Chương 20 NINA
Mình có thể ngửi thấy họ. Nina vỗ vào mái tóc và quần áo của mình trong lúc loạng choạng băng qua tuyết, cố gắng không nôn oẹ. Cô vẫn chưa thể xoá đi hình ảnh của những thi thể đó, chỗ thịt đỏ nhức nhối ló ra qua lớp vỏ cháy đen như những hòn than trong lò. Có cảm giác như cô bị quấn trong lớp tro của họ, trong mùi da thịt cháy khét. Cô không tài nào hít thở được.
Việc gần gũi Matthias khiến cô dễ quên đi con người thực của anh ta, cũng như suy nghĩ thực sự của anh ta về cô. Sáng nay cô lại vừa biến đổi anh ta, vừa chịu đựng ánh mắt trừng trừng và những tiếng càu nhàu. Không, cô thích thú mới đúng, cô vui vì có cớ được ở gần anh ta, và hài lòng một cách lố bịch mỗi khi làm cho anh ta suýt bật cười. Thánh thần ơi, sao mình lại bận lòng như vậy? Tại sao chỉ một nụ cười của Matthias Helvar cũng đủ cho cô cảm giác tương đương với năm mươi nụ cười của người khác? Cô cảm thấy tim anh ta đập dồn dập hơn khi bị cô ấn ngửa đầu ra để chỉnh sửa màu mắt. Cô đã nghĩ đến chuyện hôn anh ta. Cô muốn hôn Matthias, và cô dám chắc anh ta cũng có cùng suy nghĩ. Hoặc là anh ta chỉ đang nghĩ tới chuyện bóp cổ mình một lần nữa.
Cô chưa quên điều Matthias nói lúc ở trên chiếc Ferolind, khi anh ta hỏi xem cô định làm gì với Bo Yul-Bayur, và liệu cô có thực sự muốn giao nộp ông ta cho Kerch hay không. Nếu cô phá hỏng phi vụ của Kaz, liệu Matthias có còn được ân xá không? Cô không thể làm điều đó. Bất luận anh ta là thế nào, cô cũng nợ anh sự tự do.
Trong ba tuần lễ sau vụ đắm tàu, cô đi với Matthias. Họ không có la bàn, không biết mình đi đâu. Họ thậm chí còn không rõ đã dạt vào vị trí nào của bờ biển phía bắc. Họ dành những ngày dài đằng đẵng để nhọc nhằn băng qua tuyết, những đêm lạnh lẽo trong hốc trú ẩn sơ sài tự dựng, hoặc trong lều trại bỏ hoang của cánh thợ săn cá voi nếu gặp may. Họ ăn tảo biển nướng hoặc bất kì loại nấm và cây cỏ nào tìm được. Khi họ tìm thấy nơi cất giấu thịt tuần lộc khô ở dưới đáy của một cái balô trong một lều trại, nó giống như một phép màu. Hai người nhai thịt trong sự sung sướng câm lặng, gần như say sưa vì mùi vị của nó.
Sau đêm đầu tiên, họ đi ngủ với bộ quần áo khô và những tấm chăn mền tìm được, ở hai phía của đống lửa. Nếu thiếu củi, họ nằm co quắp cạnh nhau, gần như chỉ chạm hờ, nhưng đến sáng, họ áp sát vào nhau, hít thở cùng một nhịp, mơ màng trong giấc ngủ tựa một mảnh trăng lưỡi liềm.
Mỗi sáng Matthias đều phàn nàn rằng anh không tài nào đánh thức cô được.
“Cứ như cố dựng một xác chết đứng lên vậy.”
“Cái xác xin thêm năm phút,” cô đáp như thế và vùi đầu vào trong tấm da thú.
Anh cứ giậm chân đi loanh quanh, thu dọn chỗ hành lí ít ỏi của họ một cách thật ồn ào, miệng lẩm bẩm “Làm biếng, nực cười, ích kỉ…” cho tới khi cô ngồi dậy và bắt tay vào việc sửa soạn cho một ngày mới.
“Điều đầu tiên anh làm khi về nhà là gì?” Một hôm cô đã hỏi anh như thế trong lúc họ đi bộ trên tuyết, cố tìm dấu hiệu của nền văn minh.
“Ngủ,” anh đáp. “Tắm. Cầu nguyện cho những người bạn đã mất.”
“Phải rồi, những gã sát nhân cục súc kia. Mà này, làm thế nào anh lại trở thành drüskelle?”
“Đám Grisha bạn cô đã tàn sát gia đình tôi trong một trận càn,” anh đáp với giọng lạnh lùng. “Chỉ huy Brum đã đỡ đầu tôi và cho tôi một mục tiêu để chiến đấu.”
Nina không muốn tin, nhưng cô biết có khả năng đó. Trong những trận chiến, nhiều người vô tội vẫn thiệt mạng vì tên bay đạn lạc. Nhưng cô không thích nghĩ đến con quái vật mang tên Brum đó dưới hình ảnh của một người cha.
Tranh cãi hay xin lỗi đều không đúng, nên cô đã nói suy nghĩ đầu tiên hiện lên trong đầu mình.
“Jer molle pe oonet. Enel mörd je nej ajva trohem verret. ’’ Tôi được sinh ra để bảo vệ Người. Chỉ có cái chết mới ngăn tôi thực hiện lời thề này.
Matthias đã trố mắt nhìn cô một cách sửng sốt. “Đó là lời thề của các drüskelle đối với Fjerda. Làm sao cô biết được nó?”
“Tôi đã cố tìm hiểu về Fjerda nhiều nhất có thể.”
“Tại sao?”
Cô hơi do dự một chút trước khi đáp: “Như thế tôi sẽ không sợ các anh.”
“Cô có tỏ ra sợ hãi đâu.”
“Vậy anh có sợ tôi không?” Cô hỏi.
“Không.” Matthias có vẻ bất ngờ với chính câu trả lời của mình. Trước đó anh cũng đã tuyên bố như vậy. Lần này thì cô tin anh. Cô cố gắng nhắc nhở bản thân rằng đó không phải là một điều tốt.
Họ đã đi tiếp một lúc, trước khi anh hỏi: “Thế điều đầu tiên mà cô sẽ làm là gì?”
“Ăn.”
“Ăn gì?”
“Mọi thứ. Bắp cải nhồi, khoai tây hấp, bánh phúc bồn tử đen, bánh kiều mạch vỏ chanh. Tôi rất nóng lòng muốn nhìn thấy khuôn mặt của Zoya khi bước vào Tiểu Điện.”
“Zoya Nazyalensky?”
Nina khựng lại. “Anh biết chị ấy sao?”
“Tất cả chúng tôi đều biết. Cô ta là một phù thuỷ hùng mạnh.”
Lúc đó cô mới hiểu ra rằng với các drüskelle, Zoya cũng gần giống như Jarl Brum - tàn nhẫn, bất nhân, rình rập người ta trong bóng tối với cái chết trên tay. Zoya là con quái vật trong mắt Matthias. Suy nghĩ đó khiến cô thấy không thoải mái.
