← Quay lại trang sách

Hãy Tin Tôi - 1 -

Mọi người đều có quyền kiếm sống.

Người ta đổ giọt mồ hôi và có một đô la. Với đồng đô la ấy mua chanh, đường, để chiếc bàn và hai chiếc ghế nhỏ, ngồi bán nước chanh bên lề đường, bỗng nhận ra kiếm được mỗi tuần năm đô la. Với năm đồng đó, lại mua chanh, đường, đặt bàn che lều dọc đường. Một thời gian sau thấy cần phải mượn thêm người làm, sản xuất nước chanh vào chai vào hộp rồi có xe để đi phân phối chai hộp đó cho các cửa hàng. Người ta mua một ngôi nhà đẹp ở vùng nông thôn có bể tắm, thường tổ chức chiêu đãi mà khách mời uống nước chanh pha thêm rượu. Có thể nói người ta đã thành đạt.

Luật pháp cho việc kiếm đồng tiền sinh sống là chính đáng, nhưng nhiều khi phải nói tới cách kiếm ra đồng tiền.

Nếu, ví dụ, anh ta có xu hướng phá khóa những hòm bạc, cảnh sát chau mày. Hoặc anh thích trấn lột khách đi đường, không ai có thể phàn nàn gì về việc cảnh sát can thiệp. Hay tệ hơn nữa anh kiếm sống bằng một khẩu súng ngắn thường chĩa vào người khác để tống tiền thì điều đó hoàn toàn không ổn.

Bây giờ nếu là một người ăn mặc đường hoàng nhưng kiếm sống bằng cách phạm tội, anh có thể làm hàng ngàn cách.

Có thể đánh lừa thiên hạ. Không cần dùng bạo lực; bỏ tiền ra mua những dụng cụ hành nghề đắt tiền như kìm cộng lực cũng vô ích; trang bị khẩu súng ngắn hay bố trí kế hoạch để cướp một nhà băng bảo vệ chu đáo cũng là thừa.

Anh có thể tỏ ra cao sang, sống một cuộc đời lãng mạn và phiêu lưu, gặp gỡ nhiều người, ăn uống thoải mái trong lúc làm tiền... nhưng cái đó nhằm đánh lừa thiên hạ.

Tóm lại, anh có thể lừa đảo, lợi dụng lòng tin ở mức độ cao.

Cô bé da đen có vẻ bị kích động mạnh. Cô đang ở trong một trạm cảnh sát, trình bày sự việc với hai viên thanh tra. Có một cảnh sát da đen, điều đó cũng không làm cô yên lòng. Hai người chú ý nghe, thái độ thông cảm nhưng cô cảm thấy mình vẫn rất kỳ cục và chính vì sợ kỳ cục mà cô bị kích động.

Cô ra thành phố đã hai năm, tự biết lúc ấy thật ngây thơ dại dột. Vừa mân mê quai chiếc túi đen, cô bảo hãnh diện đã đưa đến thất bại. Cô nói:

- Tôi cảm thấy mình ngu ngốc đến thế.

- Cô cho biết lại tên? - Kling hỏi.

Kling vừa lên chức thanh tra và còn chưa biết hỏi như thế nào cho thật đúng. Anh là một chàng trai tóc vàng to lớn, rất trẻ, hầu như còn non nớt. Đôi khi anh cũng cảm thấy mình nêu lên những câu hỏi ngốc nghếch, vì vậy hiểu tâm trạng cô bé da đen đang ngồi thẳng đờ trên ghế.

- Tôi tên là Betty - cô ta trả lời - Betty Prescott.

- Cô ở đâu, cô Betty?- Kling lại hỏi.

- Tôi làm việc cho người ta, ở bang bên cạnh, là đầy tớ ông hiểu chứ? Tôi phục vụ trong nhà ông bà Haines đã sáu tháng nay. (Cô hỏi như Kling phải biết ông bà này. Anh không biết họ). Tôi ra về vì thứ năm là ngày tôi được nghỉ. Ngày thứ năm và một ngày chủ nhật trong hai tuần. Thường thường ngày thứ năm tôi ra thành phố. Ông Haines đánh xe đưa tôi ra ga; khi trở về bà Haines đi đón. Đáng lẽ tôi phải về rồi nhưng cần đến trình bày với các ông việc đã xảy ra. Tôi đã điện cho bà chủ và bà đồng ý tôi phải đến gặp các ông. Ông hiểu chứ?

- Tôi hiểu - Kling nói - Cô có chỗ ở trong thành phố à?

- Khi tôi đến, tôi ở nhà bà chị họ, Jsabel Johnson ấy? Lại là câu hỏi. Kling không biết bà này.

- Được rồi, Betty, tiếp đó việc xảy ra như thế nào? Brown hỏi. Cho đến lúc đó, Brown ngồi im, để cho Kling thẩm vấn. Nhưng Arthur Brown nhiều tuổi hơn, vốn là người thiếu kiên trì. Do tên anh là Brown và hoàn cảnh sinh ra anh có màu da nâu, anh bị đùa cợt nhiều và có lúc đã định đổi tên để thực sự làm mồi cho bọn phân biệt chủng tộc. Nhưng từ tính sốt ruột cùng nảy sinh một loại cố chấp giúp anh trong việc điều tra. Khi Brown bắt tay vào một sự việc, chưa được sáng tỏ thì anh chưa thôi. Như vậy là Brown sốt ruột hỏi:

- Việc xảy ra như thế nào?

- Sáng hôm qua tôi xuống tàu, đang đi dọc sân ga thì ông ấy đến nói chuyện với tôi.

- Ở chỗ nào vậy?

