- 2 -
Hoàng theo Ánh ra ngồi dưới trụ đèn, vi chỗ bán hàng lúc nãy đã bị nước mưa đọng lại thành vũng.
Câu chuyện thân mật lại tiếp tục giữa đôi bạn tâm tình. Có khách đến ăn, Ánh rối rít bán hàng, Hoàng đến giúp Ánh trong vài việc nhỏ, rót rượu mời khách, nướng khô mực, rửa ly rửa đĩa trong một chậu nước. Khách đi rồi, hai người lại rù rì trò chuyên. Hoàng hỏi:
- Má không đi bán với Ánh?
- Dạ, má em bán ngoài bến tàu. Em rầu cho má em lắm anh ạ, dạo nầy bả mèo với một ông nào đó mà em ghét quá!
- Sao Ánh ghét người ta?
- Người gì mà tướng mạo như du côn! Nghe nói chú ấy làm cai ở Bến Tàu, không biết cai gì, mà coi bộ có nhiều ‘‘em út’’ làm phu khiêng vác. Anh biết không, bữa nọ ổng đến nhà em nói với má em rằng ổng sẽ giới thiệu cho em một người đàn ông có nhiều tiền!
Ánh cười nói tiếp:
- Ổng làm đâu như em thích những người đàn ông có nhiều tiền!
Hoàng cũng cười:
- Thời buổi kim tiền, đa số con gái đều muốn lấy chồng giàu, chớ có ai ngu dại gì mà đi lấy chồng nghèo.
- Phải, em cũng đồng ý với anh. Nhưng mà...
Có bốn người khách kéo đến ngồi xuống ghế, bảo Ánh dọn ra một chục hột vịt lộn. Ánh đếm lại trong rổ còn đúng mười hai hột, liền mời khách:
- Cháu còn mười hai hột, mời mấy bác dùng hết nhé?
- Ừ, thì cô nương cho hết mười hai hột đi.
- Các bác uống rượu không?
- Có chớ! Cô nương cho tụi tui bốn ly.
Hoàng sốt sắng gìúp Ánh, lấy bốn ly nhỏ trong thúng ra để trên ghế dài, lấy chai rượu đế rót ra ly.
Ánh thì dọn ra hai dĩa hột vịt lộn, một dĩa rau rămr một dĩa muối tiêu. Trong lúc bốn người khách ăn nhậu và trò chuyện om sòm, Ánh lo thu dọn gánh hàng để sửa soạn đi về.
Nửa giờ sau, mấy người khách mới ăn xong. Ánh bảo Hoàng
- Thôi em đi về đây, anh Hoàng. Em cảm ơn anh và chúc anh kiếm được việc làm thì em mừng cho anh.
- Hoàng đưa Ánh về nhé.
Ánh tủm tỉm cười:
- Cảm ơn anh Hoàng, em về một mình được mà,
- Hoàng đưa Ánh về, chúng ta cùng đi cho vui.
- Dạ cũng được, nhưng sợ mất công anh đi xa.
- Đây về An bình mà xa gì.
- Dạ... tùy anh.
Ánh kề vai vào đòn gánh bước đi nhẹ nhàng, uyển chuyển... Hoàng vui vẻ đi bên cạnh.
Dọc đường, Hoàng hỏi tiếp câu chuyện dở dang lúc nãy:
- Má dạo nầy có chồng khác rồi hả?
Ánh cười rất tự nhiên:
- Hai ông bà lấy nhau thật sự rồi, anh ơi!
- Ổng về ở nhà Ánh sao?
- Chưa ở hẳn, nhưng đi đi về về luôn. Em ghét lắm
- Sao Ánh ghét?
- Coi bộ ông ta lưu manh lắm. Nhậu nhẹt tối ngày, ăn nói thì tục tĩu!
- Ổng có thương Ánh bằng ba lúc trước không?
- Thương cái nổi gì chớ? Hạng người ấy mà biết thương ai? Mà em đâu có cần ổng thương? Cái thứ cha ghẻ mà ăn thua gì, anh!
- Cha ghẻ cũng tùy theo hạng chớ. Cha ghẻ của thằng Bông sao vẫn cưng thằng Bông như con ruột đó thì sao?
- Người ta có học thì khác chớ. Với lại cũng tùy theo hoàn cảnh. Cái ông nầy thì em thấy mặt là em ghét, không hiểu tại sao! Ai đời ổng cứ xúi má em bắt em đi làm chuyện tồi bại để kiếm tiền.
Hoàng ngơ ngác thực thà không hiểu:
- Chuyện gì tồi bại để kiếm tiền hở Ánh?
- Hoàng không hiểu sao? Nhưng em đâu có chịu. Nhiều khi chán nản, em muốn xin phép má cho em đi về ở quê của ngoại dưới Cần thơ, nhưng má không cho.
- Tại sao?
- Tại bả có một mình em là gái nên bả không muốn xa em. Em xin bả cho em đi học nữa, bả cũng không cho.
- Sao thế?
- Bả nói tiền đâu mà tiếp tục học? Bả hỏi em học nữa để làm gì, ai ở nhà lo cơm nước cho mà học?
- Hay là Ánh kiếm công việc gì làm miễn đủ tiền nuôi sống để có thì giờ học thêm? Tụi mình phải xây dựng một cuộc đời có ý nghĩa, chớ chẳng lẽ cứ như thế nầy mãi sao?
- Anh Hoàng tưởng em không biết nghĩ đến việc đó hay sao? Em cũng đã nhờ bạn bè kiếm giùm cho em một chỗ làm, như đứng bán hàng ban ngày để ban đêm tiếp tục đi học, nhưng kiếm chưa ra chỗ.
- Sao Ánh không tự mình đi kiếm việc? Con gái dễ tìm việc hơn con trai. Nhứt là Ánh có sắc đẹp nữa.
Ánh bẽn lẽn ngỏ Hoàng:
- Em mà đẹp gì, anh!
- Ánh đẹp lắm chớ, Hoàng nói thật đấy, không phải nói nịnh đâu. Ánh đi xin việc làm chắc được liền.
