← Quay lại trang sách

CHƯƠNG IX

Đã lâu lắm, Nguyệt mới lấy lại được sự thanh thản và niềm vui khiến nàng xao động trong lòng. Nàng trở lại cơ sở ngành in số 10 với một vẻ tự nhiên, vui vẻ như một kẻ ốm dậy nay trở về với công tác thường ngày. Nàng đã gặp lại mọi người, từ các công nhân trẻ đến bác thợ in già. Ai cũng vồn vã hỏi thăm nàng sau những ngày vắng mặt. Trừ ông Hồng Phát, dĩ nhiên. Ông ta lẩn mặt nàng thấy rõ. Mà thật ra, nghĩ đến ông, Nguyệt thấy máu của mình sôi lên. Đúng là một thứ ký sinh trùng, sống dai dẳng ở bất cứ thời đại nào, kể cả thời đại Xã Hội Chủ Nghĩa. Nhờ luồn lọt và vung vãi tiền bạc, ông ta trở nên quen nhiều, biết rộng, địa bàn hoạt động mánh mung mở sang nhiều lãnh vực khác chứ không chỉ thuần túy trong ngành in. Khi được tin Nguyệt họp các đoàn viên trong chi đoàn lại để thông báo về việc nàng sẽ thuyên chuyển công tác, ông hết sức sợ hãi. Ông suy luận rằng khi Nguyệt trở thành cộng sự viên đắc lực của Sáu Thu (và tình nhân của Sáu nữa) thì lúc đó, ông sẽ trở thành con chó dưới chân bà chủ mới. Nếu Sáu Thu hớ hênh tiết lộ ra rằng việc làm mờ ám vừa qua đã có sự tiếp tay, sắp xếp của ông thì số phận của ông sẽ như trứng để đầu đảng. Nguyệt là con người có dư thủ đoạn để sai khiến Sáu Thu làm cho cuộc đời của ông tàn mạt. Ông chỉ cầu mong sự việc ấy đừng sớm xẩy ra, để ông có thì giờ leo cao hơn nữa trên nấc thang liên hệ với những cán bộ Cách Mạng. Ngày nào ông móc nối được với những giới chức có thẩm quyền cao hơn thì ngày ấy đến Sáu Thu cũng chẳng là gì đối với ông chứ đừng nói chi tới Nguyệt. Đối với ông, chuyện ấy chỉ là vấn đề thời gian. Cán bộ cách mạng mua dễ hơn «ngụy». Ít ra, kinh nghiệm của ông, cho tới lúc đó, đã khiến ông kết luận như vậy.

Họp xong ban chấp hành Chi đoàn, Nguyệt đi ngay chỗ Toàn, khẽ rỉ tai:

– Em muốn được gặp anh.

Toàn ngừng tay xếp chữ, nhìn Nguyệt dò hỏi. Nguyệt tiếp:

– Không có chuyện gì quan trọng đâu. Em muốn chúng mình thả rong, tán chuyện gẫu một lần.

Toàn ngạc nhiên, nhưng cũng mỉm cười:

– Anh đã chờ đợi chuyện ấy từ lâu. Bao giờ?

– Tối mai đi! Anh có thể rủ cả anh bạn nhà văn miền Bắc của anh.

Toàn tiu nghỉu:

– Ủa! Anh tưởng chỉ thả bộ hai đứa? Nguyệt mỉm cười:

– Anh không nhớ sao? Bây giờ mình là bạn mà. Bạn đâu chỉ cần có hai đứa.

Mặt Toàn buồn thiu. Chàng ngẫm nghĩ rồi nói:

– Thôi thế hẹn tối mai ở nhà anh. Anh nhờ mẹ nấu cái gì cho chúng mình ăn luôn thể.

Nguyệt vui vẻ:

– Thế lại hay! Mình sẽ gặp nhau tối mai, khoảng bẩy giờ.

*

Đấy là lần đầu tiên Nguyệt chính thức gặp gỡ Phạm Ngọc Hoàng, mặc dầu nàng đã nhiều lần chào hỏi một cách xã giao khi anh ta tới nhà in làm việc. Hoàng trạc gần bốn mươi, nước da trắng trẻo, vẻ mặt thanh tú với vầng trán thật cao có những sợi tóc rủ lòa xòa trông đầy vẻ nghệ sĩ. Hoàng đeo kính cận, gọng kính mầu đen che gần lấp đôi lông mày rậm và cong. Miệng Hoàng tươi tắn, nụ cười luôn luôn nở trên vành môi hơi dầy, đượm đôi chút ngạo nghễ. Chàng có đôi mắt thật sáng, nhìn ai như xoáy vào tâm hồn người ta, khiến nhiều người đối diện nếu nhút nhát sẽ cảm thấy bối rối, ngượng nghịu. Sự xuất hiện của Nguyệt càng làm cho đôi mắt của

