← Quay lại trang sách

Chương 19 MATTHIAS

Thật quá sức chịu đựng. Anh không nghĩ mình sẽ cảm thấy khó khăn đến thế này khi được trông thấy lại quê hương sau một thời gian dài. Anh có hơn một tuần lễ trên chiếc Ferolind để chuẩn bị tinh thần, nhưng đầu óc anh bận rộn với con đường mình đã chọn, với Nina và thứ ma pháp khủng khiếp đã đưa anh ra khỏi tù rồi đặt anh lên một con thuyền tiến thẳng về phương bắc dưới bầu trời vô tận. Anh cảm thấy nặng trĩu không chỉ vì xiềng xích, mà còn vì gánh nặng của việc mình sắp làm.

Matthias đã trông thấy đất liền ở phía bắc vào một buổi chiều tà, nhưng Specht quyết định chờ đến tối mới cập bến, với hi vọng ánh sáng nhá nhem sẽ che chở cho họ. Dọc theo bờ biển là những ngôi làng của dân đánh bắt cá voi, và không ai trong nhóm muốn họ bị phát hiện. Dù nấp dưới vỏ bọc của dân đặt bẫy, họ vẫn là một nhóm người đáng ngờ.

Đêm đó họ ở lại trên thuyền. Rạng sáng hôm sau, Nina bắt gặp Matthias loay hoay với những bộ đồ lạnh mà Jesper và Inej đã phân phát. Matthias rất ấn tượng với sự dẻo dai của Inej. Mặc dù còn hai quầng thâm bên dưới mắt, cô di chuyển không chút khó khăn, nếu có đau đớn thì cô che giấu nó rất giỏi.

Nina giơ một chiếc chìa khoá lên. “Kaz bảo tôi tháo xiềng cho anh.”

“Đến tối cô có xích tôi lại nữa không?”

“Cái đó tuỳ ở Kaz. Và cả anh nữa, tôi nghĩ thế. Ngồi xuống đi.”

“Cứ đưa cái chìa khoá cho tôi là được rồi.”

Nina hắng giọng. “Kaz cũng muốn tôi thay đổi diện mạo của anh nữa.”

“Hả? Tại sao?” Ý tưởng bị Nina dùng phép phù thuỷ biến đổi ngoại hình thật không thể chấp nhận được đối với anh.

“Chúng ta đã ở trên đất Fjerda rồi. Kaz muốn anh trông bớt giống… anh. Để đề phòng thôi.”

“Cô có biết đất nước này lớn đến thế nào không? Cơ hội để…”

“Khả năng anh bị nhận ra tại Lâu Đài Băng khá cao, mà tôi lại không thể biến đổi anh ngay tức thì nếu có biến.”

“Tại sao?”

“Tôi không phải là một Thợ May giỏi. Nó là một phần trong chương trình đào tạo Tâm Y, nhưng tôi không thích môn đó.”

Matthias khụt khịt mũi.

“Sao nào?” cô hỏi.

“Tôi chưa bao giờ nghe cô thừa nhận mình không giỏi một thứ gì đó”

“Ờ, chuyện đó khá là hiếm gặp đấy.”

Matthias kinh hoàng nhận ra môi mình đang uốn thành một nụ cười, nhưng để dập tắt nó thì quá dễ, anh chỉ cần nghĩ tới cảnh gương mặt mình bị biến đổi. “Brekker muốn cô làm gì với tôi?”

“Không có gì nghiêm trọng đâu. Tôi sẽ thay đổi màu mắt anh, mái tóc - hay đúng hơn là phần còn lại của nó. Sự thay đổi sẽ không mang tính vĩnh viễn.”

“Tôi không thích chuyện này.” Tôi không muốn cô đến gần tôi.

“Sẽ không mất nhiều thời gian, và cũng không đau đớn, nhưng nếu anh muốn tranh cãi về việc này với Kaz…”

“Thôi được,” anh đáp, cố trấn tĩnh bản thân. Tranh cãi với Brekker chỉ tổ mất công, thằng quỷ đó chỉ cần nhắc đến vụ ân xá là xong. Matthias cầm lấy một cái xô, úp ngược nó lại, rồi ngồi xuống. “Giờ cô đưa tôi chìa khoá được chưa?”

Nina đưa nó cho Matthias, và anh mở còng tay, trong khi cô lục lọi cái hộp mang theo. Nó có một tay nắm và nhiều ngăn kéo nhỏ, bên trong chất đầy những cái hũ đựng bột hoặc phẩm màu. Cô lấy ra một cái hũ màu đen.

“Cái gì đây?”

“Antimon đen.” Nina bước lại gần anh và dùng đầu ngón tay nâng cằm anh lên. “Đừng nghiến răng nữa, Matthias, không thì anh sẽ chẳng còn cái răng nào trong miệng đấy.”

Matthias khoanh tay lại.

Nina bắt đầu rắc một chút bột antimon lên da đầu anh và thở dài đánh sượt. “Tại sao chàng drüskelle can trường Matthias Helvar lại không ăn thịt?” Cô hỏi với giọng cường điệu trong lúc làm phép. “Đó là một câu chuyện buồn lắm, cưng à. Răng của anh ta đã bị một Grisha ác độc vặt sạch, nên giờ đây chỉ có thể ăn được món pudding thôi.”

“Thôi đi,” anh làu bàu.

“Hả? Tiếp tục ngửa đầu ra nào.”

“Cô đang làm gì vậy?”

“Nhuộm đen lông mày và lông mi của anh. Giống như bọn con gái vẫn làm trước khi đi dự tiệc ấy.” Chắc Matthias nhăn nhó ghê lắm, vì cô cười phá lên. “Nhìn cái mặt anh kìa!”

Cô cúi xuống, suối tóc nâu cọ vào má anh trong khi cô rắc phẩm màu lên lông mày của anh. Bàn tay cô đặt trên má anh.

“Nhắm mắt lại,” cô nói khẽ. Ngón cái của cô di chuyển trên lông mi của anh, và Matthias nhận ra mình đang nín thở.

“Cô không thơm mùi hoa hồng nữa,” anh buột miệng, và lập tức cảm thấy muốn đá bản thân mình một cú. Lẽ ra anh không được để tâm đến chuyện đó.

“Chắc tôi toàn mùi tàu đánh cá.”

Không, cô có mùi rất ngọt, tuyệt hảo giống như… “Kẹo caramel?”

Nina nhìn lảng đi nơi khác như người có tội. “Kaz đã bảo chúng tôi được đem theo những thứ cần thiết cho chuyến đi. Một cô gái cũng cần phải ăn.” Nói đoạn cô thò tay vào túi và lôi ra gói kẹo caramel. “Anh muốn một chiếc không?”

Có. “Không.”