- Thời buổi nầy thất nghiệp hàng đống, xin việc làm đâu phải dễ, anh! Em đăng vào mục ‘‘Tìm việc’’ trong báo, một tuần rồi mà chẳng có ai kêu hết. Mấy con bạn của em, đỗ T. H. Đ. N. C. rồi, có đứa đỗ Tú tài I, cũng nằm nhà một năm nay đó! Em thấy em đi bán hàng rong thế nầy cũng tạm đủ sống được rồi, không cần phải đi làm đâu cả.
Câu chuyện đến đây thì đôi bạn đã gần đến nhà Ánh. Còn cách nhà độ mươi thước Ánh dừng bước, mỉm cười ngó Hoàng:
- Cảm ơn Hoàng đã đưa em đi một quãng đường xa.
Hoàng muốn đưa Ánh đến tận nhà nhưng Ánh bảo:
- Thôi, Hoàng à. Em không muốn hàng xóm trông thấy em đi với Hoàng, sợ họ hiểu lầm chúng mình. Cảm ơn Hoàng, và chúc Hoàng về ngủ ngon nhé!
Ánh bước đi một mình, duyên dáng với gánh hàng nhẹ nhỏm. Hoàng đứng lặng lẽ nhìn theo cho đến khi Ánh quẹo vào ngõ hẻm còn quay lại mỉm cười...
Gần một giờ khuya. Hoàng đủng đỉnh đi về, đầu óc liên miên nghĩ ngợi.
Chín giờ sáng hôm sau, Hoàng trở lại nhà Ánh. Ánh nóng lạnh, nằm mê man trên giường trùm mền kín mít. Hoàng vừa lấp ló toan bước vô cửa thì gặp má Ánh trong nhà đi ra:
- Cậu hỏi ai?
Hoàng ngượng nghịu đáp ;
- Dạ, thưa bác, cháu hỏi... Ánh.
Bà Tư Rỗ (bà con hàng xóm thường gọi má Ánh như thế vì hồi nhỏ bà đau trái rạ bị rỗ mặt), đăm đăm ngó cậu con trai lạ mà bà chưa gặp lần nào, coi bộ cũng nghèo nhưng mặt mày hiền lành dễ thương. Bà hỏi tiếp:
- Cậu là ai?
- Dạ thưa bác, cháu là bạn học cũ của Ánh ở trường Chợ quán.
- Mời cậu vô nhà. Con Ánh nó đau, nó nằm kia. Cậu hỏi nó có việc chi?
Hoàng thấy Ánh trùm mền trên chõng tre, không quậy cựa. Hoàng buồn bả, xót thương, nhưng không dám đến gần hỏi thăm cô bạn gái. Cậu chỉ hỏi bà Tư Rỗ:
- Thưa bác, Ánh đau sao?
- Tại nó đó! Hôm qua đã nóng lạnh, tôi biểu nó ở nhà đừng đi bán, mà nó không nghe lời tôi. Nó sợ nghỉ bán hàng một bữa thì không có tiền, cứ đòi đi rồi bị mắc mưa, khuya về nóng lạnh, nằm miết tới bây giờ đó.
- Thưa bác, Ánh có uống thuốc không?
- Hồi nãy tôi thấy nó rên quá, rờ đầu nóng hực, tôi lấy dầu Nhị thiên Đường cho nó uống vài giọt.
- Thưa bác, ở nhà có thuốc tây không?
- Làm gì có. Phần thì tôi cũng muốn đau, tôi cũng nóng lạnh hai ba bữa rày mà phải cố gắng dậy để đi chợ mua đồ về bán, chớ không lẽ hai mẹ con nằm mẹp hết!
- Bác cho phép cháu hỏi thăm Ánh một chút.
Bà Tư Rỗ không muốn thế, nhưng thấy cậu học trò nói năng lễ phép bà cũng gật đầu:
- Ừ.
Hoàng bước đến gần giường Ánh, bà Tư ngó theo cử chỉ của cậu. Ánh nằm quay lưng ra ngoài, trùm mền kín đến cổ, làn tóc dài đen nhánh bỏ xõa xuống giường, Ánh đang mê man bất tỉnh, Hoàng khẽ sờ lên trán, thấy nóng như lửa. Ánh thở mệt nhọc, đôi mắt nhắm riết dưới đôi mi dịu dàng. Khuôn mặt hồng hào xinh đẹp lạ thường, xinh đẹp hơn lúc Ánh khoẻ mạnh. Hoàng thương Ánh quá... Nhưng cậu vội vàng quay ra, chào bà Tư:
- Thưa bác, cháu về.
- Cậu ngồi chơi đã. Cậu tên chi, hỏi con Ánh có chuyện chi không, nói cho tôi biết để chừng nào nó khoẻ dậy tôi nói lại.
- Dạ thưa bác, cháu là Hoàng. Cháu đến thăm Ánh chớ không có chuyện chi hết. Thôi cháu xin phép bác.
Hoàng lễ phép chắp hai tay trước ngực chào bà Tư rồi bước ra cửa. Bà Tư vô nhà dọn dẹp sơ sài vài nơi, rồi cầm cái thúng đến gần giường con gái. Bà khẽ đập vai con:
- Ánh! Ánh!
Ánh mê man, không trả lời. Bà lại nói tiếp. Ánh quậy cựa, bà bảo:
- Má đi chợ đây nghen con?
Ánh chỉ rên một tiếng, rồi nằm yên trở lại, coi bộ uể oải lắm. Bà Tư ra đi, sau khi khép cánh cửa ván.
Cánh cửa làm bằng mươi tấm ván thùng sữa ghép lại, và bồi giấy nhựt trình phía trong.
Vào khoảng mười hai giờ trưa, Hoàng lại đến. Cánh cửa ván còn khép, Hoàng đánh bạo gõ hai tiếng. Một lúc cửa hé mở, để lọt vào tia nắng trong căn nhà tối om và ẩm thấp. Người mở cửa là bà Tư. Hoàng ngó vào nhưng vẫn thấy Ánh còn trùm mền nằm trên chõng tre.
