CHƯƠNG X
Kể từ ngày Sàigòn sụp đổ cho đến nay, Nguyệt đã tham gia nhiều công tác, tham dự nhiều buổi họp và tiếp xúc với nhiều loại người. Có một điều kỳ lạ là khi làm tất cả những công việc đó, chưa bao giờ Nguyệt có được một tâm trạng dứt khoát cả. Trong những lần ở lại làm việc trong đêm khuya tại nhà in, Nguyệt đã nhiều khi tự tra vấn chính mình. Đất nước đã thống nhất, hòa bình đã trở lại trên quê hương, con người lý tưởng trong Nguyệt đã lên tiếng rằng đây là thời điểm tốt nhất để mọi người có thể xúm lại hàn gắn những vết thương sau những năm dài triền miên đổ vỡ vì chiến tranh. Nhưng thực tế quanh nàng thì lại như níu kéo nàng lại. Những sĩ quan học tập cải tạo, một vốn liếng lớn lao của dân tộc cứ ngày một mòn mỏi và tiêu hao trong vòng rào kẽm gai của những trại tù. Chính sách kinh tế mới, một kế hoạch đáng lẽ phải nâng lên hàng quốc sách với tất cả mọi sự hỗ trợ tối đa của nhà nước thì rút cục chỉ là trái núi đẻ ra con chuột. Người ta đã biến kế hoạch này thành một nơi đầy đọa những kẻ bị nhà nước thù ghét hay là những nạn nhân của những vụ đuổi người ra khỏi chỗ cư trú để chiếm đoạt nhà cửa. Nó y hệt như ngày xưa, lò huấn luyện tân binh quân dịch cũng là nơi đổ vào những thành phần rác rưởi, sống bất hảo ngoài xã hội, trộn chung với những người lính mới lương thiện khác. Những tâm trạng dằng co giữa lý tưởng và thực tế đó, đã khiến cho Nguyệt chưa bao giờ thấy được trong lòng yên ổn khi lăn mình ra hoạt động công tác đoàn thể. Nàng chỉ khôn khéo che dấu được sự bất ổn ấy mà thôi.
Nhưng bây giờ thì khác. Sau những lần tiếp xúc với ông Năm Tỏa, với Hoàng, với Toàn, Nguyệt tìm lại được cái cảm giác vững chắc, ổn định trong lòng nàng khi nàng quyết định đẩy cuộc sống của mình sang một hướng đi mới. Đó là sự không chấp nhận cái thành quả mà ở khắp mọi nơi, mọi ngành người ta đã và đang còn hô hoán lên bằng đủ mọi loại bích chương, khẩu hiệu, biểu ngữ, các tài liệu học tập và những sản phẩm văn chương nghệ thuật. Quả thực, người ta đã nói dối và người ta hoặc ru ngủ, hoặc dùng roi vọt để bắt tất cả mọi người chấp nhận sự nói dối ấy.
