- 3 -
Ánh không ngủ được, thao thức suốt đêm, phần bị muỗi cứ vo ve bên tai và bu lên mặt nàng, phần đau khổ cho những chuyện đã qua, lo ngại cho những ngày sắp tới.
Sáng dậy sớm, Ánh thuật lại hết những điều đã xẩy ra đêm rồi cho cô của Ánh rõ. Em Nhung ngồi nghe, cứ chắt lưỡi, thương hại cho số phận của người chị thân yêu con cậu. Thím Sáu Tường là cô ruột của Ánh, tức giận chị Tư Rỗ, thím chửi rủa không tiếc lời rồi bảo Ánh:
- Thôi, con ở đây với cô. Con gánh nước mướn ngoài phong tên, cũng có tiền nuôi sống, đừng về với đồ quạ mổ đó nữa!
Từ hôm ấy, Ánh ở nhà trọ bà cô ruột ở xóm Bàn cờ, và nghe lời cô, để kiếm tiền đủ sống tạm trong một thời gian. Ánh phải làm nghề đi gánh nước mướn, ở đây lúc mới đến Anh không có bạn bè, nhưng dần dần vì sự gặp mặt hằng ngày, Ánh bắt đầu làm quen với vài thiếu nữ, cùng lứa với Ánh, và toàn là bọn làm thuê ở mướn trong xóm. Không cho ai biết nàng là một cựu nữ sinh Gia Long, Ánh làm bộ mặt khờ khạo, ngây thơ, không biết gì. Nhưng tại em Nhung, con bà cô hay đi khoe với trẻ nít trong xóm: ‘‘Chị Ánh học giỏi lắm đó! Chỉ đã học lớp Đệ Tứ trường Gia Long, chớ đừng tưởng!’’ Thành thử nhiều thiếu nữ ở mướn không được đi học đâm ra ghen ghét Ánh và những cô nữ sinh trong xóm lại khinh khi Ánh. Họ trề môi bĩu miệng tìm lời chua ngoa khích bác cô ‘‘nữ sinh Gia Long’’ đi gánh nước thuê. Nhan sắc thùy mị và yêu kiều của Ánh càng gây bao nhiêu dèm pha đố kỵ, Ánh vẫn thản nhiên, tuy trong thâm tâm buồn chán cho cuộc đời xuân xanh đìu hiu ảm đạm, và không thích giao du với những người cùng lứa nhưng cùng một cảnh ngộ. Ánh làm nghề gánh nước mướn nầy, kiếm được chút ít tiền, đủ sống tạm qua ngày, không phải nhờ vã bà cô và không làm bận đến bà. Chung chạ với bọn gánh nước mướn giành giựt ở phong tên, Ánh tập được tánh mềm dẻo, khôn ngoan lanh lợi, nhưng không bị nhiễm bởi những thói côn đồ mất dạy, không bao giờ bắt chước ‘‘chửi thề’’, tục tĩu như các bạn ‘‘đồng nghiệp’’, hoặc nói năng đanh đá như họ.
Dần dần, ba tháng sau, Ánh quên những chuyện của người cha ghẻ, nhưng vẫn thương xót bà mẹ hiền bị tên lưu manh đè nén và đôi khi đánh đập chửi bới tàn nhẫn. Má của Ánh thuộc về loại đàn bà Việt nam ‘‘an thường thủ phận’’, tuy nghèo nhưng cam chịu phận nghèo tuy bị người chồng vô lại đối xử tàn ác, nhưng không bỏ được chồng, và còn lui cui làm lụng để phụng dưỡng cho hắn nữa.
Người duy nhất hiểu được hoàn cảnh tâm sự của Ánh là Hoàng, và cũng là người duy nhất mà Ánh băn khoăn thương nhớ. Nhiều lần Ánh muốn tìm đến thăm Hoàng nhưng không biết Hoàng ở đâu. Người bạn học cũ có lòng thiết tha với Ánh cũng không biết Ánh ở đâu.
Sau khi Ánh bỏ nhà ra đi, Hoàng có đến một lần để thăm Ánh. Hoàng thấy nhà đóng cửa. Hoàng có trở lại hai lần nữa. Lần sau chót, Hoàng gặp chị Tư Rỗ đang ngồi trong bếp nấu cơm. Hoàng hỏi:
- Thưa Bác, có Ánh ở nhà không ạ?
Bà Tư trả lời lạnh lẽo:
- Nó đi đâu rồi.