Bà Tư tỏ vẻ không bằng lòng thấy cậu học trò trở lại. Bà thoáng nghi ngờ cậu nầy có tình ý gì với con gái bà. Bà bảo:
- Con Ánh nó còn đau.
Hoàng móc trong túi áo sơ mi lấy ra một trăm năm chục đồng bạc, với cử chỉ ngượng ngịu và sợ sệt, đưa bà Tư:
- Thưa bác, cháu xin gởi bác số tiền này nhờ bác trao lại Ánh.
Bà Tư chưa cầm xấp giấy bạc, nhưng nét mặt bà tươi tắn hơn một chút, bà hỏi:
- Tiền gì đây?
- Thưa bác, tiền nầy là tiền...
Hoàng ấp úng vài câu bịa đặt:
- Dạ... tiền của cháu mượn Ánh hồi trước, nay cháu đem trả Ánh.
- Bà Tư không hiểu, vì bà biết rằng con gái bà làm gì có tiền cho ai mượn? Cho cậu học trò mượn đến một trăm năm chục đồng là một món tiền lớn đối với gia đình bà là chuyện hơi lạ, bà hỏi:
- Tiền gì, nó cho cậu mượn hồi nào?
- Thưa bác hồi năm ngoái.
Hoàng bỗng thấy mình không thể đặt chuyện nói láo với má Ánh hơn nữa, và thấy má Ánh đã nghi ngờ, cậu liền trao tiền cho bà, và nói vội vàng để từ giã:
- Thưa bác, nhờ bác đưa lại Ánh.
Cậu lại móc trong túi áo lấy ra một ống thuốc viên:
- Thưa bác, đây là thuốc thương hàn, cháu xin gởi bác để bác và Ánh uống. Cháu xin phép bác cháu về.
Hoàng vội vàng ra đi, sau khi đã đưa bà Tư cầm số bạc và ống thuốc viên trừ bịnh nóng lạnh
Bà Tư Rỗ mừng thầm tình cờ được số bạc một trăm năm mươi đồng, tuy bà chưa biết là tiền gì của cậu học trò lạ gởi đưa con gái bà. Bà vào bếp nấu nồi lá xông cho Ánh. Tuy bà tin rằng xông là hết cảm sốt vì đó là môn chữa bịnh rẻ tiền nhất của nhà nghèo và thường là hiệu nghiệm nhất, nhưng khi xông rồi bà cũng lấy thuốc đưa cho Ánh:
- Con coi có phải là thuốc nóng lạnh không?
Ánh cầm xem nhản hiệu:
- Phải rồi, má.
- Phải thì con lấy uống đi cho mau hết bịnh.
- Thuốc ở đâu đây má? Má mua hả?
- Của cậu học trò gì quen với mầy đó.
- Ai hả má?
- Cậu gì, tao quên tên rồi. Nó còn gởi tao đưa trả lại mầy một trăm năm chục đồng bạc đây. Tiền gì mà mầy cho nó muợn hồi nào, tao cũng không biết nữa.
Ánh ngạc nhiên trố mắt nhìn mẹ. Vừa mới tỉnh cơn mê sảng, Ánh ngơ ngác không hiểu mẹ nói gì, nhưng bỗng dưng hình ảnh của Hoàng thoáng hiện ra trong trí nhớ. Ánh hỏi mẹ ;
- Anh học trò nào má? Có phải cái anh có nút ruồi son ở nơi màng tang đó không?
- Tao đâu có biết nó có nút ruồi hay không? Tao chỉ nhớ nó nói tên nó là thằng... Thằng gì bạn học cũ của mầy ở trường Chợ Quán ấy.
- Phải anh Hoàng không, má?
- Ờ, thằng Hoàng.
Ánh yên lặng một lúc rồi hỏi:
- Anh Hoàng đưa má một trăm năm chục đồng mà ảnh nói sao?
- Tiền mày cho nó mượn hồi nào, ai biết! Nó nói nó gởi trả lại mầy đó.
- Con đâu có tiền cho ảnh mượn hồi nào?
- Tao biết đâu.
- Anh gởi ống thuốc này cho con nữa hả, má?
- Ừ.
- ảnh đến đây hồi nào hả, má?
Bà Tư lại nói đầu đuôi cho con gái nghe, xong Ánh bảo:
- Chắc là ảnh đến thăm con, thấy con đau ảnh đi mua thuốc và gởi tiền cho con mượn để uống thuốc. Chớ con làm gì có tiền cho ảnh mượn!
- Nó làm nghề nghiệp gì?
- Hoàng học giỏi lắm, nhưng cũng nhà nghèo. Thi đỗ Trung học Đệ Nhất cấp rồi bây giờ thất nghiệp.
- Sao nó có tiền cho mầy mượn?
- Chắc là ảnh vay mượn của ai, chớ ảnh làm gì có tiền.
Cảm động vì cử chỉ tốt đẹp của người bạn trai quá thương yêu mình, Ánh nằm lại xuống giường, thút thít khóc, bà Tư xuống bếp, múc một tô cháo nóng đem lên gọi Ánh dậy ăn. Nhưng Ánh không dậy.
Ánh không dè một người bạn trai cũng nghèo khổ như Ánh, đang thất nghiệp, bơ vơ trên đường đời, mà có lòng thiết tha lo lắng cho Ánh trong lúc Ánh đau, thật là một cử chỉ cao quý. Một tấm lòng vàng.