Cô nhún vai bỏ một viên kẹo vào miệng, đảo mắt và thở dài khoan khoái. “Ngon ơi là ngon!”

Nói ra thì thật đáng xấu hổ, nhưng anh biết mình có thể nhìn cô ăn cả ngày. Đó là một trong những điểm mà anh thích nhất nơi Nina: cô tận hưởng mọi thứ, cho dù chỉ là một viên kẹo hay làn nước suối mát lạnh, hoặc một miếng thịt tuần lộc phơi khô.

“Giờ thì mở mắt ra đi,” Nina nói lúng búng với viên kẹo trong miệng, tay lôi ra một chiếc lọ nhỏ từ cái hộp dụng cụ. “Anh sẽ phải giữ cho mắt mở đấy.”

“Cái gì đây?” Anh hỏi với giọng căng thẳng.

“Loại cồn thuốc được phát minh bởi một Grisha có tên là Genya Safin. Nó là cách thức an toàn nhất để làm thay đổi màu mắt của anh.”

Cô lại cúi xuống. Đôi má cô ửng hồng vì lạnh, miệng cô hơi hé mở. Đôi môi cô cách môi anh chưa đầy mười centimet. Nếu anh ngồi thẳng người lại, môi họ sẽ chạm nhau.

“Anh phải nhìn vào tôi,” cô hướng dẫn.

Tôi đang nhìn đây. Ánh mắt hai người giao nhau. Cô nhớ bờ biển này chứ, Nina? Anh muốn hỏi như thế, mặc dù anh biết cô có nhớ.

“Cô định làm mắt tôi có màu gì?”

“Suỵt. Cái này khó lắm.” Cô dốc vài giọt dung dịch ra ngón tay rồi đưa nó lại gần mắt anh.

“Sao cô không nhỏ nó vào?”

“Sao anh không ngừng nói được nhỉ? Anh có muốn tôi làm anh mù luôn không?”

Matthias im bặt.

Cuối cùng, cô lùi lại, đưa mắt nhìn tổng thể gương mặt anh. “Màu nâu,” Nina đáp. Rồi cô nháy mắt. “Giống như màu caramel.”

“Thế cô định làm gì với Bo Yul-Bayur?”

Nina ngồi thẳng người, mặt đanh lại. “Ý anh là sao?”

Matthias thấy hơi tiếc vì sự dễ chịu của cô đã biến mất, nhưng điều đó chẳng quan trọng. Anh liếc qua vai để bảo đảm không có ai đang lắng nghe họ. “Cô thừa biết tôi muốn ám chỉ điều gì. Còn lâu tôi mới tin cô để cho những người này giao nộp Bo Yul-Bayur lành lặn cho Hội đồng Thương buôn.”

Nina cất cái lọ vào trong hộp. “Chúng ta sẽ phải lặp lại chuyện này ít nhất hai lần nữa trước khi tới Lâu Đài Băng, để màu mắt của anh đậm hơn. Thu dọn đồ đạc của anh đi. Kaz muốn chúng ta lên đường trong vòng một tiếng đồng hồ nữa.” cô đóng sập nắp hộp đồ nghề, nhặt sợi xích lên, rồi quay gót bỏ đi.

•••

Lúc họ từ biệt thuỷ thủ đoàn, bầu trời đã ngả từ màu hồng sang màu vàng đồng.

“Hẹn gặp lại các bạn ở cảng Djerholm,” thuyền trưởng Specht lên tiếng. “Không đổ lệ.”

“Không quan tài,” những người khác đáp lại. Đám người kì lạ.

Brekker đặc biệt kín tiếng về cách thức họ sẽ sử dụng để tiếp cận Bo Yul-Bayur và đem ông ta ra khỏi Lâu Đài Băng, nhưng cậu ta khẳng định rõ ràng rằng một khi đã đạt được mục đích, chiếc Ferolind sẽ là con đường thoát thân của họ. Nó có giấy tờ đóng dấu Kerch thể hiện rằng mọi lệ phí và đơn từ đều đã được nộp, cho phép đại diện của công ty Haanraadt Bay vận chuyển lông thú và hàng hoá từ Fjerda tới Zierfoort, một hải cảng nằm ở phía nam của Kerch.

Nhóm người bắt đầu từ dưới bãi biển men theo vách đá đi lên. Mùa xuân đang đến, nhưng băng tuyết vẫn còn đóng dày trên mặt đất, khiến cho việc leo trèo trở nên vất vả. Khi lên đến đỉnh vách đá, họ dừng chân lấy hơi. Chiếc Ferolind vẫn còn nằm trong tầm mắt ở phía chân trời, căng buồm đón cơn gió đang quất mạnh vào má họ.

“Thánh thần ơi,” Inej thốt lên. “Chúng ta đang làm chuyện này.”

“Từng giây từng phút trong chuỗi ngày khổ sở vừa qua tôi đều ao ước được rời khỏi con tàu đó,” Jesper nói. “Sao tự dưng tôi lại nhớ nó thế này?”

Wylan vừa giậm chân vừa đáp: “Có lẽ là vì chân chúng ta đã bắt đầu tê cóng.”

“Khi nào lấy được tiền thưởng, các cậu có thể đốt những đồng kruge để sưởi ấm,” Kaz lên tiếng. “Đi thôi.” Kaz đã bỏ lại cây gậy chống đầu quạ trên thuyền và thay thế nó bằng một cây gậy ít gây chú ý hơn. Jesper thì đau đớn giã từ những khẩu súng cẩn ngọc trai đáng giá để sử dụng một cặp súng thường, còn Inej cũng làm điều tương tự với bộ dao đặc biệt của cô và chỉ mang những con dao có thể vứt bỏ khi họ đã vào trong nhà tù. Những sự lựa chọn thiết thực, nhưng Matthias biết những vật hộ mệnh có quyền năng của chúng.

Jesper xem la bàn, rồi cả nhóm tiến về phía nam, tìm một lối đi dẫn tới con đường giao thương huyết mạch. “Tôi sẽ thuê người đốt tiền cho tôi.”

Kaz sánh bước bên cạnh Jesper. “Thế sao cậu không thuê một người để anh ta thuê một người khác đốt tiền cho cậu? Dân chơi thứ thiệt toàn làm thế.”

“Anh có biết các ông trùm thực sự sẽ làm như thế nào không? Bọn họ sẽ trả tiền cho ai đó để…”

Giọng nói hai người tắt dần khi họ tiến lên phía trước, còn Matthias và những người còn lại theo sau. Matthias nhận ra cả hai đều liếc nhìn lần cuối chiếc Ferolind đang dần xa khuất. Con thuyền là một phần của Kerch, một phần quê nhà đối với họ, và cái thứ thân thuộc ấy đang mỗi lúc một trôi xa.

