← Quay lại trang sách

CHƯƠNG II

Người phụ trách giảng dạy đề tài chính trong lớp huấn luyện ở Quận Đoàn mà Nguyệt tham dự là ông Sáu Thu. Ông này cao rong rỏng, cử chỉ nhanh nhẹn, miệng luôn luôn tươi cười, cặp mắt có lúc rất sắc, rất dữ, có lúc lại đầy một vẻ khoan hòa, ngu ngơ, điều mà có lần Nguyệt đã tự nhủ thầm «Cán bộ Cộng sản trung kiên có chung nhau một đặc điểm là ở cặp mắt. Nói là láo liên thì không đúng hẳn, nhưng chất chứa đầy một vẻ bí hiểm và có ý đồ». Ở đây, Ông Sáu Thu cũng thế. Ông ta bước lên bục giảng, nhìn mọi người với ánh mắt tươi cười nhưng khó che dấu được những ánh chớp rất nhanh đảo qua một lượt từ học viên ngồi ở hàng ghế đầu đến hàng ghế cuối, khiến cho Nguyệt có cảm giác như trong một giây đồng hồ thoáng qua, ông ta đã ghi gói được nhiều điều đánh giá sơ khởi về đám động tạp nhạp đang ngồi im phăng phắc chờ đợi ông ta cất lời.

Ông ta gọi mọi người là «các đồng chí». Điều này chứng tỏ thành phần tham dự lớp học là những người đã được chọn lọc. Ngồi ở hàng ghế thứ nhì, Nguyệt thử liếc mắt ra xung quanh để quan sát những người «được chọn» như mình. Có vài ba ông già bà già, một số thanh niên thiếu nữ trẻ, còn kỳ dư là những công nhân như hầu hết các công nhân ở Sài Gòn trước đây mà Nguyệt đã từng gặp. Trên hàng ghế đầu, còn có vài ba người khác, cổ quàng khăn rằn ri, một dấu hiệu phân biệt rõ rệt nhất họ là thành phần mới ở khu về. Chắc họ là quan sát viên hay thuộc ban tổ chức lớp học.

Giọng của ông Sáu Thu rõ ràng, rành mạch. Có thể nói là sang sảng, biểu lộ một sự vừa tự tin vừa kiêu hãnh. Không kiêu hãnh sao được, khi ở đây, ông ta là đại diện cao cấp duy nhất của phe vừa chiến thắng. Không một mảnh giấy trong tay, ông ta nói liên tục, nói dễ dàng như một nguồn nước tuôn chảy. Là đại diện của Công đoàn, dĩ nhiên đề tài thuyết trình xoáy mạnh vào vai trò và nhiệm vụ của giai cấp công nhân, nào là công nhân là giai cấp tiên tiến nhất, có tinh thần cách mạng triệt để nhất, có ý thức tổ chức, kỷ luật cao nhất, và do đó có khả năng lãnh đạo toàn thể nhân dân lao động trong tất cả mọi cuộc đấu tranh giành chính quyền và xây dựng Chủ nghĩa Xã Hội.

Nguyệt hí hoáy ghi chép như một cô học trò chăm chỉ. Điều này vô tình khiến cho nàng tự nhiên nổi bật giữa đám người lố nhố ngồi chung quanh. Bởi vì mọi người quanh nàng, không ai có ghi chép cả, hay nói đúng hơn, không có ai có khả năng ghi chép cả. Giai cấp công nhân là giai cấp «tiên tiến» nhất như ông Sáu Thu vừa hô hoán lên, ở đây, chỉ là những ông bà cụ hiền lành, ngơ ngác, những bác, những dì, quanh năm làm lụng vất vả, có lẽ trong đời ít có cơ hội cầm đến mảnh giấy hay cây bút. Cho nên những điều mà ông Sáu Thu thao thao giảng dạy, áp dụng vào hoàn cảnh ở đây, có vẻ mang một tính cách gì trái khoáy. Ông ta đã giảng một bài học với những từ ngữ rổn rảng vượt lên trên trình độ của mọi người, trừ Nguyệt. Mà truy cho cùng, Nguyệt đâu có phải là một kẻ xuất thân từ giai cấp công nhân! Nhưng hình như ông Sáu Thu không nhận ra được điều đó. Sự chăm chỉ ghi chép của Nguyệt (hay sắc đẹp rực rỡ của Nguyệt?) đã khiến cho ông càng ngày càng cao hứng hơn. Cái nhìn của ông xuống hàng cử tọa trước còn trải đồng đều, nay đã có khuynh hướng cứ dần dần tập trung về mỗi một phía có Nguyệt ngồi. Ngôn ngữ của ông cứ mỗi ngày một hoa mỹ hơn, kêu rổn rảng hơn. Ông nói:

Trong tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Mác và Ăng ghen đã chỉ rõ rằng «trong tất cả các giai cấp đối lập với giai cấp tư sản, chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thực sự làm cách mạng». Điều này tuyệt đối đúng, vì dưới chủ nghĩa tư bản, sự phát triển của nền đại công nghiệp làm cho giai cấp nông dân, và những người sản xuất nhỏ ngày càng phá sản và số đông bị đẩy xuống hàng ngũ của giai cấp vô sản. Trong khi đó, giai cấp vô sản chúng ta ngày càng lớn mạnh về cả số lượng lẫn chất lượng. Chúng ta là sản phẩm của nền công nghiệp lớn và gắn liền với sự phát triển của công nghiệp lớn. Chúng ta sẽ là người đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản và sáng tạo nên nền văn minh mới Xã Hội Chủ Nghĩa.

Cho đến bây giờ, do ý thức bén nhọn thiên phú của một người đàn bà thông minh, Nguyệt đã biết rằng ông Sáu Thu đã mê mệt vì sắc đẹp của nàng. Chắc chắn ông ta thừa hiểu những ngôn từ đại loại như vừa kể trên không mảy may đáp ứng được gì cho những đối tượng hiền lành, chất phác, ít học đang ngồi há hốc ra nghe mà không hiểu được gì. Như thế, ông nói chỉ để có một mình Nguyệt nghe, và ông ta rất hài lòng khi thấy Nguyệt chịu khó ghi chép lia lịa.

Đến phần nêu câu hỏi, Nguyệt thành thực bầy tỏ thắc mắc của mình:

– Thưa giảng viên, như tôi được nghe giảng viên trình bầy, giai cấp công nhân vô sản là sản phẩm của nền đại công nghiệp. Tuy nhiên, ở nước ta, chúng ta đã có một nền đại công nghiệp hay chưa? Ngoài miền Bắc thì tôi chưa biết thế nào, nhưng ở miền Nam tuyệt đại đa số thuộc lãnh vực sản xuất, vẫn là sản xuất nhỏ, manh mún, tản mạn. Như vậy thì những công nhân ở miền

Nam được xếp vào vị trí nào, họ đã được coi là những người trong hàng ngũ vô sản hay chưa?

Ông Sáu Thu là một người có bản lãnh. Ông che dấu được một cách tuyệt đối cái sự choáng váng vì vừa bị một con nhỏ xinh như mộng của miền Nam táng một búa vào bài giảng thao thao mà ông vừa chấm dứt. Ông khởi sự trả lời câu hỏi Nguyệt bằng một tiếng cười khà nghe đầy vẻ bình dị và thoải mái. Rồi ông nhìn thẳng về phía Nguyệt. Đấy là lần đầu tiên ông được nhìn Nguyệt một cách tự nhiên mà không sợ ai có một thắc mắc lợn cợn nào. Rồi ông trả lời Nguyệt, với một giọng cố gắng che dấu sự lúng túng của mình:

– Đồng chí... đồng chí gì nhỉ?

– Dạ, Nguyệt.