Sau ngần ấy năm tháng đứng ra hoạt động, cho tới bây giờ, Nguyệt tự nhận là mình đã đập vỡ được hai loại vỏ cứng ngắc: một là thuộc về phe chiến thắng như Sáu Thu, như Vũ, và những cán bộ được chuyển từ miền Bắc vào. Họ luôn luôn tự mãn với thành quả chiến thắng vừa đạt được. Họ làm như đã đạt được tới tột đỉnh của vinh quang và không bao giờ muốn đổi thay nó. Nghĩ đến đổi thay bây giờ là đụng chạm tới húy kỵ. Họ chẳng khác gì những kẻ vừa thoát khỏi số phận làm nạn nhân của chế độ này thì lại rơi vào hoàn cảnh nạn nhân của chế độ khác. Đời sống của họ có thay đổi gì đâu nếu không muốn nói là còn tệ hại hơn trước. Phải nhận chân được điều này, nếu không thì cứ tự giam hãm mãi vào cái vỏ thứ nhất. Còn cái vỏ thứ hai thì dành cho những kẻ như Toàn. Chàng tiếc nuối quá khứ và do sự tiếc nuối này, chàng không chấp nhận bất cứ cái gì không thuộc về quá khứ. Thật ra có ích gì đâu khi chỉ đứng bên lề cuộc sống và gậm nhấm tất cả những nỗi buồn tủi, ê chề, thiếu thốn do chính cuộc sống đem lại mỗi ngày. Bây giờ vấn đề không phải là tiếc nuối nữa mà là một cuộc đấu tranh mới để đổi thay cái tồi tệ đang có, đang tồn tại. Căn bản của cuộc đấu tranh này không phải ở viện trợ bên ngoài, cũng không phải là sự tuyển mộ võ khí, đạn dược để xây dựng một guồng máy chiến tranh khác, mặc dầu phương tiện bạo lực cũng là một yếu tố trong nhiều yếu tố khác của cuộc đấu tranh. Cái căn bản ấy chính là sự nhận thức của tất cả mọi con người đang sống dưới chế độ mới. Nhận thức rằng từ bao lâu nay, non một nửa thế kỷ đã qua rồi, người dân của chế độ mới chưa bao giờ được hưởng quyền tối thiểu của con người. Vốn đã quen bị đàn áp, con người mặc nhiên chấp nhận thân phận của những nạn nhân. Họ chỉ có thói quen ngửa cổ chờ mong chế độ ban ơn mưa móc, nay sửa sai cái này, mai nới rộng cái kia và lấy đó làm hoan hỉ mừng rỡ, chứ chưa bao giờ họ nhìn nhận được ra rằng quyền lợi của họ bao lâu nay đã bị tước đoạt và cần phải tiếp tục đấu tranh để giành nó lại chứ không phải xin xỏ, chờ trông gì ở ai hết. Một khi toàn thể mọi người đều nhìn ra được con đường sẽ phải đi tới thì chẳng một thiểu số nào dù có sử dụng bạo lực đến đâu cũng không thể đàn áp được cơn sóng triều dâng sẽ ùa tới làm đổi thay toàn bộ lịch sử. Đó mới là sức mạnh chính thống của toàn thể dân tộc, nơi đó tập trung khả năng, ước vọng và ý chí của toàn thể mọi người không phân biệt bất cứ xuất xứ của họ đến từ bên này hay bên kia.
Con đường mà ông Năm Tỏa vạch ra cho Nguyệt thấy con đường vận dụng làm thay đổi đầu óc của mọi con người trong một cuộc đấu tranh mới. Nó đòi hỏi trí tuệ nhiều hơn là súng đạn. Nó là con đường đi len lỏi ngay vào giữa cuộc sống của xã hội đương thời, trong các xí nghiệp, các cơ quan, các đoàn thể, trực diện với đủ loại tầng lớp cán bộ để gieo xuống những hạt nhân của một ý thức mới. Như thế, ông Năm Tỏa đã rất hữu lý khi dàn xếp cho Nguyệt cái hoàn cảnh để cho nàng còn có cơ hội quay trở lại sinh hoạt ở ngay trong lòng chế độ.
Nguyệt cảm thấy hoàn toàn dứt khoát tư tưởng trong sự lựa chọn này. Nàng sẽ rời xa thành phố hôm nay nhưng hẹn sẽ có ngày trở lại, một sự hứa hẹn có cơ sở thực tế chứ không phải là một niềm hoài vọng chỉ vang lên trong tâm tưởng.
Hôm ấy, trước khi tắt đèn đi ngủ, Nguyệt ra bản viết cho mẹ một lá thư, trong đó có «Con hiện đã quá mệt mỏi với đời sống hiện tại nên rất cần sự nghỉ ngơi. Mà muốn nghỉ ngơi được, theo con, thì chỉ có cách là ra đi. Vì vội vã, con không kịp có thì giờ bàn tính và từ biệt gia đình được. Xin bố mẹ đừng giận con và tha thứ cho con. Tuy biết là hết sức khó khăn, nhưng con vẫn hy vọng sẽ có một ngày con trở về. Con hứa sẽ trở về, bởi vì gia đình và quê hương bao giờ cũng gắn bỏ trong lòng con».