Hoàng sáng hơn. Chàng lộ vẻ sững sờ ra mặt khi thấy Nguyệt bước vào. Mái tóc của Nguyệt bồng bềnh như mây. Những sợi tóc xỏa xuống đôi bờ vai thon và phủ ngang thân hình mềm mại, uyển chuyển. Hôm nay Nguyệt cũng chỉ trang điểm một cách kín đáo với một lớp phấn mỏng nên hai gò má vẫn trắng mịn màng và đôi môi mọng chỉ phơn phớt màu anh đào. Khi nàng cười, hai hàm răng của nàng đều đặn, trắng muốt. Quả thật, Nguyệt đã khiến Hoàng ngơ ngẩn. Kể từ khi vào miền Nam, Hoàng đã gặp và tiếp xúc với nhiều người đẹp, nhưng Nguyệt là người đẹp nhất theo ý chàng. Điều này khiến chàng trở nên lúng túng, ngượng nghịu mất đi vẻ hồn nhiên hoạt bát mọi ngày. Toàn giới thiệu xong thì đi vào nhà trong để chuẩn bị đồ ăn. Còn lại hai người, chưa một ai chịu lên tiếng trước. Sau cùng, Nguyệt đã nói:

– Tôi nghe anh Toàn nói khá nhiều về anh. Nếu không được biết trước, có lẽ tôi sẽ cho rằng anh sinh trưởng ở miền Nam.

Hoàng mỉm cười:

– Cái gì làm cho cô có cảm tưởng như vậy?

– Ở cung cách ăn mặc của anh, ở cử chỉ và hình dáng bên ngoài của anh. Như hôm tôi gặp ông Phạm Tiến Duật, tác giả bài thơ đã được phổ nhạc nổi tiếng là bài Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây. Trông ông ta cũng giống y chang như người Sài gòn vậy, đâu có ngờ ông ấy lại là Trung úy, Đảng viên.

– Vẻ bề ngoài thì thay đổi cũng dễ thôi. Cái vấn đề là ở chỗ bên trong cái đầu có giống không ấy chứ.

Nguyệt kêu lên:

– Á à! Cái này thì còn phải xét lại đấy ạ. Mấy ông miền Bắc đầu có sạn hết, chứ đâu có ngây thơ vô tội như dân miền Nam.

– Ai bảo với cô rằng dân miền Nam ngây thơ. Tôi thấy đồng bào ở đây khôn «thấy mồ».

– Khôn ở chỗ nào kia chứ?

– Thì cô cứ nhìn ra phố mà xem. Đánh tư sản, cải tạo thương nghiệp xong, thế mà chợ trời vẫn tràn ngập hàng hóa, chợ đen chợ đỏ từng bừng. Cán bộ hủ hóa là cứ chui vào rọ tư sản hết.

– Theo anh thì cái khôn ấy là đúng hay sai?

Hoàng không trả lời thẳng vào câu hỏi ấy của Nguyệt:

– Cô còn nhớ trò chơi rồng rắn ngày xưa không? Cho khúc đầu cùng xương cùng xẩu, cho khúc giữa cùng máu cùng me, cho khúc đuôi tha hồ mà đuổi. Miền nam là khúc đuôi đấy.

Nguyệt kêu lên:

– Những người như anh mà cũng mê tín dị đoan cơ à?

– Không đâu. Tôi chẳng phải là người tín dị đoan.

Nhưng tôi thấy nó hợp tình, hợp cảnh.

– Vậy là anh cho rằng miền Nam khó mà trở thành xã hội Xã Hội Chủ Nghĩa như miền Bắc?

– Gớm! Nói chuyện với cô hãi «thấy mồ» đi. Cái gì cô cũng muốn cột chết con nhà người ta.

Nguyệt mỉm cười, tự nhận xét rằng anh chàng này có nhiều điểm dễ mến:

– Anh đừng có lo. Tôi không làm biên bản để kiểm điểm anh đâu.

Hoàng cười:

– Cô làm tôi nhớ đến dân Hà nội hồi năm 1954. Hơi một tí là biên bản, là kiểm điểm, là phê bình. Trò chơi ấy khi mới thì ai cũng sẵn sàng tham gia. Bây giờ thì chán rồi.

– Anh nói vậy có nghĩa là bây giờ ở ngoài Bắc, người ta có quyền tự do ăn nói.

– Nếu mà được như thế thì... thì đâu còn là Xã Hội Xã Hội Chủ Nghĩa. Ý tôi muốn nói là nó không còn khét lẹt như hồi đầu dân chúng tập tành chơi trò chính trị. Càng về sau, cái đó càng giảm đi, người ta chỉ cần giữ gìn khi vô một buổi họp. Lúc ra ngoài rồi, thiếu gì kẻ tuyên bố linh tinh. Miễn là đừng đụng đến những vấn đề cốt lõi của chế độ.

Nguyệt mỉm cười:

– Anh có vẻ như không hào hứng lắm về Xã Hội Xã Hội Chủ Nghĩa nhỉ.

Hoàng hỏi ngược lại:

– Còn cô! Cô có cảm thấy hào hứng không?

– Trước thì có. Bây giờ thì không.

– Cũng dễ hiểu thôi. Ở đây một thời gian, tôi cũng đã thấy như vậy. Miền Nam theo tôi, đã hoàn toàn khác biệt so với sự hiểu biết của tôi trước khi tôi vào đây.

– Anh thấy Sài gòn trong anh tệ đi hay khá hơn, so với trước đây anh mường tượng ra.

