← Quay lại trang sách

Chương 16 JESPER

Khi Nina và Matthias bước vào nhà mồ, Jesper chỉ muốn đứng bật dậy và khiêu vũ với cả hai người. Anh đã mất cả giờ đồng hồ cố gắng giải thích cho Kuwei làm thế nào họ đến được đại sứ quán, và anh bắt đầu có cảm giác mơ hồ rằng cậu nhóc đang giả ngu. Cũng có thể cậu ta chỉ thích thú trước những động tác nực cười của anh.

“Anh lặp lại câu cuối được không?” Kuwei nói và chồm người tới trước, hơi quá gần với Jesper.

“Nina,” anh thốt lên. “Cô có thể giúp bôi trơn cuộc đối thoại này được không?”

“Tạ ơn các thánh,” Inej lên tiếng, bỏ lại công việc dang dở trên bàn cùng Wylan và Kaz. Ba người đang lắp ráp đống dây thép và bánh răng mà Kaz đã xoáy được từ đoàn xiếc Zirkoa. Suốt hai tiếng vừa qua, Wylan đã thực hiện nhiều chỉnh sửa để bảo đảm an toàn cho Inej, bằng cách lắp những cái móc có từ tính giúp bám chắc vào thành kim loại của xi-lô.

“Sao anh cứ nhìn cậu ta vậy?” Kuwei hỏi. “Tôi cũng giống hệt như cậu ta mà. Anh nhìn tôi đây này.”

“Tôi đâu có nhìn cậu ta,” Jesper phản đối. “Tôi chỉ… giám sát công việc của họ.” Kuwei lên được con tàu đó sớm chừng nào tốt chừng ấy. Cái nhà mồ này bắt đầu cho cảm giác chật chội rồi.

“Chị có liên lạc được với những người tị nạn không?” Inej vừa hỏi vừa vẫy Nina lại gần bàn và dọn một chỗ cho chị ngồi.

“Mọi chuyện diễn ra rất suôn sẻ,” Nina đáp. “Ngoại trừ việc làm vỡ vài cái cửa sổ và suýt nữa bị ăn đạn.”

Kaz ngước mắt lên khỏi chiếc bàn, khuôn mặt tỏ ra quan tâm.

“Có biến ở Tiểu Ravka à?” Jesper hỏi.

“Không có gì mà chúng tôi không thể xử lí được,” Nina đáp. “Làm ơn nói cho tôi biết ở đây có gì đó để ăn hay không.”

“Chị đói á?” Inej hỏi lại.

Mọi người tròn mắt nhìn Nina. Cô nghiêng mình thi lễ. “Phải, phải, Nina Zenik này đang đói. Giờ thì có ai cho tôi đồ ăn trước khi tôi buộc phải nấu một trong mấy người không?”

“Đừng có vớ vẩn,” Jesper đáp. “Cô đâu có biết nấu ăn.”

Inej lục lọi trong đống thức ăn còn lại và đặt trước mặt Nina bữa ăn nghèo nàn gồm cá tuyết muối, thịt khô cùng vài cái bánh quy đã cũ.

“Chuyện gì đã xảy ra tại tửu quán?” Kaz hỏi.

“Người tị nạn đang trốn trong đại sứ quán,” Matthias đáp. “Chúng tôi đã gặp…”

“Thủ lĩnh của họ,” Nina cắt ngang. “Họ sẽ chờ hiệu lệnh từ chúng ta.” Cô tọng hai chiếc bánh quy vào miệng. “Mấy cái này kinh quá.”

“Từ từ thôi,” Matthias nói. “Em sẽ bị nghẹn mất.”

“Cũng đáng mà,” Nina đáp và cố gắng nuốt.

“Mấy cái bánh quy á?”

“Em đang vờ như chúng là bánh nướng. Khi nào thì tàu đi?”

“Bọn em đã tìm được một chuyến tàu chở mật đường nhổ neo đi Os Kervo vào mười một giờ đêm nay,” Inej đáp. “Specht đang lo liệu giấy tờ.”

“Tốt,” Nina nói, đoạn lôi một mẩu giấy từ trong túi ra và vuốt phẳng nó trên bàn. Phác hoạ chân dung Matthias giương mắt nhìn họ. “Chúng ta cần phải rời khỏi nơi này càng sớm càng tốt.”