- Ở sân ga. Ông ta chào tôi và hỏi mới ra thành phố ít lâu phải không. Tôi trả lời không, từ nông thôn ra đã hai năm nhưng làm việc ở ngoại ô. Ông ta có vẻ đường hoàng, ăn bận lịch sự, và về các mặt. Ông nhận rõ điều tôi muốn nói chứ? Ra dáng lắm phải không?

- Đúng - Kling nói.

- Ông ta bảo là mục sư. Vả lại cũng có vẻ như vậy. Ông chúc phúc cho tôi, nói với tôi phải rất thận trọng vì ở thành phố lớn đầy cạm bẫy đối với những cô gái ngây thơ. Có những người muốn làm hại tôi à?

Lại một câu hỏi và Kling trả lời xác nhận đúng một cách máy móc, bực mình vì ngạc nhiên về cách nói của cô.

- Ông ta bảo phải chú ý nhất là về tiền nong vì người ta thường tìm cách đánh cắp.

- Người da trắng hay da đen?- Brown ngắt lời.

Cô bé nhìn, Kling như xin lỗi:

- Da trắng.

- Cô tiếp tục đi - Brown nói.

- Thế là tôi bảo tôi có một ít tiền; ông ta đề nghị để ông ban phúc cho, hỏi tôi có tờ mười đô la không, tôi nói không, chỉ có tờ năm đồng. Ông ta cầm lấy, bỏ vào chiếc phong bì trắng, làm dấu chữ thập lên trên. Dấu thánh giá à?

Lần này Kling không trả lời câu hỏi.

- Sau đó ông lẩm bẩm điều gì như cầu Chúa trời ban phúc cho đồng tiền; chúng tôi nói chuyện vớ vẩn với nhau và ông bỏ phong bì vào túi. Và rồi chúng tôi chia tay, ông đưa cho tôi chiếc phong bì có dấu chữ thập, đồng tiền đã được ban phúc.

- Còn sáng nay? - Brown rốt ruột.

- Lúc đi lên tàu, khi tôi mở chiếc phong bì ra chứ?

- Đúng vậy - Kling nói.

- Một điều lạ là không có tờ đô la! - Brown nhận định.

- Không hẳn thế! Chỉ có một chiếc khăn nhỏ bằng giấy gấp lại. Chắc ông ta đổi chiếc phong bì trong lúc nói chuyện, sau khi đã ban phúc cho đồng tiền. Tôi không biết phải làm gì bây giờ. Tôi rất cần tờ năm đô la ấy! Ông thấy có lấy lại được không?

- Chúng tôi thử cố gắng - Kling nói - Cô có thể nói nhân dạng người ấy được không?

- Chà, tôi không nhìn kỹ lắm. ông ta đường hoàng, ăn bận tử tế. Một bộ quần áo màu xanh nước biển. Có thể là đen; nói chung là màu tối.

- Có thắt cà vạt không?

- Hình như chiếc nơ cánh bướm.

- Có cặp da, sách vở gì không?

- Không.

- Có nói tên với cô chứ?

- Có lẽ. Tôi không nhớ nữa.

- Được rồi, cô Prescott - Brown thở ra nói - Nếu chúng tôi có được tin tức gì sẽ báo cho cô. Trong lúc chờ đợi, tôi khuyên cô vĩnh biệt tờ năm đô la của cô đi.

- Vĩnh biệt?

- Câu hỏi vang lên hơn bao giờ hết nhưng không ai trả lời. Người ta dẫn cô gái ra đến hành lang; cô buồn rầu bước xuống cầu thang.

- Anh nghĩ việc này thế nào? - Kling hỏi Brown.

- Việc đánh tráo cũ rích. Biết bao nhiêu cách làm. Chúng ta có thể theo dõi ở các sân ga.

- Anh thấy có thể tìm ra không?

- Tôi chẳng biết. Có thể ngày mai nó thay đổi địa điểm. Bert này, tôi có cảm tưởng lối lừa đảo và lợi dụng lòng tin gần đây lại phát triển. Những mưu mô cũ mà mọi người đã phải biết rõ, lại bắt đầu hoành hành. Tôi không hiểu....

- Việc không nghiêm trọng lắm - Kling nói.

- Mọi tội trạng đều nghiêm trọng - Brown nghiêm trang xác định.

- Đúng, chắc chắn rồi. Tôi muốn nói ngoài mấy đồng đô la bị mất dù sao cũng không có thương tích gì.

Cô gái trẻ ở cảng sông thì có thương tích thật sự.

Cô nổi lên, trôi vào những tảng đá gần cầu và lúc đầu ba đứa trẻ chơi gần đó không biết là cái gì. Khi hiểu ra chúng đi báo cảnh sát.

Khi anh cảnh sát đến, cô gái đang ở gần tảng đá. Anh không hề thích xác chết, nhất là những xác người đã ngâm trong nước trương phình, xác chết gần giống như một người đàn bà. Tóc đã hoàn toàn biến đi trong dòng nước; quần áo thì chỉ còn lại chiếc nịt ngực dán vào da thịt đã rữa như có phép lạ; răng hàm dưới phía trước cũng thiếu.

Anh cảnh sát cố gắng giữ khỏi nôn oẹ, chạy ngay đến trạm điện thoại gần nhất báo cho quận Cảnh sát 87 mà anh thuộc quyền.

Sulivan, trực ban trả lời anh.

- Tôi là Di Angelo - Anh cảnh sát nói.

- Gì thế?

- Có một thây người chết gần cầu.

Anh kể chi tiết cho Sulivan rồi trở lại đứng gần xác cô gái phơi dưới nắng tháng tư, trên tảng đá.