– Dĩ nhiên là khá hơn nhiều so với những gì mà người ta tuyên truyền, bóp méo trước đây. Trước hết là về trình độ. Người miền Nam quan tâm nhiều đến những vấn đề trong đời sống hơn là miền Bắc. Ý tôi muốn nói là những vấn đề thuộc nhiều lãnh vực, như văn hóa, chính trị, kinh tế...

– Tôi tưởng quần chúng ở Thủ Đô Hà nội thì cũng thế chứ.

Hoàng lắc đầu:

– Không đâu! Do hoàn cảnh thiếu thốn, hầu hết dân Hà nội chỉ quan tâm đến những chuyện thiết thân đến đời sống của chính họ, chả hạn như vấn đề tem phiếu, vấn đề nhu yếu phẩm, vấn đề hàng hóa cung cấp ngoài tiêu chuẩn. Còn chuyện chính trị quốc tế, quốc nội thì tuyệt nhiên không.

– Tại sao vậy?

– Vì chẳng có cơ hội để biết, hoặc nếu có biết thì cũng chẳng nên luận bàn. Gieo rắc một vài ý nghĩ mới vào trong đầu, chẳng ích lợi gì mà có khi phiền phức. Trong buổi họp, lỡ buột mồm nói ra là thấy có vấn đề ngay.

Nguyệt bùi ngùi:

– Dân Sàigòn thì rồi cũng sẽ rơi vào hoàn cảnh tương tự.

– Tôi không tin là vậy. Miền Nam khác miền Bắc. Không thể lấy miền Bắc làm dẫn chứng cho tương lai của miền Nam được.

– Đó là ý nghĩ của riêng anh hay của nhiều người.

– Của nhiều người. Nhận xét này khá phổ biến.

– Nếu miền Bắc, như anh nói, dân chúng ít quan tâm đến vấn đề văn hóa. Vậy vai trò của các nhà văn miền Bắc là gì?

Hoàng cười:

– Là cung ứng những món ăn tinh thần cho quần chúng trong khi quần chúng không thấy cần thiết những thứ đó.

– Cũng như bán áo lạnh ở xứ nóng quanh năm phải không?

– Gần đúng như thế, nhưng không đúng hẳn. Vì bán áo, có thể mua, có thể không mua. Người ta có toàn quyền tự do để lựa chọn hai thái độ ấy. Còn sản phẩm văn nghệ miền Bắc thì khác. Không muốn đọc cũng phải đọc. Sự đọc không mấy khi biểu lộ nhu cầu đọc sách mà phần lớn vì muốn trình diễn lập trường chính trị của mình. Đó là nói về những tác phẩm sáng tác chứ không phải những loại sách kỹ thuật. Sách kỹ thuật thì có khác hơn.

– Vậy nhà văn đâu có chỗ đứng trong xã hội?

– Có chứ sao không. Có thể quần chúng không cần nhà văn nhưng Đảng cần, nhà nước cần.

Nguyệt kêu lên:

– Vậy văn nghệ sĩ là công cụ của nhà nước rồi còn gì. Hoàng nhún vai:

– Điều đó dễ hiểu thôi. Vì văn nghệ Xã Hội Chủ Nghĩa là nền văn nghệ có tính Đảng. Văn nghệ không có tính Đảng sẽ chả bao giờ được ấn hành thành sách hết. Rút cục chỉ còn một cánh cửa duy nhất là đăng bài trên những tờ báo nghiệp dư. Cũng không nói được gì nhiều, nhưng có còn hơn không.

Nguyệt kêu lên:

– Ô! Thế ra trong Xã Hội Chủ Nghĩa cũng còn có kẽ hở à?

– Có chứ sao không. Làm sao nhà nước có thể ngăn chặn hết thẩy mọi điều. Tuy nhiên cũng đừng vì thế mà chủ quan. Những kẽ hở nếu có thì cũng chỉ là những kẽ hở chấp nhận được.

– Vậy khi chấp nhận một văn nghệ có tính Đảng, nhà văn có còn tự do sáng tác nữa không? Nếu không, tại sao nhà văn vẫn lựa chọn công việc cầm bút?

– Có hai câu trả lời riêng biệt cho câu hỏi này. Trước hết là vấn đề tự do. Tự do hiểu theo quan niệm của miền Bắc thì không phải là ý niệm xuất phát từ cảm xúc bên trong con người mà là sự quan hệ giữa người với người trong xã hội. Bởi vì nếu tự do xuất phát từ sự rung cảm nội tâm, độc lập với hiện thực khách quan bên ngoài thì giữa chủ nô và nô lệ đều có tự do như nhau. Từ tiền đề này, những người Mác xít đẩy thêm một bước nhận thức nữa (và điều này đã khiến cho văn nghệ sĩ lao đao, khốn khổ vì hai chữ tự do), đó là con người đã có tự do thì phải nhận thức được sự tất yếu trong quá trình đi lên của lịch sử loài người. Nói khác đi, trong tự do có nội dung tất yếu. Mà cái tất yếu đó là gì? là sự mâu thuẫn giữa tư bản và vô sản tất yếu sẽ bùng nổ, chế độ tư bản sẽ tất yếu bị tiêu diệt, chế độ cộng sản tất yếu sẽ thay thế. Con người góp phần tích cực vào công cuộc làm cho điều tất yếu đó mau chóng xẩy ra là con người có tự do. Điều này dẫn tới kết quả là người văn nghệ sĩ dưới chế độ miền Bắc có quyền tự do ca ngợi Bác, ca ngợi mô thức Xã Hội Chủ Nghĩa, bước đầu của cộng sản chủ nghĩa nhưng họ không có quyền ca ngợi những cái đối nghịch. Do đó, nếu cô hỏi rằng miền Bắc có tự do sáng tác hay không thì cũng sẽ có những người tự hào vỗ ngực rằng họ có tự do. Bởi họ đã chọn lựa con đường mà họ đi theo.