Viết đến đây, Nguyệt chợt mỉm cười. Dưới mắt ông bà cụ, rõ ràng Nguyệt trốn nhà đi tìm tự do. Mà như thế, ngày về sẽ xa lắc, làm sao mà dám hứa với hẹn. Nhưng Nguyệt không thể trình bày rõ ràng hơn. Lá thư này của nàng, chắc chắn cán bộ tổ chức sẽ đọc đến, và sẽ có một ngày không xa, nàng phải trực diện đối chất với chính những gì nàng đã viết ra trong đó. Ở thời điểm này, có thiếu gì người vượt biên không thoát nạn khi bị giam cầm tùy mức độ đã trở lại với đời sống hàng ngày. Đó là cái vỏ mà Nguyệt sẽ dùng để ngụy trang cho ngày trở về.
Sau khi để lá thư ngay ngắn trên mặt bàn, Nguyệt lên giường tắt đèn cố dỗ giấc ngủ. Nhưng cảm giác sắp lìa xa gia đình, lìa xa cuộc sống quen thuộc hằng ngày để dấn thân vào ngã rẽ mới đã khiến cho Nguyệt bồn chồn, thao thức. Nàng nghĩ đến Toàn, đến ông Năm Tỏa, đến anh nhà văn miền Bắc Phạm Ngọc Hoàng và qua nhân vật này, nàng liên tưởng đến biết bao nhiêu người cầm bút khác đã từng góp phần tạo dựng nên tiếng nói mà bản tuyên ngôn của Nhóm Văn Nghệ Chân Đất chỉ là một phần biểu tượng cụ thể: «Chúng tôi, những con người vốn sinh ra như con người dưới ánh mặt trời muôn thuở, kêu gọi tất cả mọi sáng tác phẩm phải dành cho mọi trái tim yêu thương chứ không dạy mọi người phải căm thù và chuyên chính!»
Nguyệt chợt phát giác ra rằng, nàng chẳng phải là một kẻ khởi hành trong cô đơn để rồi phải nói lên «cứ khởi hành đi rồi sẽ có bạn đồng hành».
Không! Nguyệt không cô đơn, bởi vì trước nàng cũng đã có biết bao nhiêu người cùng chung ý hướng, cùng chung ước vọng đã từng âm thầm cất bước. Những bước chân ấy tuy chưa rầm rộ nhưng chắc chắn nó sẽ làm nên lịch sử. Nguyệt náo nức tin tưởng như thế và nàng thiếp đi trong một niềm vui hân hoan trọn vẹn.
Sáng hôm sau, Nguyệt ra khỏi nhà lúc trời vừa rạng sáng. Nàng mỉm cười khi nghĩ đến vẻ mặt chưng hửng của Toàn và Hoàng. Nàng cũng thấy tức cười hơn nữa, khi hình dung ra quang cảnh ở cơ sở ngành in số 10 (và cả những đồng chí trên Thành Đoàn, trong đó có Vũ) lúc mọi người cùng hay tin Nguyệt đã vượt biên. Một đoàn viên ra đi đã là một chuyện động trời. Một bí thư chi đoàn ra đi, chuyện còn động trời hơn nữa! Người ta sẽ cho rằng toàn bộ công tác mà nàng đã thực hiện, chẳng qua chỉ là một vở kịch được trình diễn khéo léo để chuẩn bị vượt thoát. Họa chăng, chỉ có Sáu Thu và ông Hồng Phát là hiểu được động cơ đã khiến nàng rời bỏ chốn này. Nguyệt tự nghĩ: nếu động cơ mà chỉ có thế thì tầm thường quá vì đó chỉ là một chuyến vượt thoát để trốn tránh tủi nhục, ê chề của một kẻ hoàn toàn thua cuộc. Nàng nhủ thầm: mình không thua cuộc một cách dễ dàng như thế. Bây giờ là thời của những con người trẻ. Tuổi trẻ ít bị ràng buộc bởi quá khứ nên rộng cẳng hướng về tương lai. Trong gần ba mươi năm trải dài trên dòng lịch sử, cả bên này lẫn bên kia đều đã có cơ hội để thực hiện nhiều điều cho quê hương. Nhưng những thành quả của họ, về mặt tốt đẹp không có nhiều, trong khi quê hương, đất nước, con người đều tả tơi, rách nát. Xương máu cả hai miền đều đã đổ xuống như chưa một thời kỳ nào trong lịch sử dân tộc lại chứa đựng nhiều chết chóc, bi thảm, chia lìa, phân hóa, thù hận nhiều đến như thời kỳ gần 30 năm vừa qua. Tuyệt đại đa số quần chúng đã oằn lưng xuống để gánh chịu tất cả những đau thương, nhọc nhằn. Và cho đến bây giờ, những đau thương ấy, nhọc nhằn ấy vẫn còn tiếp tục. Chịu đựng như thế thì đến đá cũng phải đổ mồ hôi huống chi con người.