“Khỉ thật,” Jesper nói. “Kaz và Wylan vẫn đang dẫn đầu.” Anh giơ tay chỉ chỗ họ đã dán những tờ cáo thị truy nã còn lại: Jesper, Kaz và Inej đều hiện diện trên đó. Van Eck chưa dám bêu mặt Kuwei Yul-Bo trên các bức tường của Ketterdam, nhưng vẫn tiếp tục lấy cớ tìm kiếm con trai, do vậy có một cáo thị treo thưởng cho ai đưa Wylan Van Eck về nhà nguyên lành. Chỉ thiếu mỗi Nina. Cô chưa từng gặp mặt Van Eck, và mặc dù cô có liên hệ với băng Cặn Bã, có thể lão ta không biết về sự tham gia của cô.

Matthias xem xét các cáo thị. “Một trăm ngàn kruge!” Anh trợn tròn mắt nhìn Kaz. “Cậu làm gì xứng với cái giá đó!”

Một nụ cười nhạt xuất hiện trên môi Kaz. “Thị trường quyết định mà.”

“Thế tôi thì sao,” Jesper nói. “Họ treo giá tôi có ba mươi ngàn.”

“Mạng sống của các anh đang bị treo giá,” Wylan thốt lên. “Sao các anh có thể hành động như thể đây chỉ là một sự thi thố?”

“Cậu đang ngồi trong một nấm mồ, thiếu gia à. Chúng ta sẽ hành động ở nơi cần hành động.”

“Có lẽ tất cả chúng ta nên đi Ravka,” Nina nói, đoạn gõ ngón tay lên cáo thị truy nã Inej. “Ở lại đây em sẽ không an toàn.”

“Một ý tưởng không tồi,” Kaz đáp.

Inej liếc nhanh sang Kaz. “Anh sẽ đi Ravka sao?”

“Không đời nào. Tôi sẽ ẩn mình ở đây. Tôi muốn tận mắt nhìn thấy sự sụp đổ của Van Eck khi mọi chuyện kết thúc.”

“Nhưng em có thể đi,” Nina nói với Inej. “Còn cậu, Jesper? Chúng ta có thể đưa bố cậu đi cùng.”

Jesper nghĩ tới bố lúc này đang mắc kẹt trong một căn phòng sang trọng nào đó tại Geldrenner và có lẽ đang mài mòn thảm trải sàn bằng những bước chân đi tới đi lui của ông. Mới có hai ngày trôi qua kể từ khi anh nhìn thấy tấm lưng rộng của bố biến mất giữa những nấm mộ khi Rotty đưa ông rời đảo Mạng Đen, vậy mà anh tưởng như đã rất lâu rồi. Kể từ lúc đó, anh đã suýt mất mạng vì bọn săn lùng Grisha và bị người ta treo giá cho cái đầu của mình. Nhưng nếu họ hoàn tất công việc đêm nay, bố anh sẽ không cần phải biết tới những chuyện ấy.

“Không đời nào,” Jesper đáp. “Tôi muốn bố tôi nhận lại tiền nhanh nhất có thể và quay về Novyi Zem. Tôi sẽ không ngủ ngon chừng nào ông chưa về đến nông trại bình yên vô sự. Chúng tôi sẽ ẩn náu tại khách sạn cho tới khi Van Eck bị hạ uy tín và thị trường đường đảo lộn.

“Còn em, Inej?” Nina hỏi.

Mọi người đều nhìn sang phía Bóng Ma, ngoại trừ Jesper. Anh quan sát Kaz, tò mò muốn biết anh ta sẽ phản ứng như thế nào trước viễn cảnh Inej rời khỏi Ketterdam. Nhưng nét mặt Kaz không thể giải thích nổi, như thể anh đang chờ nghe xem bữa tối sẽ được dọn lúc nào.

Inej lắc đầu. “Nếu tới Ravka thì em sẽ đi trên con thuyền của em, được lèo lái bởi thuỷ thủ đoàn của em.”

Jesper nhướn mày. “Cô trở thành sói biển từ khi nào vậy? Người tỉnh táo ai lại muốn ăn dầm nằm dề trên một con tàu kia chứ?”

Inej mỉm cười. “Tôi vẫn nghe nói Ketterdam làm người ta phát rồ.”

Kaz rút đồng hồ trong túi ra xem. “Chúng ta sẽ hành động lúc tám giờ. Van Eck tập hợp Hội đồng Thương buôn ở nhà lão ta tối nay.”

“Anh có nghĩ họ sẽ huy động thêm nguồn lực để tìm kiếm Wylan không?” Nina hỏi.