Lần đầu tiên trái tim của Ánh hồi hộp rung động. Nếu Ánh biết rõ số tiền một trăm năm chục đồng kia, Ánh sẽ càng thương Hoàng biết bao nhiêu nữa! Ánh không biết rằng Hoàng có một chiếc đồng hồ đeo tay do một người chú họ thưởng cho Hoàng khi Hoàng thi đỗ, tuy nó là đồng hồ đã cũ nhưng Hoàng xem nó là kỷ niệm quý báu nhất của Hoàng mà sáng nay Hoàng đã phải đem bán để lấy một trăm năm chục đồng bạc, đưa cho Ánh và mua thuốc cho Ánh. Ánh đâu có dè? Chỉ tưởng rằng Hoàng vay mượn tiền của ai để giúp Ánh trong lúc bệnh hoạn, cũng đã đủ khiến Ánh cảm phục hảo tâm của người bạn trai kia rồi. Đối với những kẻ nghèo như Hoàng và Ánh, 150 đồng bạc không phải là một món tiền nhỏ, và Hoàng giúp Ánh trong lúc này chứng tỏ rằng tình yêu của Hoàng rất thành thật và cảm động. Rồi đây Ánh biết lấy gì đền đáp lại ơn chàng?
Nghĩ quanh quẩn bấy nhiêu đó, Ánh không sao cầm
được giọt lệ. Ánh vừa vui sướng vừa buồn bã liên miên.... Vui bởi Ánh được một người bạn trai ân cần chiếu cố đến, âm thầm săn sóc cho mình và tha thiết thương yêu mình. Buồn, bởi số phận hẩm hiu, cuộc đời vất vưởng, Ánh cũng như Hoàng, sống một hiện tại tối tăm, một tương lai mù mịt, bao nhiêu nghị lực và hy vọng của tuổi trả đều như bị chôn vùi trong đau khổ, nghèo nàn.
Nếu Hoàng biết rõ câu chuyện xảy ra đêm hôm qua thì Hoàng sẽ còn xót xa cho Ánh biết bao! Sáng nay má Ánh chỉ cho Hoàng hay rằng tại khi hôm Ánh đi bán bị mắc mưa, về nhà nàng lạnh nên bị cảm thương hàn đó thôi. Nhưng thực ra Ánh nằm vùi cả ngày hôm nay, mê man bất tỉnh, đâu có phải vi mắc mưa đêm qua lúc bán hàng ở rạp bát cầu Muối!
Sự thực, là sau khi Hoàng đưa Ánh về gần đến nhà, và Hoàng đã đi rồi. Ánh gánh hàng vào nhà thì ngạc nhiên thấy chú Cai Mão, ‘‘cha ghẽ’’ của Ánh, làm Cai thầu khuân vác ở bến tàu, đang ngồi uống rượu với một thầy nào lạ, Má Ánh đang dọn đồ nhậu trên bàn. Ánh đã thấy khó chịu rồi. Nhưng nàng vẫn lấy bộ mặt nghiêm nghị và thản nhiên quảy gánh vô nhà, Chú Cai Mão cất tiếng hỏi Ánh với giọng dịu ngọt bất thường:
- Cô gái cưng đi bán hàng bây giờ mới về đó hả con? Tối nay bán được khá không con?
Ánh không thích nghe tiếng ‘‘cưng’’ và tiếng ‘‘con’’ trong câu nói của người cha ghẻ. Nàng làm thinh không trả lời.
Người khách lạ cũng cười hỏm hỉnh, khen ngợi Ánh:
- Chà, cô Hai giỏi quá xá? Cô Hai duyên dáng xinh đẹp như vậy chắc là bán hàng đông khách lắm.
Ánh đã quảy gánh biến vào sau bếp, không trả lời người khách lạ. Ánh rất ghét cái giọng đùa bỡn lố lăng như thế. Ánh đang dọn dẹp gánh hàng, thì Cai Mão lại gọi:
- Hai ơi, còn khô mực đem ra đây con!
Ánh hết sức bực mình, tuy trong thúng vẫn còn mấy con khô mực, nhưng nàng không thích đem ra nhà ngoài để đãi người khách lạ, nàng đã ghét ngay người ấy vì câu nói vừa rồi, và nàng vẫn không ưa người cha ghẻ tục tĩu mọi lần hay gấm ghé nàng và xúi má nàng ép nàng làm nghề mãi dâm lậu thuế, để y rước khách kiếm tiền. Vì ác cảm, nên nàng trả lời vắn tắt:
- Hết khô mực rồi.
Cai Mão làm thinh. Y rót thêm rượu mời người khách lạ, rồi nói thì thầm với người nầy:
- Sao? Thầy Hai thấy con nhỏ được không?
Người khách lạ nhoẻn một nụ cười khoái trá, gật đầu lia lịa:
- Ngộ lắm.
- Thầy ngồi đây chơi, cứ việc nhậu đi. Để tôi ra sau kêu nó ra.
Khách lạ tủm tỉm, gật đầu. Cai Mão đứng dậy ra sau bếp. Ánh đang dọn dẹp đi ngủ. Nàng có một chiếc ghế bố riêng, kê cạnh chái bếp. Nàng đang cột dây treo mùng, chiếc mùng cũ kỹ đã rách vá nhiều nơi mà vẫn còn nhiều lỗ hở. Má Ánh đun nước sôi để pha trà. Cai Mão đến gần Ánh:
- Hai ơi, có Ông Chủ sự Thương chánh quen lớn với tao, ổng muốn nói chuyện với mầy. Coi bộ ổng thương mầy lắm đó. Mầy đem bình trà ra pha một chén mời ổng đi.
Hiều ý người cha ghẻ, Ánh lắc đầu từ chối:
- Tôi không ra đâu.
Cai Mao nổi quạu liền:
- Sao? Mầy không ra hả?
Ánh làm thinh, lui cui cột dây mùng. Ánh sợ người cha ghẻ du côn lắm, Ánh đã biết y là một tay vũ phu lợi hại, đến má Ánh mà cũng còn sợ y nữa là Ánh! Nhưng Ánh tức lắm.
Cai Mão lại khẽ dò Ánh, nói rầm rì bên tai:
- Hai à, tao quen với Thầy Hai Còm mi, thầy là người tử tế. Thầy thương mầy, thầy cho mầy nhiều tiền, thầy may áo may quần cho, thầy sắm vòng vàng, cà rá hột xoàn cho. Thầy muốn đưa mầy đi coi hát trong Chợ Lớn với thầy, tao với má mầy cho phép mầy đi với thầy đó.
