trang, có tựa đề «Từ cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa».
Đêm hôm ấy, Nguyệt chong đèn thâu đêm để nghiền ngẫm nội dung xấp tài liệu này. Bản chất ham đọc sách, ham tìm hiểu vốn đã có sẵn ngay từ khi nàng còn đi học. Cho đến ngày Sài Gòn sụp đổ, nàng vẫn đang còn là một sinh viên, lòng đầy nhiệt thành, có một đôi chút lý tưởng, quá khứ không bị quyền lợi hay danh vọng nào ràng buộc. Quả thực Vũ đã chọn đúng đối tượng để gieo lên những nhân tố chuẩn bị cho công cuộc xây dựng một xã hội mới. Hơn thế nữa, Nguyệt lại đang sinh hoạt trong một cơ sở ấn loát với tư cách của một nữ công nhân. Cái này là do công lao sắp xếp của Toàn. Toàn quen Nguyệt trong một buổi đại hội cuối năm do đại học văn khoa tổ chức. Hồi đó Nguyệt đang là sinh viên. Còn Toàn thì thuộc thành phần Thiếu úy bộ binh, bị thương và giải ngũ trước ngày Sài Gòn sụp đổ hơn ba năm. Đó là lý do Toàn không phải trình diện học tập cải tạo. Hồi mới xuất ngũ, Toàn nhờ quen biết gia đình ông Hồng Phát nên được đưa vào học nghề sắp chữ ở nhà in. Chàng vừa đi làm vừa học thêm ở đại học luật. Toàn có giọng ngâm thơ rất quyến rũ nên rất dễ «nổi» trong đám đông. Tình bạn nẩy nở giữa hai người chẳng mấy chốc trở thành tình yêu. Nguyệt thấy rõ hình ảnh của Vũ (người đã có thời làm trái tim của Nguyệt xao động) nay đã trở thành một cái bóng mờ. Tình yêu ấy kéo dài được gần hai năm thì xẩy ra biến cố 30 tháng 4. Lúc đó, đại học văn khoa ngừng giảng dạy, sinh viên chỉ lui tới để học tập hay sinh hoạt. Còn Toàn thì vẫn tiếp tục công việc ở nhà in. Nguyệt than thở với Toàn:
– Em chán lui tới cái ngôi trường Văn Khoa ấy rồi. Ngành nghề gì thì chế độ mới cũng còn có thể chấp nhận được, chứ cái ngành Văn Khoa thì chắc chắn sẽ bị liệt vào đầu sổ bị tém dẹp.
Toàn liền rủ Nguyệt đi làm ở ngành in:
– Anh có thể nói với ông Hồng Phát cho em một chỗ làm ở dàn montage. Công việc chỉ là ráp nối những hình ảnh, những cột bài vào chung một tấm nền bằng nylon cỡ lớn trước khi đem nó in ra bản kẽm. Việc này chỉ cần khéo tay và có óc mỹ thuật là đủ, mà những thứ đó thì em dư sức qua cầu.
Thế là Nguyệt nghiễm nhiên trở thành công nhân của nhà in Hồng Phát cho đến khi Vũ đến tìm gặp và đưa nàng vào khúc quanh của thế giới nhận thức mới. Nàng đã gặp Vũ nhiều lần, thường thì ở ngay tại căn nhà xinh xắn của Nguyệt nơi nàng sống với cha mẹ và một đứa em trai. Ba của Nguyệt là một công chức đã hồi hưu. Mẹ của Nguyệt có một sạp bán vải trong chợ Bến Thành. Gia đình vẫn được kể là sung túc vì cho tới lúc đó, ủy ban quân quản thành phố chưa đả động gì tới chuyện kiểm kê. Nguyệt có đầy đủ điều kiện để làm công việc «ăn cơm nhà vác ngà voi» mà không phải bận tâm gì đến sinh kế cả.