“Có thể. Nhưng điều đó không còn là mối bận tâm của chúng ta nữa. Sự ồn ào chộn rộn của kẻ đến người đi sẽ giúp Wylan và tôi lấy trộm con dấu trong két sắt. Cùng lúc đó, Nina và Inej sẽ tấn công vào Bãi Ngọt, vệ quân liên tục đi tuần quanh khu tháp xi-lô, bọn họ mất khoảng mười hai phút để hoàn tất một vòng hàng rào. Nhưng họ luôn để lại ai đó canh cổng, thế nên mọi người hãy khôn khéo khi tìm cách tiếp cận.” Anh đặt một cái lọ có nút đậy lên bàn. “Đây là chiết xuất cà phê. Kuwei, Nina, Jesper, tôi muốn mọi người bôi nó lên mình thật nhiều. Nếu quả thực bọn Shu có thể đánh hơi được mùi của Grisha, thứ này sẽ xua chúng đi.”

“Cà phê?” Kuwei hỏi lại, tay mở nút cái lọ và hít hà.

“Giỏi,” Jesper nói. “Bọn tôi từng buôn lậu jurda và rải cà phê xay lên trên để qua mặt lũ chó của bọn thị tuần. Làm mũi chúng bị loạn mùi.”

Nina cầm lấy cái lọ rồi bôi chiết xuất cà phê vào phía sau vành tai và cổ tay. “Mong rằng mũi của bọn Kherguud cũng vận hành giống như thế.”

“Đám người tị nạn của cô tốt hơn nên chuẩn bị sẵn sàng,” Kaz đáp. “Họ có bao nhiêu người?”

“Ít hơn chúng ta tưởng. Mười lăm và… hừm… vài người của đại sứ quán. Tổng cộng mười bảy người.”

“Cộng thêm cô, Matthias, Wylan và Kuwei. Hai mươi mốt. Specht sẽ làm giả giấy tờ theo thông tin này.”

“Tôi không đi đâu,” Wylan lên tiếng.

Jesper quắp các ngón tay lại để chúng khỏi múa may lung tung. “Không á?”

“Tôi sẽ không để cho cha tống khứ mình ra khỏi cái thành này một lần nữa.”

“Sao mọi người nhất quyết ở lại cái chốn bần cùng này đến vậy nhỉ?” Nina lẩm bẩm.

Jesper ngửa ghế ra sau một chút và quan sát Kaz. Anh ta không tỏ ra ngạc nhiên khi Wylan muốn ở lại Ketterdam. “Anh đã biết,” anh nói sau khi lắp ghép các chi tiết với nhau. “Anh đã biết mẹ của Wylan còn sống.”

“Mẹ của Wylan còn sống sao?” Nina hỏi lại.

“Thế tôi để cho hai người đi Olendaal vì lí do gì?” Kaz nói.

Wylan chớp chớp mắt. “Vậy là anh biết tôi nói dối về vụ mỏ quặng.”

Jesper cảm thấy cơn giận bùng lên. Kaz làm gì anh cũng được, nhưng Wylan không giống như những người còn lại trong nhóm. Mặc dù có người cha tồi tệ, cậu nhóc đã không để cho hoàn cảnh sống hay cái thành phố này làm mất đi sự tử tế trong cậu. Wylan vẫn còn tin rằng người ta có thể sống đúng đắn. Anh trỏ ngón tay vào Kaz. “Anh không nên để cho cậu ấy đi tới Thánh Hilde mà không hề hay biết tí gì như vậy. Thật tàn nhẫn.”

“Việc đó cần thiết.”

Wylan siết nắm đấm lại. “Tại sao?”

“Bởi vì cậu vẫn chưa nhận ra bản chất thực sự của cha cậu.”

“Anh có thể nói cho tôi nghe.”

“Cậu giận dữ. Giận dữ rồi sẽ qua. Tôi cần cậu phẫn uất.”

Wylan khoanh tay lại. “Vậy thì anh toại nguyện rồi đấy.”

Kaz đè tay lên cây gậy chống của mình. “Muộn rồi, mọi người làm ơn bớt tội nghiệp Wylan đi và tập trung vào nhiệm vụ trong tay. Matthias, Jesper và Kuwei sẽ lên đường tới đại sứ quán vào lúc chín giờ rưỡi. Ba người sẽ tiếp cận từ con kênh. Jesper, cậu cao, da nâu, và đáng ngờ…”

“Những thứ đồng nghĩa với ngon nghẻ.”

“Và điều đó có nghĩa là cậu phải thận trọng gấp đôi.”

“Đó là cái giá phải trả cho sự vĩ đại.”