“Cô thoát ra khỏi lồng như thế nào?”
Nina chớp chớp mắt. “Sao cơ?”
“Ở trên tàu ấy. Cô đã bị trói và nhốt trong lồng.”
“Nhờ ca nước. Quai của nó bị gãy, nên chúng tôi dùng cạnh sắc lởm chỏm đó để cắt đứt dây trói. Một khi đôi tay của chúng tôi đã tự do thì…” Nina vụng về im bặt.
Matthias nhíu mày. “Các cô đã định tấn công chúng tôi.”
“Bọn tôi định sẽ hành động vào đêm hôm đó.”
“Nhưng cơn bão đã ập tới.”
“Phải.”
Một Tiết Khí Sư và một Sáng Chế Gia đã khoét một cái lỗ trên boong tàu, và bọn họ bơi ra ngoài. Nhưng liệu có ai trong số đó sống sót giữa làn nước lạnh giá hay không? Họ có vào được đất liền không? Cô rùng mình. Nếu không có cái ca nước, chắc cô đã chết đuối trong lồng.
“Thế các drüskelle ăn gì?” Cô hỏi và guồng chân bước nhanh hơn. “Ngoài các em bé Grisha?”
“Chúng tôi không ăn thịt trẻ con!”
“Mỡ cá heo hay móng tuần lộc?”
Cô thấy miệng anh cong lên và tự hỏi anh đang buồn nôn hay đang cố nín cười.
“Chúng tôi ăn rất nhiều cá. Cá trích, cá tuyết muối, và cả tuần lộc nữa, nhưng không ăn móng của chúng.”
“Thế còn bánh ngọt?”
“Sao cô lại hỏi thế?”
“Vì tôi rất thích bánh. Tôi đang tự hỏi liệu chúng ta có tìm được điểm chung nào không.”
Anh nhún vai.
“Ồ, coi nào, anh chàng drüskelle,” cô nói. Họ vẫn chưa cho nhau biết tên, và cô không chắc là họ nên làm điều đó. Dẫu sao thì, nếu sống sót được, họ sẽ tới một thị trấn hoặc một ngôi làng, cô không biết chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo, nhưng anh ta càng ít biết về cô càng tốt. “Anh cứ làm như đang tiết lộ bí mật quốc gia không bằng. Tôi chỉ muốn biết tại sao anh không thích bánh ngọt thôi mà.”
“Tôi thích chứ, nhưng chúng tôi không được phép ăn đồ ngọt.”
“Mọi người hay chỉ các drüskelle?”
“Các drüskelle. Nó được xem như một sự buông thả. Giống như rượu hoặc…”
“Các cô gái?”
Hai má anh ửng đỏ, và anh vội tiến lên phía trước. Thật dễ để làm khó anh.
“Nếu các anh không được phép ăn đồ ngọt hoặc uống rượu, chắc anh sẽ rất thích pomdrakon.”
Lúc đầu Matthias không nói gì mà chỉ bước tiếp, nhưng rốt cuộc im lặng trở nên quá sức chịu đựng đối với anh. “Pomdrakon là gì vậy?”
“Chén rồng,” Nina đáp với giọng hào hứng. “Đầu tiên anh phải ngâm nho khô trong rượu brandy, sau đó anh tắt đèn và đốt nó.”
“Để làm gì?”
“Để làm nó khó cầm giữ.”
“Thế các cô sẽ làm gì với nó sau khi đã cầm được?”
“Chúng tôi ăn.”
“Nó không làm các cô bỏng lưỡi à?”
“Có chứ, nhưng…”
“Thế thì tại sao…”
“Vì nó vui, anh ngốc ạ. Anh có biết ‘vui’ nghĩa là gì không? Từ đó có tồn tại trong tiếng Fjerda, chứng tỏ các anh phải quen thuộc với nó.”
“Tôi có rất nhiều niềm vui.”
“Ồ, anh hay làm gì để cho vui nào?”
Cứ thế, họ tiếp tục chọc ghẹo nhau, hệt như cái đêm đắm tàu, giữ cho nhau còn sống, từ chối chấp nhận rằng mình đang yếu dần, và nếu không tìm được một thị trấn đúng nghĩa thì họ sẽ không cầm cự được lâu nữa. Có những ngày cơn đói và ánh nắng phản chiếu trên mặt băng khiến họ đi thành vòng tròn, quay ngược lại, loạng choạng bước trên những dấu chân của chính mình, nhưng chưa bao giờ họ nói ra chữ lạc, như thể cả hai đều tin rằng chuyện đó đồng nghĩa với thừa nhận thất bại.
“Tại sao người Fjerda không để cho đàn bà con gái đi đánh trận?” Một đêm nọ cô hỏi anh trong lúc họ nằm co ro bên dưới một mái dốc, với cái rét xuyên qua những tấm da được trải trên mặt đất.
“Họ không muốn đánh nhau.”
“Làm sao anh biết được? Anh có bao giờ hỏi họ chưa?”
“Phụ nữ Fjerda là để tôn thờ và bảo vệ.”
“Có lẽ đó là một chính sách thông minh.”
Matthias đã hiểu cô đủ rõ để ngạc nhiên trước câu nói đó. “Thật à?”
“Thử nghĩ mà xem, sẽ đáng xấu hổ đến thế nào nếu anh thua một cô gái Fjerda.”
Anh ta hừ mũi.
“Tôi rất muốn được thấy anh bị một cô gái cho ăn đòn,” cô nói với giọng vui vẻ.
“Kiếp này thì còn lâu.”
“Ồ, tôi cũng nghĩ mình sẽ không thấy được cảnh đó. Nhưng tôi sẽ được trải nghiệm khoảnh khắc tôi đá đít anh.”
Lần này thì anh bật cười, một nụ cười thực sự mà cô có thể cảm nhận được từ phía sau.
“Thánh thần ơi, này anh chàng Fjerda, tôi không biết anh có thể cười được đấy. Cẩn thận nhé, cười nhẹ thôi.”
“Tôi thích sự ngạo mạn của cô, drüsje.”
Đến phiên cô bật cười. “Có lẽ đây là lời khen tệ hại nhất mà tôi từng nhận được đấy.”
“Cô không bao giờ nghi ngờ bản thân sao?”
“Luôn luôn,” cô nói trong lúc bắt đầu thiếp ngủ. “Chỉ là tôi không thể hiện ra thôi.”
Sáng hôm sau, họ vượt qua một cánh đồng băng đầy những khe nứt lởm chởm, men theo những dải đất cứng nằm giữa các vực sâu chết chóc, và tranh cãi về thói quen ngủ nghê của Nina.
“Sao cô có thể tự coi mình là một chiến binh được nhỉ? Nếu tôi không gọi chắc cô ngủ luôn đến trưa mất.”