Nàng đã tiến hành mọi công tác theo đúng chỉ thị của Vũ với những thành quả phải được kể là xuất sắc. Nhà in Hồng Phát hoàn toàn thay đổi từ hình thức đến nội dung. Lực lượng công nhân trẻ đã đứng lên nắm quyền làm chủ cơ sở này. Họ đã có được một chi đoàn Thanh Niên, một đội phòng hỏa cứu hỏa, một ban văn nghệ nghiệp dư và một đội ngũ thể thao vừa bóng đá, vừa bóng truyền. Tuy nhiên, Vũ đã nói với Nguyệt:
– Đấy mới chỉ là những bước sơ khởi buổi đầu, bước chuẩn bị để đưa cơ sở này vào quỹ đạo của Xã Hội Chủ nghĩa.
Nguyệt ngây thơ hỏi:
– Ủa! Thế mọi sắp xếp, mọi tổ chức mình đã thực hiện cho tới nay chưa gọi là «làm xã hội chủ nghĩa à»?
Vũ bật cười:
– Rõ ra là từ bước nhận thức cho tới bước vận dụng nhận thức vào sự thực hành còn là một bước khá dài. Em đã đọc bao nhiêu tài liệu học tập mà còn chưa nhận ra rằng sự tồn tại của một cơ sở trong hoàn cảnh như thế này là một chướng ngại cho công cuộc xây dựng Xã hội chủ nghĩa à.
Mặt Nguyệt nghệt ra một cách thành thực. Tuy nhiên, Nguyệt đủ tinh tế để vận dụng một ánh mắt long lanh, một nụ cười rất hồn nhiên để biến cái ngu si, yếu kém của mình thành một trạng thái ngây thơ vô tội. Vũ hình như không đủ nhạy bén để nhận ra điều đó, chỉ tiếp tục giảng giải:
– Như em đã học tập về những đặc điểm của nền kinh tế Xã hội Chủ nghĩa thì phải biết rằng chế độ công hữu Xã hội Chủ nghĩa về tư liệu sản xuất sẽ tồn tại dưới hai hình thức: sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể.
Nguyệt reo lên như một cô học trò được thầy giáo truy bài đúng cái «tủ» mà mình đã chuẩn bị sẵn. Nàng tiếp lời Vũ một cách thao thao:
– Phải rồi, những tư liệu sản xuất trong các ngành có tính cách quyết định như năng lực, vận tải, giáo dục... thì nhất thiết phải tập trung dưới hình thức sở hữu của toàn dân mà chế độ cũ gọi là quốc hữu hóa. Còn những tư liệu sản xuất thuộc những ngành nghề khác thì có thể «du di» hoặc toàn dân, hoặc tập thể như kiểu Hợp Tác Xã hay Tổ hợp.
Vũ nheo mắt với Nguyệt và nói:
– Thế thì theo em, các cơ sở ấn loát là sở hữu toàn dân hay sở hữu tập thể?
Nguyệt suy nghĩ một giây rồi đáp:
– Ấn loát là một khâu quan trọng trong công tác tuyên truyền, giáo dục. Em không rõ là...
Vũ đáp lời ngay:
– Em không rõ cũng phải, vì đây là vấn đề sách lược. Các đồng chí ở trên nhận định rằng khi cuộc cách mạng đã thành công, thì nhiệm vụ tổ chức, quản lý xã hội so với nhiệm vụ trấn áp sự phản kháng của giai cấp bóc lột và sự đấu tranh để xóa bỏ những giai cấp ấy, còn to lớn hơn và phức tạp hơn nhiều. Điều đó có nghĩa là phải tổ chức lại toàn thể cơ cấu xã hội cũ, tạo ra những hoàn cảnh, những điều kiện, những biện pháp, những lực lượng để cho giai cấp tư sản không thể tồn tại được và cũng không thể tái sinh được.
Nguyệt rụt rè:
– Nghĩa là sẽ có đấu tố, bắt bớ, giam cầm...
Vũ nhích một nụ cười mang đầy một vẻ lạnh lùng, bí hiểm:
– Ở một mức nào đó thì đúng, nhưng cái này thì phải chờ những kế hoạch, những chỉ thị cụ thể. Trước mắt là ta phải tạo những điều kiện thuận lợi để chuẩn bị cho công cuộc tiến hành những chỉ thị, những kế hoạch do trên sẽ đề ra. Nói riêng, trong phạm vi nhà in Hồng Phát, thời gian vừa qua, ta chỉ mới tạo được một chi đoàn thanh niên, tức là một mũi nhọn xung kích trong tay những thành phần trẻ. Bước đi tới là phải mở rộng tổ chức để quy nạp mọi lứa tuổi, không phải là tuổi thanh niên. Nói cụ thể hơn, là đã tới lúc ta phải thiết lập một đơn vị của Công đoàn gọi là Công đoàn cơ sở.