– Đồng chí Nguyệt vừa nêu một câu hỏi hết sức xác đáng và gắn bó sâu sát với đề tài học tập hôm nay. Đúng là miền Nam chưa có nền sản xuất lớn. Làm sao có nền sản xuất lớn được khi mà Mỹ, Ngụy dồn tất cả tài nguyên cho chiến tranh.

Nguyệt ngắt lời:

– Ngoài miền Bắc cũng dành mọi nỗ lực cho chiến tranh vậy.

– Đúng về hiện tượng nhưng khác về bản chất. Trong Nam, Mỹ và những đồng minh tay sai nếu có chi viện cho chính phủ bù nhìn Sài Gòn thì chỉ là sự chi viện nhằm tiến hành chiến tranh xâm lược. Còn ở miền Bắc, các nước xã hội chủ nghĩa anh em chi viện cho chúng ta vì những mục tiêu cao quí hơn nhiều. Một mặt thì vẫn tiến hành cuộc chiến tranh chống Mỹ xâm lược, một mặt thì vẫn ra sức giúp ta xây dựng tổ quốc Xã hội chủ nghĩa. Thế cho nên miền Bắc mới có khả năng xây dựng nền sản xuất đại công nghiệp, mặc dù mới chỉ là bước đầu, nhưng chúng ta cũng đã có những công trình như Thủy Điện Sông Đà, Kỹ nghệ Thép Thái Nguyên, Xí nghiệp Cao Su Sao Vàng, và nhiều cơ sở khác nữa đang bước vào nền sản xuất lớn Xã Hội chủ nghĩa. Tuy nhiên không phải vì miền Nam chưa có nền sản xuất đại công nghiệp như miền Bắc mà ở đây chưa có giai cấp công nhân. Có chứ: các bác, các dì, các anh chị em ở đây là thuộc về giai cấp công nhân chứ. Nhưng các công nhân ở vùng mới giải phóng còn cần phải học tập, nghiên cứu, trao đổi nhiều để nâng cao trình độ nhận thức của mình.

Thế là ông Sáu Thu chuyển được câu trả lời của mình sang một hướng mới. Ông lại bắt đầu thao thao bất tuyệt về nhu cầu học tập và lao động để mọi người có thể nâng cao trình độ nhận thức và trình độ giác ngộ cách mạng của mỗi người.

Lúc tan buổi học, cả Nguyệt lẫn ông Sáu Thu đều cố ý nán lại để có cơ hội trao đổi thêm. Ông ta khen Nguyệt:

– Thắc mắc của Cô rất hay. Nội dung của mỗi thắc mắc thường biểu lộ trình độ của mỗi người.

Nguyệt nhoẻn một nụ cười rất xinh:

–... Cháu chả có trình độ gì hết đâu. Không biết thì cứ hỏi... đại à!

– Sao lại xưng cháu, tôi có già lắm không hả cô Nguyệt.

Nguyệt đỏ mặt, tránh cái nhìn soi mói hơi có vẻ sỗ sàng của Ông ta, và ấp úng:

– Ông thì không già, nhưng trước người lạ... Nguyệt xưng cháu quen đi rồi.

Ông Sáu Thu làm ra vẻ bùi ngùi:

– Cô có cái tên thật hay và làm tôi nhớ tới đứa em gái của tôi. Nó cũng tên Nguyệt. Nó đã bỏ mình vì bom Mỹ trong trận Điện Biên Phủ trên không ở Hà nội năm 1972.

Lời nói này khiến Nguyệt thừa hiểu cái hàm ý là muốn ám chỉ Nguyệt chỉ đáng tuổi em của ông ta mà thôi. Tuy nhiên nàng cũng nói một cách trống không:

– Tại có quá nhiều thắc mắc mà nhiều khi không biết hỏi ai. Lại cũng có khi nêu thắc mắc ra rồi, người ta không hiểu, lại cứ tưởng mình cố tình phản động.

Ông Sáu Thu trợn mắt:

– Đâu mà lại có thể đánh giá một cách giản đơn như vậy được. Người nêu thắc mắc là người có thiện chí muốn học hỏi. Vả chăng càng nêu thắc mắc thì người giảng viên càng có cơ hội giúp học viên đào sâu trình độ nhận thức của mình. Cô Nguyệt đừng ngại, bất cứ lúc nào, bất cứ thắc mắc gì mà cô thấy lấn quấn, cứ việc tìm tôi mà hỏi.

Nói rồi ông ta sốt sắng lấy giấy bút ghi cho Nguyệt cái địa chỉ liên lạc. Nét chữ của ông ta rõ ràng, sắc sảo. Nguyệt không chú ý đến cái địa chỉ, số nhà và số dây nói bằng cái danh vị của ông ta: Sáu Thu, bí thư Quận Đoàn. Sau này, Nguyệt còn được biết thêm, ông ta là người của Thành Ủy gửi xuống để tiến hành công tác tổ chức Công Đoàn cấp Quận. Có nghĩa là, ông ta thuộc giới lãnh đạo cấp cao, cao hơn Vũ một khoảng rất xa. Điều này dễ hiểu, vì ông ta là người từ miền Bắc đi vào và cũng là người tham gia cách mạng từ hồi năm 1945. Trong đa số cán bộ mà Nguyệt có cơ hội được tiếp xúc, nàng đánh giá Sáu Thu là một người trí thức. Ông ta có chiều sâu của một người được đào luyện trong cả hai chế độ: nền giáo dục của Pháp trước năm 45 và nền giáo dục của Xã hội Xã Hội Chủ Nghĩa. Điều này lộ ra rõ ràng nhất ở cung cách ông ta ăn nói, từ ngữ mà ông ta dùng và nhất là sự nhạy bén, tế nhị của một con người rất hiếm thấy trong hàng ngũ của các cán bộ. Tuy nhiên, cảm tình của Nguyệt dành cho ông ta giảm đi rất nhiều vì đôi mắt vừa sắc vừa gian của ông. Khi cần đóng kịch, ông ta là một người hoàn toàn. Nhưng khi trở lại bản chất của chính mình, ông ta xuất hiện nguyên hình của một kẻ tàn nhẫn, trí trá và đầy tham vọng. Nguyệt rất khó chịu và bứt rứt mỗi khi bắt gặp ánh mắt của ông ta nhìn chòng chọc vào bộ ngực căng phồng lên sau lần áo mỏng của mình. Điều này khiến cho Nguyệt bị mất đi rất nhiều sự tự nhiên và nó đào một khoảng cách rõ rệt giữa hai người, mặc dù trong thâm tâm Nguyệt rất muốn làm quen với một nhân vật cỡ như ông ta. Trong xã hội mới đầy xa lạ và bất trắc này, càng giao du được rộng bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Tuy nhiên Nguyệt cũng đủ thông minh để nhận thấy chẳng có tình thân thiết đúng nghĩa nào nẩy nở được trong xã hội này. Mỗi người tự đi trên sợi dây của chính mình. Kẻ tốt lành thì cố kìm giữ cho đứng vững, kẻ bất lương thì tệ mặt hơn ở chỗ còn tìm cách xô ngã người khác. Nguyệt vụt tìm ra nguồn gốc của những cơn sợ hãi vẩn vơ của mình. Nó đúng là cái cảm giác của một kẻ thấy rõ mình đang đứng trên một sợi dây mà lại không phải là một kẻ chuyên nghiệp đi dây. Nguyệt mới chỉ là một người tập sự chưa có một vốn liếng kinh nghiệm nào. Nguyệt tự nhủ, cung cách hay nhất là hãy dấu diếm những góc cạnh của mình đi để cứ tiếp tục đóng vai trò của một người ngu ngơ mới bước chân chập chững vào xã hội mới. Về điểm này, nàng hoàn toàn chinh phục được lòng tin cậy của Vũ và Vũ rất chăm chỉ, tận tình chỉ dẫn cho nàng đến cả những tiểu tiết sơ đẳng nhất. Anh chàng đôi lúc tỏ ta si mê nhưng đều bị Nguyệt chặn lại đúng lúc. Trước cơn xáo động dữ dội của đời sống, Nguyệt có nhiều cái phải suy nghĩ, đối phó và hành động. Nàng không thấy cần thiết phải mắc miu trong một mối tình. Cho nên, biết Toàn xa lánh, Nguyệt không tìm cách hàn gắn những đổ vỡ. Biết Vũ vẫn tạo dịp để bày tỏ nỗi lòng, Nguyệt chặn lại không để mối liên lạc giữa hai người bị đẩy đi xa hơn. Về một khía cạnh nào đó, Nguyệt cũng phải tự nhận ra rằng mình cũng có điểm lạnh lùng, tàn nhẫn và có tham vọng. Duy có điều tham vọng của nàng, cho tới nay, chưa hiện ra rõ rệt. Nàng cũng không biết rằng hiện nay nàng đang làm gì và nhắm tới điều gì. Đấy phải chăng là một đặc tính của tuổi trẻ. Lăn xả vào công việc mà không cần nghĩ đến sự đền bù. Cùng lắm, nếu có thất bại thì cũng là một cung cách để làm giầu kinh nghiệm cho chính mình. Có lẽ chỉ có cách nhìn đó mới giải thích được hoàn cảnh có rất đông các thành phần thanh niên, nam nữ tham gia nồng nhiệt vào các sinh hoạt đoàn thể ở Thành đoàn vào những ngày đầu, sau khi Sài gòn sụp đổ. Tuyệt đại đa số đều tham dự bằng tất cả lòng hăng say và nồng nhiệt. Họ khao khát một bầu không khí sinh hoạt mới và họ nghĩ rằng xã hội mới đã đem lại cơ hội cho họ đóng góp được khả năng của chính mình. Đó là tâm tình của họ vào thời điểm ấy. Còn sau này, thực tế trả lời họ ra sao, lại là chuyện khác.