Má Ánh không nói gì nữa. Hoàng đứng yên lặng một lúc lâu, hơi ngạc nhiên về thái độ bà Tư. Sau cùng cậu hỏi:
- Thưa bác, Ánh đi đâu?
Bà Tư gắt gỏng:
- Nó đi đâu ai mà biết được. Cậu hỏi làm chi?
Hoàng không dám hỏi nữa, chào Bà Tư ra về.
Đêm sau, đúng vào lúc Bà Tư Rỗ đi bán hàng, Hoàng trở lại lảng vảng trong ngõ An Bình, hỏi người lối xóm, Bà Năm Béo bảo:
- Cô Ánh bỏ nhà ra đi lâu rồi. Tại người cha ghẻ hành hạ cổ, ép cổ làm nghề bậy bạ, rước khách kiếm tiền, cổ hổng chịu.
- Thưa thím, thím có biết Ánh đi đâu không?
- Tui thấy đi mà hổng biết đi đâu.
Bà Năm Béo kể tlể sự tình đầu đuôi các việc xẩy ra tại nhà Bà Tư Rỗ khiến Ánh phải bỏ nhà trốn đi.
Xong bà hỏi Hoàng:
- Cậu có quen với cô Ánh ha?
- Dạ, cháu là bạn học cũ của Ánh.
- Tội nghiệp con nhỏ quá! Chắc là nó trốn đi lục tỉnh! Từ khi chị Tư lấy cái thằng Cai Mão khốn nạn, con Ánh thì nó cực khổ vàng trời, ai thấy nó vậy mà hổng thương! Trong xóm nầy ai cũng thương con Ánh hết.
Hoàng ra về, hoang mang trong trí óc, chẳng biết số phận Ánh hiện giờ ra sao? Hoàng càng thương Ánh, nhớ Ánh, và nghĩ thầm rằng bao giờ cậu kiếm được việc làm, cậu sẽ dành dụm tiền, để đi tìm Ánh, lấy Ánh làm vợ. Hằng ngày những khi đi xin việc ở Sàigòn, Hoàng thường quanh quẩn các đường phố tìm xem may ra có trông thấy Ánh không?
Ánh cũng thế, gánh đôi thùng ra máy nước, để sắp hàng với các đôi thùng khác, Ánh cầm đòn gánh đứng dựa gốc cây, buồn bã không nói năng. Thoáng thấy trong đám người qua lại trên đường phố có chàng trai nào dáng điệu hơi giống Hoàng, mắt đăm đăm ngó theo xem có phải Hoàng không. Ánh bùi ngùi nhớ lại số tiền một trăm năm chục đồng của Hoàng gởi mẹ Ánh đưa cho Ánh hôm Ánh bị cảm thương hàn. Nàng nhớ lại tất cả những câu chuyện của Hoàng với Ánh trước rạp hát cầu Muối đêm trời mưa to. Nàng nhớ lại tỷ mỷ những cử chỉ quý mến cảm động của người bạn trai đối với nàng hồi còn cắp sách đến trường. Nhớ bao nhiêu lại thương bấy nhiêu! Ánh nghĩ rằng nếu trong lúc nầy Ánh gặp Hoàng và Hoàng rủ nàng đi, bất cứ đi nơi nào, miễn là được đi với Hoàng, sống với Hoàng là Ánh bằng lòng ngay.
Đi đi thôi! Đi cho thật xa! Đến nơi đất khách quê người, hai đứa bạn tâm tình cùng chung cảnh ngộ, chỉ biết yêu nhau và đùm bọc lấy nhau! Ánh đâu có mơ tưởng gì hơn!
Gánh đôi thùng nước đầy trở về ngõ hẻm, đổ mướn cho các nhà trong xóm, hai vai nặng trĩu, Ánh còn phải bước mau, để kịp ra phong tên hứng một đôi nữa. Sáng dậy thật sớm, từ lúc 5 giờ, Ánh gánh nước cho đến 11 giờ về nhà cho cô, Ánh còn lo cơm nước đỡ đần cho cô các việc gia đình, 2 giờ lại gánh nước cho đến 6 giờ chiều. Ánh làm bếp, dọn cơm để sẵn đấy cho cô và cho em Nhung ăn trước, 7 giờ ruỡi Ánh đã phải quảy đôi thùng ra phong tên gánh nước cho đến 9 giờ đêm. Các nhà hàng xóm phần nhiều đã khép cửa dọn dẹp đi ngủ. Bấy giờ Ánh mới quảy đôi thùng nước cuối cùng trong ngày đem về đổ lu nước ở nhà. Xong rồi mới ăn cơm, dọn dẹp, rửa ráy rồi đi ngủ. Biết bao nhiêu đêm, Ánh đặt lưng lên giường, trằn trọc không ngủ được. Nghĩ chuyện này chuyện nọ, buồn bã cho thân phận nghèo nàn côi cút, còn mẹ mà cũng như không, Ánh rưng rưng hai hàng nước mắt. Có khi Ánh gục mặt vào gối, khóc thút thít trong đêm khuya.