Ánh ngồi xuống ghế bố, khóc. Ánh không dám khóc lớn, sợ cha ghẻ đánh.
Cai Mão liền bảo vợ. Sự thật, bà Tư Rỗ không phải là vợ mà chỉ là tình nhân của y, vì sợ y mà phải lấy y luôn. Cai Mão bảo bà Tư:
- Bà phải rầy con Ánh chớ! Coi bộ con nhỏ cứng đầu đa!
Bà Tư trả lời:
- Ông rầy nó cũng được chớ. Nó còn nhỏ nó biết gì!
- Mười chín đôi mươi rồi còn nhỏ gì nữa? Con gái đã lớn mà không nghe lời cha mẹ. Mầy có đi học, mầy thi đỗ, sao mầy không biết câu tục ngữ nói: ‘‘Cá không ăn muối cá ươn, con không nghe lời cha mẹ trăm đường con hư?’’
Ánh càng khóc sướt mướt. Cai Mão nói tiếp, giọng nói lè nhè say rượu:
- Ánh! Mầy... mầy... lớn rồi, mầy không biết làm ăn giúp đỡ cho... má mầy sao? Má mầy nghèo... nghèo cho đến nỗi có bữa không có gạo nấu, tao phải đưa tiền cho má mầy đi chợ. vậy mà mầy... mầy không kiếm nghề gì làm cho có tiền để nuôi má mầy sao?... Không lẽ mầy cứ đi bán... mấy... mấy cái hột vịt lộn... với... mấy con khô mực đó mà đủ... nuôi hai má con mầy sao? Mầy ngó lại cái thân mầy coi! Một cái áo nylon để mặc cho le lói với người ta, mầy cũng không có. Vậy mà tao biểu mầy mấy lần mầy...mầy cũng không nghe tao, vậy thì mầy muốn gì Ánh? Mầy nói cho tao nghe coi!? Mầy không nghe lời tao phải không? Ba...ba mầy chết rồi thì tao...tao không phải ba mầy đây sao...hả Ánh?
Ánh lặng lẽ ngồi khóc, nước mắt ràn rụa.
Cai Mão đã say quá rồi. Y đứng không vững nữa, thở ra toàn hơi rượu, y chụp tay Ánh, bàn tay vũ phu của y nắm đau điếng, Ánh đẩy ra không được, bị y giựt mạnh, miệng khè khà bặp bẹ:
- Ánh, tao cấm mầy...tao cấm mầy...không được khóc nữa, nghe? Mầy lau nước mắt, đi ra đây với tao...để...để tao giới thiệu mầy cho Thầy Hai Còm - mi...đi!...đi!...Ánh!...
Ánh vùng vằng la lên, vừa la và khóc nức nở ;
- Ba ơi!... Ba ơi!... Ba chết làm chi để cho thân con côi cút đau khổ thế nầy, hỡ Ba! … Ba ơi! Ba ơi!... Con khổ lắm, Ba ơi!
Cai Mão đánh Ánh một tát tay thật mạnh:
- À, con nhỏ nầy...mầy la hả? Mày réo cái thằng cha mầy... sống dậy...để...làm...gì...tao hả?
Y thoi mạnh vào Ánh một thoi:
- Mầy giỏi réo nữa đi, tao coi!
Ánh té sụm xuống đất, một tay vẫn bị cha ghẽ nắm chặt. Má Ánh thì ngồi yên bên bếp lửa, làm thinh không dám nói gì. Người khách lạ từ ngoài đủng đỉnh bước vào, vỗ vai Cai Mão:
- Thôi, chú Cai! Chú đừng đánh Cô Hai, tội nghiệp cổ... Tôi can...
Thầy Hai Còm-mi gỡ tay Cai Mão ra, và ngồi chồm hổm xuống cạnh Ánh, để tay lên vai Ánh:
- Cô Hai đừng khóc nữa.
Ánh hất tay người khách lạ, vụt đứng dậy chạy ra sau, khóc ấm ức.
Cai Mão đứng trong nhà bếp chửi ra:
- Con đĩ mẹ mầy! Mầy giỏi làm bộ cái mặt chó mầy! mầy coi tao!
Chị Tư Rỗ, nghe Cai Mão nói động đến chị, liền lên tiếng hỏi:
- Ông chửi con đĩ mẹ ai đó?... Ông ghét nó thì ông làm gì nó ông làm đi, ông giết nó đi, chớ sao ông chửi tôi?
Cai Mão sặc mùi rượu, lè nhè:
- Bà không dạy được con kia, bà còn binh nó hả? Bà muốn binh nó thiệt không? Bà nói đi! Hứ! Con gái bà hay lắm đó? Đồ chó đẻ không biết thân lại còn... còn... Nè, tui nói cho biết, nghe hôn! Liệu hồn con Ánh đa!
Thầy hai Còm-mi thấy chuyện lộn xộn trong nhà Cai Mão và nghe tiếng bà con hàng xóm thì thầm to nhỏ ở ngoài đường và ở hàng rào sau, y bảo nhỏ Cai Mão ;
- Thôi, chú Cai. Đừng chửi bới om sòm, hàng xóm họ cười. Cô ấy không chịu thì thôi, để khi khác. Chú nên dịu ngọt dỗ dành cổ chớ dừng ép buộc cổ bực trí, không xong chuyện gì đâu. Tôi về đây.
- Mời thầy Hai ở lại chơi đã, về chi lật đật? Mai Chúa nhựt mà?
- Khuya rồi.
- Mấy giờ mà khuya?
- Gần hai giờ sáng, chủ tưởng còn sớm lắm sao? tôi về, thím Tư.
- Dạ.
Thầy Hai Còm-mi vội vàng bước ra. Thấy ba bốn chị đàn bà và vài cô gái kẹp tóc đứng xúm xích ngoài cửa dòm vô nhà để rình nghe, Thầy Hai mắc cỡ cúi đầu bước thật lẹ ra đường, đi thẳng. Mấy người đàn bà con gái ngó theo, xầm xì bàn tán.