* * *

Sau khóa học, Quận đoàn cử thêm một cán bộ Công đoàn về trực tiếp tham gia công tác tổ chức ở cơ sở nhà in Hồng Phát. Người ấy là ông Năm Tỏa. Ông này là người ở Khu về. Bệnh hoạn. Ốm yếu. Bản tính xuề xòa, dễ mến. Tuy nhiên, ông ta không phải là loại công nhân chất phác thuần tuý. Cứ theo cung cách nói năng và thái độ cư xử của ông, Nguyệt đoán rằng ông ta phải xuất thân từ thành phần có tây học. Hôm họp tất cả công nhân trong nhà in lại để nghe ông ta phát động công tác tổ chức công đoàn, ông ấy nói:

– Thế này nhé, ngày trước thì giai cấp bóc lột không bao giờ quan tâm đến đời sống công nhân và tạo dựng những điều kiện để làm thăng tiến đời sống công nhân. Anh chị em ta nếu ai có ốm đau, bệnh tật thì chủ nhân xí nghiệp cũng chẳng thèm biết tới. Mà hễ cứ nghỉ ngày nào, thì trừ lương ngày đó. Đó là tại sao? Là tại vì họ chỉ nghĩ đến lợi nhuận. Mục tiêu của họ là càng thu về nhiều lợi nhuận bao nhiêu, càng tốt bấy nhiêu. Bây giờ thì khác, cách mạng thành công đem lại cơ hội cho chúng ta làm chủ chính mình. Nhưng làm chủ ở đây không phải là ta đã là ông chủ rồi thì ta khỏi phải lao động gì hết, mà vẫn được ăn trên ngồi chốc. Nói như thế thì có khác gì ta xóa cái chữ chế độ bóc lột cũ để xây dựng thêm một chế độ bóc lột mới. Cái ý nghĩa «làm chủ» của chúng ta nói ở đây là chúng ta có quyền hoạch định mọi công tác, mọi tổ chức để làm thăng tiến đời sống của tập thể nhân dân lao động, điều mà trước đây, dưới chế độ cũ, chúng ta không bao giờ được làm. Muốn tiến hành có kết quả tốt đẹp mục tiêu đó, chúng ta phải có tổ chức. Mọi hành vi, mọi hoạt động, mọi sáng kiến đều phải được thông qua tổ chức, bởi không có tổ chức thì mạnh ai nấy làm, có khi trống đánh xuôi, kèn thổi ngược dễ đi đến chỗ hỗn loạn. Công đoàn là tổ chức của các công nhân trong xí nghiệp. Mỗi xí nghiệp có một công đoàn cơ sở. Nhiệm vụ của công đoàn cơ sở là phát huy quyền làm chủ tập thể của các công nhân, tổ chức học tập để nhằm nâng cao trình độ của công nhân, đấu tranh để khắc phục những tàn dư, tập quán còn tồn tại của nền sản xuất nhỏ như chây lười, khinh lao động, thích sống ăn bám, coi thường kỷ luật, nói dối, làm dối. Nói chung là đào luyện công nhân để trở thành những người biết lao động một cách có kỷ luật, có kỹ thuật, có sáng tạo và đạt năng suất cao...

Như hầu hết các buổi học tập diễn ra ở mọi nơi sau ngày 30 tháng 4 năm 75, người nói cứ nói, người nghe cứ nghe, và ít có ai dám nêu thắc mắc ngoại trừ việc phát biểu chung chung, nói xuôi theo lập luận của thuyết trình viên. Công việc tiến hành tổ chức Công Đoàn Cơ sở diễn ra nhẹ nhàng, xuôi chẩy như đã được dự tính. Ý của Nguyệt là muốn đưa Toàn ra nắm chức vụ Thư Ký Công Đoàn, Nguyệt biết Toàn dư khả năng làm công tác đó. Nhưng hôm trước, lúc nàng vừa ngỏ ý thì đã bị Toàn hỏi sẵng giọng:

– Tại sao lại là tôi nhỉ!

Mặt Toàn như đanh lại. Ánh mắt của chàng long lên. Điều này nói lên sự đổ vỡ giữa chàng và Nguyệt đã tới chỗ khó có thể hàn gắn. Có điều lạ là Nguyệt không hề cảm thấy đau xót về sự đổ vỡ này. Tình yêu gắn bó giữa nàng và Toàn như cất cánh bay đi từ lúc nào,

Nguyệt không nhận ra. Có thể vì nàng quá bận rộn. Có thể vì nàng đã chọn lựa một niềm say mê mới: chạy theo những quyền lực mà trước đây, chưa từng bao giờ nàng có được. Nhưng chắc chắn sự sấc sược của Toàn đã đem lại cho nàng một va chạm nặng nề đến lòng tự ái. Điều này khiến mặt nàng trở nên lạnh tanh. Rõ ra là hai kẻ thù nghịch đang đối diện nhau chứ không còn một đôi uyên ương gắn bó thiết tha chỉ trước đây mới có vài tháng. Giọng Nguyệt như rít lên ở hai hàm răng cố nghiến chặt:

– Anh không bằng lòng thì thôi nhưng đừng có cái thái độ phủi vào mặt kẻ đã có nhã ý với mình.

Toàn cười khẩy:

– Cám ơn cái nhã ý ấy của Cô. Nhưng cô nên nhớ, tôi không phải là một kẻ phản bội.