Một hôm nhớ mẹ quá, Ánh nói với bà cô:
- Thưa cô, con xin phép cô con về thăm má con một ngày.
- Ừ, con cũng nên về thăm chị Tư, rồi dạo nầy nhà cửa ra sao. Chắc con đi lâu, chị cũng nhớ con chờ.
Ánh định 7 giờ sáng về An bình, ở đấy một ngày với mẹ, đến 5 giờ chiều lại đi.
Vừa bước chân vô nhà, Ánh thấy mẹ đang dọn dẹp sau bếp, Ánh mừng rỡ chạy đến nắm tay mẹ:
- Má ơi, má có nhớ con không, má?
Nhưng chị Tư sầm mặt xuống liền, giận dỗi bảo:
- Mẹ con gì nữa, mầy!
Rồi chị làm thinh tiếp tục dọn dẹp, không hỏi han gì. Ánh ngồi xuống ngạch cửa, khóc.
Chị Tư Rỗ động lòng, và có lẽ ăn năn lời nói vô tình vừa thốt ra, chị dịu dàng bảo:
- Nếu mày biết thương tao, thì mầy đâu có bỏ tao ở nhà một mình. Ba mầy chết rồi, Thì còn có hai mẹ con mà mầy đành đoạn dứt ra đi, mầy nghĩ coi, vậy có phải là con có hiếu không?
Ánh khóc ấm ức:
- Con không có hiếu mà bữa nay con nhớ má quá, con về thăm má.
Chị Tư cũng ngồi xuống ghế bố khóc. Ánh nói tiếp:
- Con vô phước vô phần cho nên ba con mới chết sớm! Trong lúc gia đình tuy là nghèo, nhưng vẫn được đoàn tụ vui vầy, con được ba má chiều chuộng cho ăn học. Bây giờ con phải đành đoạn ra đi, xa mẹ xa con, đem thân ra làm tôi mọi cho người, bưng thuê gánh mướn, đó là cái số của con bạc phận, chớ đâu phải lỗi tại con?
Chị Tư Rỗ lau nước mắt, dịu dàng với con gái:
- Má có đuổi con đi sao?
- Má không đuổi con đi, nhưng má nghĩ coi, con có ở nhà này thì chỉ tủi nhục cho má chớ hay ho gì!
- Má làm gì mà tủi nhục?
- Má còn hỏi nữa!
Hai mẹ con làm thinh, rồi chị Tư Rỗ hỏi:
- Từ hồi con đi, con ở nhà ai?
- Con ở trọ nhà người quen.
- Ở đâu?
- Ở Gò-vấp.
- Con làm gì?
- Con đi ở mướn cho người ta.
Chị Tư Rỗ đứng dậy, lại gần Ánh:
- Thôi con đừng đi đâu nữa. Con ở nhà với má.
Ánh khẽ đáp:
- Thưa má, con thương Má lắm, nhưng con không ở đây được nữa đâu, má à.
- Dạo nầy má hay đau ốm luôn, không làm ăn gì được. Con ở nhà đỡ đần vơi má. Nói thiệt con nghe, từ ngày con đi má buồn hết sức vậy đó. Má nhớ con, má cứ khóc hoài. Nay con về, má giận con mà má cũng mừng chớ đâu phải má ghét bỏ gì con.
Ánh hỏi:
- Ông Cai Mão còn ở đây với má không?
Chị Tư lặng thinh một lúc mới trả lời:
- Còn.
- Con nói thiệt với má, con thương má lắm. Nhưng ngày nào cái ông ấy còn ở trong nhà nầy, thì con không bao giờ về ở chung với má được.
- Con đừng có nói vậy. Tuy ổng là ba ghẻ của con...