Nguyệt nheo mắt:

– Riêng anh thì sao?

– Với tôi, tất cả những khuôn phép, những thành kiến, những cực đoan một chiều đều hạn chế tự do. Miền Bắc tận diệt phong trào nhân văn giai phẩm mới chỉ vì lý do các nhà văn nhà thơ trong phong trào này đánh trúng những nhược điểm của giới lãnh đạo, chỉ rõ ra những sai lầm của Đảng và nhà nước, chứ thực ra, họ chưa đụng gì đến cái nội dung kinh điển về sự «tất yếu» cả. Họ mới chỉ đặt vấn đề chính sách với Đảng và nhà nước thôi, mà chưa chi đã bị bứng cả gốc lẫn rễ, điều đó nói lên rằng không có gì khác hơn về bản chất của chế độ miền Bắc là bản chất chuyên chính, một từ ngữ mỹ miều hơn của hai chữ độc tài.

– Vậy sang phần hai của câu hỏi, một chế độ như vậy, tại sao anh và các bạn bè của anh vẫn còn tiếp tục cầm bút?

– Ở một xã hội đóng khuôn như vậy, con người không có cơ hội thoát ra thì vẫn phải tìm một phương thức mưu sinh để tồn tại. Viết cũng là một phương thức để mưu sinh như mọi ngành khác. Điều này dẫn tới hậu quả là người ta viết mà không tin tưởng những điều mình viết, cũng như ngoài sinh hoạt xã hội, người ta nói năng, phát biểu nhưng không tin những điều mình nói. Xã hội miền Bắc là một xã hội có hai mặt, hoàn toàn đối lập nhau. Mặt khác, dù là văn nghệ miền Bắc phải tuân theo chủ nghĩa giáo điều, nhưng cũng có nhiều điều có thể viết lên được mà không động chạm gì đến những vấn đề kinh điển. Chả hạn ca ngợi những phẩm chất của người nông dân, đề cao hình ảnh lao động làm ra của cải vật chất của người công nhân vô sản... vân vân... Tình yêu cũng có chỗ đứng trong xã hội chủ nghĩa, miễn là thêm mắm thêm muối một chút lập trường. Tình gia đình cũng là một đề tài có thể khai thác. Nói rằng người cộng sản chủ trương vô gia đình là sai. Họ chỉ nói lợi ích gia đình gắn liền với lợi ích xã hội trên cơ sở của chế độ công hữu tư liệu sản xuất thôi.

Nguyệt hỏi tiếp:

– Tuy không được cầm bút nói lên những điều muốn nói, nhưng hẳn các anh cũng có những ước mơ chứ.

Hoàng kêu lên:

– Đã là người, ai lại chẳng có ước mơ. Bọn bạn bè chúng tôi, tuy bị hạn chế trong công tác viết lách nhưng cũng rất gần gũi với nhau trong đời sống riêng tư. Chúng tôi không có tình đồng chí thắm thiết, nhưng lại có tình bạn bè rất đậm đà. Chúng tôi có thể trao đổi với nhau tất cả những gì muốn trao đổi. Chúng tôi có những sáng tác chỉ để đọc riêng cho nhau nghe, cùng với nhau thưởng thức trong vòng hạn hẹp. Hầu như ai cũng ước mơ về một tương lai đổi mới, về một nền văn nghệ rộng rãi, về sự trả lại bầu không khí trong sáng của thời đại làm nên những tác phẩm lớn như Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Hồ Xuân Hương. Thời đại bây giờ có quá nhiều cây cổ thụ văn nghệ, chiếm lĩnh văn đoàn với một thể xác già nua, một trí não cằn cỗi, bệnh hoạn, che lấp cả ánh sáng để cho những mầm non vươn lên.

Nói đến đây, chợt Hoàng kêu lên:

– Mới gặp cô Nguyệt lần đầu mà bị quay như chong chóng. Cô phải dành thì giờ cho tôi «chất vấn» lại cô chứ.

Nguyệt mỉm cười:

– Hãy cứ từ từ. Bây giờ Nguyệt đói quá rồi. Để phải chạy xuống xem ông Toàn cần gì thì giúp một tay, chứ một mình ông ấy lại hụi thì đói meo ra mất.

Bữa cơm sau đó diễn ra hết sức thân mật, cởi mở, mặc dầu Toàn thỉnh thoảng vẫn tỏ ra băn khoăn vì sự vui vẻ, nô rỡn «bất thường» của Nguyệt. Chàng nói:

– Nguyệt ạ. Anh có cảm tưởng như em vừa trở thành một con người khác.