“Cái đó thì có liên quan gì?”
“Kỉ luật. Nề nếp. Cái đó không có nghĩa lí gì với cô sao? Djel ơi, tôi chỉ mong có cái giường ngủ riêng trở lại.”
“Phải rồi,” Nina đáp. “Tôi biết anh ghét ngủ cùng tôi lắm mà. Sáng nào tôi cũng cảm thấy như vậy.”
Matthias đỏ mặt. “Sao cô lại nói những chuyện như thế?”
“Bởi vì tôi thích làm anh đỏ mặt.”
“Bệnh quá. Cô không cần phải tỏ ra vô sỉ như thế.”
“Nếu anh cứ coi như bình thường..
“Tôi không muốn thế.”
“Tại sao? Anh sợ chuyện gì sẽ xảy ra? Anh sợ anh sẽ thích tôi à?”
Matthias không nói gì.
Bất chấp sự mệt mỏi của mình, cô vượt lên phía trước. “Ra là thế. Anh không muốn thích một cô nàng Grisha. Anh sợ rằng nếu cười với những trò đùa của tôi hoặc trả lời những câu hỏi của tôi, anh sẽ bắt đầu coi tôi là một con người. Điều đó khủng khiếp đến vậy hay sao?”
“Tôi có thích cô.”
“Sao cơ?”
“Tôi có thích cô,” anh đáp một cách giận dữ.
Mặt cô sáng bừng, một làn sóng sảng khoái trào dâng trong lòng cô. “Ồ, nói thật nhé, chuyện đó xấu lắm à?”
“Đúng!’’Anh gào lên.
“Tại sao?”
“Bởi vì cô thật kinh khủng. Cô ồn ào, đồi bại và… bội bạc. Brum đã cảnh báo chúng tôi rằng các Grisha rất có sức quyến rũ.”
“Ồ, tôi hiểu rồi. Tôi là một cô ả Grisha mồi chài nguy hiểm. Tôi đã mê hoặc anh bằng các chiêu trò Grisha của mình!”
Cô chọc vào ngực anh.
“Thôi đi.”
“Không. Tôi đang mồi chài anh mà.”
“Thôi ngay.”
Cô nhún nhảy quanh anh, chọc vào ngực, vào bụng, vào sườn anh. “Trời ạ! Anh thật rắn chắc. Hẳn là anh tập tành dữ lắm.” Matthias bật cười. “Thành công rồi! Chiêu trò đã phát huy tác dụng. Anh chàng Fjerda đã gục ngã. Anh không đủ sức cưỡng lại tôi. Anh…”
Câu nói của Nina tắt nửa chừng khi lớp băng dưới chân cô sụp xuống. Cô quơ tay, tìm cách bấu víu vào thứ gì đó để khỏi ngã, những ngón tay cô cào cấu mặt băng và đá.
Chàng drüskelle đã tóm lấy cánh tay cô, và Nina thét lên vì nó gần như long ra khỏi khớp vai.
Cô bị treo lơ lửng giữa không trung, những ngón tay quắp chặt của anh là thứ duy nhất ngăn cô rơi xuống miệng hố băng đen ngòm. Trong một thoáng, khi nhìn vào mắt anh, cô tin chắc anh sẽ buông tay ra.
“Làm ơn,” cô đã nói như thế với đôi mắt nhoà lẹ.
Anh đã lôi cô lên khỏi mép vực, và họ chậm rãi bò vào chỗ vững chãi hơn. Hai người nằm ngửa ra, thở hồng hộc.
“Tôi đã sợ… tôi đã sợ anh sẽ buông tay,” cô lắp bắp.
Anh đã im lặng một hồi lâu trước khi đáp: “Tôi có nghĩ tới chuyện đó. Chỉ trong một giây thôi.”
Nina khẽ bật cười. “Không sao,” cuối cùng cô nói. “Tôi cũng sẽ nghĩ tới chuyện đó nếu là anh mà.”
Anh đứng lên và chìa tay ra. “Tôi tên là Matthias.”
“Nina,” cô đáp. “Rất vui được làm quen với anh.”
•••
Vụ đắm tàu đã xảy ra từ cả năm trước, nhưng nó cho cảm giác giống như mới đây. Một phần trong Nina muốn quay lại với khoảnh khắc trước khi mọi thứ chệch hướng, với chuỗi ngày dài đằng đẵng bước đi trên băng tuyết, khi họ chỉ là Nina và Matthias, chứ không phải Grisha và thợ săn phù thuỷ. Nhưng càng nghĩ về nó, cô càng nhận ra khoảng thời gian đó không bao giờ tồn tại. Ba tuần lễ đó là một sự lừa dối mà cô và Matthias đã bày ra để sống sót. Sự thật chính là giàn thiêu kia.
“Nina,” Matthias lên tiếng sau khi đã đuổi kịp cô. “Nina, nghe tôi nói đi. Cô phải đi cùng với những người khác.”
“Để cho tôi yên.’”
Khi anh cầm lấy tay cô, Nina vùng ra và siết nắm đấm, tống một quả thẳng vào cổ họng anh. Một người bình thường chắc sẽ buông cô ra, nhưng Matthias là một drüskelle đã được tôi luyện. Anh nắm lấy cánh tay còn lại của cô và kẹp nó vào người cô, khoá chặt lại, khiến cô không thể sử dụng hai bàn tay. “Thôi đi,” anh dịu dàng nói.
Cô vùng vẫy, quắc mắt nhìn anh. “Thả tôi ra.”
“Tôi không thể, khi cô là một mối đe doạ.”
“Tôi sẽ luôn là một mối đe doạ đối với anh, Matthias.”
Khoé miệng anh nhếch lên thành một nụ cười rầu rĩ. Đôi mắt anh buồn rười rượi. “Tôi biết.”
Thật chậm rãi, anh thả cô ra. Cô lùi lại.
“Điều gì sẽ chờ đợi tôi tại Lâu Đài Băng?” Cô hỏi.
“Cô đang sợ.”
“Đúng,” Nina đáp, cằm hất lên đầy thách thức. Không việc gì cô phải phủ nhận điều đó.
“Nina…”
“Cho tôi biết đi. Tôi cần biết. Phòng tra tấn ư? Giàn thiêu rừng rực cháy trên mái nhà hả?”
“Họ không còn sử dụng giàn thiêu ở lâu đài nữa.”
“Vậy thì cái gì? Phanh thây à? Hay xử bắn? Cung điện hoàng gia có chỗ để xem giá treo cổ không?”
“Tôi phát chán với những võ đoán của cô rồi, Nina. Chuyện này cần phải chấm dứt.”
“Anh ta nói đúng đó. Cô không thể tiếp tục hành xử thế này.” Jesper cất tiếng, anh đang đứng trên tuyết cùng với những người khác. Họ đã ở đó từ lúc nào? Họ có thấy cô tấn công Matthias không?