- Con xin lỗi má, chớ con không có bà con gì với ông đó hết.
- Ông cũng thương con, chớ có gì đâu. Tại gặp hồi ổng say rượu, ổng hay nói bậy bạ đó thôi. Con ở lâu mới biết tánh ổng tốt.
Ánh nhoẻn một nụ cười chua chát:
- Trời ơi!..
Rồi Ánh nghiêm nét mặt nói tiếp:
- Thưa má, vì con nhớ má quá nên con mới về thăm má, chớ con không ở nhà nầy nữa đâu. Má cho con ở với má một ngày rồi con lại đi. Con đi làm, chừng nào dành dụm được chút ít tiền, con sẽ đem về giúp má. Bữa nay má có mệt thì con đi chợ về nấu cơm cho má. Con có tiền đây rồi.
Ánh đứng dậy đi quét nhà, lau dọn bàn ghế và làm công việc y như còn hồi ở nhà. Nàng coi ngó lại các vật dụng còn y nguyên từ lúc nàng ra đi, mỗi vật là bao nhiêu kỷ niệm! Nàng sắp đặt lại những đồ đạc mà má nàng để bừa bãi trên bàn hay các xó kẹt. Nàng lấy chổi lông gà quét bụi trên bàn thờ ông Tư, ba của nàng, và chạy ra chợ mua một bó bông huệ đem về cắm trong bình và một nãi chuối chín đặt trên dĩa, bên cạnh bát nhang. Nàng đốt đèn cầy, thắp nén hương, đứng cung kính trước bàn thờ, vừa vái vừa lẩm bẩm:
- Con lạy vong linh ba phù hộ cho má con bình yên mạnh giỏi và con gái của ba đừng gặp cảnh đau khổ. Ba thương con đừng để con bơ vơ, tội nghiệp con...
Nàng lau một ngấn lệ rưng rưng trên mi mắt, rồi xuống bếp đun nước, pha một bình trà, rót vào một chén đặt trên bàn thờ. Ánh đứng dựa vào cột nhà, ngước mắt lên chăm chú nhìn bức ảnh của ba và khóc nức nở. Nàng quỳ xuống lạy bốn lạy.
Bà Tư ngồi lặt rau, nói:
- Ổng biểu tao dẹp cái bàn thờ của ba mầy, tao không dẹp mới còn đó.
Ánh tức giận ngó mẹ:
- Dẹp cái bàn thờ của ba con thì con về con đốt nhà! Con nói trước cho biết.
Khói trà bay thoang thỏang một mùi thơm dịu. Ánh cúi lạy một lần nữa. Xong nàng xuống bếp lấy cái rỗ, và bảo mẹ:
- Thưa má, con đi chợ đây, má. Bữa nay má thích ăn gì, má nói con mua.
- Con muốn mua gì thì mua.
- Con biết má ưa ăn canh chua cá lóc, con mua cá lóc về nấu canh, nghe má?
- Ừ, lâu quá má không ăn canh chua cá lóc.
Ánh đội nón xách rỗ bước ra đường.
Chị Tư đứng trong bếp nhìn theo đứa con gái, yêu kiều, duyên dáng, mà chị đã vắng bóng lâu ngày. Tuy là lâu ngày, nhưng tính lại cũng mới có bảy tám tháng thôi; thế mà bây giờ trông thấy Ánh như lớn hơn trước nhiều. Chị Tư không dè đứa con gái của chị mới hồi nào hãy còn như con nít mà bây giờ đã có điệu bộ thướt tha dịu dàng, coi thiệt dễ ưa.
10 giờ Ánh đi chợ về, ngạc nhiên thấy má đi vắng, cửa khép không có ai coi nhà. Ánh ra sau bếp, đứng trong hàng rào phên hỏi qua hàng xóm:
- Thím Năm ơi, má cháu đi đâu thím có biết không?
Chị Năm Béo ở trong nhà nghe tiếng Ánh, liền cất lời hỏi:
- Cô Ánh về hồi nào đó?
Chị lật đật chạy ra sân, vui mừng hỏi han:
- Cô Anh mới về hả cô? Bà Tư đi chợ Ông Lãnh có dặn tôi khi nào cô về thì cô nấu cơm rồi trưa Bà Tư về.
- Dạ, cám ơn thím Năm!