– Khác ở chỗ nào? Em vẫn là em.

– Khác chứ, ngày trước lúc nào em cũng lạnh như tảng băng.

Hoàng chen vào:

– Bây giờ thì cô Nguyệt có thể cho phép tôi được hỏi đôi điều chứ?

– Anh muốn «khảo» gì thì cứ «khảo».

Hoàng nói:

– Tôi được biết cô là một cán bộ đắc lực bên Thành Đoàn. Điều này tôi không lạ. Tôi chỉ lấy làm lạ tại sao một người xuất thân từ tiểu tư sản như cô, lại mau chóng có thể hoạt động hữu hiệu được như thế.

– Công việc không có gì khó. Chưa có gì ra ngoài khả năng vốn có của tôi.

– Khả năng là một chuyện, nhưng cái đầu mới là chuyện chính. Cô phải có động cơ suy nghĩ nào đặc biệt lắm thì mới có thể đem hết khả năng của mình ra phục vụ cho chế độ mới.

Nguyệt ngẫm nghĩ một lát rồi trả lời:

– Theo Nguyệt, ngày 30 tháng 4 năm 1975 là một cơ hội để mọi người cùng bắt tay vào công cuộc xây dựng lại quê hương sau chiến tranh nếu như chính phủ Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam VN vẫn được duy trì. Tâm tình của Nguyệt cũng gần giống như tâm tình của người dân Thủ đô Hà nội đón tiếp đoàn quân tiến vào giải phóng thủ đô năm 1954 vậy.

Toàn cãi:

– Năm 1954, dân Hà nội chưa biết mùi Cộng sản là gì. Năm 1975, người miền Nam đã kinh qua cả một cuộc chiến chống cộng. Hai hoàn cảnh hoàn toàn khác nhau chứ.

Nguyệt đáp:

– Đồng ý là khác nhau, nhưng hãy mổ xẻ cho kỹ cái gọi là cuộc chiến chống cộng. Cái thành phần coi như việc chống cộng là một lý tưởng, một nghĩa vụ bắt buộc phải làm chỉ là một thiểu số, vừa có kinh nghiệm với Cộng sản, vừa có lý tưởng đấu tranh. Họ là những thành phần thuộc các đảng phải, các tôn giáo và các gia đình nạn nhân của những cuộc đấu tố, thủ tiêu diễn ra ở miền Bắc trước đó. Một thành phần chống cộng trực diện khác với những sự hy sinh cao cả là những chiến sĩ chiến đấu gian khổ ngoài mặt trận. Tiếc thay, đem gộp lại, tất cả cũng vẫn chỉ là thiểu số. Trong khi ấy, tình trạng bất công xã hội, sự tham nhũng, thối nát, sự yếu kém, tồi tệ của các chính quyền liên tiếp thay đổi đã làm cho chính nghĩa chống cộng càng ngày càng mờ đi. Đa số quần chúng, đặc biệt là quần chúng ở đô thị thì thờ ơ, ngoại cuộc, coi công cuộc chống cộng là một nhiệm vụ khoán trắng cho chính quyền. Vì thế mới sinh ra cái thảm cảnh trong lúc thủ đô tưng bừng nhảy nhót, tiệc tùng, đú đởn thì ở tiền đồn cách đó không xa, vẫn có những người lính ngã gục trong âm thầm như những chiến sĩ vô danh.

Có thể nói, tập thể binh sĩ và gia đình của họ là một trong những thành phần bị bạc đãi nhất dưới chế độ cũ. Mặc dầu có lương bổng và được mua hàng Quân Tiếp Vụ, nhưng thu nhập của họ và gia đình chẳng thấm tháp vào đâu so với vật giá cứ mỗi ngày một leo thang vùn vụt. Hôm nay giá hộp sữa là ba đồng. Bọn gian thương tung tiền ra mua ráo trọi rồi chất trong kho. Vài tuần sau, khi sữa đã trở thành khan hiếm, chúng tung trở lại thị trường với giá cắt cổ. Lương của lính đã bị bóc lột nay lại bị bóc lột thêm một tầng nữa. Gian thương trở thành giầu sụ, cấu kết với bọn có quyền thế tha hồ mặc sức thao túng trên mồ hôi, xương máu của chiến sĩ và gia đình chiến sĩ. Đã có những người vợ lính phải bán mình ngay ngoài Tổng Y Viện để lấy tiền mua nước biển cho chồng thương binh. Đã có những con lính phải bỏ học, đi ở đợ hoặc đi lang thang ở đầu đường xó chợ để mưu sinh. Bên cạnh đó là hình ảnh tồi tệ của một số tướng lãnh, như Quế Tướng Công, như bọn Tướng tá buôn lậu, buôn súng đạn, thuốc tây chuyển sang cho hàng ngũ địch... Tất cả những thứ ấy không đem lại cho tôi được nhiều điều tự hào hay khích lệ trong chế độ cũ, mặc dù tôi sinh ra và lớn lên ở đó. Vậy thì khi chiến tranh chấm dứt, tôi có tình nguyện tham gia vào sinh hoạt xã hội mới cũng là điều dễ hiểu. Những người trẻ vốn cũng có nhiều ràng buộc với quá khứ nhưng không quá nặng nề để trở thành kẻ đứng bên lề xã hội.