Matthias cảm thấy hơi thông cảm đôi chút, nhưng càng đi, anh càng nhận ra mình thích thú khi lần đầu chứng kiến đám chuột cống kia run lẩy bẩy và vất vả đôi chút. Bọn họ tưởng đã biết thế nào là lạnh, nhưng cái rét phương bắc có cách để buộc những kẻ xa lạ phải đánh giá lại giới hạn của mình. Họ vấp váp, loạng choạng, vụng về trong những đôi giày mới, cố tìm cách bước đi trên lớp tuyết đã cứng lại, và chẳng mấy chốc Matthias đã vượt lên dẫn đầu, giữ nhịp cho cả đoàn, mặc dù Jesper vẫn liên tục xem la bàn.

“Mang cái…” Matthias khựng lại nửa chừng, anh phải dùng điệu bộ để diễn tả cho Wylan. Anh không biết chữ tiếng Kerch tương đương với “mắt kính bảo vệ”, hoặc thậm chí là “tuyết”. Những chữ đó không được nhắc đến trong tù. “Che mắt cậu lại, nếu cậu không muốn hư mắt vĩnh viễn.” Người ta có thể bị mù ở cái xứ phương bắc xa xôi này. Họ có thể bị mất môi, tai, mũi, bàn tay và cả bàn chân. Hầu hết mọi người chỉ thấy sự cằn cỗi và khắc nghiệt, nhưng với Matthias nó thật đẹp. Băng tuyết mang tinh thần của Djel. Nó có màu sắc, hình dạng, thậm chí cả mùi hương nếu bạn biết cách phát hiện ra.

Anh tiếp tục dấn bước, cảm thấy thật yên bình, tựa hồ Djel có thể nghe thấy anh và xoa dịu tâm hồn đau khổ của anh. Băng tuyết gợi lại những kí ức thời thơ ấu, những chuyến đi săn với bố anh. Họ sống ở phía nam, gần Halmhend, nhưng vào mùa đông, nơi đó cũng chẳng khác chỗ này là bao, một thế giới của hai màu trắng xám, chấm phá bởi những đám cây rừng có thân màu đen và nhiều cụm đá tưởng như mọc lên từ thinh không, tựa những xác tàu nằm dưới đáy biển trơ trọi.

Chuyến đi bộ trong ngày đầu tiên với Matthias giống như một sự thanh lọc – rất ít tiếng trò chuyện, sự im lặng trắng xoá của phương bắc chào đón anh không chút phán xét. Anh đã chờ đợi nhiều lời phàn nàn, nhưng ngay cả Wylan cũng chỉ cúi đầu bước đi. Họ đều là những kẻ sống sót, Matthias đã hiểu ra. Họ thích nghi. Khi mặt trời lặn, họ ăn phần thịt bò khô và bánh quy của mình, trước khi lăn ra ngủ trong lều mà không nói tiếng nào.

Nhưng sáng hôm sau đánh dấu chấm hết cho sự thinh lặng và cảm giác yên bình mong manh của Matthias. Giờ đây, khi đã ở cách xa con thuyền và thuỷ thủ đoàn, Kaz sẵn sàng chia sẻ các chi tiết trong kế hoạch của mình.

“Nếu tính đúng, chúng ta sẽ đột nhập rồi thoát ra trước cả khi người Fjerda nhận ra tù nhân đáng giá của họ đã biến mất.” Kaz lên tiếng khi cả nhóm khoác đồ đạc lên vai và đi tiếp về phía nam. “Lúc vào trong nhà tù, chúng ta sẽ được đưa tới khu vực chờ nằm bên dưới buồng giam của nam và nữ để đợi điểm danh. Nếu Matthias nói đúng và quy trình chưa bị thay đổi, đội tuần tra chỉ đi qua các phòng chờ ba lần mỗi ngày để đếm tù nhân. Một khi đã ra khỏi đó, chúng ta sẽ có ít nhất sáu giờ để đi sang toà đại sứ, định vị Yul-Bayur trên Bạch Đảo, và đưa ông ta tới hải cảng trước khi bọn họ nhận ra có người biến mất.”

“Thế còn những tù nhân khác trong khu phòng chờ thì sao?” Matthias hỏi.

“Chúng tôi đã lo liệu chuyện đó.”

Matthias nhíu mày, nhưng không quá ngạc nhiên. Một khi đã ở trong phòng chờ, Kaz và những người còn lại sẽ rất dễ bị tấn công. Chỉ cần Matthias báo với đám lính gác là kế hoạch của bọn họ sẽ đổ bể. Đó là điều mà chỉ huy Brum sẽ làm, lựa chọn của một người đàn ông có danh dự. Một phần trong Matthias đã tin rằng việc quay lại Fjerda sẽ giúp anh tỉnh ra, cho anh sức mạnh để từ bỏ phi vụ điên rồ này. Nhưng thay vào đó, nó chỉ khiến anh thêm quay quắt nhớ nhà, nhớ cuộc sống từng có với các huynh đệ drüskelle.

“Sau khi đã ra khỏi buồng giam,” Kaz nói tiếp, “Matthias và Jesper sẽ đi lấy dây thừng trong chuồng ngựa, còn Wylan cùng với tôi giúp Nina và Inej thoát ra khỏi khu của nữ tù. Chúng ta sẽ gặp nhau ở tầng hầm. Đó là nơi có lò thiêu. Không ai ở lại trong xưởng giặt sau khi nhà tù đóng cổng vào ban đêm. Trong khi Inej leo lên, Wylan và tôi sẽ đi tìm trong xưởng giặt những thứ cậu ta cần để chế thuốc nổ. Để phòng trường hợp người ta quyết định nhốt Bo Yul-Bayur tại khu vực nhà tù và khiến công việc của chúng ta dễ dàng hơn, Nina, Matthias sẽ cùng Jesper đi tìm ông ta trong khu biệt giam ở tầng trên.”

“Nina và Matthias?” Jesper hỏi lại. “Không phải tôi nghi ngờ tính chuyên nghiệp của ai cả, nhưng liệu đó có phải là một sự bắt cặp lí tưởng không?”

Matthias cố nuốt trôi cục tức trong cổ họng. Jesper nói đúng, nhưng anh ghét bị đem ra nói như vậy.

“Matthias biết các quy trình của nhà tù, còn Nina có thể xử lí đám lính gác mà không gây ồn ào. Công việc của cậu là ngăn không để hai người họ giết lẫn nhau.”

“Bởi vì tôi là nhà ngoại giao của nhóm à?”