Ánh nói chuyện vui vẻ với chị Năm bên hàng rào, nhưng vẫn giấu không cho chị biết Ánh ở đâu và làm gì trong thời gian qua. Một lúc, Ánh vào bếp lo cơm nước.
Bỗng có tiếng người cha ghẻ về. Không ngờ gặp Ánh, Cai Mão trông thấy cô đã niềm nở:
- Ủa, Ánh về đó hả?
Ánh chau mày làm thinh, cúi đầu làm cá. Cai Mão đến gần hỏi:
- Ánh đi đâu lâu quá vậy con?
Ánh nhất định không trả lời. Người cha ghẻ tiếp tục hỏi dồn, giọng nói thân mật đểu giả:
- Ánh ở đâu, ở nhà ai, tôi biết rồi, nhưng tôi muốn chờ Ánh về đây tôi nói chuyện cho Ánh nghe. Ánh đừng tưởng rằng tôi ghét Ánh đâu nghe. Tôi thấy Ánh cực khổ tôi có lòng thương, tôi muốn giúp đỡ cho Ánh đó chớ!
Ánh vẫn làm thinh. Cai Mão ngồi thụp xuống bên cạnh để tay lên vai nàng:
- Ánh ơi I
Ánh hất tay người cha ghẻ ra. Cai Mão lì lợm, càng ngồi sát vào Ánh:
- Ánh ở nhà đừng đi đâu nữa nhé. Dạo nầy tôi nhảy dù được mấy món đem bán được bộn tiền, Ánh muốn đồ nữ trang gì tôi sắm cho, quần áo đẹp muốn may mấy cái tôi may cho,
Ánh chừ bự cái mặt không thèm trả lời một câu, nhưng Cai Mão cứ dỗ dành:
- Ánh muốn đi ở riêng không, tôi mướn một căn nhà lá ở bên Khánh hội cho Ánh ở?...
Người cha ghẻ khốn nạn bỗng dưng đưa tay ôm choàng lấy Ánh. Ánh đẩy mạnh ra, đứng dậy la lớn:
- Cái ông nầy làm gì kỳ cục vậy?
Ánh chạy ra cửa bếp, nhưng Cai Mão chạy theo chụp lấy nàng, một tay khép cửa, một tay lôi nàng lại ghế bố, Ánh giẫy giụa la lớn:
- Ối làng xóm ơi! ối làng xóm ơi!
Cai Mão rút khăn tay toan bịt miệng nàng, nhưng Ánt đã cắn được một vết đau điếng trên bàn tay vũ phu, Cai Mão phải buông ra, Ánh thoát được, nhưng liền bị y kéo lại và đánh một bạt tay nẩy lửa. Ánh chạy lảo đảo ra đến sau bếp, vừa khóc vừa la: ‘‘Ối làng xóm ơi!’’ Cai Mão chạy theo tay cầm một thanh củi đập túi bụi lên đầu Ánh đổ máu, Ánh ngã gục xuống sân, cạnh lu nước, còn bị Cai Mão sấn lại đạp vào hông.
Bên hàng xóm có chị Năm Béo và bốn năm thiếu nữ kẹp tóc, đổ xô ra coi, thấy Cai Mão đã bỏ đi ra khỏi nhà và cô Ánh nằm bất tỉnh trên sân, máu chảy một dòng trên trán, mấy người liền leo rào nhảy qua, chị Năm Béo bảo một thiếu nữ kẹp tóc chạy đi kêu xe rồi chị với mấy người khác xốc cô Ánh ra xe để chị đưa Ánh đi nhà thương.
Gần 12 giờ trưa, chị Tư Rỗ về nhà không biết chuyện chi hết. Chị không thấy con gái đâu, đã hấm hứ:
- Cái con nầy thiệt... Lại đi nữa rồi!
Nhưng chị thấy trên bếp đã bắc nồi cơm, lửa tắt mà cơm chưa chín. Trên thớt còn con cá lóc làm dở dang mới cạo sạch vảy. Chị ngó quanh quất không thấy gì lạ bước ra cửa bếp ngó ngoài sân sau, cũng không thấy Ánh. Chị Tư liền kêu vói, sang nhà chị Năm Béo:
- Ánh ơi, có ở bên nhà chị Năm Béo hông?
Không nghe Ánh đáp. Chỉ có cô Lộc, một thiếu nữ kẹp tóc ở cạnh nhà chị Năm, kéo guốc lẹp xẹp ra hè, đứng sau hàng rào phên, nói vọng qua:
- Chị Ánh đi nhà thương rồi, bà Tư à.