Nguyệt bỗng cảm thấy tim đập rộn lên như một kẻ đang đi trên một con đường xa lạ bỗng gặp một khúc quanh mới. Vũ tiếp:
– Trên đánh giá rất cao những thành quả do em đã đạt được trong thời gian qua. Vì thế, em lại được trao nhiệm vụ hợp tác với Công Đoàn để tiến hành công tác thành lập công đoàn cơ sở này.
Nguyệt kêu lên một cách thành thực:
– Em có biết một tí gì về công tác công đoàn đâu.
Vũ mỉm cười:
– Đừng lo. Em sẽ tham dự một khóa huấn luyện do Công đoàn Quận tổ chức. Sau đó, mình sẽ phối hợp để hoạch định những công tác cụ thể. Theo chỉ thị của trên, công tác thành lập công đoàn cơ sở phải hoàn tất vào cuối tháng sáu năm nay.
Nguyệt ngần ngừ:
– Anh có thể cho em thì giờ để em suy nghĩ được không?
– Còn suy nghĩ gì nữa... Con đường đi tới của em đã mở rộng.
– Chính vì thế mà em thấy sợ. Thú thật với anh, em mới chỉ đặt chân vào công tác hoạt động đoàn thể trong vòng mấy tháng nay. Trình độ nhận thức cũng như kinh nghiệm công tác em hoàn toàn non kém...
Vũ vỗ nhẹ lên vai nàng:
– Đừng lo! Mọi sự «trên» đã tính toán hết. Vả chăng em đâu có sinh hoạt một mình. Còn có tổ chức hỗ trợ. Còn có anh...
Lúc chia tay với Vũ, Nguyệt vẫn không ngớt hoang mang, hồi hộp. Nàng ra bờ sông ngồi thừ trên ghế đá để suy nghĩ về chính mình. Nàng tự kiểm điểm lại những công tác đã thực hiện và tự đánh giá về khả năng của chính mình. Nói chung, nàng tự thấy chưa có một công tác nào vượt quá khả năng của nàng. Lý luận công tác thì chỉ ngần ấy. Những tài liệu học tập nàng đã đọc qua thừa đủ giúp nàng số vốn liếng trình bày trước đám đông mà không sợ đi ra ngoài lập trường cơ bản. Chỉ có một thắc mắc lớn lao mà Nguyệt đã nhiều lần tra vấn nhưng chưa bao giờ nàng tìm được câu trả lời thỏa đáng. Đó là tại sao nàng dấn thân một cách dễ dãi vào công việc mà nhiều người không thích nhảy vô, kể cả Toàn. Bị Vũ lôi cuốn chăng? Hay là trước một khung cảnh hoàn toàn đổi mới của quê hương sau những năm dài chiến tranh, Nguyệt mong muốn đóng góp một cái gì cho đất nước? hay là nàng đã bị lôi cuốn bởi tiếng gọi của quyền lực? Điều khiển và nắm quyền sắp xếp, chỉ định toàn bộ công nhân trong một cơ sở ấn loát cũng là một thứ quyền lực đấy chứ! Chưa bao giờ Nguyệt tìm ra một câu trả lời đích đáng cả, và nàng cho rằng có lẽ tất cả những lý do nêu ra ở trên đều đúng. Mỗi thứ góp phần vào sự chọn lựa của nàng. Và đây, giờ thì Nguyệt biết chắc một điều là nàng đã nhập cuộc, đã lọt vô guồng máy, và đang bị guồng máy đó kéo đi. Đi đến đâu, Nguyệt không thể biết. Nàng chỉ có cảm giác như mình đã dại dột cầm lên một lưỡi dao sắc lẻm trong tâm trạng của một kẻ nửa tự tin ở chính mình, nửa thì lo sợ vẩn vơ. Nguyệt cố trấn áp chính mình để đè nén với nỗi lo sợ vẫn vơ đó. Nàng chép miệng:
– Kệ! Tới đâu thì tới