“Không có ai là nhà ngoại giao cả,” Kaz đáp. “Nghe này, phần còn lại của nhà tù không giống với khu vực chờ. Việc tuần tra được thực hiện mỗi hai tiếng một lần, và chúng ta không muốn bất kì ai phát báo động, do vậy hãy khôn ngoan một chút, chúng ta sẽ căn chỉnh mọi việc theo tiếng chuông Đồng hồ Cả. Ngay sau sáu tiếng chuông, chúng ta sẽ ra khỏi buồng giam, rồi trèo ống khói lên mái lúc tám tiếng chuông. Không được có ngoại lệ.”

“Sau đó thì sao?” Wylan hỏi.

“Chúng ta đi qua mái của toà đại sứ và từ đó tiếp cận cầu kính.”

“Chúng ta đã ở phía bên kia chốt kiểm soát,” Matthias nói, không thể giấu chút ngưỡng mộ trong giọng điệu của mình. “Lính gác trên cầu sẽ cho rằng chúng ta đã đi qua cổng của toà đại sứ và đã được kiểm tra giấy tờ tại đó.”

Wylan nhíu mày. “Trong trang phục tù nhân sao?”

“Giai đoạn hai,” Jesper đáp. “Cải trang.”

“Đúng vậy,” Kaz nói. “Inej, Nina, Matthias và tôi sẽ mượn tạm một ít trang phục của một phái đoàn nào đó, không quên lấy dư cho ông bạn Bo Yul-Bayur của chúng ta, trước khi ung dung đi bộ qua cầu kính. Chúng ta sẽ tìm Yul-Bayur và đưa ông ta quay lại toà đại sứ. Nina, nếu có thời gian, cô sẽ chỉnh sửa diện mạo ông ta nhiều nhất có thể, nhưng miễn là chúng ta không kích hoạt báo động, sẽ không có ai để ý đến chuyện trong đoàn khách bỗng dưng có thêm một ông người Shu.”

Trừ phi Matthias tiếp cận tay khoa học gia trước. Nếu ông ta đã chết trước khi được tìm thấy, Kaz sẽ không thể quy trách nhiệm cho anh. Anh sẽ vẫn được ân xá. Nhưng nếu anh không tách nhóm được thì sao? Một tai nạn đường thuỷ vẫn có thể xảy ra với Yul-Bayur trên hành trình quay về.

“Như vậy, theo như tôi hiểu thì,” Jesper nói, “tôi tiếp tục bị kẹt với Wylan.”

“Trừ phi cậu đột nhiên có được một kho kiến thức tổng hợp về Bạch Đảo, khả năng phá khoá, leo những bức tường không thể leo, hoặc moi các thông tin mật từ những nhân vật cấp cao. Ngoài ra, tôi cần hai người chế tạo bom.”

Jesper rầu rĩ nhìn hai khẩu súng của mình. “Thật phí hoài.”

Nina khoanh tay lại. “Cứ cho là tất cả chuyện này sẽ suôn sẻ đi. Chúng ta sẽ rời khỏi đó như thế nào?”

“Đi bộ,” Kaz đáp. “Cái hay của kế hoạch này nằm ở chỗ đó. Còn nhớ tôi đã nói gì về việc điều khiển sự chú ý của mục tiêu không? Tại cổng toà đại sứ, mọi con mắt sẽ đổ dồn vào các vị khách đang tiến vào Lâu Đài Băng. Những người đi ra ngoài không còn là nguy cơ an ninh nữa.”

“Vậy bom để làm gì?” Wylan hỏi.

“Biện pháp đề phòng. Có mười hai cây số đường cần phải đi từ Lâu Đài Băng tới cảng. Nếu ai đó phát hiện Bo Yul-Bayur mất tích, chúng ta sẽ phải nhanh chóng cắt đứt con đường độc đạo.” Kaz vạch một đường trên lớp tuyết bằng cây gậy chống. “Con đường cái băng qua một hẻm sông. Nếu chúng ta cho nổ cây cầu, sẽ không ai bám theo ta được.”

Matthias ôm đầu, tưởng tượng sự tàn phá mà những kẻ hạ đẳng này sắp sửa gây ra cho đất nước của anh.

“Chỉ là một người tù thôi, Helvar,” Kaz nói.

“Và một cây cầu,” Wylan đế thêm.

“Và tất cả những gì chúng ta cần cho nổ giữa hai cái đó,” Jesper phụ hoạ.

“Mọi người im đi,” Matthias gầm lên.

Jesper nhún vai bình phẩm. “Đúng là dân Fjerda.”

“Chuyện này không làm tôi thích chút nào,” Nina lên tiếng.

Kaz nhướng mày. “Ờ, ít nhất cô và Helvar cũng có cái để đồng tình.”

•••

Họ đi xa hơn về phía nam. Bờ biển đã khuất hẳn, băng tuyết càng lúc càng bị chọc thủng nhiều hơn bởi những vạt rừng, các vệt đất đen và dấu chân thú, bằng chứng của sự sống. Trái tim của Djel vẫn đập . Những người kia cứ hỏi mãi không dứt.

“Có bao nhiêu tháp canh trên Bạch Đảo?”

“Anh có nghĩ Yul-Bayur đang ở trong lâu đài không?”

“Trên Bạch Đảo có mấy trại lính. Nếu ông ta bị giam trong đó thì sao?”

Jesper và Wylan tranh luận về loại thuốc nổ có thể tổng hợp được từ các hoá chất trong xưởng giặt, và việc liệu họ có thể xoáy được ít thuốc súng trong khu vực toà đại sứ hay không. Nina thì cố giúp Inej ước lượng tốc độ leo ống khói cần thiết để có đủ thời gian buộc dây thừng và giúp những người khác lên được mái nhà.

Bọn họ liên tục ôn bài cho nhau về kiến trúc và các quy trình của lâu đài, cách bố trí của ba cổng thành, mỗi cái đều có kèm một sân trong.

“Chốt kiểm soát đầu tiên?”

“Bốn lính.”

“Chốt thứ hai?”

“Tám lính.”

“Cổng thành tròn thì sao?”

“Bốn lính khi không hoạt động.”

Họ giống như dàn đồng ca điên rồ của những con quạ, cứ liên tục quàng quạc vào tai anh: Phản bội, phản bội, phản bội.

“Quy trình Vàng là gì?” Kaz hỏi.

“Khu vực có lộn xộn,” Inej đáp.

“Quy trình Đỏ?”

“Khu vực bị đột nhập.”

“Quy trình Đen?”

“Tất cả chúng ta tiêu,” Jesper nói.

“Đúng đó,” Matthias lên tiếng, tay xốc lại cái mũ trùm đầu và lê bước đi trước nhóm người. Bọn họ thậm chí còn ép anh bắt chước những kiểu đổ chuông khác nhau. Một sự cần thiết, nhưng anh cảm thấy thật ngớ ngẩn khi cứ phải ngâm nga: “Bing bong bing bing bong. Không phải, bing bing bong bing bing.”