“Đừng có xen vào chuyện này,” Nina quát.
“Nếu cứ tiếp tục đấu đá, hai người sẽ làm cả nhóm bị lộ, mà tôi thì còn muốn chơi nhiều ván bài lắm.”
“Hai người cần phải tìm cách làm hoà với nhau,” Inej lên tiếng, “ít nhất là trong một thời gian.”
“Đây không phải là chuyện của cô,” Matthias gầm gừ.
Kaz bước tới với nét mặt đầy nguy hiểm. “Đây là chuyện của tất cả chúng ta. Anh ăn nói cho cẩn thận.”
Matthias giơ hai tay lên trời. “Tất cả các người đều bị cô ta bịp rồi. Cô ta làm cho mọi người tưởng rằng cô ta là bạn, để rồi…”
Inej khoanh tay lại. “Để rồi sao?”
“Bỏ đi, Inej.”
“Không, Nina,” Matthias nói. “Nói cho họ biết đi. Cô đã từng nói cô là bạn của tôi. Còn nhớ chứ?” Anh quay sang phía những người khác. “Chúng tôi từng đi cùng nhau trong ba tuần lễ. Tôi đã cứu cô ta. Chúng tôi đã cứu lẫn nhau. Khi đến được Filing, chúng tôi… tôi đã có thể tố giác cô ta với những binh lính ở đó, bất cứ lúc nào. Nhưng tôi đã không làm thế.” Matthias bắt đầu đi qua đi lại, cất cao giọng như thể bị những kí ức cũ chế ngự. “Tôi đã mượn tiền. Tôi đã tìm nơi nương náu cho cả hai. Tôi đã sẵn sàng phản bội lại tất cả những gì mình tin tưởng, vì sự an toàn của cô ta. Lúc tôi đưa cô ta tới bến cảng để vượt biển, có một đoàn thương gia người Kerch đang sẵn sàng ra khơi.” Dường như Matthias đang quay lại bến cảng ấy, cô có thể trông thấy điều đó trong đôi mắt anh. “Hãy hỏi cô ta xem cô ta đã làm gì lúc đó, đồng minh đáng tin cậy của các người, kẻ luôn khăng khăng giữ sự phán xét của mình đối với tôi và đồng bào của tôi.”
Không ai nói tiếng nào, nhưng tất cả đều quan sát, chờ đợi.
“Nói cho họ biết đi, Nina,” anh yêu cầu. “Họ nên biết cô đối xử như thế nào với bạn bè của mình.”
Cô nuốt khan, rồi thu hết sức lực để đối mặt với ánh mắt của bọn họ. “Tôi nói với tay người Kerch rằng anh ta là một gã buôn nô lệ, và anh ta đã bắt cóc tôi. Tôi đã van xin họ giúp tôi. Tôi có một dấu triện lấy được từ một con tàu nô lệ mà chúng tôi đã chặn lại gần đảo Wandering, và dùng nó làm bằng chứng.”
Cô không thể nhìn họ được nữa. Kaz đã biết từ trước, tất nhiên rồi. Cô từng nói với anh về những lời tố cáo mà cô muốn rút lại khi cầu xin sự giúp đỡ của anh. Nhưng Kaz chưa bao giờ điều tra, chưa bao giờ hỏi tại sao, chưa bao giờ trừng phạt cô. Theo một cách nào đó, kể với Kaz là một sự an ủi. Một người như Tay Nhám thì không phán xét người khác.
Nhưng giờ đây sự thực đã phơi bày cho mọi người. Một cách kín đáo, Kerch biết các nô lệ đến rồi đi qua các hải cảng của Ketterdam, và hầu hết giao kèo làm việc là một hình thức nô lệ kiểu mới. Nhưng về mặt công khai thì họ phản đối nó, và buộc phải truy tố mọi kẻ buôn nô lệ. Nina biết chính xác điều gì sẽ xảy ra khi cô gán tội đó cho Matthias.
“Tôi đã không hiểu chuyện gì đang xảy ra,” anh nói. “Tôi không biết tiếng Kerch, nhưng Nina chắc chắn biết. Bọn họ đã bắt và xích tôi lại. Họ tống tôi vào khoang tàu và giữ tôi ở đó trong chuyến hải trình nhiều tuần lễ. Tôi chỉ được thấy lại ánh sáng ban ngày khi họ đưa tôi ra khỏi con tàu đó tại Ketterdam.”
“Tôi đã không có lựa chọn nào khác,” Nina nói với giọng tắc nghẹn. “Anh không biết…”
“Tôi chỉ cần biết một điều thôi,” Matthias nói. Trong giọng điệu của anh có sự giận dữ và cả một thứ gì đó khác, giống như lời khẩn nài. “Nếu có thể quay lại thời điểm đó, nếu có thể không làm điều đó với tôi, cô sẽ làm khác đi chứ?”
Nina đứng đối diện với mọi người. Cô có lí lẽ của mình, nhưng chúng liệu có quan trọng không? Họ là ai mà có quyền phán xét cô? Cô thẳng lưng lại, cằm hất lên. Cô là thành viên của băng Cặn Bã, nhân viên của Hồng Bạch, và thỉnh thoảng cô là một cô gái ngu ngốc, nhưng trên hết cô là một Grisha, một chiến binh. “Không,” cô đáp rành rọt, giọng vang vọng trên mặt băng mênh mông. “Tôi sẽ lại làm chuyện đó.”
Một tiếng ầm ầm làm mặt đất rung chuyển. Nina suýt nữa ngã nhào, và cô thấy Kaz phải dùng cây gậy chống để giữ thăng bằng. Mọi người nhìn nhau bối rối.
“Tận trên phía bắc này mà cũng có các rãnh nứt sao?” Wylan hỏi.
Matthias nhíu mày. “Theo tôi biết thì không, nhưng…”
Mặt đất dưới chân Matthias bỗng trồi lên, hất anh ngã nhào. Một tảng đá vươn lên ngay ở bên phải Nina, khiến cô ngã sóng soài. Xung quanh họ, những khối đất đá đóng băng mọc lên như thể mặt đất vươn mình đứng dậy. Một luồng gió mạnh thổi thốc vào mặt họ, những bông tuyết quay cuồng náo động.
“Chuyện quái gì thế này?” Jesper la lớn.
“Động đất!” Inej hét lên.
“Không phải,” Nina đáp, tay chỉ vào một cái chấm màu đen dường như đang lơ lửng trên bầu trời, không bị tác động bởi trận gió vần vũ. “Chúng ta đang bị tấn công.”
Nina co người lại để tự bảo vệ. Cô tưởng như mình đã mất trí. Có ai đó đang lơ lửng giữa trời, tít phía trên cao. Cô đang chứng kiến một người bay.