“Cố mà tiếp nhận chuyện này một cách nghiêm túc đi,” Kaz nói với giọng khàn đặc. Có phải đó là mối quan ngại thực sự? Jesper cố gắng không nghĩ vẩn vơ xem sự lo lắng đó dành cho phi vụ hay dành cho mình. “Di chuyển mau lẹ và đừng đưa mọi người tới bến cảng trước mười giờ. Điểm hẹn của chúng ta sẽ là Cảng số Ba, cầu tàu mười lăm. Con tàu có tên là Verrhader. Nó đi lại giữa Kerch và Ravka nhiều lần trong năm.” Kaz đứng dậy. “Hãy khôn khéo và khẽ khàng. Tất cả sẽ đổ bể nếu Van Eck biết được.”

“Và giữ an toàn,” Inej nói thêm. “Tôi muốn ăn mừng với tất cả mọi người khi con tàu đó rời cảng.”

Jesper cũng muốn điều đó. Anh muốn thấy mọi người bình an vô sự sau đêm nay. Anh giơ tay lên. “Sẽ có champagne chứ?”

Nina ăn nốt cái bánh quy cuối cùng rồi mút ngón tay. “Tôi sẽ ở đó, và tôi sẽ quậy tưng.”

Sau đó, mọi người không còn gì khác để làm ngoài gói ghém nốt đồ đạc. Không có màn chia tay lâm li nào cả.

Jesper rảo bước tới chỗ cái bàn nơi Wylan đang cất đồ vào túi xách và vờ như tìm kiếm một thứ cần dùng giữa đống bản đồ tài liệu.

Anh ngần ngừ, rồi nói, “Cậu có thể ở với bố con tôi. Nếu cậu muốn. Tại khách sạn. Nếu cậu cần một nơi ẩn náu trong khi chờ mọi chuyện qua đi.”

“Thật sao?”

“Thật,” Jesper đáp với một cái nhún vai gượng gạo. “Inej và Kaz nữa. Chúng ta có thể ở cùng nhau cho tới khi nhận được thứ xứng đáng với mình.”

“Sau đó thì sao? Khi món nợ của bố anh được trả hết, anh sẽ quay về Novyi Zem chứ?”

“Có lẽ thế.”

Wylan chờ đợi. Jesper không có câu trả lời nào cho cậu. Nếu quay về nông trại, anh sẽ tránh xa những cám dỗ của Ketterdam và Barrel. Nhưng có thể anh sẽ tìm một rắc rối khác để đâm đầu vào. Và số tiền quá lớn. Ngay cả sau khi trả dứt nợ, vẫn còn một khoản hơn ba triệu kruge. Anh nhún vai đáp. “Kaz là người lên kế hoạch.”

“Tất nhiên rồi,” Wylan nói, nhưng Jesper có thể nhìn thấy sự thất vọng trên khuôn mặt cậu.

“Tôi đoán cậu đã vạch xong con đường tương lai cho mình?”

“Không. Tôi chỉ biết mình sẽ đưa mẹ ra khỏi chỗ đó và tìm cách làm lại cuộc đời cho hai mẹ con.” Wylan hất hàm về phía mấy tờ cáo thị trên tường. “Đây có phải là điều anh thực sự muốn không? Trở thành tội phạm ấy? Hết cuộc thanh toán này tới màn hỗn chiến khác, những lần thoát hiểm trong đường tơ kẽ tóc?”

“Nói thật nhé?” Jesper biết Wylan có lẽ sẽ không thích điều anh sắp nói ra.

“Đến giờ rồi,” Kaz lên tiếng từ trên ngưỡng cửa.

“Phải, đây là điều tôi muốn,” Jesper đáp. Wylan quàng túi lên vai, và Jesper bất giác đưa tay chỉnh lại chỗ xoắn trên quai đeo. Anh không bỏ tay ra. “Nhưng nó không phải là tất cả những gì tôi muốn.

“ Đi thôi,” Kaz gọi.

“Tôi sẽ dùng chính cái gậy chống đó đập cho anh biết tay. Jesper buông tay. “Không đổ lệ.”

“Không quan tài,” Wylan đáp khẽ. Rồi cậu và Kaz biến qua ngưỡng cửa.

Tiếp theo là Nina và Inej. Nina đã biến vào trong một lối đi để thay bộ đồ Fjerda nực cười trước khi khoác lên người chiếc quần dài tiện lợi, áo choàng và áo thụng - toàn bộ là kiểu dáng và chất liệu của Ravka. Cô đã dẫn Matthias theo cùng. Sau đó nhiều phút cô xuất hiện trở lại với trang phục xộc xệch và khuôn mặt ửng hồng.

“Không quên nhiệm vụ chứ hả?” Jesper buột miệng hỏi.

“Tôi đang dạy Matthias thế nào là vui thú. Anh ấy là một học sinh tuyệt vời. Rất chuyên tâm vào bài học.”