“Khi tôi có nhiều tiền,” Jesper cất tiếng phía sau lưng anh. “Tôi sẽ đi tới một nơi mà tôi không bao giờ phải thấy tuyết nữa. Thế còn cậu, Wylan?”

“Tôi không biết.”

“Tôi nghĩ cậu nên mua một cái đàn bằng vàng…”

“Sáo chứ.”

“Và chơi nhạc trên một chiếc thuyền du lịch. Cậu có thể đậu nó trên đoạn kênh ngay trước nhà cha cậu.”

“Nina có thể hát,” Inej xen vào.

“Chúng ta sẽ song ca,” Nina chỉnh lại. “Cha cậu sẽ phải dọn nhà đi nơi khác.”

Cô ta đúng là có một giọng hát dở tệ. Anh thấy ghét chính mình khi biết điều đó, nhưng không thể không liếc nhìn qua vai. Mũ trùm của Nina đã tuột ra sau đầu, để cho mái tóc dày lượn sóng đổ xuống cổ áo.

Sao mình cứ làm chuyện này vậy? Anh bực bội nghĩ thầm. Ở trên tàu cũng thế. Anh đã dặn mình phớt lờ cô, nhưng mắt anh cứ đi tìm cô.

Thật ngu ngốc khi vờ như cô không tồn tại trong đầu anh. Anh và Nina đều từng cùng nhau đi qua khu vực này. Nếu anh tính đúng thì họ đã trôi dạt vào bờ cách điểm cập bến của chiếc Ferolind vài cây số. Mọi chuyện bắt đầu với một cơn bão, và theo cách nào đó cơn bão ấy chưa bao giờ ngừng lại. Nina đã đổ bộ vào cuộc đời anh mang theo mưa gió, làm chao đảo thế giới của anh. Anh mất cân bằng kể từ đó.

•••

Cơn bão từ đâu ập tới, xoay vần con tàu như một món đồ chơi trên sóng nước. Biển hùa theo cho đến khi phát chán và nhấn chìm con tàu của họ giữa một đống buồm chão cùng những con người la hét.

Anh còn nhớ sự tăm tối của làn nước, cái lạnh khủng khiếp, sự im lặng của đáy sâu. Điều tiếp theo mà anh nhớ là anh khạc nhổ nước mặn, hổn hển hít thở. Ai đó đã quàng tay quanh ngực anh, và cả hai trôi dạt theo dòng nước. Cái lạnh thật không thể chịu nổi nhưng không hiểu sao anh vẫn cầm cự được.

“Dậy đi, đồ cơ bắp vô dụng.” Thứ ngôn ngữ Fjerda rõ ràng, chuẩn xác với âm sắc của giới quý tộc. Matthias quay đầu lại và sốc nặng khi nhận ra cô gái phù thuỷ mà họ đã bắt được ở bờ biển phía nam đảo Wandering đang túm lấy anh, miệng lẩm nhẩm nói chuyện với chính mình bằng tiếng Ravka. Anh đã biết trước cô ta không phải là người Kaelish. Không hiểu sao cô ta đã tự cởi trói và thoát ra khỏi cái lồng. Toàn bộ cơ thể anh rơi vào tình trạng hoảng loạn. Nếu không quá sốc và tê liệt, anh đã chống cự lại cô ta.

“Nhúc nhích đi,” cô ta ra lệnh cho anh bằng tiếng Fjerda, giữa hơi thở hổn hển. “Thánh thần ơi, bọn họ nuôi anh ăn bằng gì vậy? Anh nặng như một cái xe chất đầy cỏ khô.”

Cô gái cũng đang vất vả bơi để cứu cả hai người. Sao cô ta lại cứu mạng anh?

Anh ngọ nguậy người, đạp chân để giúp cô đưa cả hai tiến tới. Anh ngạc nhiên khi nghe thấy cô bật khóc. “Tạ ơn các thánh thần. Bơi đi, đồ to xác.”

“Ta đang ở đâu đây?” Anh hỏi.

“Tôi không biết,” cô đáp, sự sợ hãi lộ rõ trong giọng nói.

Anh quẫy chân tìm cách thoát ra.

“Đừng!” Cô la lên. “Đừng bỏ đi!”

Nhưng anh đạp mạnh, thoát ra khỏi vòng tay ôm của cô. Ngay lập tức, cái lạnh ùa vào. Cơn đau đột ngột bùng lên, và tay chân anh xuội lơ. Cô ta đã sử dụng ma thuật của mình để giữ ấm cho anh. Anh vươn tay tìm cô trong bóng tối.

“Drüsje?” Anh gọi, xấu hổ vì sự sợ hãi trong giọng nói của mình. Đó là chữ “phù thuỷ” trong ngôn ngữ Fjerda, vì anh không biết tên cô.

“Drüskelle!” cô la lên, và anh cảm thấy ngón tay mình chạm nhẹ tay cô trong làn nước tối đen.

Anh vội túm lấy cô, lôi cô về phía mình. Cơ thể cô không thật ấm áp, nhưng ngay khi họ chạm nhau, cơn đau ở tay chân anh lập tức dịu đi. Anh bị giằng xé giữa cảm giác biết ơn và sự kinh tởm.

“Chúng ta phải vào bờ,” cô hổn hển nói. “Tôi không thể vừa bơi vừa giữ nhịp cho hai quả tim của chúng ta được.”

“Tôi sẽ bơi,” anh nói. “Cô… Tôi sẽ bơi.” Anh ấp lưng cô vào ngực mình, và vòng tay ôm ngang người cô, giống như cách cô ôm anh lúc nãy. Như thể cô đang chìm. Mà đúng thế thật, cả cô lẫn anh đều đang chết đuối, hoặc sắp chết đến nơi, nếu họ không chết vì lạnh trước.

Anh khua chân đều đặn, cố không phung phí quá nhiều năng lượng, nhưng cả hai người đều biết có tiết kiệm sức cũng vô ích. Họ không ở quá xa đất liền khi cơn bão ập tới, nhưng lúc này quanh họ tối đen như mực. Có thể họ đang tiến vào bờ, mà cũng có thể đang ra ngoài khơi.

Biển đêm không có âm thanh nào khác ngoài tiếng thở của hai người, tiếng quẫy nước và những con sóng ì oạp. Anh tiếp tục giữ cho họ di chuyển - rất có thể là theo một vòng tròn - còn cô giữ cho họ thở đều. Không biết ai sẽ buông xuôi trước.

“Sao cô lại cứu tôi?” Cuối cùng anh hỏi.

“Đừng có phí sức. Không nói chuyện.”

“Sao cô làm điều đó?”

“Vì anh là một con người,” cô bực bội đáp.