Tiết Khí Sư có thể kiểm soát gió trời. Thậm chí cô từng chứng kiến họ thay phiên tung nhau lên không trung tại Tiểu Điện, nhưng mức độ khéo léo và sức mạnh cần có để thực hiện một chuyến bay có kiểm soát là điều không thể tưởng tượng nổi - ít nhất là cho tới lúc này . Jurda parem. Cô đã không mấy tin lời Kaz. Thậm chí cô còn nghi ngờ anh đã nói dối về thứ mình đã chứng kiến để khiến cô chấp nhận tham gia phi vụ. Nhưng chuyện này là thật, trừ phi cô bị đập đầu lúc nào đó mà cô không nhớ.
Tay Tiết Khí Sư quay mình trên không, biến cơn gió thành một trận tố lốc, thổi những mảnh băng tuyết vào mặt Nina đau rát. Cô gần như không quan sát được gì. Cô ngã ngửa khi một tảng đá khác mọc lên. Họ đang bị bao vây, dồn lại thành một khối mục tiêu duy nhất.
“Tôi cần ai đó đánh lạc hướng!” Jesper hét lớn từ đâu đó trong gió lốc.
Nina nghe thấy một tiếng teng.
“Nằm xuống,” Wylan gào lên. Nina vội dán mình xuống mặt đất. Tiếng bùm vang lên chát chúa trên đầu cô, ánh sáng bùng lên ở ngay phía bên phải tay Tiết Khí Sư. Gió lốc quanh họ bỗng lặng đi khi hắn ta bị chao đảo và phải tập trung lấy lại thăng bằng. Khoảnh khắc đó kéo dài trong đúng một giây ngắn ngủi, nhưng cũng đủ để Jesper nhắm bắn.
Phát súng vang lên, và tay Tiết Khí Sư rơi thẳng xuống mặt đất. Một khối đá khác trồi lên, vào đúng vị trí. Họ đã bị quây kín lại như bầy gia súc chuẩn bị được đưa vào lò mổ. Jesper nhắm bắn vào một rặng cây phía xa qua khe hở giữa hai khối đá, và Nina nhận ra còn một Grisha khác đang đứng ở đó - một thằng nhóc có mái tóc đen. Ngay trước khi Jesper kịp khai hoả, thằng nhóc vung nắm đấm lên khiến một khối đất hất anh ngã nhào. Anh lăn tròn và nổ súng từ mặt đất.
Thằng nhóc kia hét lên và khuỵu một chân xuống, nhưng hai cánh tay của nó vẫn giơ lên, làm cho đất đá rung chuyển ầm ầm dưới chân họ. Jesper nổ súng một lần nữa, nhưng bị trượt. Nina giơ tay lên, cố tập trung vào trái tim của thằng nhóc Grisha, nhưng nó ở ngoài tầm khống chế của cô.
Cô trông thấy Inej ra hiệu cho Kaz. Không nói một lời, anh vào vị trí bên cạnh tảng đá gần nhất, hai bàn tay khum lại phía trước đầu gối. Mặt đất vẫn đang tròng trành lắc lư, nhưng anh giữ vững tư thế trong lúc cô gái đạp vào đôi tay anh nhảy bật lên theo một đường cong duyên dáng. Inej lao qua khối đá êm ru không một tiếng động. Giây lát sau, mặt đất yên tĩnh trở lại.
“Hãy tin tưởng ở Bóng Ma,” Jesper thốt lên.
Họ đứng đó, sững sờ, trong bầu không khí thinh lặng lạ thường sau sự hỗn loạn vừa xong.
“Wylan,” Jesper nói trong lúc nhỏm dậy. “Đưa chúng ta ra khỏi chỗ này.”
Wylan gật đầu, đoạn lấy ra một cục dẻo dẻo từ trong balô, cẩn thận gắn nó vào tảng đá gần nhất. “Mọi người nằm xuống,” cậu ra lệnh.
Tất cả kéo nhau ra xa nhất có thể và khom người lại. Wylan đập tay vào khối thuốc nổ rồi lao tới, lách vào giữa Matthias và Jesper trong khi tất cả mọi người bịt tai.
Không có gì xảy ra cả.
“Cậu giỡn mặt tôi hả?” Jesper lên tiếng.
Bùm. Khối đá vỡ tan. Nhưng mảnh băng và vụn đá rơi như mưa xuống đầu họ.
Người đầy bụi đất, Wylan tỏ ra hơi ngỡ ngàng đồng thời cực kì sung sướng. Nina bật cười. “ Cố mà làm ra vẻ cậu biết nó sẽ nổ đi.”
Bọn họ lục tục kéo nhau ra khỏi bãi quây bằng đá.
Kaz ra hiệu cho Jesper. “Đảo một vòng đi. Bảo đảm là không có bất cứ bất ngờ nào khác.” Đoạn hai người đi về hai hướng ngược nhau.
Nina và những người còn lại tìm thấy Inej đang đứng cạnh một thằng nhóc Grisha run lẩy bẩy. Nó mặc bộ đồ màu olive, đôi mắt đờ đẫn. Máu trào ra từ lỗ đạn bắn ở đùi thằng nhóc, còn trên ngực phải ló ra phần chuôi của một con dao. Chắc Inej đã phóng dao trúng vào nó sau khi nhảy qua khối đá.
Nina quỳ xuống bên cạnh thằng nhóc.
“Tôi muốn một chút nữa,” thằng nhóc Grisha lẩm bẩm. “Chỉ một chút thôi mà.”
Nó tóm lấy bàn tay của Nina, và chỉ khi đó cô mới nhận ra nó là ai.
“Nestor?”
Thằng nhóc cựa mình khi nghe thấy cái tên đó, nhưng không tỏ ra biết cô.
“Nestor, là tôi đây, Nina đây.” Cô từng học chung với cậu ta ở Tiểu Điện. Cả hai đã được đưa tới Keramzin trong chiến tranh. Sau lễ đăng cơ của vua Nikolai, hai đứa đã chôm một chai rượu champagne và uống say khướt bên hồ. Nestor là sáng Chế Gia, một trong những Giả Kim Hợp Gia có thể xử lí kim loại, thuỷ tinh và sợi. Chuyện này thật khó hiểu, sáng Chế Gia làm ra vải vóc và vũ khí. Nestor không thể làm được điều Nina vừa chứng kiến.
“Làm ơn đi,” cậu ta cầu xin, mặt nhăn nhó. “Tôi cần thêm một chút.”
“Parem?”
“Phải,” cậu ta thổn thức. “Đúng rồi. Làm ơn đi.”
“Tôi có thể chữa lành vết thương cho cậu, Nestor, nếu cậu nằm yên.” Cậu ta bị thương khá nặng, nhưng nếu cô có thể cầm máu thì…
“Tôi không cần cô giúp,” cậu ta nói với giọng tức giận và cố nhích ra xa.
Nina cố gắng làm cậu bình tĩnh và làm chậm nhịp tim của cậu, nhưng cô lại sợ mình sẽ làm ngưng tim. “Làm ơn đi, Nestor. Làm ơn nằm yên.”