– Cô cảm thấy toại nguyện về sự lựa chọn của mình chứ?

Nguyệt kêu lên:

– Anh định hỏi móc họng tôi hay sao mà dùng hai chữ toại nguyện. Ở đời này, có cái gì toàn bích để người ta toại nguyện đâu.

– Vâng, thì tôi rút lại hai chữ đó. Ý tôi muốn nói là trên một bình diện tương đối nào đó.

Nguyệt trầm ngâm một lát rồi nói:

– Anh đã có nhã ý thổ lộ hết tâm tình cho tôi nghe, thì tôi chả có lý do gì để dấu diếm anh cả. Thú thực với anh, tôi hoàn toàn thất vọng.

Hoàng ngạc nhiên:

– Ủa, sao vậy?

– Anh biết rõ câu trả lời mà.

Hoàng nhìn Nguyệt giây lâu rồi nói:

– Điều gì khiến cho cô thất vọng sâu xa nhất?

Tôi thấy xã hội này đã hình thành một giai cấp mới, đúng như ngày trước, một người Cộng Sản Nam Tư đã nhìn ra. Ông này hình như tên là Djilas, một thứ Tố Hữu của Nam Tư, người đầy uy quyền với trí thức Xã Hội Chủ Nghĩa. Nhưng ông ta đã can đảm khước từ mọi đặc quyền của mình để ly khai và viết cuốn Giai Cấp Mới. Cuốn này đã được dịch và đã được phát hành rộng rãi ở Sàigòn trước đây. Chỉ tiếc rằng nó không được mấy người đánh giá nó đúng mức, chẳng qua cũng chỉ vì nó là «Sách Chống Cộng». Đó là lầm lỗi chung của tất cả mọi người. Đó cũng là một nhược điểm lớn lao của miền Nam được gọi là thành trì chống cộng. Có thể nói, tuyệt đại đa số vẫn còn lơ mơ về hai chữ Cộng Sản. Bởi nếu ai cũng hiểu Cộng Sản như bây giờ thì còn khuya Cộng Sản mới đặt chân được vào Sàigòn. Cái gì cũng phải kinh qua thực tế thì mới gột bỏ được cái ngây thơ của mình.

Hoàng chen vào:

– Tôi hoàn toàn thông cảm được những người cùng chung một tâm trạng như Nguyệt, bởi vì ngày trước, tôi cũng đã từng ngây thơ như thế, nếu cứ gọi đó là một thái độ ngây thơ. Tuổi trẻ nhiều khi có lý lẽ riêng của họ. Cái lý lẽ của tâm hồn nồng nhiệt, của trái tim nóng hổi và của trí óc luôn luôn lý tưởng hóa những vấn đề trong cuộc sống. Tôi đã biết có những người say mê công tác đoàn thể mà không hề quan tâm đến vấn đề chính trị. Bởi họ tìm thấy niềm vui trong quan hệ hạn hẹp của một đơn vị. Họ không cần lý tới những cái gì ở ngoài tầm tay của họ. Cho nên họ «không tưởng». Và đến khi đụng vào thực tế, họ mới vỡ mặt.

Toàn buột miệng, buông một lời mỉa mai:

– Vậy bây giờ thì Nguyệt đã vỡ mặt chưa?

Như những lần khác thì Nguyệt đã không tha cho Toàn câu hỏi xóc họng này. Nhưng Nguyệt biết mình sắp ra đi, xa rời khỏi thành phố này, xa Toàn, xa bạn bè và những người thân yêu ruột thịt. Điều này khiến nàng trở nên dễ dãi hơn, nhường nhịn hơn. Nàng đáp:

– Anh cứ thử nhìn vào mặt em xem thì biết nó đã vỡ hay chưa. Em đã bươu đầu sứt trán gì đâu.

Toàn quả quyết:

– Cô sẽ bươu đầu, sứt trán nếu cứ còn tiếp tục đánh đu với tinh.

Nguyệt hỏi lại:

– Vậy theo anh thì cứ sống giả sống và mãi như thế này là thái độ khôn ngoan à? Chưa chắc đâu nhé. Sẽ có một ngày kể cả những kẻ ù lì, thụ động như anh, cũng sẽ bươu đầu sứt trán chứ không riêng gì ai. Nói chung, mỗi người nên làm một cái gi khác hơn là cứ tách ra bên lề như thế này. Chẳng hạn ra bưng, nếu có bưng mà ra. Chỉ sợ có bưng rồi, anh vẫn tiếp tục sống như thế, chả đổi thay gì...

– Cô Nguyệt nói đúng. Một khi đã tự nguyện chấp nhận thân phận của nạn nhân thì suốt đời cứ sẽ là nạn nhân mãi mãi. Mình phải chuyển từ thái độ chờ đợi để được ban ơn sang thái độ tích cực đòi hỏi, tranh đấu để đòi lại cái ơn sủng mà thực ra, chính đó là quyền lợi của mình chứ chẳng phải ai có quyền ban phát cho hết.

Nguyệt phấn khởi:

– Em đồng ý với anh Hoàng. Đó là con đường mà em chọn lựa. Đó là cứu cánh cuối cùng. Những hình thức tham gia công tác này nọ chỉ là phương tiện. Không có phương tiện làm sao thực hiện được cứu cánh.