Dằn mạnh xong hai chữ phản bội, Toàn lập tức quay người đi, không để cho Nguyệt kịp có phản ứng gì chống đối lại. Một việc như thế, thật quá sức chịu đựng của chàng. Toàn thấy đầu óc của mình nóng ran lên, ngực bị dồn ép, đến như bị ngộp thở, cổ họng của chàng se đắng lại. Nhưng chàng không hối tiếc việc mình vừa làm. Chàng có đầy đủ lý do để tự bằng lòng với mình về thái độ ấy. Tuy nhiên, sau khi đã làm xong, cơn buồn bã mênh mang úp chụp lấy chàng làm chàng ngơ ngẩn như một kẻ mất hồn. Toàn đã đạp xe đi lang thang hết phố này qua phố khác mà không để ý đến những hoạt động huyên náo ở chung quanh. Thành phố này không còn gì để chàng lưu luyến, gắn bó. Khung cảnh êm đềm, ấm cúng, khi trước nay đã thay thế bằng một vẻ tuy vẫn nhộn nhịp đấy nhưng là sự nhộn nhịp ẩn chứa một vẻ bàng hoàng, lo âu, ngỡ ngàng, tuy vẫn tràn đầy sinh hoạt đấy nhưng vẫn ẩn chứa một vẻ tan hoang, sa sút, nghèo nàn. Đạp xe lang thang từ lúc trời chưa tắt nắng cho đến lúc phố xá đã lên đèn, Toàn mới khám phá ra rằng mình đang lên cơn sốt nặng. Cổ họng chàng khô khan. Trán nóng hôi hổi, hai bàn tay chàng cầm tay lái mà thấy run lẩy bẩy. Toàn hối hả đạp xe quay về nhà, quên cả chào mẹ và lên gác nằm thiếp đi trong cơn đầy mộng mị.

Ngày hôm sau, Toàn không đến sở làm. Ngày hôm sau nữa cũng vậy. Ở nhà in Hồng Phát, mọi người nhao lên về sự vắng mặt bất thường của chàng. Người lo lắng nhất là ông Hồng Phát. Ông ta dẫy nẩy lên và than thở với một vài công nhân cũ quen thuộc:

– Ông ấy nghỉ thế này là chít ngộ rồi. Đến hạn kỳ phải giao sách toán cho kịp ngày khai giảng niên học mới mà không xong thì các ông cách mạng nó giết ngộ, nó đem ngộ trôi sông.

Tình hình khẩn trương này được báo cáo lên ông Năm Tỏa. Ông ta có vẻ không bằng lòng khi được biết rằng chỉ có một mình Toàn là người duy nhất có khả năng xếp chữ được những trang sách toán với những ký hiệu chằng chịt. Ông ta trách Nguyệt:

– Sao đồng chí lại ỷ lại về một khâu như thế vào tay có mỗi một người. Trong công tác tổ chức, đấy là một khuyết điểm quan trọng không thể chấp nhận được.

Nguyệt ấp úng:

– Cháu cũng đã có kế hoạch đào luyện thêm nhân sự vào tổ xếp chữ môn Toán. Chỉ hiềm vì số công nhân có trình độ một chút hãy còn hiếm hoi quá.

Ông Năm Tỏa lấy ngay sổ tay ra hí hoáy ghi chép rồi nói:

– Tôi sẽ đặt vấn đề này lên quận để giúp đồng chí giải quyết mau chóng tình trạng thiếu sót đó. Trong khi chờ đợi, đồng chí cũng nên tiếp xúc, tìm hiểu xem cá nhân anh Toàn có điều gì lấn cấn, không khắc phục được.

Lần đầu tiên, Nguyệt nói dối ông ta và may cho nàng, lời nói dối ấy lại trùng với sự thực:

– Anh ấy chỉ đau ốm thôi, chứ chắc không có gì lấn cấn cả.

Ông Năm «à» lên một tiếng thỏa mãn và nói tiếp:

– Nếu chỉ ốm đau thôi thì tốt! Để tôi thử đi tiếp xúc và tìm hiểu coi sao.

Thế là ông ta xách xe đạp đi tìm đường đến địa chỉ của Toàn. Hôm ấy, Toàn đã ốm khỏi và đang loay hoay tra dầu mỡ vào ổ bi của chiếc xe đạp dựng ở ngay trước sân. Rõ ràng là Toàn đã có thái độ chọn lựa: Chàng không thể nào quay lại nơi chốn mà ở đó, tình yêu của chàng đã bị bầm giập, não nề.. thành ra khi thấy bóng dáng của ông Năm Tỏa hiện ra ở khung cửa gỗ ngoài hàng rào, Toàn không lấy thế làm bối rối. chàng thản nhiên đứng dậy, vừa chùi tay vào mảnh giẻ rách đầy dầu mỡ, vừa tiến ra mở cổng:

– Chào ông Năm. Tôi không ngờ lại được ông tới thăm.

– Đáng lẽ ra tôi phải tới thăm anh lâu lắm rồi ấy chứ. Mà điều công việc bề bộn quá. Sao, hôm nay anh thấy khỏe khoắn lai chưa.

– Cám ơn ông, tôi đã bình phục hoàn toàn. Cảm sốt lăng nhăng, có gì đâu mà ông phải bận tâm.

Đến giây phút ấy thì ông Năm Tỏa nhận ngay ra được sự vắng mặt của Toàn đã phải có điều gì bất thường. Ông muốn kéo dài thời gian suy nghĩ của mình trước khi trực diện với cái bất thường đó, nên ông chỉ mỉm cười nói lảng qua chuyện khác:

– Anh ở đây yên tĩnh quá nhỉ. Mùa hè mà có giàn hoa giấy này chắc mát.

Toàn lẳng lặng bước vô nhà, kéo ghế mời ông ta ngồi rồi xin phép đi sửa soạn nước uống. Trong khi Toàn vắng mặt, ông Năm Tỏa tự do nhìn khắp quang cảnh chung quanh. Cái bàn kính dài, có sáu chiếc ghế, nơi ông đang ngồi kê ở sát vách tường phía bên phải. Sau lưng ông là khuôn cửa sổ nhìn ra sân trước, chỗ Toàn vừa lúi húi sửa xe. Trước mặt ông là một tấm vách ngăn đôi phòng khách bên ngoài với gian bên trong. Dựa lưng vào tấm vách này là một cái kệ sách trong để lưa thưa vài cuốn tự điển và một số sách mà ông không nhìn rõ nhan đề ở sau gáy. Phía trên kệ sách là hai bức tranh sơn dầu cũ kỹ, một vẽ tĩnh vật với vài quả cam, quả táo, xếp hỗn độn bên cạnh một bình hoa và một vẽ cảnh phố nghèo, nhà cửa lụp sụp với hậu cảnh là những dẫy building rực rỡ ánh đèn ở phía xa. Ông Năm Tỏa giả bộ tiến về phía kệ sách để nhắm nghía một cách kỹ lưỡng bức tranh, nhưng mắt ông đã không bỏ qua những cuốn sách trong kệ mà vừa mới đây, ông chưa nhìn thấy rõ gáy sách. Đó là một vài cuốn tiểu thuyết mới xuất bản gần đây, như cuốn Thép đã tôi thế đấy, của Boris Polevoi, cuốn Vùng Trời của Hữu Mai, cuốn Con đường đau khổ của Alexei Tolstoi, xếp bên cạnh cuốn sách giáo khoa về Hình Học, về Đại Số Học, có cả một cuốn truyện Kim Vân Kiều do một nhà xuất bản của Sài Gòn cũ ấn hành nữa.

Lúc Toàn bưng nước ra mời, ông Năm Tỏa chỉ tay vào bức tranh sơn dầu và nói:

– Ngày trước địch nó cũng để cho tự do treo những loại tranh này sao?

Toàn ngạc nhiên:

– Thưa ông, có gì đâu?

– Bức tranh vẽ nhà cửa lụp sụp tồi tàn ngay ở giữa những khu phố có nhiều cao ốc đèn đóm sang trọng, nội dung đã tố cáo một xã hội đầy bất công, chênh lệch.

Toàn bật lên cười:

– Hồi trước, chúng tôi chỉ nhìn một họa phẩm theo khía cạnh nghệ thuật, không nhìn theo quan điểm chính trị.