Lúc này cậu ta bắt đầu la hét, chống cự lại cô.
“Giữ cậu ấy lại,” Nina la lên.
Matthias xông tới hỗ trợ, nhưng Nestor đã vung hai cánh tay. Mặt đất dâng lên như sóng, đẩy Nina và những người còn lại ra xa.
“Nestor, làm ơn đi! Hãy để chúng tôi giúp cậu.”
Cậu ta đứng dậy, loạng choạng vì cái chân bị thương, tay kéo con dao cắm trên ngực. “Họ đâu rồi?” Cậu hét lên. “Họ đi đâu mất rồi?”
“Ai vậy?”
“Người Shu!” Nestor than vãn. “Họ đi đâu rồi? Quay lại đây!” Cậu khập khiễng bước tới một bước, rồi một bước nữa. “Quay lại đây!” Nestor ngã sấp mặt xuống tuyết và không nhúc nhích nữa.
Nina lao vội tới và lật cậu ta lại. Tuyết bám đầy mắt và miệng cậu. Cô đặt hai tay lên ngực cậu ta, cố làm hồi sinh trái tim cậu, nhưng vô hiệu. Nếu chưa bị chất gây nghiện tàn phá thì có lẽ cậu ta đã sống sót được. Nhưng cơ thể cậu ta quá yếu, chỉ có da bọc xương, một làn da tái mét trong suốt.
Chuyện này không đúng, Nina nghĩ thầm. Luyện tập thuật Điều Nhiên giúp cho một Grisha khoẻ mạnh hơn mới phải. Đó là một trong những điều cô thích nhất ở năng lực của mình. Nhưng cơ thể cũng có giới hạn của nó. Dường như loại thuốc kia đã làm cho năng lực của Nestor vượt quá giới hạn cơ thể cậu, và làm nó kiệt quệ.
Kaz và Jesper đã quay lại. Cả hai thở hổn hển.
“Có gì không?” Matthias hỏi.
Jesper gật đầu. “Một nhóm người đang đi về phía nam.”
“Cậu ta đã gọi người Shu quay lại,” Nina nói.
“Chúng ta đã biết phía Shu có thể cử một nhóm đi đòi lại Bo Yul-Bayur,” Kaz nhận định.
Jesper nhìn xuống thi thể bất động của Nestor. “Nhưng chúng ta không biết họ cử Grisha đi. Làm sao chúng ta có thể chắc chắn đây không phải là đám lính đánh thuê?”
Kaz giơ một đồng xu có hình con ngựa ở một mặt và hai chìa khoá bắt chéo ở mặt kia. “Cái này nằm trong túi của tay Tiết Khí Sư,” anh tung đồng xu cho Jesper. “Nó là một đồng wen ye của người Shu. Một tín vật. Đây là một nhiệm vụ quốc gia.”
“Làm thế nào họ tìm ra chúng ta?” Inej thắc mắc.
“Có lẽ những phát súng của Jesper đã đưa họ tới đây,” Kaz trả lời.
Jesper nổi đoá chỉ tay về phía Matthias và Nina. “Hoặc có thể họ đã nghe thấy tiếng hai người này cãi cọ. Có thể họ đã bám theo chúng ta nhiều cây số rồi.”
Nina cố gắng suy nghĩ từ những chi tiết thu thập được. Người Shu không sử dụng Grisha làm binh lính. Khác với Fjerda, họ không xem các năng lực của Grisha là phi tự nhiên hay đáng ghê tởm. Họ bị mê hoặc bởi chúng. Nhưng họ vẫn không coi các Grisha thực sự là con người. Chính quyền Shu Han đã bắt giữ và thí nghiệm trên các Grisha suốt nhiều năm trời để tìm cách xác định nguồn gốc năng lực Grisha. Họ sẽ không bao giờ dùng các Grisha như lính đánh thuê, hay ít nhất trước kia là như thế. Có lẽ parem đã làm thay đổi cuộc chơi.
“Tôi không hiểu,” Nina lên tiếng. “Nếu họ đã có jurda parem thì còn đi tìm Bo YuL-Bayur làm gì nữa?”
“Có thể họ chỉ có một số lượng nhỏ và không thể tái sản xuất,” Kaz đáp. “Đó là suy nghĩ của Hội đồng Thương buôn. Cũng có thể họ muốn bảo đảm Bo Yul-Bayur không thể trao công thức cho bất kì ai khác.”
“Anh có nghĩ họ sẽ sử dụng các Grisha xài thuốc để thâm nhập Lâu Đài Băng không?” Inej hỏi.
“Nếu họ vẫn còn Grisha,” Kaz nói. “Nếu là tôi thì tôi cũng làm như vậy.”
Matthias lắc đầu. “Nếu họ có một Độc Tâm Y thì chúng ta đã chết chắc.”
“Vừa rồi cả bọn đã suýt chết đấy thôi,” Inej đáp.
Jesper khoác súng lên vai. “Wylan đã chứng tỏ vị trí của mình.”
Wylan giật nảy người khi nghe thấy tên mình. “Thật ạ?”
“Ờ, cậu làm không tồi một chút nào.”
“Ta đi thôi,” Kaz nói.
“Ta cần chôn cất bọn họ,” Nina đề nghị.
“Mặt đất quá cứng, chúng ta lại không có thời gian. Nhóm người Shu vẫn đang di chuyển về phía Djerholm. Chúng ta không biết bọn họ còn bao nhiêu Grisha, và nhóm của Pekka rất có thể đã vào được trong lâu đài.”
“Ta không thể bỏ mặc họ cho lũ sói,” cô nói, cổ họng nghẹn lại.
“Cô có muốn xây giàn thiêu cho họ không?”
“Cút xuống địa ngục đi, Brekker.”
“Làm công việc của cô đi, Zenik,” Kaz đáp trả. “Tôi không đưa cô tới Fjerda để cử hành tang lễ.”
Cô giơ hai bàn tay lên. “Anh nghĩ sao nếu tôi bổ đôi hộp sọ của anh như một quả trứng chim?”
“Cô sẽ không muốn nhìn thấy thứ ở trong đầu tôi đâu, Nina thân mến ạ.”
Cô tiến tới trước, nhưng Matthias đã cản đường.
“Thôi đi,” anh lên tiếng. “Tôi sẽ làm chuyện đó. Tôi sẽ giúp cô đào huyệt.” Nina nhìn anh trấn trối. Matthias lấy từ trong túi đồ ra một cái cuốc và đưa cho cô, rồi lấy cái cuốc khác từ túi của Jesper. “Đi thẳng về hướng nam kể từ chỗ này,” anh quay sang nói với những người khác. “Tôi biết khu vực này, tôi bảo đảm chúng tôi sẽ bắt kịp các cô cậu khi đêm xuống. Chúng tôi sẽ di chuyển nhanh hơn so với lúc đi chung cả nhóm.”