Trong nhà, Cai Mão vẫn chửi bới om sòm, không sợ ai nghe. Chị Tư Rỗ ngồi trong bếp làm thinh. Ánh còn khóc thút thít ngoài sân sau, đứng dựa chum nước cạnh hàng rào phên
Trời lại đổ mưa. Sau một trận gió lớn lá cây rụng xào xạc, mưa trút xuống ào ào đen đặc cả vòm trời. Bà con hàng xóm ai chạy về nhà nấy, nhưng về nhà họ vẫn lắng tai nghe. Cai Mão bước lại đóng cửa bếp, bỏ mặc Ánh đứng dầm mưa ngoài sân sau. Quay vào, y còn ngó hầm hầm vào mặt chị Tư:
- Tôi cấm bà không được mở cửa, nghe? Để trời hành nó cho đáng đời!
Xong, y đi lảo đảo ra nhà trước, ngồi ghế rót rượu uống nữa. Cai Mão uống chưa cạn ly, gục đầu xuống bàn nói lảm nhảm như đứa điên. Rồi y đứng dậy, qua giường tre của chị Tư kê gần vách, nằm phịch xuống giường, miệng lảm nhảm vài tiếng rồi ngủ khì.
Chị Tơ coi bộ sợ sệt lắm. Tuy chị công khai ‘‘lấy’’ Cai Mão đã bảy tám tháng trời, nhưng chị biết Cai Mão là một tay (anh chị) ở Bến Tàu, một tay du côn có tiếng đã từng đánh đập chị nhiều lần. Chị đã lỡ lấy y rồi nên bây giờ chị ít dám cãi lời y. Chị còn chiều chuộng y nữa là khác, bởi lẽ thỉnh thoảng y cho tiền bạc và đưa cho chị bán chợ đen vài thứ hàng hóa ngoại quốc do bọn em út của y cắp được ở dưới các chiếc tàu cập bến. Dốt nát và thật thà, chị Tư cũng phục người ‘‘chồng’’ mới của chị là một tay ‘‘yêng hùng mã thượng’’ chính lời nói của Cai Mão thường khoe khoang với chị như thế. Chị không cho nghề ‘‘ma cô’’ là bần tiện đâu, vì đã nhiều lần chị biết chồng chị dắt gái cho khách để ‘‘ăn huê-hồng’’. Lâu lâu, được ‘‘mối’’ nào bở, y khoe với chị và nếu chị xin tiền thì y cũng móc ví lấy cho.
Chị nghèo lắm, nghèo quá cho nên thỉnh thoảng được Cai Mão cho vài trăm, chị mừng quýnh. Quen cách làm tiền dễ dãi như thế, chị cho rằng ‘‘ma cô’’ của chồng chị là một nghề nuôi sống được, chớ cũng không gì hèn hạ.
Đối với Ánh, con gái riêng độc nhất của chị, hồi còn đời chồng trước, và Ánh còn được đi học, thì chị cưng lắm, hồi Ánh thi đỗ bằng tiểu học hai vợ chồng mừng rối rít, mua một con gà về làm gỏi cúng ông bà cha mẹ, và mời cô ruột của Ánh với vài người bà con hàng xóm đến ăn uống rượu chè để mừng con gái thi đỗ. Anh Tư cố gắng cho Ánh đi học trường Gia Long. Kế đó Ba của Ánh bị chết oan uổng vì tai nạn lao động. Ánh đành ở nhà giúp mẹ. Dần dần cửa nhà suy sụp, đã nghèo lại nghèo thêm, chị Tư làm công ở hãng thuốc Bastos nhưng bị đau ốm, cứ nghỉ hoài nên không đủ tiền nuôi sống hai mẹ con. Ánh tìm không được việc làm, đành phải đi bán hàng rong kiếm tiền độ nhựt. Rồi chị Tư gặp Cai Mão, lúc đầu được y giúp ít tiền, tưởng đâu là người tử tế. Sau khi mèo chuột lén lút đã đời, chị Tư công khai ‘‘ăn ở’’ với Cai Mão, giới thiệu họ hàng làng xóm là ‘‘chồng’’ của chị, rồi về ở luôn trong nhà chị. Từ đấy Ánh bắt đầu đau khổ vì người cha ghẻ.
Ánh đã lớn. Nhờ có học, tiêm nhiễm được phong độ lành mạnh của học đường. Ánh bắt đầu ghê tởm người ‘‘cha’’ vũ phu, thỉnh thoảng đánh đập chửi bới mẹ Ánh. Ánh rùng mình lo sợ. Đã hai lần, Cai Mão lấy lời đường mật dụ dỗ Ánh làm nghề mãi dâm, Ánh đã cự tuyệt, Ánh khóc lóc với mẹ, nhưng chị Tư Rỗ quá sợ ‘‘chồng’’, chỉ trả lời một câu bơ thờ với con gái:
- Kệ mầy, mầy muốn sao mầy cứ nói với ổng. Tao không biết đâu.
Đã hai lần như vậy rồi, tuy Cai Mão chưa ép buộc gì Ánh, nhưng Ánh đã lo sợ, buồn rầu, cố gìn giữ lễ phép nhu mì với người cha ghẻ để mong y “thương hại’’, khỏi làm hư hỏng cuộc đời thiếu nữ.
Đêm nay, thình lình cái chuyện mà Ánh sợ nhất lại xảy ra một cách vô cùng tủi nhục. Má Ánh vì quá kiêng nể người chồng mới, không dám bênh vực con gái bị y ép buộc và đối xử quá tàn nhẩn như thế.
Tình nghĩa mẹ con và lương tâm của chị đã bị thái độ dã man của ‘‘chồng’’ chà nát dưới chưn. Chị cũng đành chịu, không dám hé răng.