Nguyệt nhìn ra hai bên hè phố của Sàigòn vào lúc trời đang hừng sáng. Những khẩu hiệu đỏ lòe, những ngọn cờ máu phất phơ trong gió sớm. Nó không biểu tượng được gì ngoài hình ảnh sự trấn áp, bạo lực của đẳng cấp mới đối với tuyệt đại đa số nhân dân. Những con người khốn khổ ấy, bây giờ nằm la liệt ở vỉa hè, có những cụ già húng hắng ho, những phụ nữ nằm phơi bụng giữa sương đêm bên cạnh có những đứa trẻ đói sữa nhay mãi đôi vú nhăn nheo của mẹ chúng. Và những đứa trẻ khác, tuổi hồn nhiên cả con trai, lẫn con gái nằm co quắp trong những bộ quần áo mỏng manh, bẩn thỉu ngủ chập chờn trong cơn đói giằn vặt.
Ông Năm Tỏa hắn đã thốt lên lời tâm sự của ông khi ông chứng kiến sự nghèo khó hiện ra trước mắt, hàng ngày:
– Tôi đi làm cách mạng, hy sinh cả một đời, đâu có phải để thực hiện một xã hội như thế này!
Hẳn lòng ông mang đầy mặc cảm tội lỗi. Nhiều Đảng Viên, Đoàn Viên, Cán bộ chắc cũng đã mang mặc cảm tội lỗi như thế, nhất là những thành phần trong đám đã từng tham gia mặt trận Giải Phóng miền Nam, không vì Chủ nghĩa Xã Hội mà vì lòng yêu nước. Nhưng ông Năm Tỏa đã hơn hẳn nhiều người có cùng một tâm sự như ông, ở chỗ ông không dừng lại. Dừng lại là phủ nhận lý tưởng của mình, là tiếp tay cho bạo lực, chứ không phải là tiêu diệt bạo lực, là có tội chứ không có công với tổ quốc, với đồng bào. Ông đã lẳng lặng tiếp tục bước đi nữa trên con đường chông gai của mình. Nguyệt không thể biết ông đã có bao nhiêu người đồng hành trên đường chông gai đó. Nhưng thực sự là ông đã có một tổ chức. Ông đã vạch cho Nguyệt lộ trình từ Sàigòn đi tới một nơi đã định sẵn. Đây là sở trường của ông, là vốn có sẵn của ông, trong suốt thời gian ông tham gia vào cuộc chiến. Sau kỳ họp Quốc Hội về sự thống nhất đất nước, những người miền Nam lần lượt bị loại bỏ. Họ bị đẩy ra ngoài cuộc chơi, trong lúc vốn liếng cũ vẫn còn. Đó là những đường dây giao liên, những cơ sở nằm vùng rải rác mọi nơi, những đường hầm ở thôn dã, những chỗ trú ngụ trên đường công tác... v. v... Ngoài ra, còn phải kể đến những nhân sự đông đảo, những kinh nghiệm hoạt động vững chãi, những mầm mống bất mãn nẩy sinh trong cuộc «thay ngựa ở giữa đàng».