Kaz nhìn anh chàng Fjerda không rời mắt. “Đừng quên bản ân xá của anh, Helvar.”
“Liệu có phải là một ý hay khi chúng ta để họ lại một mình với nhau không?” Wylan hỏi trong khi cùng với những người còn lại đi xuống dốc.
“Không,” Inej đáp.
“Nhưng sao ta vẫn làm?”
“Trước sau gì chúng ta cũng phải tin họ thôi,” Kaz đáp.
“Còn tiết lộ nho nhỏ của Matthias về sự trung thành của Nina thì sao?” Jesper hỏi.
Nina chỉ kịp nghe được câu trả lời của Kaz: “Tôi gần như chắc chắn không ai trong chúng ta có chữ ‘trung thành’ hay ‘chân thật’ trong lí lịch của mình.” Mặc dù rất muốn đấm cho Kaz mấy cú, cô không thể không cảm thấy biết ơn anh một chút.
Matthias bước vài bước ra xa khỏi thi thể của Nestor. Anh bổ cuốc xuống mặt đất băng giá, giật nó ra, rồi lại bổ tiếp nhát nữa.
“Ở đây sao?” Nina thắc mắc.
“Thế cô muốn cậu ta ở đâu?”
“Tôi… tôi không biết.” Cô đưa mắt nhìn miền đất trắng xoá, điểm xuyết bởi vài vạt rừng bạch dương thưa thớt. “Với tôi thì nhìn đâu cũng như nhau.”
“Cô có biết các thánh thần của chúng tôi không?”
“Tôi biết một số,” cô trả lời.
“Nhưng cô biết Djel chứ?”
“Suối nguồn.”
Matthias gật đầu. “Người Fjerda tin rằng toàn bộ thế giới được liên kết với nhau thông qua nước của nó, từ các biển, băng tuyết, các con sông dòng suối, cho tới mưa và bão tố. Tất cả đều nuôi dưỡng Djel và được nuôi dưỡng từ Djel. Khi chúng tôi chết đi, chúng tôi gọi nó là felöt-objer, bám rễ. Chúng tôi trở thành giống như rễ của cây tần bì, uống nước từ Djel ở bất kì nơi nào chúng tôi nằm xuống.”
“Có phải vì thế mà các anh hoả thiêu Grisha thay vì chôn cất họ?” Matthias khựng lại, rồi khẽ gật đầu.
“Nhưng anh lại giúp tôi chôn Nestor và người Tiết Khí Sư ở đây.”
Anh gật đầu lần nữa.
Cô cầm lấy cái cuốc và bắt nhịp theo anh. Mặt đất rất cứng rắn. Mỗi nhát cuốc bổ xuống tạo ra chấn động chạy dọc cánh tay cô.
“Nestor không thể nào làm những chuyện như vừa rồi,” Nina nói, đầu óc vẫn đang căng ra suy nghĩ. “Không một Grisha nào có thể sử dụng năng lực như vậy. Chuyện này quá sai.”
Anh im lặng một lúc rồi nói: “Giờ cô đã hiểu chưa? Cảm giác khi phải đối mặt với một năng lực lạ lùng bản thân không hiểu rõ? Đối mặt với một địch thủ có sức mạnh siêu nhiên như thế?”
Nina nắm cái cuốc chặt hơn. Nestor dưới ảnh hưởng của parem cũng giống như một sự xuyên tạc tất cả những gì cô yêu thích nơi năng lực của mình, có phải đó là điều mà Matthias và những người Fjerda khác nhìn thấy nơi các Grisha? Năng lực nằm ngoài tầm giải thích, một sự thách thức đối với tự nhiên.
“Có thể.” Cô chỉ nói được có thế.
“Cô bảo là cô không có lựa chọn khác ở cảng Elling,” anh nói mà không nhìn Nina, tay vẫn đều đặn cuốc đất. “Có phải do tôi là một drüskelle? Cô đã tính toán như thế ngay từ đầu à?”
Nina còn nhớ cái ngày sau cùng mà họ thực sự ở bên nhau, nhớ cảm giác phấn chấn khi họ trèo lên một quả đồi cao và trông thấy thị trấn cảng biển trải rộng bên dưới. Cô đã bị sốc khi nghe thấy Matthias nói: “Tôi gần như phải xin lỗi cô, Nina.”
“Gần như?”
“Tôi quá đói nên không thể xin lỗi thực sự được.”
“Cuối cùng anh cũng chịu thua ảnh hưởng của tôi. Nhưng chúng ta sẽ đi đâu để ăn khi không có tiền?” Cô hỏi như thế trong lúc họ xuống đồi. “Tôi có thể phải bán đi mái tóc đẹp của anh để có tiền mặt.”
“Đừng có hâm,” anh đã nói như thế với một tiếng cười. Tiếng cười của anh vang lên ngày một dễ dàng hơn qua quá trình họ đi cùng nhau, như thể anh đã bắt đầu thông thạo một ngôn ngữ mới. “Nếu đây là Elling thì tôi có thể tìm được nơi nương náu cho hai chúng ta.”
Khi ấy cô đã khựng lại, hoàn cảnh thực tế của họ ập vào cô với một sự rõ ràng khủng khiếp. Cô đang ở sâu trên đất của kẻ thù mà không có đồng minh nào ngoài một drüskelle, kẻ đã ném cô vào một cái lồng mới vài tuần trước đó. Nhưng trước khi cô kịp lên tiếng, Matthias đã nói: “Tôi nợ cô ơn cứu mạng, Nina Zenik. Chúng tôi sẽ đưa cô về nhà an toàn.”
Cô đã ngạc nhiên khi thấy mình dễ dàng tin tưởng anh đến thế. Và anh cũng tin tưởng cô.
Còn bây giờ, cô bổ cuốc, cảm thấy chấn động lan dọc theo cánh tay tới vai, và nói: “Ở Elling có Grisha.”
Anh khựng lại. “Gì cơ?”
“Họ là các gián điệp làm công việc do thám tại bến cảng. Họ đã trông thấy tôi đi tới quảng trường chính cùng với anh, và nhận ra tôi do quá trình học tập tại Tiểu Điện. Một người trong số họ cũng nhận ra anh, Matthias. Anh ta biết anh sau một cuộc giao tranh ở gần biên giới.”
Matthias không nhúc nhích.
“Họ đã tiếp cận tôi khi anh đi nói chuyện với tay chủ nhà trọ,” Nina nói tiếp. “Tôi đã thuyết phục họ rằng tôi cũng đang sử dụng một vỏ bọc. Họ muốn bắt anh, nhưng tôi bảo họ rằng anh không đi một mình, và bắt anh ngay sẽ rất rủi ro. Tôi đã hứa giao anh cho họ ngày hôm sau.”
“Sao cô không nói cho tôi biết chuyện đó?”
Nina bỏ cuốc xuống. “Nói với anh chuyện có các gián điệp Grisha ở Elling á? Anh có thể đã hoà giải với tôi, nhưng anh không thể mong chờ tôi tin anh không tố giác họ.”
