- 14 -
Trong giai đoạn điều tra này, hiển nhiên Lucy Mencken và Edward Schlesser, người kinh doanh nước quả, đã thoát khỏi những nỗi lo lắng, cả nạn nhân thứ ba, người đã đóng góp hàng tháng làm tăng thu nhập của Kramer lên một nghìn một trăm đô la. Nhìn xa hơn, bây giờ Kramer đã chết và tay tống tiền giả danh Torr bị tù, nạn nhân số một, người cung cấp cho Kramer xe đẹp, quần áo cắt may, ngôi nhà sang trọng và một tài khoản ở nhà băng bốn mươi nghìn đô la, rõ ràng cũng cất được gánh nặng. Kramer chết rồi và không có kẻ nào thừa kế lối khai thác béo bở ấy.
Mọi người phải tràn ngập niềm vui. Có lẽ tất cả mọi người đều sung sướng, trừ cảnh sát.
Kramer chết, có kẻ nào đó đưa hắn sang thế giới bên kia thực tế là một vụ án mạng. Và nhiệm vụ của cảnh sát là đấu tranh với án mạng, một vụ giết người chưa được sáng tỏ.
Người ta đã đi hết các trạm bưu điện, các nhà băng trong thành phố. Kramer là một con người biết tổ chức, giữ gìn mọi hóa đơn chứng từ cũ. Hắn tỏ ra ngăn nắp, cẩn thận sắp xếp những giấy tờ quan trọng như phương tiện kiếm sống. Nhưng hắn giấu ở đâu?
Ngồi nhà của hắn được một nhóm bốn thanh tra lục tìm trong hai ngày, kiểm tra nhiều lần mọi xó xỉnh, từng phân mét, không phát hiện ra tài liệu nào hay một chìa khóa có thể mở một chiếc hòm nào đó. Carella thú nhận với Hawes:
- Tôi chẳng hiểu ra sao cả. Mọi tìm tòi không đem lại tí gì.
- Nhất định hắn giấu kín ở đâu đó.
- Nhưng ở đâu? Hắn không tham gia câu lạc bộ nào, không có nhà ở nông thôn mà chỉ có ngôi nhà này.
Hawes suy nghĩ một lúc rồi kêu lên.
- Những chiếc xe.
- Sao, những chiếc xe à? Anh nghĩ hắn có thể để giấy tờ quan trọng sau hòm xe hoặc ở hộp phía trước? Hừm hắn không phải loại người như thế. Một tay cẩn thận... Tôi có cảm giác hắn không vứt tài liệu trong xe đâu.
- Cứ thử xem sao. Mình mất gì? Của cải thì mình không có. Carella thở một hơi dài.
- Anh nói có lý. Chúng ta ra nhà xe xem. Trạm xăng George cách nhà Kramer không xa. Tay chúa tống tiền vẫn đổ xăng và để xe ở đấy. Bản thân George là một người nhỏ thó, khô khan, mũi dính dầu nhớt. Lời đầu tiên của ông là:
- Các ông cho xem huy hiệu.
Carella và Hawes giờ huy hiệu và thẻ cảnh sát.
- Được, bây giờ chúng ta nói chuyện – George nói.
- Chúng tôi muốn xem qua những chiếc xe của Kramer.
- Các ông có lệnh không?
- Không.
- Các ông đi xin lệnh đã.
Và như vậy, George làm chậm cuộc điều tra hình sự gần bốn tiếng.
Hai anh cảnh sát trở lại trạm xe với lệnh khám lúc bốn giờ chiều ngày 15 tháng bảy. George xem kỹ giấy, bắt đầu nói.
- Những chiếc xe ở kia, không khóa cửa. Nếu các ông muốn mở hòm xe thì chìa khóa ở hộp phía trước.
- Cám ơn - Carella nói - Ông có nghĩ là đã làm chậm tiến trình điều tra?
- Những gì tôi biết là phải có lệnh khám. Nếu các ông vội như vậy, bây giờ có lệnh rồi, sao không đi xem xét mà còn tranh cãi?
- Đúng là việc chúng tôi sắp làm đây.
Hawes và Carella vào trong nhà xe. Chiếc Cadillac trắng, chiếc Buick đen xếp phía cuối, bên cạnh nhau. Mỗi người một chiếc, họ kiên trì lục lọi trong xe, nâng ghế ngồi, thảm trải, sờ nắn trần và thành xe, moi hết các hộp các hòm. Việc tìm kiếm kéo dài bốn mươi lăm phút, không thấy có gì.