Ngần ấy yếu tố đủ cho phép ông Năm Tỏa và những người như ông có phương tiện tiếp tục cuộc hành trình gian khổ của mình theo một lý tưởng đích thực: phục vụ hạnh phúc chân chính của con người.
Nguyệt được một chú giao liên đón sẵn ở một bến xe dưới lục tỉnh. Chú ấy dẫn Nguyệt đi xuyên qua nhiều khu rừng dừa, qua nhiều cầu treo bắc lơ lửng trên những con rạch. Càng đi, xóm làng càng thưa thớt, khu vực canh tác càng giảm bớt, nhường chỗ cho những bụi lau sậy, những vùng cây cối hoang dại, um tùm.
Mãi đến xế chiều, sau ba bốn lần đổi người giao liên, Nguyệt mới đặt chân tới một vùng quang đãng thấp thoáng một vài mái tranh ẩn sau những bụi dây leo chằng chịt.
Nguyệt hồi hộp như một kẻ đầu tiên bước vào một thế giới mới. Hãy coi như đấy là thế giới mới cũng được, vì ở đây khác với tất cả những vùng đất có từ trước tới nay. Khác ở tính cách lịch sử của nó, ở những con người sinh hoạt, ra vào đã hoàn toàn mang một não trạng mới. Họ đang thực sự là những con người đi xây dựng lại quê hương. Không bên này, cũng chẳng bên kia. Đất đứng của họ là đất đứng của tất cả những con người đã từng thất vọng, từng chịu đựng, từng chán chường, từng mơ ước những điều mà cả hai phía đều không thực hiện được. Đất đứng của họ không xét con người theo quá khứ mà xét theo ý hướng của con người nhắm về tương lai. Chính vì điều này, mà họ có khả năng tập hợp được rộng rãi. Một lực lượng mới đang thành hình, và nó phải được thành hình vì nó đáp ứng được nguyện vọng của nhiều người, nhiều phía.
Nguyệt rất lấy làm hãnh diện được là một trong các thành phần ấy. Theo ông Năm Tỏa, thì ở đây, nàng sẽ được rèn luyện thêm, trao đổi thêm về những điều mà trước đây nàng chỉ suy nghĩ có một mình. Rồi sau đó, nàng sẽ được đưa trở lại đời sống xã hội với những nhiệm vụ được giao phó. Nàng đã có một con đường để đi theo, với bước khởi đầu là ở đây, dẫy nhà tranh trong những bụi cây um tùm. Rồi nàng sẽ gặp nhiều người, ở nhiều hoàn cảnh, nhiều lứa tuổi, nhiều thành phần. Một tập hợp qui tụ tất cả những tinh hoa của đất nước còn sót lại sau biết bao nhiêu cuộc thử thách, đổi thay khốc liệt và kinh hoàng. Không còn con đường nào khác. Bây giờ, ở đây, câu nói cửa miệng ấy của người cộng sản, mới thể hiện đầy đủ ý nghĩa của nó.
Nguyệt được dẫn vào một trong những ngôi nhà tranh lụp sụp. Trời tối hẳn và bên trong đã thắp lên một ngọn đèn tù mù. Trong khoảnh khắc, Nguyệt nhận thấy bên trong căn nhà khá rộng, gồm gian giữa và hai chái hai bên. Ở gian giữa, có kê một cái bàn dài. Chung quanh bàn có một đám đông lố nhố. Trước mặt họ là những ly, chén, ấm trà, những bao thuốc và nhiều tài liệu, giấy tờ.