Chị Tư hốt hoảng:
- Ủa, nó sao mà đi nhà thương?
- Chị bị ông Cai Mão đánh lỗ đầu chảy máu, chỉ nằm chết giấc, bà Năm phải khiêng chỉ ra xe đem đi nhà thương.
Cô Lộc kể đầu đuôi tự sự cho bà Tư nghe những chuyện đã xẩy ra mà cô với bà Năm Béo và mấy người khác đã nghe thấy từ khi Cai Mão bước vô nhà. Chị Tư Rỗ ngồi xuống đất khóc nức nở. Tiếng chị khóc rất thảm thiết, tưởng như Ánh đã chết rồi!...
Hỏi cô Lộc chị Năm đưa Ánh đi nhà thương nào, Lộc không biết, chị Tư lại khóc than kể lể rùm beng cả xóm. Một lát sau chị Năm Béo về. Chị đi thẳng vô nhà chị Tư, chưa thấy chị nầy, chị Năm nói bô bô lên một mình:
- Cũng thiệt là may! Gặp cái ông Đốc tơ nhơn đức, chớ không có thì con nhỏ cũng bỏ mạng tám mươi đời.
Chị Năm đi chưn không, bước thùi thụi, vừa hỏi trống rỗng:
- Có đôi guốc cùn của tôi để trong nầy hông nè? May đủ thứ may! Cái anh tài xế tác xi cũng tử tế, mình kêu xe chở đại cô Ánh tới nhà thương, mà trong túi hổng có tiền trả tiền xe, ảnh thấy cô Ánh bị đổ máu ướt nhẹp cái đầu, ảnh cũng hổng nỡ đòi tiền... ủa đôi guốc của tôi đâu cà?
Chị vừa kiếm đôi guốc, vừa ra đến cửa bếp, thấy chị Tư ngồi khóc sướt mướt, chị la lên ;
- Chị Tư biết hông? Tui hỏng đem con Ánh vô nhà thương kịp sáng nay thì đừng nói nó sống! Trời ơi, chị biết hông máu chảy tua tủa ra dễ sợ quá, tưởng nó chết trên xe rồi chớ! Ông nội ơi, nó sưng vù trên đầu trên trán ba bốn cục vầy nè! Chị biết hông, tới nhà thương thì ông Đốc tơ đã ra xe hơi đi về, tụi tui phải năn nĩ ổng, nói con Ánh bị chảy máu nhiều quá sá, sợ nó chết lịm mất..
Tội nghiệp ông, chị biết hông, ông thấy con Ánh như vậy, ổng lật đật biểu đem vô buồng thuốc, ông băng bó cho nó, rồi ổng chích cho nó hai mũi thuốc, hổng biết thuốc gì... Nghe ông Đốc tơ nói hổng sao đâu, tui mới hết lo, chớ chị biết hông, hồi chở nó đi trên xe, tui cứ sợ nó chết lịm trên xe thì thấy mồ tổ! Chèng đéc ông nội ơi, từ hồi khai thiên lập địa tới giờ, tui mới thấy ông Cai Mão đó là một đa, chị Tư ơi! Chị biết hông, chị mà thấy ổng cầm cây cũi to bằng cổ tay tui đây nè.., kia cà, cây củi ổng đánh con Ánh ổng quăng ra kìa, chị mà thấy ông đánh con nhỏ, chị cũng đứt từng đoạn ruột chớ đừng nói là lũ tui... Đàn ông gì mà dữ quá xá là dữ!... Coi có đôi guốc tao ở bền hông Thẹo?
Chị Năm hỏi con Thẹo, là cháu kêu bằng dì mà chị vừa thấy đứng bên hàng rào phên, với cô Lộc và ba bốn thiếu nữ ở hàng xóm. Con Thẹo chạy kiếm một lát, trả lời:
- Hổng thấy đôi guốc của dì đâu hết.
- Vậy chớ tao bỏ quên nó ở trên tắc xi rồi sao, mầy? Ủa mà có một chiềc đây rồi nè! Phải guốc của tao hông?
Chị Năm chợt thấy một chiếc guốc ở cạnh lu nước, trong kẹt hàng rào. Chị chạy lại lấy, đúng là của chị. Chị đập chiếc guốc cùn xuống gạch kêu một cái ‘‘đốp’’, hình như chị tức giận nó lắm:
- Mẹ cha mày, nằm đây mà để tao kiếm ứ hơi!