Toàn vẫn chưa chịu:

– Cô ăn phải đũa những lập luận của người Cộng Sản. Cứu cánh biện minh cho phương tiện. Đó là cánh cửa mở ra cho cả một địa ngục tàn sát, bạo lực.

Nguyệt tức giận:

– Anh chụp mũ vô lối. Mỗi người có quyền lựa chọn cho mình một cứu cánh khác nhau. Cứu cánh mà em chọn lựa, không lấy bạo lực làm bản chất. Xứ sở này đã chịu đựng quá nhiều hậu quả của bàn tay bạo lực mà không giải quyết được gì. Nó chỉ càng chồng chất thêm hận thù và sự phân hóa.

Toàn cắt ngang:

– Đấu tranh với người Cộng Sản mà cô không nói chuyện bạo lực thì chả khác gì bầy ra một cuộc đối thoại giữa diều hâu và một lũ gà con.

Nguyệt cãi:

– Em nói không lấy bạo lực làm bản chất điều đó không có nghĩa là em chối bỏ phương tiện của bạo lực. Em chỉ muốn nói bạo lực không phải là phương tiện duy nhất, là con đường duy nhất tiến tới mục tiêu. Nếu chỉ chủ trương đó là con đường duy nhất thì máu sẽ phải đổ ra nhiều hơn là điều cần phải đổ. Nói khác đi, mình vẫn chấp nhận hy sinh xương máu nhưng đồng thời vẫn tìm cách làm giảm thiểu sự đổ máu, đó là sự khác biệt giữa mình và chuyên chính vô sản.

Ngưng một lát, Nguyệt nói tiếp:

– Muốn vậy, phải nâng cao trình độ hiểu biết, nhận thức của mọi tầng lớp cán bộ, quần chúng để họ thấy được rằng thế giới bên ngoài đã tiến bộ vượt bực không chỉ có quẩn quanh một mớ lý thuyết khô cằn, đã bị thực tế đào thải, để họ thấy rõ họ có đầy đủ quyền làm người chứ không phải trông đợi sự ban phát ơn huệ của bất cứ ai, để họ nhận chân được rằng họ không thể cứ kéo dài tình trạng bị bóc lột, cam chịu mãi thân phận của những tên nô lệ mới của một đẳng cấp cai trị mới. Quê hương chúng ta chỉ có thể đổi thay toàn diện khi đại đa số con người lột xác toàn diện, lột xác ra khỏi sự ngu dốt, thiển cận, lột xác ra khỏi những thiên kiến, cực đoan, hạn hẹp, lột xác ra khỏi sự thờ ơ, ù lì, thụ động. Đó là tất cả những hậu quả của một cuộc chiến tranh kéo dài và một đường lối thực thi chính sách cai trị độc tôn và độc đoán. Em tin là sự thay đổi con người một cách toàn diện ấy sẽ xẩy ra, nó chắc chắn sẽ phải xẩy ra. Khi đó, quê hương sẽ đứng trước một vận hội mới.

Toàn hỏi:

– Làm thế nào chúng ta có thể thực thi được công cuộc lột xác ấy?

Hoàng tranh lấy trả lời:

– Con đường văn hóa! Cả trong nước lẫn ngoài nước! Tôi hình dung ra rằng nếu chủ lực cách mạng phải nằm ở trong nước thì chủ lực văn hóa nên trao cho những người ở bên ngoài nước. Tác phẩm của những nhà văn hóa ở hải ngoại trong quá khứ đã có nhiều đường dây để thâm nhập trở về quốc nội và ta phải gia tăng những đường dây ấy với sự tiếp tay của lực lượng chủ lực ở trong nước. Ngoài ra ở hải ngoại, những người làm văn hóa cũng phải vạch ra được một con đường văn hóa mới, nhằm thay đổi bầu không khí đơn điệu cứ kéo dài mãi những nhiệm vụ mà nó đã hoàn tất tốt đẹp trong nhiều năm qua. Nó phải có một hướng đi dựa trên hoàn cảnh mới, tâm thức mới, để phù hợp với những thay đổi về phía quần chúng (chứ không phải về phía lãnh đạo) sau những năm mòn mỏi, kiệt quệ, và sau khi cái hàng rào ngăn cách giữa «Cách Mạng» và «Ngụy» đã mặc nhiên được quần chúng gỡ bỏ, do ở sự thông thương dễ dãi giữa hai miền, do ở sự liên hệ chằng chịt, phức tạp giữa những gia đình và bạn bè, và do ở cả sự nhận chân được ra rằng cái gọi là «Cách Mạng» của những người cộng sản, thực ra chẳng có gì ghê gớm, cao cả như trước đây người ta tưởng tượng.

Toàn kêu lên:

– Cả hai người làm như đang thảo một tuyên ngôn văn hóa.

Nguyệt dẫu mồm:

– Những điều vừa mới nói có thể chứa đựng trong một tuyên ngôn văn hóa thì đã sao? Chỉ có vấn đề là em với anh Hoàng không đủ tư cách để làm một tuyên ngôn văn hóa. Một tuyện ngôn như thế, còn phải được hình thành bởi nhiều người có cùng chung một ý hưởng. Em chỉ góp phần suy nghĩ của mình trong ý hưởng đó mà thôi.