Matthias quay mặt đi, quai hàm giật giật, và cô biết mình nói đúng.
“Sáng hôm đó,” anh nói, “trên bến cảng…”
“Tôi phải đưa cả hai chúng ta rời khỏi Elling nhanh nhất có thể. Tôi đã nghĩ nếu mình có thể tìm cho chúng ta một con tàu để ra đi… nhưng các Grisha chắc chắn đã theo dõi khu nhà trọ và thấy chúng ta ra ngoài. Khi họ xuất hiện ở cảng, tôi biết ngay là vì anh, Matthias. Nếu họ bắt được anh, anh sẽ bị đưa về Ravka, thẩm vấn, thậm chí là xử tử. Thế rồi tôi trông thấy tay thương gia người Kerch. Anh biết luật chống buôn nô lệ của họ rồi đấy.”
“Dĩ nhiên,” anh đáp với giọng chua chát.
“Tôi đã tố giác anh. Tôi cầu xin họ cứu tôi. Tôi biết họ sẽ phải bắt giữ anh, và đưa cả hai chúng ta về Kerch. Nhưng tôi đã không biết, Matthias à, tôi đã không biết là họ sẽ tống anh vào Cổng Địa Ngục.”
Đôi mắt anh đanh lại khi anh nhìn cô, các đốt ngón tay anh trắng bệch ra trên cái cán cuốc. “Tại sao cô không lên tiếng? Tại sao cô không nói ra sự thật khi chúng ta tới Ketterdam?”
“Tôi đã cố. Tôi thề đấy. Tôi đã cố rút lại lời tố cáo. Nhưng họ không để cho tôi gặp quan toà. Họ không để cho tôi gặp anh. Tôi không thể giải thích được về dấu triện của tàu buôn nô lệ, càng không thể giải thích lí do hoang báo mà không tiết lộ về mạng lưới gián điệp của Ravka. Nếu làm vậy tôi sẽ phản bội lại những Grisha đang còn hoạt động. Tôi sẽ đẩy họ tới chỗ chết.”
“Thế nên cô đã bỏ mặc tôi mục xương trong tù.”
“Tôi đã có thể quay về Ravka. Thánh thần ơi, tôi muốn lắm chứ. Nhưng tôi đã ở lại Ketterdam. Tôi dùng tiền nong kiếm được để đút lót, cầu cạnh toà án…”
“Cô đã làm mọi thứ, ngoại trừ nói ra sự thật.”
Cô muốn tỏ ra dịu dàng, ăn năn, muốn nói với anh rằng ngày nào đêm nào cô cũng nghĩ tới anh. Nhưng hình ảnh giàn thiêu kia vẫn còn quá rõ rệt trong tâm trí cô . “Tôi đã cố gắng bảo vệ người của tôi, những người mà anh dành cả cuộc đời để đi tận diệt.”
Matthias bật cười cay đắng, xoay xoay cái cuốc trong tay. “Wanden olstrum end kendesorum.”
Đó là phần đầu của câu ngạn ngữ Fjerda: Nước nghe và nước hiểu. Có vẻ rất nhân hậu, nhưng Matthias biết Nina đã quá quen với phần sau của nó.
“Isen ne bejstrum,” cô kết thúc câu nói. Nước nghe và nước hiểu. Băng thì không tha thứ.
“Vậy bây giờ cô sẽ làm gì, Nina? Cô có phản bội những người mà cô gọi là bạn một lần nữa, vì các Grisha không?”
“Sao cơ?”
“Đừng có nói với tôi là cô định để cho Bo Yul-Bayur sống nhé.”
Anh biết cô quá rõ. Với tất cả những điều cô vừa được biết về jurda parem, cô thừa hiểu cách duy nhất để bảo vệ các Grisha là đoạt mạng nhà khoa học đó. Cô nhớ lại cảnh Nestor dùng hơi thở cuối cùng để cầu xin những ông chủ người Shu quay lại. “Tôi không thể chấp nhận việc những người đồng loại của tôi bị nô lệ hoá,” cô thừa nhận. “Nhưng chúng ta có một món nợ phải thu xếp, Matthias. Lệnh ân xá là sự sám hối của tôi, và tôi sẽ không thể một lần nữa là người ngăn cản anh được tự do.”
“Tôi không muốn nó.”
Cô trố mắt nhìn anh. “Nhưng…”
“Có thể các đồng loại của cô sẽ bị biến thành nô lệ. Cũng có thể họ sẽ trở thành một lực lượng không gì chặn nổi. Nếu Yul-Bayur sống sót và bí mật của jurda parem được công khai, thì bất kì điều gì cũng có thể xảy ra.”
Suốt một lúc lâu, họ nhìn vào mắt nhau. Mặt trời đã hạ thấp trên bầu trời, rải những tia sáng vàng rực xuống mặt tuyết, cô có thể thấy màu vàng của hàng lông mi Matthias lộ ra phía sau lớp antimon đen mà cô đã sử dụng để nhuộm chúng. Cô lại sắp phải biến đổi anh rồi.
Trong những tuần lễ tiếp nối vụ đắm tàu, cô và Matthias đã thoả thuận một sự đình chiến gượng gạo. Lớn lên giữa họ là một thứ gì đó mãnh liệt hơn sự cảm mến, một sự thông hiểu rằng cả hai người họ đều là chiến binh, và trong một kiếp sống khác, có lẽ họ đã là đồng minh thay vì đối thủ. Giờ cô lại cảm thấy điều đó.
“Nó có nghĩa là phản bội những người còn lại,” cô nói. “Họ sẽ không nhận được tiền thưởng từ Hội đồng Thương buôn.”
“Đúng.”
“Và Kaz sẽ giết cả hai chúng ta.”
“Nếu cậu ta biết được sự thật.”
“Anh đã bao giờ thử nói dối Kaz Brekker chưa?”
Matthias nhún vai. “Vậy chúng ta coi như sống không bằng chết.”
Nina nhìn cơ thể gầy mòn của Nestor, “vì đại nghĩa.”
“Chúng ta thống nhất với nhau chuyện này,” Matthias nói. “Bo Yul-Bayur sẽ không sống sót rời khỏi Lâu Đài Băng.”
“Thoả thuận thế nhé,” Nina nói bằng tiếng Kerch, ngôn ngữ của giao thương, không phải là tiếng mẹ đẻ của cả cô lẫn anh.
“Thoả thuận,” anh đáp.
Matthias vung cuốc và bổ xuống theo một đường vòng cung, như một sự xác nhận. Cô cũng nhặt cuốc lên và làm tương tự. Không nói thêm tiếng nào, họ quay lại với việc đào huyệt bằng một nhịp độ quyết đoán.
Kaz ít nhất đã đúng ở một điểm. Matthias và cô cuối cùng cũng đã tìm được một thứ để đồng tình.