Ông Năm cũng mỉm cười, nhưng đầy vẻ chế riễu:

– Nghệ thuật nào mà không có nội dung chính trị. Tách nghệ thuật ra khỏi chính trị là quan điểm ngây thơ, ấu trĩ.

– Có những tác phẩm nghệ thuật vượt qua được mọi không gian và thời gian. Giá trị của nó không bị lệ thuộc vào bất cứ một khuynh hướng chính trị nào.

– Thí dụ?

– Như truyện Kiều của ta chẳng hạn.

– Ô! Truyện Kiều có một nội dung hiện thực phê phán rất là cao. Nó tố cáo cả một xã hội phong kiến thối nát, đầy rẫy những bất công tham nhũng của giai cấp thống trị.

– Theo ý tôi, đó chỉ là dấu vết đương nhiên của xã hội ở vào thời kỳ mà tác phẩm ấy đã được ra đời. Nhưng chân giá trị của truyện Kiều không phải ở chỗ đó. Phải xét nó trên lãnh vực văn chương.

– Văn chương chỉ là một bộ phận sinh hoạt của xã hội, và không có một loại văn chương nào mà lại không mang dấu vết của những khuynh hướng chính trị trong xã hội đó. Một là nó phục vụ cho giai cấp thống trị, hai là nó làm đòn bẩy cho giai cấp bị trị thống khổ biết vùng lên. Đó là quan điểm đấu tranh giai cấp không thể nào phủ nhận được.

Toàn chỉ lên bức tranh tĩnh vật ở gần chỗ ông Năm ngồi và hỏi:

– Vậy thì theo ông, bức tranh tĩnh vật này phục vụ cho giai cấp bị trị hay thống trị?

Ông Năm xoay hẳn người lại, nhìn ngắm những quả táo đỏ ửng trong bức vẽ rồi mỉm cười:

– Ở vào thời kỳ mà những bức công áp bức còn tồn tại trong xã hội thì bất cứ một tác phẩm nghệ thuật nào làm cho người ta quên đi hiện tại đau khổ mà người ta đang phải chịu đựng, đều thuộc về loại tác phẩm phục vụ cho giai cấp thống trị.

– Nếu cứ xét theo quan điểm đó của ông thì những sách vở của miền Bắc mà tôi được đọc sau này, tôi thấy chỉ toàn tô hồng cho đời sống, trong khi đó hẳn ông cũng đã rõ là dân chúng vẫn thiếu thốn, khổ cực. Như vậy những sách đó đã chỉ phục vụ cho giai cấp thống trị mà thôi sao?

Ông Năm Tỏa vừa nhìn thẳng vào mắt Toàn vừa chợt thốt lên:

– Ôi chà! Mình bỗng nhiên đụng tới một vấn đề đáng gọi là căng đây. Nó căng không phải chỉ giữa anh và tôi, giữa người đã từng tham gia cách mạng và người đang ở vùng mới giải phóng mà còn căng ngay cả ở trong giới cầm bút ngoài miền Bắc. Tuy nhiên tôi thử cố trình bày để mong có thể giúp anh soi sáng thêm được gì không gọn gàng. Ngừng một lát, ông Năm Tỏa nói tiếp:

– Có hai điều phải nêu rõ trong câu thắc mắc của anh. Một là đích thị những tác phẩm văn học ở miền Bắc đang phục vụ cho giai cấp thống trị, hiểu như giai cấp đang nắm chính quyền. Hai là sử dụng từ ngữ giai cấp thống trị, vốn mang ý nghĩa xấu xa cho chế độ miền Bắc, là không đúng. Bởi vì đó là chế độ phục vụ cho lợi ích của nhân dân lao động là thành phần chiếm tuyệt đại đa số trong quần chúng.

– Nếu con đường của nghệ sĩ đã vạch rõ ra như thế rồi thì người nghệ sĩ đâu còn chút tự do gì để sáng tạo nữa?

Ông Năm lại mỉm cười:

– Cái này lại là một vấn đề khác nữa phải nhìn cho rõ. Anh vừa sử dụng hai chữ tự do. Nhưng bản chất hai chữ tự do là gì? Chúng tôi quan niệm rằng tự do không phải là ai muốn nghĩ gì thì nghĩ, làm gì thì làm, mà tự do phải nằm trong ý niệm hiểu được sự tất yếu trong quá trình đi làm của lịch sử loài người. Sau tư bản chủ nghĩa, tất yếu là phải đi tới Cộng sản chủ nghĩa mà bước trung gian là xã hội chủ nghĩa. Người nghệ sĩ nhận thức rõ được điều tất yếu đó thì tha hồ tự do sáng tạo để góp phần thúc đẩy cho cái tất yếu đó mau chóng được thực hiện. Tôi hiểu rằng đây là bước nhận thức rất cam go, không phải dễ gì ngày một ngày hai mà anh tiếp thu được. Anh cứ việc thắc mắc, cứ việc trăn trở. Sự thắc mắc, trăn trở là những bước tất yếu ai cũng phải trải qua. Không qua giai đoạn đó mà chấp nhận bừa bãi thì chỉ là những kẻ giả dối bề ngoài, những bọn cơ hội chủ nghĩa. Nhưng có một cách tốt nhất giúp anh mau chóng tiếp thu tư tưởng mới, đó là quá trình chuyển hóa trong lao động. Lao động thật tốt sẽ giúp anh dần dà nhận thức ra được cái chân lý đó.

Ông Năm nói một hơi không nghỉ. Toàn có cảm giác như mình vừa đụng phải một cái nút bấm trong con người của ông. Cái nút làm vận chuyển một cuốn băng đã được thu sẵn, bất cứ lúc nào cũng có thể phát ra, đầy đủ, trọn vẹn những ý nghĩ không xoay chuyển được đó. Toàn cũng rất muốn trình bày những lý lẽ của mình để vạch ra rằng cái tất yếu tiến lên xã hội chủ nghĩa mà ông ta vừa trình bày đã hoàn toàn lạc hậu ở thời đại 100 năm sau Karl Marx, bởi vì giai cấp bóc lột thời Marx không giữ nguyên vĩnh viễn cái tính chất tàn khốc lúc ban đầu, mà chính nó cũng đã tự chuyển hóa, tự thích ứng để tồn tại. Kết quả là đời sống của các công nhân ở các quốc gia tự do đã được nâng cao, giờ giấc làm việc ngày một giảm đi, các tổ chức nghiệp đoàn được thành lập để quân bình thế lực giữa hai giới chủ nhân và công nhân trong xí nghiệp. Sự bóc lột đương nhiên bị giảm thiểu. So với thực tế, đời sống người công nhân trong xã hội chủ nghĩa còn thấp kém hơn công nhân ở xã hội tư bản rất nhiều. Nhưng Toàn cũng biết thừa ra rằng nếu có đem những điều đó ra để trình bày, thì ông Năm cũng sẽ có đủ lý luận để bào chữa. Ông ta sẽ nói rằng những cái mà công nhân ở nước tư bản thí cho, chỉ là một phần nhỏ so với những nguồn lợi kếch sù do chính bàn tay lao động của giai cấp công nhân tạo dựng nên. Mặt khác, những tiện nghi mà Toàn nói đến cũng chỉ là tiện nghi của thành phần công nhân quí tộc, một tầng lớp công nhân phản bội quyền lợi giai cấp của mình để câu kết với giai cấp thống trị. Bên cạnh đó, tuyệt đại đa số công nhân trên thế giới, vẫn còn lầm than, cơ cực. Bởi thế mới có khẩu hiệu «Vô sản trên toàn thế giới, đoàn kết lại!» Những lập luận này đầy rẫy trong sách vở, chẳng cần nghe ông Năm nói, chàng cũng đã đọc thấy được rồi.