Nói đúng ra, chị Tư không phải theo bè với Cai Mão mà ghét bỏ con. Trong lòng chị vẫn thương Ánh và đau xót cho hoàn cảnh của đứa con độc nhất của chị, nhưng chị sợ Cai Mão quá đổi, định dần dần để lúc nào y vui vẻ, sẽ năn nỉ y để cho con gái của chị trong sạch, hòng kiếm được người chồng tử tế đàng hoàng, cho nên chị làm thinh, âm thầm thương xót mà ngồi nhìn cảnh con gái của mình bị cha ghẻ của nó dày vò đay nghiến. Nghe Cai Mão đã nằm ngáy khò khò trên giường nhà ngoài, chị đứng dậy khẻ mở then cửa bếp kêu Ánh. Trời mưa tầm tã, chị
vừa hé mở cửa phên thì mưa gió tạt vào. Chị đứng một bên, thò đầu ra ngoài trời, không dám gọi to:
- Ánh ơi!...
Ánh không trả lời.
Trời tối đen như mực. Mưa xối ào ào. Chị Tư lại gọi:
- Ánh ơi! đi vô, con!
Ánh vẫn lặng thinh, không đáp. Chị chưa trông thấy Ánh đứng chỗ nào. Một lúc chị dòm kỹ mới thấy bóng của Ánh đứng yên lặng bên lu nước, sát hàng rào phên. Ánh đứng đấy tự nãy giờ dầm mưa, không nhúc nhích. Gọi tiếp ba lần Ánh không trả lời, chị Tư mới chạy ra mưa nắm tay con gái kéo vô, Ánh dằng lại, không đi:
- Má để mặc kệ con!
- Đi vô! Ba mầy ngủ rồi.
- Con không vô.
- Đứng dầm mưa ngoài trời rồi đau đấy, con ơi!
- Chết con cũng không cần nữa là đau! Con còn mong chết nữa đó!
- Đừng có nói dại. Con nghe lời má vô thay đồ đi ngủ.
- Đêm nay con ngủ ngoài mưa.
Chị Tư nắm hai tay Ánh, kéo vào nhà, Ánh cố trì lại, hai mẹ con níu lại níu qua dưới trận mưa rào trong đêm tối. Nhưng có tiếng chị Năm Béo, nhà ở sát bên cạnh, từ trong căn nhà tối thui nói ra dõng dạc:
- Cô Ánh, cô đứng dầm mưa tự nãy giờ, cảm thương hàn đa cô. Đi vô nhà ngủ đi!
Nghe tiếng nói của chị Năm Béo mỉa mai làm sao! Đó là chị mỉa mai chị Tư Rỗ mà thương xót cho Ánh. Tiếng nói của chị Năm Béo hiền từ nhưng chua chát ; cố ý để cho chị Tư Rỗ biết rằng cả xóm trong ngõ hẻm An Bình nầy đều đã nghe hết những chuyện xẩy ra trong gia đình chị Tư đêm nay.
Chị Tư nói thầm với con gái:
- Đi vô con, để hàng xóm người ta cười...
Ánh suy nghĩ một lúc rồi lặng lẽ bước vô nhà.
Ánh thay đồ, lên ghế nằm. Ánh bắt đầu thấy ơn ớn lạnh mà rờ lên trán lại nóng hổi, Ánh lấy mền đắp, một hồi lâu rồi run cầm cập rồi Ánh mê man bất tỉnh cho đến sáng.
Chiều Ánh dậy được, nghe mẹ nói có cậu học trò đến thăm. Ánh đoán biết là Hoàng, và từ hôm ấy trong tim nàng nẩy ra một mối tình man mác. Một mối tình? Cũng chưa phải hẳn là thế, vì lòng Ánh còn trong sạch, quá bình thản tự nhiên, đã biết yêu đương là gì đâu! Nhưng Ánh cứ thấy xao xuyến mỗi lần nhớ đến người bạn học cũ nghèo khổ như mình, đã lo lắng, săn sóc cho mình khi ốm đau bất ngờ. Và cũng từ hôm ấy Ánh nẩy ra ý nghĩ muốn bỏ nhà ra đi. Ánh ghê sợ người cha ghẻ vô lương tâm muốn lợi dụng sắc đẹp của nàng để làm nghề buôn hương bán phấn...
Ánh mong cho cơn nóng lạnh mau khỏi để Ánh ra đi phứt cho rồi! Ánh lo sợ người cha ghẻ dã man, và nghĩ thầm rằng, nếu mình còn ở nhà thì thế nào cũng có ngày y đánh mình chết! Đã hai lần rồi y đã dụ dỗ mình, và xúi mẹ mình bắt ép mình phải bán thân vào cảnh sa đọa để y làm tiền. Lần nầy y đã cư xử khốn nạn với mình như thế biết đâu mai mốt y sẽ tái diễn cái trò tàn bạo kia nữa thì mình sẽ chịu đựng được nữa khôrg? Ánh rất đau khổ thấy mẹ Ánh quá sợ người ‘‘chồng’’ vũ phu, không dám lấy lời lẽ can gián y để binh vực cho Ánh. Lẽ nào mẹ Ánh mê tình nhân đến nỗi ghẻ lạnh với con gái, để mặc cho y chà đạp lên tấm thân côi cút bơ vơ, mà bà lặng lẽ ngồi nhìn! Ánh buồn hết sức, nhứt định, nhứt định lần nầy phải bỏ nhà, bỏ mẹ ra đi, tìm một nơi nương náu để bảo vệ tấm thân thiếu nữ gặp cảnh đa đoan.
Ánh băn khoăn một khi ra đi lưu lạc, làm sao gặp lại Hoàng? Không ngờ ngày nay đời Ánh lẻ loi hiu quạnh, chỉ còn có người bạn trai hiền làrh nghèo khổ kia là xót xa thương Ánh, yêu Ánh mà thôi! Ánh cố nén lòng, ở lại rán chờ Hoàng đến, để hẹn với Hoàng một cuộc gặp gỡ, nói hết chuyện Ánh cho Hoàng nghe. Nhưng Ánh chờ cả ngày hôm sau, Hoàng không đến.