Nói dối. Nếu họ vào bờ, cô sẽ cần một người Fjerda để sinh tồn, một người biết rõ vùng đất này, mặc dù rõ ràng cô nói được ngôn ngữ của nó. Dĩ nhiên rồi. Tất cả bọn cô đều là những kẻ lừa gạt, rặt một lũ gián điệp được huấn luyện để bắt những người không có năng lực siêu nhiên như anh. Bọn cô là loài thú săn mồi.

Anh tiếp tục đạp chân, nhưng cơ bắp của anh đang rệu rã, và anh có thể cảm thấy cái lạnh len lỏi vào cơ thể.

“Đã bỏ cuộc rồi sao, phù thuỷ?”

Anh cảm thấy cô lắc lắc cho tỉnh táo, và máu lại tràn vào các đầu ngón tay ngón chân của anh.

“Tôi sẽ theo nhịp của anh, drüskelle. Nếu chúng ta chết, chuyện này sẽ là gánh nặng anh phải mang ở kiếp sau.”

Anh mỉm cười khi nghe cô ta nói như thế. Rõ ràng cô rất gan lì. Điều đó đã được chứng tỏ ngay cả khi cô bị nhốt trong lồng.

Cứ thế họ cầm cự suốt đêm, người này chế nhạo người kia mỗi khi một trong hai tỏ ra xuống sức. Họ chỉ thấy biển cùng băng, và thỉnh thoảng là những cú nhồi của sóng hoặc của một con vật đói mồi lao vào họ.

“Nhìn kìa,” cô gái phù thuỷ thì thào khi bình minh ló dạng, hồng hào, tươi tắn. Phía đằng xa, anh có thể trông thấy đường nét lởm chởm của băng và vệt đen huyền diệu của một bãi đá. Đất liền.

Họ không phí thời gian để ăn mừng. Cô gái ngửa đầu ra sau, tựa vào vai anh, trong khi anh đạp chân, đưa họ nhích từng chút một. Sóng lôi họ lại, như thể biển cả không muốn buông tha. Cuối cùng, chân họ cũng chạm được đáy biển, cả hai nửa bơi nửa bò lết vào bờ. Họ tách nhau ra, và cơ thể Matthias cảm thấy khốn khổ tột cùng trong khi anh vượt qua những tảng đá đen để bước lên mảnh đất chết chóc băng giá.

Lúc đầu, việc bước đi là điều không thể. Hai người di chuyển từng chút một, cố gắng bắt tay chân nghe lời, run lẩy bẩy vì lạnh. Cuối cùng, anh đứng dậy trên đôi chân. Anh đã định cứ thế bỏ đi tìm một chỗ trú ẩn, mặc kệ cô. Cô ta đang bò bằng tay và đầu gối, đầu gục xuống, mái tóc ướt rối bù che hết mặt. Anh có cảm giác mơ hồ rằng cô sắp gục xuống và không gượng dậy nữa.

Anh bước một bước, rồi một bước nữa. Và anh quay lại. Dù có thế nào thì cô cũng đã cứu mạng anh đêm qua, không chỉ một lần, mà hết lần này tới lần khác. Đó là một món nợ máu.

Anh loạng choạng tiến về phía cô và chìa tay ra.

Khi cô ngước lên nhìn anh, khuôn mặt cô là một tổng hoà nhạt nhòa của sự ghê tởm và kiệt quê. Trong ánh mắt cô, anh thấy vẻ xấu hổ song hành với sự cảm kích, và trong khoảnh khắc ngắn ngủi đó, cô là tấm gương phản chiếu chính anh. Cô cũng không muốn nợ anh bất cứ điều gì.

Anh có thể quyết định thay cô. Anh nợ cô điều đó. Anh cúi xuống và đỡ cô đứng dậy, rồi hai người tập tễnh rời khỏi bãi biển.

Họ đi về phía mà anh hi vọng là hướng tây. Mặt trời phương bắc có thể đánh lừa sự định hướng của người ta, mà họ thì không có la bàn. Trời khá tối, và Matthias bắt đầu cảm thấy hoảng sợ thực sự, nhưng đúng lúc đó, họ trông thấy lều trại đầu tiên của những người săn cá voi. Nó trống vắng - những tiền đồn này chỉ hoạt động vào mùa xuân - và chẳng có gì ngoài một túp lều tròn làm bằng xương, đất và da thú. Nhưng một nơi trú ẩn đồng nghĩa với việc ít nhất họ cũng sống sót qua đêm.

Cửa lều không khoá. Họ gần như ngã nhào vào bên trong.

“Cảm ơn anh,” cô rên rỉ trong lúc đổ gục xuống bên cạnh lò sưởi tròn.

Anh không đáp. Tìm được cái lều này thật đúng là may mắn. Nếu dạt vào bờ ở xa hơn vài dặm chỗ này, họ sẽ cầm chắc cái chết.

Những người săn cá voi đã để sẵn than bùn và củi khô trong lò. Matthias ra sức nhóm lửa, cố gắng để cho lửa bốc lên thay vì toả khói mù mịt. Anh vụng về, mệt mỏi và đói đến mức có thể ăn chính đôi giày của mình. Khi nghe thấy tiếng sột soạt phía sau lưng, anh quay lại và suýt đánh rơi thanh củi của mình.

“Cô đang làm cái gì thế?” Anh la lên.

Cô ngoái đầu qua đôi vai trần và đáp: “Thế anh tưởng tôi làm gì?”

“Mặc quần áo vào!”

Cô đảo mắt. “Tôi sẽ không chịu chết cóng chỉ để giữ thể diện cho anh.”

Anh quắc mắt nhìn đống lửa, nhưng cô phớt lờ anh và tiếp tục cởi nốt những trang phục còn lại trên người - áo tunic, quần dài, thậm chí cả đồ lót - trước khi quấn mình bằng tầm da tuần lộc bẩn thỉu nằm chất đống gần cửa.

“Thánh thần ơi, cái mùi này,” cô càu nhàu rồi đi tới đi lui, gom các tấm da và chăn mền lại thành một cái ổ bên cạnh đống lửa. Mỗi khi cô di chuyển, tấm da tuần lộc lại hở ra, để lộ một khoảng bắp vế, làn da trắng, khe ngực sâu. Rõ là cố ý. Anh biết mà. Cô đang tìm cách lung lạc anh. Anh cần phải tập trung vào đống lửa. Anh đã suýt chết, và nếu không làm cho lửa bùng lên được, anh vẫn có thể chết. Giá như cô không gây ồn ào nhiều như thế. Thanh củi rên kêu răng rắc trong tay anh.

Nina bật cười và nằm xuống cái ổ vừa làm xong, tựa người trên một khuỷu tay. “Thánh thần ơi, drüskelle à, anh bị làm sao thế? Tôi chỉ muốn được ấm thôi. Tôi hứa sẽ không cưỡng hiếp anh trong lúc anh ngủ đâu.”