Rút cục, Toàn không cảm thấy hứng khởi gì trong một cuộc tranh luận không có lối thoát như thế. Chàng chỉ khẳng định với ông về quan điểm của chính mình:

– Theo ý tôi, nghệ thuật chỉ là một ý niệm chung của xã hội. Khi đã nói nghệ thuật thì nó thuần túy là nghệ thuật mà chẳng bao hàm bất cứ một ý niệm nào khác ngoài nó cả.

Ông Năm Tỏa nhìn Toàn chăm chú, cố ý kéo dài tia nhìn ấy trong một giây rồi mới thong thả chậm rãi nói:

– Đó là một cái nhìn chung chung về nghệ thuật thể hiện tính chất trên không chằng, dưới không rễ của giai cấp tiểu tư sản vốn là một thành phần dễ dàng chao đảo. Người vô sản chúng tôi quan niệm rằng nghệ thuật phản ảnh hiện thực theo lập trường của một giai cấp, một tập đoàn xã hội nhất định. Do đó khi miêu tả cuộc sống, người nghệ sĩ thể hiện thế giới quan và nhân sinh quan của giai cấp mình trong tác phẩm.

Toàn mỉm cười hơi mang vẻ châm biếm, ngạo mạn:

– Thế thì nghệ sĩ của các ông thể hiện cái gì trong tác phẩm.

– Ô! đời sống có vô số những thực tế sinh động. Người nghệ sĩ vô sản đề cao, ca ngợi cái đẹp nẩy nở trong lao động và trong cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột. Bởi vì vai trò của Nghệ Thuật không những chỉ thỏa mãn nhu cầu thẩm mỹ của quần chúng mà còn phải xây dựng quan điểm thẩm mỹ lành mạnh cho quần chúng nữa.

Toàn bật lên:

– Hèn chi!

Ông Năm Tỏa nhìn Toàn như tìm hiểu tiếng vừa thốt lên của Toàn, nhưng Toàn đã giải thích:

– Hèn chi mà tôi thấy từ ngày Cách mạng vào Sài gòn, nghệ thuật của Cách mạng thường đi sát với công tác tuyên truyền.

Ông Năm Tỏa nhún vai:

– Có gì lạ đâu! Tuyên truyền đạt tới mức cao đó thì trở thành nghệ thuật, và ngược lại Nghệ thuật thể hiện công tác tuyên truyền ở mức cao độ nhất! Công tác tuyên truyền, tự nó không có điều gì xấu cả. Nó chỉ trở nên xấu xa tồi tệ khi người ta sử dụng nó để truyền đạt những ý đồ mờ ám, không có chính nghĩa.

Đến đây thì Toàn lại có thêm một vài ý niệm mới nữa về người đàn ông này. Ông ta có vẻ như một con người chỉ tin theo sách vở. Sự suy nghĩ và lập luận của ông chỉ dựa vào sách vở mà không có cơ sở thực tế. Bởi nếu ông thực sự đụng chạm đến những vấn đề thực tế thì hẳn ông đã nhìn thấy cái chính nghĩa mà ông vừa khẳng định, nó chẳng có chính nghĩa một chút nào. Hoặc giả, chính ông là người đã nhìn nhận ra con đường mà ông đang theo đuổi đã chệch ra quá xa cái mục tiêu khởi đầu, nhưng ông đã khôn ngoan che dấu được thảm kịch sụp đổ trong tâm hồn của ông, để tự vệ. Xã hội này đã chẳng bao gồm biết bao nhiêu con người lúc nào cũng đề cao cảnh giác, vì địch thì ít nhưng vì đồng chí thì nhiều đó sao. Một lát sau, ông Năm Tỏa đổi qua một đề tài khác:

– Hôm nay tôi đến đây, trước là để thăm hỏi xem anh ốm đau ra sao. Sau nữa để tìm hiểu xem anh có vấn đề gì khó khăn ở sở làm mà không giải quyết được.

Toàn chối:

– Tôi có bị khó khăn gì đâu.

Ông Tỏa nhìn thẳng vào mắt Toàn, mặt ông thoáng một vẻ nghiêm nghị nhưng rồi lại dịu ngay xuống với những nét hiền hòa:

– Nếu vậy thì tốt! Ngày mai anh tiếp tục đi làm lại chứ.

Toàn suy nghĩ rồi ngập ngừng:

– Tôi có những vấn đề riêng thuộc về gia đình chứ không phải vì sở làm. Tôi nghĩ rằng tôi cần một thời gian để giải quyết.

Ông Năm Tỏa móc túi ra gói thuốc, vừa mời Toàn vừa châm cho mình một điếu. Cử chỉ chậm chạp kéo dài của ông, cộng với vầng trán cao hơi nhăn lại và ánh mắt đăm chiêu, biểu lộ một cách cố ý cho Toàn thấy là ông cũng đang quan tâm và chia xẻ với Toàn về những nỗi khó khăn riêng tư. Sau đó, ông mới chậm rãi nói:

– Anh Toàn ạ, tôi cảm thông với anh về sự khó khăn mà tôi chắc anh đang phải phấn đấu ghê gớm lắm. Nếu anh cảm thấy tôi có thể giúp được gì cho anh, xin anh cứ nói. Mặt khác, tôi cũng đề nghị anh lưu tâm tới tình hình khẩn trương mà chúng ta đang phải đối phó ở nhà in. Hàng triệu các cháu học sinh các cấp lớp đang trông chờ những cuốn sách phải được in ra cho kịp thời điểm khai giảng niên học mới. Thành Ủy rất quan tâm đến vấn đề này. Chắc anh hiểu chứ?

Toàn hiểu ngay ông ta đang đem Thành ủy ra dọa mình. Tuy nhiên, lòng Toàn lạnh băng mà không có đôi chút cảm giác sợ hãi. Sự chán chường, mệt mỏi dẫn Toàn tới thái độ buông xuôi. Mặc kệ! Muốn tới đâu thì tới! Do đó, chàng cố tình kìm giữ để không phải nói với ông Năm một lời gì, dù từ chối hay hứa hẹn. Thấy chàng im lặng, ông Năm đứng dậy ra về sau khi tươi cười (vẻ tươi cười gượng gạo mà Toàn nhìn thấy rõ):

– Vậy anh ráng đi nhé. Chúng mình còn vô số cơ hội để trao đổi với nhau, về đủ loại vấn đề.

Khi ông Năm đi khỏi, Toàn có cảm giác nhẹ nhõm như kẻ vừa chui thoát ra được một căn đường hầm đầy ám khí nặng nề. Chàng nghĩ đến một ngày tự do, thong thả trước mặt. Đã lâu lắm chàng rồi chưa đến thăm một vài người bạn thân mà chàng biết rõ chúng nó kẹt lại, đi không được.

Chương trình phác họa trong đầu chàng là xuống bếp chuẩn bị bữa cơm trưa thay cho mẹ chàng hôm nay cũng cảm sốt không dậy được. Sau đó chàng sẽ đạp xe xuống Trường đua Phú thọ để thăm Nghĩa, cái anh chàng nhà văn, một vợ hai con này, không biết từ ngày Cách mạng vô, đã làm gì để nuôi sống gia đình. Chàng tự nhủ nếu không gặp Nghĩa thì mình sẽ quay về Lăng Ông Bà Chiểu để tìm gặp Hoành. Hoành nghe nói đã đăng ký trở lại để đi dạy học. Tuy nhiên bây giờ năm học chưa khai giảng, chắc cả hai sẽ có thì giờ để hàn huyên. Toàn chợt khám phá ra rằng trong mọi sự tính toán sắp xếp, chàng không hề bận tâm gì tới Nguyệt cả.