Chị ngó quanh quẩn trong sân:
- Còn một chiếc nữa đâu
Một tay cầm chiếc guốc, chị Năm còn quay lại chị Tư:
- Chị Tư biết hông, con Ánh có dặn tôi đừng nói cho chị biết là nó nằm nhà thương! Tui đỡ nó nằm xong xuôi rồi hết tui mới đi bộ về đây nè. Người ta băng bó cho nó kín hết trọi cái đầu, còn chừa một cái mặt thôi hè!
Chị Năm Béo kêu con Thẹo qua tìm một chiếc guốc nữa của chị, rồi chị ngồi bệt xuống đất, đối diện chị Tư Rỗ. Chị kể hết đầu đuôi câu chuyện vừa xẩy ra trong lúc chị Tư đi vắng. Chị kể đi kể lại hai ba lần một đoạn, và bình phẩm hành động của Cai Mão với những lời tục tĩu, thô kịch nhưng rất là nghiêm khắc. Nếu có một máy thu thanh đặt gần đó để ghi lại tất cả những lời nói của chị không sót một tiếng nào, thì chúng ta sẽ có một áng văn bình dân kiệt tác, thú vị đặc biệt, với tất cả các danh từ tả chân mà một nhà đại văn sĩ có tài đến đâu cũng không thế nào viết được. Chị Năm Béo thuộc về hạng môm loa mép đải ở các xóm lao động, chuyên môn ngồi lê đôi mách, và rất hay tọc mạch những chuyện riêng của người ta, nhưng lại rất vui vẻ, thành thật, ngay thẳng và công bình, không thiên vị bên nào. Chị bình phẩm gắt gao mỗi hành vi của Cai Mão mà chị không sợ mích lòng chị Tư Rỗ. Chị bênh vực Ánh. Chị rất thương hại cho Ánh và khen ngợi Ánh từng một cử chỉ nhỏ mọn. Chị tỏ cho chị Tư thấy Cai Mão là một tên vô lại khả ố, khả bỉ, còn Ánh là một cô gái rất đáng khen, đáng phục, đáng thương. Chị Tư Rỗ ngồi nghe, khóc ròng rã, không dám binh chồng mà cũng không dám hùa theo chửi chồng. Chửi Cai Mão thì sợ anh ta nghe được sẽ đánh chị nhừ thây. Còn binh Cai Mão thì chắc là chị Năm Béo và bà con hàng xóm sẽ cười chị là sợ ‘‘thằng chả’’ và không biết thương con. Chị Tư làm thinh không hề có lời cám ơn chị Năm Béo đã đưa Ánh đi nhà thương. Trong thâm tâm của chị vẫn thương con gái lắm, nhưng vì chị nghèo quá, và thấy câu chuyện đã lỡ ra như thế rồi, chị không biết làm cách gì để cứu vớt đứa con gái độc nhất thân yêu của chị. Chị tức giận người ‘‘chồng’’ tàn nhẫn và vô liêm sĩ, mà không dám nói ra, sợ chị Năm cười. Chị định đợi chiều tối hắn về chị sẽ hỏi chuyện.
Ánh nằm nhà thương gần một tháng trời, chẳng có ai thăm viếng cả. Ánh buồn tủi cho thân phạn mình và oán trách mẹ.
Nàng không thèm nghĩ đến người cha ghẻ khốn nạn. Nghĩ đến làm chi cho thêm nhục, cho thêm hận? Ánh chỉ thề với mình rằng từ nay nhất định không bước chân về nhà mẹ nữa. Ánh tự coi mình như một đứa con hoang, và tự an ủi: ‘‘Trên đời còn có biết bao nhiêu những con mồ côi không mẹ không cha đó thì sao? Mình đã lớn rồi, lo tự lập lấy thân là hơn.’’
Ra khỏi nhà thương, Ánh về thẳng nhà bà cô ở Bàn cờ, rồi viết một bức thơ cho mẹ:
Thưa má,
Con đau đớn lắm mới phải viết mấy lời thơ nầy về kính thăm má và thưa với má rằng từ nay má không còn thấy mặt con nữa đâu. Con xin chịu làm đứa con bất hiếu, nhưng trong lòng con vẫn yêu thương má và kinh má vì con không quên được công lao má đã nuôi con và tình má thương con hồi ba của con còn sống. Con chỉ thương cho ba con thiệt là vô phước! Thôi con lạy má ba lạy và từ giã má vĩnh viễn.