Hoàng tiếp:

– Cái ý hướng này, theo chỗ tôi thấy, nó đang được hình thành bởi những người cầm bút còn có lương tri ở quốc nội. Bản tuyên ngôn của Nhóm Văn Nghệ chân đất ở miền Bắc đã được phổ biến ở Paris cách đây ít lâu là một bằng chứng cụ thể. Ngoài ra, còn có những nổ lực âm thầm khác, những người cầm bút ở đây, tuy bị hạn chế, nhưng họ chưa đầu hàng, chưa bẻ bút. Họ vẫn âm thầm nung nấu sự phản nộ cũng như niềm mơ ước của họ. Rồi có ngày họ sẽ viết ra.

Nguyệt nói:

– Các anh trong giới nhà văn, có thể được đọc những bản tuyên ngôn ấy như một thứ tài liệu. Dân chúng ở ngoài không ai được hay biết gì hết.

Hoàng nói say sưa:

– Tôi không chỉ đọc, mà chúng tôi còn nghiền ngẫm, chúng tôi còn thuộc lòng những dòng văn bi tráng ấy. Tôi có thể nhắc lại những đoạn đáng chú ý: «Chúng tôi, những người cầm bút trẻ nhưng chưa một ai có nổi một đầu sách, một tập thơ nhỏ được xuất bản. Điều đó chẳng phải chúng tôi không biết viết mà bởi vì chúng tôi không được viết, không được tự do nói lên những điều cần phải nói. Cũng bởi chúng tôi và những anh em văn nghệ sĩ trẻ ở miền Bắc không hề có trong tay bất kỳ một phương tiện nào ngoài những đêm không ngủ với trái tim chất đầy những khát khao muốn nói lên sự thật của đất nước.... «Mọi con người, nếu đã là con người, phải được quyền nói lên tất cả những gì của con người. Nghệ thuật dành cho trái tim con người và nó sẽ sống cho sự tốt đẹp của con người». «Chúng tôi, nhóm Văn Nghệ «Chân đất», với những bàn chân không giày, những con mắt bị bịt kín, những cái mồm không được nói, và những cái đầu đói khát tự do, không đành để mình và tất cả bị nhào nặn thành những tên hề của lịch sử. «Chúng tôi, những con người vốn sinh ra như con người dưới ánh mặt trời muôn thủa, kêu gọi tất cả mọi sáng tác phẩm được viết phải dành cho mọi trái tim yêu thương chứ không dạy mọi người phải căm thù và chuyên chính! Với bộ ngực trần, chúng tôi tuyên chiến với mọi thứ văn hóa bịp bợm, lố bịch đang ngày đêm làm bẩn bầu không khí xung quanh chúng ta. Hãy chống mọi thứ ô nhiễm đang đầu độc nền văn hóa 4000 năm!»

Toàn trầm ngâm rồi nói tiếp:

– Chúng ta đâu cần gì phải dài dòng. Chỉ ngần ấy câu, ngần ấy ý thôi cũng đủ trở thành một tuyên ngôn văn hóa.

Bầu không khí trong căn phòng trầm lắng hẳn xuống. Đầu óc ba người như đặc sệt lại vì những ý tưởng vụt bừng lên chói chang như được soi rọi bởi ánh sáng rực rỡ của một ngọn đuốc mới. Toàn mang đầy cảm giác sững sờ. Nguyệt thì thấy choáng váng như vừa được nhấp một ngụm men say. Hoàng thì say sưa, ngây ngất như chính chàng là tác giả bản Tuyên Ngôn, là một thành viên của Nhóm Chân Đất đang truyền đạt đi những tư tưởng của chính chàng trước quần chúng đang khát khao một vận hội mới.

Một hồi sau, Nguyệt mới lên tiếng trước, trong một niềm xúc động khôn tả:

– Em cám ơn anh Hoàng đã cho em thấy thêm nhiều khía cạnh có ý nghĩa trong đời sống khốn cùng của xã hội hiện nay. Em càng tin tưởng hơn ở ý nghĩ «Hãy cứ khởi hành đi, rồi thì sẽ có bạn đồng hành».

Hoàng cười rạng rỡ:

– Tôi đồng ý với ý nghĩ ấy của cô. Hãy cứ khởi hành đi rồi thì sẽ có bạn đồng hành. Nếu cứ chờ nhau sẽ chẳng bao giờ có bước khởi đầu cả.

Nguyệt mỉm cười, giọng bí mật:

– Vậy thì ngày mai, Nguyệt bắt đầu khởi hành. Em sẽ không bao giờ quên những giờ phút đầy ý nghĩa ngày hôm nay. Các anh hãy chúc Nguyệt nhiều may mắn nhé!

Nói xong câu này, Nguyệt chợt nhận ra rằng những tình cảm của nàng dành cho Toàn bây giờ cũng chỉ như đối với Hoàng. Nàng quí mến hai người như nhau, như những người bạn có thể tin cậy được. Nàng cũng chẳng buồn kiểm chứng lại xem từ bao giờ, tình yêu của nàng đối với Toàn đã chắp cánh bay đi!