Carella cúi xuống buồng lái, tháo mái che chuẩn bị nâng lên; Hawes lại gần. Khi anh sắp bỏ mái che xuống thì Hawes ngắn lại,
- Khoan tí đã! Cái gì thế này?
- Sao?
- Kìa, anh nhìn xem.
- Ở đâu?
- Dán dưới tấm mái.
- Thế nào?
- Nâng hẳn lên, Steve.
Carella nâng tấm mái và cúi xuống
- Ồ, cái này. Một chìa khóa trong ống có nam châm có thể gắn vào bất cứ đâu. Một chiếc khóa công tắc phụ, đề phòng khi chìa khóa chính bị mất.
- A - Hawes thất vọng lẩm bẩm.
- Đúng - Carella nói vừa giơ tay lấy cái ống - Anh thấy không? Chìa khóa ở trong cái ống nhỏ này, Cotton - Anh khẽ nói thêm.
- Gì vậy?
- Không phải chìa khóa xe. Cotton, chúng ta trúng tủ rồi.
Chiếc chìa khóa gắn dưới mái xe Cadillac của Kramer mang một con số khắc ở chiếc khâu vàng đặc biệt. Đó là một chìa khóa của kho gửi hành lý ở nhà ga. Trong thành phố có hai ga chính lớn, nhiều ga nhỏ ở ngoại ô và một số ga tàu điện ngầm quan trọng có phòng bảo quản hành lý. Carella gọi điện thoại cho người quản lý các hòm ở các ga đưa số hiệu chìa khóa và biết ngay chiếc khóa ấy hòm ở chỗ nào. Nửa tiếng sau, Hawes và Carella đã đứng trước chiếc tủ nhỏ.
Chiếc tủ được mở ra, trong là một va li, Carella lấy ra.
- Có khóa không?
- Không.
- Sao không mở xem ngay đi?
- Lạy Chúa, tay tôi run lên đây này!
Hawes kiên nhẫn chờ Carella mở chiếc va li.
Có bốn phong bì lớn trong đó. Phong bì đầu đựng một tá bản sao bức thư gửi cho Scheller bởi luật sư của người thấy con chuột trong chai nước hoa quả.
- Vật chứng cứ đầu tiên - Carella nói.
- Chẳng có gì mới. Mở chiếc khác đi.
Phong bì thứ hai đựng hai trang sổ kết toán của một công ty gọi là S.A. Hai trang sổ đó một chuyên viên kế toán Anthony Knowles ký. So sánh hai trang thấy trang sau là tờ kiểm tra của trang đầu mà tổng số khác nhau một tí. Khoảng ba mươi nghìn bảy trăm bốn mươi bốn đô la hai mươi chín xu; ở trang sau con số khớp nhau. Dễ dàng kết luận là ông chuyên viên kế toán đã lừa bịp công ty số tiền trên và sửa lại sổ để che đậy việc đó. Sy Kramer theo mật báo biết được việc đó, đã thu xếp tìm bản gốc của tờ sao gian dối - và lợi dụng để bóc tiền của ông Knowles tham ô, nguồn gốc của một nghìn một trăm đô la hàng tháng.
- Ăn cắp không đẹp chút nào - Carella nhận xét
- Phạm tội chỗ nào thì bị trừng phạt chỗ ấy thôi - Hawes nói.
- Phải đến thăm tay Knowles mới được.
- Anh nói có lý. Cũng có thế đúng anh ta hạ sát Kramer.
Chiếc phong bì thứ ba được đựng sáu cuốn phim và sáu bức ảnh trên giấy bóng của Lucy Mencken trong tư thế gợi cảm, ăn bận có thể nói gần như không mặc gì. Hawes và Carella ngắm những bức ảnh với con mắt thành thạo và tán thưởng.
- Không tồi - Hawes nói. Anh nghĩ bà ta có thể giết Kramer?
- Không biết. Chiếc phong bì cuối cùng chắc giải đáp được cho chúng ta - Carella nói và mở ra.
Trong đó chỉ có một tờ giấy thô. Không có gì khác. Một tờ giấy đôi mang bốn chữ đánh máy. Bốn chữ ấy viết hoa:
TÔI THẤY TẤT CẢ