“Tôi không sợ cô,” anh bực bội đáp.

Nụ cười của cô thật đồi bại. “Thế thì anh cũng ngu ngốc y như vẻ ngoài của mình.”

Anh tiếp tục khom người bên cạnh đống lửa. Anh biết mình phải nằm cạnh cô. Mặt trời đã lặn và nhiệt độ đang hạ xuống. Anh vẫn đang cố giữ cho răng không đánh lập cập. Họ cần hơi ấm của nhau để sống sót qua đêm nay. Lẽ ra anh chẳng có gì phải bận tâm, nhưng anh không muốn gần cô. Bởi vì cô ta là một kẻ sát nhân, anh tự nhắc mình. Lí do là vậy đấy. Một kẻ sát nhân, một ả phù thuỷ.

Anh cố ép mình đứng lên và tiến về phía mấy tấm mền. Nhưng Nina đã giơ tay ra ngăn anh lại.

“Đừng có đến gần tôi trong bộ đồ đấy. Anh đang ướt sũng!”

“Cô có thể giữ cho máu chúng ta tiếp tục chảy.”

“Tôi mệt rồi,” cô bực bội đáp. “Và khi tôi ngủ thiếp đi, chúng ta sẽ cần đống lửa kia để giữ ấm. Tôi có thể thấy anh đang run lẩy bẩy. Không lẽ anh chàng Fjerda nào cũng e thẹn như thế này sao?”

Không. Có thể. Anh không biết. Drüskelle là một đội ngũ thiêng liêng. Họ phải sống chay tịnh cho đến khi lấy vợ - những người phụ nữ Fjerda tử tế, không quát vào mặt người khác và buộc người ta cởi đồ.

“Thế mọi Grisha đều táo tợn như cô à?” Anh hỏi lại.

“Con trai và con gái được huấn luyện cùng nhau trong cả Thượng Quân lẫn Hạ Quân. Thật sự không có chỗ cho sự thẹn thùng đâu.”

“Phụ nữ đánh nhau là một chuyện phi tự nhiên.”

“Thật phi tự nhiên là khi có một kẻ vừa cao vừa ngốc như cái người đang đứng trước mặt tôi. Anh bơi ngần ấy cây số để rồi chết rét trong cái lán này à?”

“Đây là một cái lều, mà làm sao cô biết chúng ta đã bơi bao nhiêu cây số?”

Nina bực bội thở hắt ra rồi co người nằm nghiêng, nhích lại gần đống lửa nhất có thể. “Tôi chẳng có hơi sức để tranh cãi với anh.” Cô nhắm mắt lại. “Thật không thể tin nổi khuôn mặt anh lại chính là thứ tôi nhìn thấy sau cùng trước khi chết.”

Cảm thấy như cô đang thách thức, anh đứng đó, căm ghét cô vì đã khiến anh có cảm giác mình thật ngu ngốc. Rồi anh quay lưng về phía cô và nhanh chóng trút bỏ bộ quần áo ướt sũng, trải chúng ra bên cạnh đống lửa. Anh liếc nhanh để bảo đảm cô không nhìn, rồi đi tới đống chăn mền và chui vào trong, cố giữ khoảng cách với cái lưng của cô.

“Gần nữa vào, drüskelle” cô dài giọng chế nhạo.

Anh quàng một cánh tay qua người cô, áp lưng cô vào ngực mình. Cô buột miệng kêu lên và khó chịu cựa mình.

“Đừng có nhúc nhích,” anh lẩm bẩm. Anh đã từng gần gũi với các cô gái - không nhiều, phải thừa nhận như vậy - nhưng chẳng có ai giống như cô. Những đường cong của cô thật là khiêm nhã.

“Anh vừa lạnh vừa ướt,” cô run rẩy phàn nàn. “Giống như tôi đang nằm cạnh một con mực vạm vỡ ấy.”

“Thì cô bảo tôi xích vào còn gì!”

“Dịch ra một chút đi.” Khi anh làm theo, cô quay người lại, đối mặt với anh.

“Cô đang làm cái gì vậy?” Anh hỏi và hốt hoảng lùi ra.

“Thư giãn nào, drüskelle. Đây không phải là nơi để tôi làm này làm nọ với anh đâu.”

Đôi mắt xanh của anh nheo lại. “Tôi không thích cách ăn nói của cô.” Có phải anh đang tưởng tượng ra sự đau đớn vừa vụt qua trên nét mặt cô? Như thể câu nói của anh có ảnh hưởng nào đó với cô phù thuỷ này vậy.

Cô xác nhận anh chỉ tưởng tượng khi đáp trả: “Anh tưởng tôi thèm bận tâm xem anh thích hay không thích cái gì à?”

Cô đặt hai bàn tay mình lên ngực anh, tập trung vào trái tim anh. Lẽ ra anh không nên để cô làm như vậy, không nên cho cô thấy sự yếu đuối của anh, nhưng khi dòng máu của anh chảy mạnh hơn và cơ thể nóng ấm lại, sự nhẹ nhõm dễ chịu mà nó gây ra thật khó cưỡng.

Anh thả lỏng một chút, dù miễn cưỡng, dưới bàn tay cô. Cô quay người lại và kéo tay anh vòng qua người mình. “Không có chi, đồ ngốc.”

Anh đã nói dối. Anh thích cách nói chuyện của cô.

•••

Và bây giờ vẫn thế. Anh có thể nghe thấy Nina thì thào gì đó với Inej sau lưng anh. Cô đang dạy cho cô gái Suli vài từ Fjerda. “Không phải. Hring-kaaalle. Em phải kéo dài âm cuối ra một chút.”

“Hringalah?” Inej thử lại.

“Khá hơn, nhưng là thế này… Tiếng Kerch giống như con linh dương nhảy từ chữ này sang chữ khác, còn tiếng Fjerda giống như chim mòng biển, hết chao liệng lại lao bổ xuống.” Bàn tay Nina giống như cánh chim lướt trong gió. Đúng lúc đó, cô ngước nhìn lên và bắt gặp ánh mắt anh.

Matthias hắng giọng. “Đừng có ăn tuyết đấy,” anh đe. “Nó sẽ càng làm các cô bị mất nước và hạ thân nhiệt.” Anh tiến tới trước, hăm hở leo lên quả đồi kế tiếp để gia tăng khoảng cách giữa họ. Nhưng ngay khi lên đến nơi, anh chết sững.

Matthias quay lại, giơ hai tay ra. “Dừng lại! Mọi người sẽ không m…”

Nhưng đã quá trễ. Nina đưa tay bịt miệng. Inej làm dấu thánh. Jesper lắc đầu, còn Wylan nôn khan. Kaz đứng im như tảng đá, khuôn mặt trơ lì.