Nàng đã xa lắc trong ý nghĩ của chàng. Một cuộc tình đã sang trang mà không lưu lại dấu vết đau thương nào. Toàn cầu mong được như thế. Nhưng biết đâu, sẽ có lúc nó trỗi dậy, nghiền nát trái tim bầm giập của chàng. Lúc lui cui trong bếp, Toàn mới có dịp trực diện với những vấn đề nhỏ nhặt trong đời sống, điều mà từ trước tới nay, qua bàn tay bảo bọc của mẹ già, chẳng bao giờ chàng quan tâm tới. Gạo hết. Củi hết. Thức ăn trong trạn chỉ lỏng chỏng một dĩa dưa muối và mấy cọng đầu tôm rang mặn. Đời sống thực tế thiếu thốn hiện lên rõ trong quanh cảnh lạnh tanh của những chiếc rổ rá sút cạp treo trên vách tường ám đen muội khói và những cái bếp xếp bằng những viên gạch nung bao quanh bởi đám tro tàn.

Bỗng Toàn nghe tiếng gọi cổng và khi chạy ra, chàng ngạc nhiên thấy người khách lạ tới thăm lại là ông Hồng Phát. Đây là lần đầu tiên, ông ta tìm tới căn nhà khuất nẻo trong ngõ hẻm này của Toàn. Tuy con người của ông vẫn còn phốp pháp, phì nộn, nhưng so với thời kỳ vàng son thuở xa xưa, ông bây giờ sọm đi thấy rõ. Nhớ lại hồi mấy tháng trước, khi được Nguyệt đánh giá cho ông là thuộc thành phần Tư Sản Dân Tộc, tuy không hiểu ngô khoai thế nào, nhưng dính được vào hai chữ «dân tộc» ông cũng yên tâm phần nào. Ông tự nhủ phải giữ thân tối đa để mong «Cách Mạng» giảm thiểu tội lỗi cho mình mặc dù trong thâm tâm, ông chẳng thấy mình có tội gì cả. Trong những ngày đầu, nhà in bắt đầu hoạt động trở lại, ông tránh tối đa để không ngồi vào cái bàn giấy bằng gỗ gụ ở văn phòng với chiếc ghế đệm da kềnh càng có thể xoay đủ bốn phía. Một đôi lần ông ngỏ ý nhường chỗ làm việc đầy tiện nghi cho Nguyệt, nhưng nàng chỉ cười ngỏn ngoẻn:

– Không sao đâu bác. Cháu kê cái bàn bên phòng chứa giấy làm việc được rồi. Ở đây là phần hành của Ban Quản Đốc mà.

Rồi như cảm thông với thái độ tần ngần của ông, Nguyệt an ủi thêm:

– Bác cứ yên tâm đi. Chính sách của «trên» đã rõ ràng. Bác là tư sản dân tộc, tuy đối với Cách Mạng cũng có vấn đề, nhưng không đến nỗi. Đối tượng chính của nhà nước bây giờ là bè lũ tư sản mại bản kia.

Nói rồi, Nguyệt bỏ đi. Hình như chính nàng cũng không tin tưởng ở lời giải thích của mình, cho nên tốt hơn hết là không nên nhiều lời. Hứa hẹn với ông ta nhiều, mai mốt nhỡ có khác đi, khó ăn khó nói. Âu đó cũng là cái bản chất có hậu của những người đã sống ở vùng tự do, chứ không quay quắt, trở mặt trắng trợn như con người cộng sản chính hiệu sống theo chủ trương cứu cánh biện minh cho phương tiện, có thể làm bất cứ cái gì miễn là đạt được đến mục đích cuối cùng. Ông Hồng đem mối ưu tư của mình thuật lại với Toàn, chàng cũng chỉ biết giải thích thêm qua những tài liệu đã học tập:

– Tư sản mại bản là toàn thể những người trước đây thuộc ngành nghề xuất nhập cảng. Họ bị kết tội cấu kết với tài phiệt nước ngoài để lũng đoạn kinh tế và bóp chết các ngành sản xuất trong nước. Kỳ dư những người làm ăn buôn bán khác, có đôi chút máu mặt thì được gọi chung là tư sản dân tộc. Lớp này tội tuy không nặng bằng tư sản mại bản, nhưng cũng có vấn đề tùy theo từng đối tượng. Nhìn chung, theo cách đánh giá của cán bộ giảng huấn, thì họ đều mang tính cách bóc lột, làm giàu trên sức sản xuất của giai cấp công nhân.

Ông Hồng kêu lên:

– Vậy là tôi cũng bị liệt vào thành phần bóc lột.

– Đương nhiên

– Nhưng tôi thuê thợ có trả lương. Họ cũng bằng lòng làm việc theo số lương đó.

– Số lương mà ông trả cho họ bằng một phần mười số lời mà ông kiếm được. Vậy là khi không, ngồi mát ăn bát vàng, ông đã làm giàu trên sức lao động của người khác, mặc dù vì sinh kế, họ phải thỏa thuận để có chỗ làm việc.

– Họ làm sao mà bì được với tôi. Họ là thợ, tôi là chủ. Họ tay không đến làm việc. Còn tôi, tôi có nhà máy, có cơ xưởng, có vốn bỏ ra để điều hành.

– Hãy chưa nói gì đến nguồn gốc của cái vốn mà ông bỏ ra để trang bị toàn bộ cho xí nghiệp, nếu truy đến cùng thì nó cũng chỉ được là tạo dựng nên từ cơ sở của sự bóc lột. Nhưng ngay từ thực tế cái xí nghiệp này, ông cũng chỉ được hưởng một phần số lời do chính sức làm việc của ông. Kỳ dư là của công nhân, vì họ cũng làm việc như ông. Ông hưởng trên số đó tức là đã xâm phạm vào cái giá trị thặng dư của công nhân. Họ kết tội ông là bóc lột.

– Còn máy của tôi, nhà của tôi, vốn của tôi?

– Nhà ấy, máy ấy, vốn ấy, ông lấy ở đâu ra, nếu không phải là sự tích lũy lâu dài của bóc lột, có khi cả đời ông, cha của mình dồn lại nữa kia. Cho nên «tước đoạt lại của kẻ đi bóc lột» là chính sách chuyên chính vô sản của công nhân.

– Nói vậy thì còn lý luận phải quấy mẹ gì nữa.

– Vậy đó! Cháu nói theo lập luận của cán bộ để ông biết con đường mà mình sẽ phải đi qua. Đừng có ảo tưởng khi thấy họ gắn cho mình hai chữ «dân tộc» trong danh nghĩa «tư sản dân tộc». Đó chỉ là chính sách giai đoạn ta dần từ thành phần này, qua thành phần khác để không gây xáo trộn toàn bộ sinh hoạt xã hội. Thế thôi!

– Vậy thì tôi cúng hết nhà máy cho họ, rồi về dưỡng già cho rồi.

– Ấy, đâu được! ông làm thế, họ cho là có tinh thần bất hợp tác, phá hoại công tác sản xuất. Tội phản động còn nguy hơn.

Ông Hồng kêu lên:

– Biết mình sẽ bị kết tội, vậy mà vẫn phải tận tụy làm việc, thế thì có khác gì mình là con trâu, ngày mai bị chọc tiết, mà hôm nay vẫn phải ra sức đi cầy.

– Thấy rõ cái ấy là ông đã hiểu vấn đề rồi đó.

Mặt ông Hồng bạc nhược hẳn ra. Mồ hôi đổ lấm tấm trên vầng trán cao và hói. Ông nhìn Toàn bằng ánh mắt hoàn toàn tuyệt vọng khiến Toàn liên tưởng tới ánh mắt của con trâu lúc sắp sửa biết mình bị đem ra thọc huyết.