Tối hôm ấy, vào khoảng 10 giở, Cai Mão về nhà, mặt đỏ như gấc, sặc sụa hai men. Vừa bước vô nhà, y lè nhè hỏi:
- Con Ánh làm gì ở trong nhà he?
Ánh còn mệt, đang nằm trên ghế bố, tay chân bủn rủn. Nhưng nghe tiếng cha ghẻ, Ánh ngồi vùng dậy, lặng lẽ chạy ra sân sau, vội vàng leo hàng rào phên trốn bên nhà Bà Năm Béo.
Má Ánh đã đi bán hàng đêm, trong nhà không có ai, Một ngọn đèn leo lét treo trên vách tường, Cai Mão vào nhà lục lọi sau bếp tìm không thấy Ánh. Y chửi thề ầm ĩ, hăm he Ánh, rồi chửi đến chị Tư là ‘‘vợ’’ của y nữa. Một lát sau người đàn ông lạ đêm hôm trước, đủng đỉnh bước vô nhà. Cai Mão vồn vã tiếp đón:
- Thày hai Còm Mi! Mời Thầy ngồi chơi.
Hai người nói thì thầm một chập thật lâu.
Ở bên nhà chị Năm Béo, Ánh ngồi lặng lẽ một mình,. Chồng chị Năm đã đi chơi vắng. Chị Năm và hai đứa gái nhỏ của chị đứng nơi hàng rào dòm qua nhà Ánh, thì thầm mét lại Ánh những điều chúng nó nghe thấy bên nhà nàng.
Hồi lâu Cai Mão ra đi, để thầy Hai ngồi ở nhà một mình. Một lúc im lặng, Ánh khẽ leo hàng rào về nhà, bước nhè nhẹ vào bếp, soạn áo quần của Ánh bỏ vào một cái giỏ xách mây. Hình như người đàn ông ngồi nhà ngoài nghe tiếng động trong bếp. Y nhón gót giày bước vô. Vừa trông thấy Ánh, y nhếch mép cười rất lẳng lơ:
- Cô Hai làm gì đó, cô Hai?
Ánh làm thinh, lật đật nhét đại vào giỏ mấy những quyển tập, sách và đồ vặt của Ánh hồi đi học còn cất làm kỷ niệm. Thấy Hai Còm mi bước sắn tới:
- Cô Hai! Cô đừng buồn nghe! Tôi thương cô lắm...
Ánh không thèm trả lời, xách giỏ mây quay ra, đi chưn không. Nhưng người đàn ông chận lại!
- Cô Hai đi đâu? Bữa nay tôi tới đây để tặng cô Hai một ghim bạc còn tinh hảo đây nè, và một chiếc cà rá.
Nói xong, y thò vào túi quần rút bóp tiền ra. Ánh đi giật lùi đến chiếc bàn cạnh bếp, trên bàn có một con dao phay. Ánh đứng yên đó, ngó chòng chọc vào mặt người đàn ông.
Thầy Còm mi cầm một ghim bạc và cái hộp giấy nho nhỏ, xinh xinh, đựng chiếc cà rá. Miệng cười tình tứ, thầy bước đến gần Ánh, Ánh la lên:
- Lại gần tôi, tôi đâm đấy!
Ánh chụp con dao phay trên bàn. Người đàn ông nhút nhát, thấy bộ tịch của Ánh hung dữ và nét mặt quả quyết, y không dám lại gần.
Ánh tay cầm con dao, tay xách giỏ mây, bước lẹ qua mặt người khách lạ, ra nhà ngoài đi thẳng luôn ra ngõ.
Ba mẹ con chị Năm Béo và mấy người hàng xóm đã đứng nấp bên ngoài, đợi coi Ánh đi đâu. Ánh còn quay lại vứt dao phay vô cửa, rồi đi luôn một mạch ra đường lộ. Những người ngó Ánh ra đi đều thấy đôi mắt Ánh tràn trề giọt lệ.
Không ai biết Ánh đi đâu. Họ chỉ thở dài thương xót.
Tay xách giỏ quần áo, Ánh đi ra đường Trần hưng Đạo, tới ngã tư Nancy, thẳng đến xóm Bàn cờ. Ánh quẹo vào hai ba ngõ hẻm, tới trước một căn nhà lụp xụp, gõ cửa gọi:
- Cô Sáu!
Trong nhà có tiếng một đứa nhỏ vọng ra:
- Ai đó?
- Em Nhung ơi, mở cửa cho chị.
- Chị Ánh hả?
- Ừ, có má ở nhà không em?
- Dạ, má em ngủ.
Cánh cửa mở, Ánh vào căn nhà tối om. Một ngọn đèn dầu hôi liu hiu, điểm một chấm đỏ trên bàn thờ Quan Công.
Em bé trạc 12 tuổi, hỏi Ánh:
- Chị Hai đến giờ nầy có chnyện chi không, chị Hai?
- Chị đến ngủ với Nhung, chớ không có chuyện chi Nhung à.
- Sao bữa nay chị Hai không ngủ ở nhà?
- Chị trốn nhà đến đây với Nhung.
- Sao chị Hai trốn?
- Sáng dậy chị nói chuyện cho cô và Nhung nghe. Bây giờ chị buồn ngủ quá.
Trong căn nhà chật hẹp chỉ kê chiếc giường gỗ chỗ hai mẹ con em Nhung nằm. Bên cạnh, treo một chiếc võng đã rách. Ánh để giỏ mây quần áo xuống đất, leo nằm vô võng. Nhung bảo:
- Nằm võng muỗi nó thiêu chết, chị Hai! Chị Hai lên giường nằm với em.
- Giường chật lắm, để chị nằm võng được, có muỗi thì chị đắp mền.
Căn nhà yên tĩnh lại như trước, nhưng có tiếng võng đưa kẽo cà, kẽo-kẹt đều đều. Tiếng võng đưa như kết thúc tấm thảm kịch riêng của Ánh, như diễn tả nỗi niềm xót xa nghiền ngấm trong tim nàng.