Giàn thiêu được đặt trên một đoạn dốc. Kẻ làm ra nó đã tìm cách đặt đống lửa bên dưới một tảng đá, nhưng như vậy không đủ để giữ cho lửa khỏi bị gió thổi tắt. Ba cái cọc đã được cắm xuống mặt đất băng giá, và trên cọc là ba thi thể cháy đen, lớp da nứt nẻ đen ngòm vẫn đang cháy âm ỉ.

“Ghezen,” Wylan văng tục. “Cái gì vậy?”

“Đây là điều mà người Fjerda làm với các Grisha,” Nina đáp. Khuôn mặt cô chùng xuống, đôi mắt xanh lục nhìn trân trối.

“Chỉ có bọn tội phạm mới làm như thế này,” Matthias nói, ruột gan quặn lên. “Hoả thiêu người là hành vi phạm pháp kể từ khi…”

Nina lao tới đẩy mạnh vào ngực anh. “Sao anh dám…” cô rít lên, sự phẫn nộ bùng cháy như một quầng sáng quanh cô. “Hãy nói cho tôi biết lần cuối cùng có ai đó bị xử tội vì thiêu chết một Grisha là khi nào. Các anh có gọi là sát nhân không khi các anh coi chuyện đó giống như giết một con chó?”

“Nina…”

“Anh có gọi nó là hành vi nào khác không, khi giết chóc với bộ quân phục trên người?”

Đúng lúc đó họ nghe thấy tiếng động - một tiếng rên, nhẹ như tiếng gió rít.

“Thánh thần ơi,” Jesper thốt lên. “Một trong số họ còn chưa chết.”

Âm thanh đó lại vang lên, nhỏ và ai oán, từ thi thể ngoài cùng bên phải. Không thể xác định được đó là một người đàn ông hay đàn bà. Mái tóc đã cháy trụi, bộ quần áo dính sát vào cơ thể. Những mảng da đen đúa bị bong ra ở nhiều chỗ, phơi bày lớp xương trắng hếu.

Tiếng nức nở bật ra từ cổ họng Nina, cô giơ tay lên, nhưng hai bàn tay quá run khiến cô không thể dùng năng lực của mình để chấm dứt sự thống khổ của nạn nhân. Cô quay đôi mắt rưng rưng lệ về phía những người khác. “Tôi… ai đó… xin làm ơn…”

Jesper là người đầu tiên hành động. Hai phát súng vang lên, và thi thể lặng phắt. Jespei- cất súng vào bao.

“Mẹ kiếp, Jesper,” Kaz cằn nhằn. “Cậu vừa mới thông báo về sự hiện diện của ta ra cả cây số quanh đây.”

“Thì họ sẽ nghĩ chúng ta chỉ là một toán thợ săn.”

“Cậu nên để cho Inej làm chuyện đó.”

“Tôi đâu có muốn làm,” Inej đáp khẽ. “Cảm ơn anh, Jesper.”

Quai hàm Kaz siết lại, nhưng cậu ta không nói gì nữa.

“Cảm ơn anh,” Nina thốt lên. Đoạn cô lao tới trước trên nền đất lạnh cứng, lần theo dấu vết của con đường giữa lớp tuyết trắng. Cô sụt sịt khóc, vừa đi vừa vấp váp. Matthias vội bám theo cô. Ở đây có khá ít dấu mốc nên họ rất dễ bị lạc đường.

“Nina, cô không thể tách nhóm…”

“Anh quay lại vì điều này hả, Helvar?” cô nói với giọng gay gắt. “Đây chính là đất nước mà anh khao khát được phục vụ đấy. Nó có làm anh thấy tự hào không?”

“Tôi chưa bao giờ thiêu chết một Grisha nào. Họ được đem ra xét xử trong những phiên toà công bằng…”

Cô quay phắt lại, những giọt lệ đóng băng lấp lánh trên má cô.

“Vậy thì tại sao chưa từng có bất kì Grisha nào được tuyên vô tội sau những phiên toà mà anh coi là công bằng đó?”

“Tôi…”

“Bởi vì tội của chúng tôi là tồn tại. Tội của chúng tôi là bản thân chúng tôi.”

Matthias lặng thinh. Anh bị giằng xé giữa sự xấu hổ vì điều mình sắp nói, và nhu cầu phải nói ra những câu chữ đã được dạy, những điều vẫn còn đúng đối với anh. “Nina à, cô có bao giờ nghĩ rằng có lẽ… các cô không nên tồn tại?”

Đôi mắt Nina nháng lửa. Cô bước một bước về phía anh, và Matthias có thể cảm thấy cơn giận ngùn ngụt toả ra từ cô.

“Có khi chính các anh mới không nên tồn tại đó, Helvar. Yếu đuối và nhu nhược, với cuộc đời ngắn ngủi và những định kiến đáng buồn của các anh. Các anh tôn thờ thần rừng và thần băng giá, những thứ chẳng bao giờ xuất hiện, trong khi bản thân lại chăm chăm đi xoá bỏ các năng lực có thực.”

“Đừng chế nhạo những điều mà cô không hiểu.”

“Sự nhạo báng của tôi làm anh bận lòng à? Dân tộc tôi sẵn sàng chào đón nụ cười của các anh thay vì những hành vi man rợ này.” Một sự thoả mãn vụt xuất hiện trên gương mặt Nina. “Ravka đang được tái thiết. Hạ Quân cũng thế, và khi đó, tôi mong họ sẽ dành cho các anh một phiên toà công bằng mà các anh đáng được nhận. Tôi mong họ sẽ xích dám drüskelle các anh lại rồi bắt mấy người đứng nghe những tội ác đã gây ra, để cả thế giới này sáng mắt về sự độc ác của các anh.”

“Nếu cô mong chờ sự trỗi dậy của Ravka đến thế, sao bây giờ cô còn chưa quay lại đó?”

“Vì tôi muốn anh được ân xá, Helvar. Tôi muốn anh ở đây khi Hạ Quân tiến lên phía bắc và càn quét từng tấc đất của cái xứ khô cằn sỏi đá này. Tôi mong họ sẽ đốt cháy những cánh đồng của bọn anh và rắc muối xuống đất. Tôi mong họ sẽ đưa bạn bè và gia đình anh lên giàn thiêu.”

“Bọn họ đã làm điều đó rồi, Zenik. Mẹ tôi, cha tôi, em gái bé bỏng của tôi. Tiết Hoả Sư, đám binh sĩ Grisha yêu quý các cô, những kẻ tàn bạo đó đã đốt sạch ngôi làng của chúng tôi. Tôi chẳng còn gì để mất nữa.

Nina bật cười một cách cay đắng. “Có lẽ thời gian ngồi tù của anh ở Cổng Địa Ngục còn chưa đủ dài, Matthias. Anh luôn có thứ để mất.