Khi thấy Nguyệt vào, mọi người ngừng trò chuyện và quay ra. Một vài tiếng thăm hỏi được cất lên. Nguyệt không phân biệt được ai với ai. Nàng tiến lại gần phía bàn hơn nữa để chào tất cả mọi người. Ngọn đèn được khêu tỏ hơn chút nữa, soi lên vách những hình bóng lố nhố. Bây giờ thì Nguyệt có thể nom rõ khuôn mặt của từng người. Trông họ đầy vẻ khắc khổ đăm chiêu như những nhân vật tiền phong trong những thời kỳ khởi đầu của một cuộc cách mạng. Lòng Nguyệt tràn đầy một nỗi niềm xúc động đến căng thẳng khi nàng nghĩ rằng mình đã có cơ hội được đứng chung với những nhân vật ấy. Họ đạm bạc, họ thiếu thốn, họ sống đơn sơ nhưng họ có cả một niềm tin vững chắc vào sự thành công trong mục tiêu cuối cùng. Nàng nhớ lại lời ông Năm Tỏa:
– Cô sẽ không thấy một chiến khu rầm rộ súng ống và những chiến sĩ thao dượt ngày đêm như cái danh từ vốn mang đầy đủ hình ảnh đẹp đẽ ấy. Đành rằng ở những tổ chức khác, người ta đã hoặc đang hình thành những vùng chiến khu hiểu theo nghĩa đó, nhưng anh em chúng tôi ở đây quan niệm rằng súng ống của chúng tôi là súng ống mà chính quyền đang hiện có, quân đội của chúng tôi là quân đội đang phục vụ chế độ ở dưới cờ. Tất cả những phương tiện đó sẽ là của chúng ta nếu chúng ta thành công trong công cuộc thay đổi não trạng của tất cả mọi người. Chúng ta sẽ nhóm lên những ngọn lửa và trông chờ nó lan thành những cơn bão lớn, chứ không phải trông chờ ở những ai bật đèn xanh, đèn đỏ gì hết. Bởi chính dân tộc chúng ta nắm vận mệnh quê hương của chúng ta chứ không phải ai khác. Chúng ta vẫn còn cả quê hương, đất nước, con người. Tôi không bao giờ nghĩ rằng đã mất quê hương cả. Quê hương của chúng ta hiện nay chỉ đang đi trên một giai đoạn lầm than đang rất cần nỗ lực của mọi người để đưa nó ra khỏi giai đoạn lầm than ấy mà thôi.
Rồi ông Năm Tỏa giải thích tiếp:
– Cô cũng nên nhớ, những nỗ lực của chúng ta hiện nay chỉ là một trong muôn ngàn nỗ lực khác đang cùng nhắm chung một mục đích. Chúng ta không độc tôn và chúng ta cũng không phủ nhận những phương thức quang phục quê hương khác. Trước một quang cảnh hoang tàn, đổ nát, ai góp được phần nào thì cứ góp, giản dị vậy thôi.
Những tư tưởng ấy của ông Năm Tỏa đã soi sáng cho Nguyệt rất nhiều, đã rút ngắn cho nàng một khoảng thời gian rất dài trên còn đường tự khai phá hay nhận thức. Nó cũng đem lại cho nàng một cảm giác yên ổn, tin cậy khi đặt chân vào thế giới của những người đồng tư tưởng với ông Năm. Nàng hân hoan đi vào khoảng ánh sáng của ngọn đèn dầu lù mù tỏa ra ở trong phòng và có cảm giác như đi vào một vùng hào quang sáng chói.
Bất chợt Nguyệt ngạc nhiên đến tưởng như mình vừa bị ai bóp thắt lại ở trái tim. Ngay trước mặt nàng, ở chỗ gần bị che lấp một nửa trong bóng tối Nguyệt trông thấy một người đàn ông trung niên. Người đàn ông ấy cũng đang nhìn Nguyệt đăm đăm với một nụ cười hiền hoà tỏa trên khuôn mặt phong sương, khắc khổ.
Nguyệt không thể lầm được, vì ông ta trước đây ở ngang gần xế nhà nàng.
Ông ta là một đại úy trong Quân đội.
Ông ta đã trình diện học tập cải tạo như mọi người, nhưng sau đó, có tin ông ta đã trốn trại từ đầu năm ngoái...
Beaverton, Oregon ngày 26-3-1988
Nhật Tiến