Cái ánh mắt này, cùng với biết bao nhiêu ánh mắt khác mà Toàn đã từng được trông thấy kể từ sau ngày 30 tháng tư, tuy nó không giống hệt nhau về mỗi hoàn cảnh, nhưng lại đồng dạng với nhau ở chỗ như cùng nói lên một tâm trạng bị thương, tuyệt vọng của những kẻ đã bị dồn tới nước đường cùng, như ánh mắt của người lính cộng hòa trút bỏ bộ quân phục vứt rải rác trên đường Trương Minh Giảng; như ánh mắt của những người thân thiểu não xách cái bị nhỏ từ giã vợ con lên đường học tập cải tạo hay như của những người có tội giàu có như ông Hồng Phát.

Những ánh mắt ấy đã trở thành một nỗi ám ảnh đối với Toàn trong những đêm dài mất ngủ. Nó như thường trực nhắc nhở với chàng rằng từ nay, tất cả là tan hoang, là sụp đổ, là chia lìa vĩnh viễn với quá khứ êm đềm xa xưa.

Toàn rất thương xót ông Hồng Phát, mặc dù có lúc chàng cũng thấy sự thương xót này không mấy chính đáng, nếu xét trên lý luận, nhưng Toàn không thích lý luận, chàng chỉ suy nghĩ hoàn toàn dựa trên tình cảm mà thôi. Cho nên khi thấy ông đột nhiên tới chơi nhà, chàng hết sức đon đả:

– Có chuyện gì mà ông chủ phải tìm tới tôi vậy?

Ông Hồng Phát vừa thở phì phò sau cơn mệt của một con người phì nộn đã ngồi trên chiếc xe gắn máy cũ kỹ long sòng sọc vượt qua những đoạn đường ngoắt ngoéo đầy ổ gà, vừa nói trong hơi thở:

– Thôi đi ông Toàn ơi, giờ này mà còn kêu tôi bằng ông chủ là chít tôi rồi. Cách mạng nó ghét tiếng ông chủ, ông chủ lắm đó.

Toàm mỉm cười:

– Có gì mà ông phải lo. Nhà in thì đã cúng hết rồi.

Ông biết cúng nhà in là ông khôn lắm đó.

Ông Hồng Phát trợn mắt:

– Cúng rồi đó! Mà điều nó đâu đã chịu lấy! Nó cứ làm bộ «hổng sao», «hổng sao». Rồi nó cứ bắt tôi ngồi làm vì, ngồi hổng được, mà rút cũng hổng xong. Cái này, cách mạng chơi khó, âm mưu cái gì, ai mà biết.

Rồi ông đổi giọng nghe rất bi thương:

– Ông Toàn ơi! Ông mà không giúp tôi chuyến này, cách mạng nó thủ tiêu cả gia đình tôi mất.

Toàn ngạc nhiên:

– Chuyện gì mà ghê gớm vậy kìa!

– Thì chuyện in sách giáo khoa cho cái sở giáo dục đó! Cả cái dàn xếp chữ, có mình ông là xếp được sách toán học. Nay ông nghỉ đi, sách nó ra hổng kịp, nó kết tội tôi là âm mưu chống phá cách mạng, thế là chết cha tôi rồi.

– Nó dọa ông đấy ông ơi. Đừng lo! Vả chăng nếu có kết tội thì tôi mới đích danh là thủ phạm chớ đâu phải ông.

Ông Hồng Phát xua tay:

– Ông nói vậy là ông hổng biết Cách Mạng là cái gì hết đó. Nó đang rình tôi, tôi thấy hết mà.

– Nó rình ông làm cái gì! nhà in ông cúng rồi thôi.

– Cúng nhà in đâu đã hết chuyện. Nó nghĩ tôi còn vàng, còn bạc, mà trời ơi, vàng bạc ở đâu ra nữa chứ. Tôi đi cái xe gắn máy cũ kỹ này nó không thấy sao!

– Như vậy thì ông còn có cái gì để lo nữa chứ. Cùng lắm thì cũng đi lao động làm ăn như mọi người.

– Nói vậy mà không phải vậy đâu ông ơi. Thôi, tôi năn nỉ ông Toàn. Ông trở lại làm việc cho gia đình tôi được an toàn.

Vừa nói ông Hồng Phát vừa rụt rè moi ở trong túi quần tây xệ xuống dưới cái bụng phì nộn vĩ đại, một bọc giấy dầu. Ông ta tiếp:

– Cái này là biếu riêng ông Toàn. Mình san xẻ với nhau chút đỉnh ấy mà.

Toàn vừa ngạc nhiên vừa cảm thấy hổ thẹn khi lần đầu tiên phải trực diện với vấn đề lo lót. Chàng kêu lên:

– Tôi đâu có nỡ lấy tiền của ông trong tình thế này. Ông không hiểu tôi. Tôi có vấn đề riêng của tôi. Chứ đâu phải tôi cố tình làm khó ông đâu.

Ông Hồng Phát rối rít:

– Tôi hiểu. Tôi hiểu. Có ai biểu ông Toàn làm khó ai đâu. Mà điều cái này gọi là chia xẻ mà. Còn cái chuyện ông Toàn cứu sống gia đình tôi lại là chuyện khác.

Toàn buông một tiếng thở dài khi nghĩ đến mọi dự tính của mình đột nhiên bị ngưng trở. Tuy nhiên, sự lo lắng của ông Hồng Phát lúc này không phải là không có cơ sở. Hoàn cảnh hiện tại của ông ta là hoàn cảnh của một con cá đang nằm sẵn sàng trên thớt. Ông ta có đầy đủ lý do để sợ hãi bất cứ một sự kiện nào có thể giàng buộc ông ta là âm mưu chống phá cách mạng. Toàn không muốn trở thành một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng đó. Cuối cùng, chàng đành chép miệng:

– Thôi được, ông đi về đi. Tôi sẽ trở lại để hoàn tất đợt in sách giáo khoa kỳ này. Nhưng chỉ kỳ này thôi đấy. Tôi không thể làm mãi ở nhà in của ông được.

Mặt ông Hồng Phát tươi lên. Ông nhoẻn một nụ cười thỏa mãn hiếm có kể từ ngày Sài gòn sụp đổ. Ông vội vã từ biệt Toàn và hối hả quay ra. Toàn chận lại:

– Ông cất giùm cái bọc này đi. Ông Hồng Phát xua tay lia lịa:

– Ăn nhằm gì. Ăn nhằm gì. Tôi đã nói là mình chia xẻ với nhau mà.

Sự cương quyết của ông làm nổi bứt rứt của Toàn vơi đi một nửa. Chàng lại cũng liên tưởng tới cơn cùng quẫn về vật chất đang đe dọa đời sống gia đình. Cuối cùng chàng tặc lưỡi để cho ông Hồng Phát ì ạch đẩy cái xe ra khỏi ngõ một cách khó khăn và nặng nề.

Lúc ông ta đi rồi, Toàn mới cầm bọc giấy dầu lên tay, và cảm thấy mình run rẩy. Chưa bao giờ Toàn có dịp được làm chủ một món tiền to tát đến như thế. Chỉ tiếc rằng nó đã đến với chàng trong tình cảnh của một sự mờ ám. Lương tâm chàng như vọng lên một lời kết tội rằng chàng đã vừa đi bóc lột của một kẻ đang ở chốn đường cùng. Nhưng rồi chàng lại tự bào chữa:

– Ông ấy tự ý đem lại chứ mình đâu có đòi hỏi. Vả chăng cái tài sản kếch xù mà ông ta gây dựng được nhanh chóng trong nhiều năm qua hẳn cũng mang nhiều sự kiện mờ ám, phi nhân. Vậy, có lấy đi một số thì đâu có tội tình gì.

Nghĩ đến đó Toàn chợt giật nẩy mình khi phát giác ra rằng mình vừa sử dụng một lối lý luận thuần túy Mác xít mà chàng đã nghe nhàm tai trong các buổi học tập và nay đã lẩn vào trong tiềm thức: Đó là bóc lột của kẻ đi bóc lột là một chuyện đương nhiên, hợp lý, không mảy may liên hệ gì đến vấn đề đạo đức con người!