Con bất hiếu của má
Lê thị Ánh
Ánh xé một tờ giấy trắng trong một quyển tập cũ hồi còn đi học mà Ánh vẫn cất âu yếm trong giỏ áo quần của Ánh, Ánh lấy kéo cắt giấy làm một phong bì bỏ thơ vào trong rồi lấy cơm dán lại,
Ánh đề ngoài bao thơ: ‘‘Kính gởi Má’’. Sáng thật sớm, Ánh đi với em Nhung, con của bà cô, đến An bình, Ánh đứng ngoài đầu đườrg, bảo Nhung chạy vô ngõ đưa cho Năm Béo, nhờ chị trao cho má Ánh.
Vài hôm sau, Ánh sực nhớ Cai Mão có bảo với Ánh rằng y đã biết chỗ ở của Ánh rồi. Chẳng biết là y nói thật hay nói dóc, nhưng muốn đề phòng cho chắc chắn, Ánh nhờ bà cô kiếm cho Ánh một chỗ làm tạm, để xa lánh xóm Bàn cờ.
Chính Ánh cũng đã thân hành đến nhờ ba tờ báo hằng ngày đăng giùm trong mục ‘‘tìm việc’’ mấy dòng sau đây:
‘‘Thiếu nữ học lực Đệ Tứ T. H. Đ. N. C. Hiền lành, tận tụy với công việc. Muốn kiếm việc làm không cần lương nhiều, có thể đi xa, Xin biên thư cho cô Nhàn, 216/7/2A, Phan đình Phùng, nhờ chuyển giao.’’
Nhà báo có hảo tâm đăng giùm, nhưng Ánh buồn bã thấy mấy dòng của Ánh được đăng lên lẫn lộn vào một cột đầy nghẹt những lời rao khác cũng tìm việc như Ánh, cũng toàn là những thanh niên thiếu nữ đỗ T. H. Đ. N, C, Tú Tài phần I, phần II, sinh viên Đại Học Văn Khoa, Luật Khoa,.. v. v... Ánh thất vọng, không tin tưởng nhiều vào sự may mắn quá hão huyền, Tờ báo chỉ đăng cho được một kỳ, Trong số báo hôm sau, nơi mục ‘‘tìm việc’’ Ánh không còn thấy lời rao của nàng nữa, nhưng vẫn đầy nghẹt những lời rao khác, kế tiếp nhau của những bạn trẻ thất nghiệp, hầu hết là học sinh và sinh viên. Ba hôm sau khi đăng báo, Ánh có nhận được bức thư của một nhà buôn ở Biên Hòa gọi Ánh làm thư ký. Nhưng phải có bằng cấp đánh máy chữ. Ánh không biết đánh máy vì không có tiền để học nghề này, đành bỏ qua cơ hội.
Một buổi trưa, Ánh sửa soạn đi gánh nước, thì người cô của Ánh đi chợ Bến Thành về, hỏi Ánh có bằng lòng làm thuê cho một nhà ở đường Hiền Vương không? Chủ nhà là một công chức sarg trọng, công việc là đi chợ, làm bếp, giặt đồ, ủi đồ, rảnh thì giữ em, một đứa con trai 5 tưổi. Lương mỗi tháng 600$.
Ánh buồn bã hỏi:
- Nghĩa là đầy tớ, phải không cô?
- Ừ, cũng như làm thuê vậy.
Ánh suy nghĩ một lúc rồi cương quyết trả lời:
- Dạ, con bằng lòng.
Nhưng vừa dứt lời, Ánh chạy đến ghế bố, gục đầu xuống gối khóc nức nở...
Ánh than van một mình:
- Ba ơi. Ba!... Đứa con gái của Ba ngày nay phải đi ở mướn để độ thân, Ba ơi! Nhục nhã con quá, Ba ơi! Má ơi!...
Ánh nằm ghế bố, khóc cả buổi trưa, không ăn cơm, Đến 2 giờ chiều. Ánh sửa soạn ra đi, bỏ giỏ mây lại cho em Nhung, chỉ ôm một gói áo quần, đi theo người cô đến một biệt thự xinh đẹp rộng lớn, ở đường Hiền Vương.
Đấy là nhà của ông giáo sư Ngọc Minh ở chung với vợ chồng người em gái của ổng.