“Nina…” Matthias cảnh báo.

“Nhưng thái độ còn chưa ổn. Vẫn còn nhiều thứ cần cải thiện.”

Inej dứ cái lọ tinh chất cà phê về phía Jesper. “Đêm nay cẩn trọng nhé, Jes.”

“Chuyện đó tôi cũng giỏi chẳng kém Matthias học vui thú đâu.”

“Tôi không hề tệ nhé,” Matthias hậm hực.

“Ờ.”

Anh còn nhiều điều muốn nói thêm với mọi người, chủ yếu là Inej, nhưng không phải trước mặt những người còn lại. Có lẽ là không bao giờ. Anh nợ Inej một lời xin lỗi. Sự bất cẩn của anh đã làm họ bị phục kích tại Cảng số Năm trước khi lên đường tới Lâu Đài Băng và Inej suýt mất mạng. Nhưng anh phải xin lỗi cho chuyện đó như thế nào đây? Xin lỗi vì đã làm cô suýt bị đâm chết. Có ai muốn ăn bánh waffle không?

Trước khi Jesper kịp suy nghĩ thêm thì Inej đã đặt một nụ hôn lên má anh, Nina giơ ngón tay thối về phía mấy tấm cáo thị, rồi Jesper thấy mình ngồi chờ chín hồi chuông rưỡi trong nhà mồ với Kuwei lầm lì và Matthias bồn chồn đi qua đi lại.

Kuwei bắt đầu sắp xếp lại mấy cuốn sổ trong túi.

Jesper ngồi vào bàn. “Cậu có cần toàn bộ chỗ sổ đó không?”

“Cần chứ,” Kuwei đáp. “Anh có đi Ravka bao giờ chưa?”

Thằng nhóc tội nghiệp đang sợ kìa, Jesper nghĩ thầm. “Chưa, nhưng cậu sẽ có Nina và Matthias đi cùng.”

Kuwei liếc nhìn Matthias và lẩm bẩm. “Anh ta khó tính lắm.”

Jesper bật cười. “Tôi không thể nói anh ta là người vui tính, nhưng anh ta cũng có vài phẩm chất tốt đẹp.

“Tôi nghe được đấy, Fahey,” Matthias làu bàu.

“Tốt. Tôi ghét phải hét toáng lên lắm.”

“Cậu không thấy lo một chút nào cho những người kia sao?”

“Tất nhiên là có chứ. Nhưng chúng ta lớn cả rồi, và không còn thời gian để lo lắng nữa. Giờ là lúc vui vẻ,” Jesper vỗ vỗ mấy khẩu súng và đáp. “Hành động thôi.”

“Hoặc là chết,” Matthias lẩm bẩm. “Cũng như tôi, cậu thừa biết tình trạng của Nina không được tốt.”

“Đêm nay cô ấy không cần phải có phong độ tốt nhất. Điều cốt yếu của kế hoạch này là tránh đánh đấm, trời ạ.”

Matthias ngừng đi tới đi lui và ngồi vào bàn, đối diện với Jesper. “Chuyện gì đã xảy ra ở ngôi nhà bên hồ?”

Jesper vuốt phẳng một góc bản đồ. “Tôi cũng không rõ, nhưng tôi nghĩ Nina đã làm nghẹt thở một gã bằng một đám mây bụi.”

“Tôi không hiểu,” Matthias nói. “Một đám mây bụi? Hôm nay cô ấy đã điều khiển được những mảnh xương - điều cô ấy chưa từng làm trước khi dùng parem . Hình như Nina nghĩ rằng sự thay đổi đó chỉ có tính tức thời, do tác dụng tồn dư của thuốc, nhưng…” Anh quay sang hỏi Kuwei. “Theo cậu, parem có thể biến đổi được năng lực của một Grisha hay không? Làm nó khác đi? Hoặc phá huỷ nó?”

Kuwei nghịch nghịch cái khoá của chiếc ba lô đi đường. “Có thể. Cô ấy đã vượt qua sự thiếu thuốc. Chuyện đó khá hiếm, và chúng tôi chưa biết nhiều về parem, cũng như về năng lực của Grisha.”

“Chưa mổ xẻ họ đủ nhiều để hiểu hết à?” Câu nói bật ra khỏi miệng Jesper trước khi anh kịp cân nhắc. Anh biết nói như thế thật bất công. Chính Kuwei và cha cậu ta cũng là Grisha, và cả hai đều không ở vào vị trí có thể ngăn cản người Shu thí nghiệm trên đồng loại của họ.

“Anh giận tôi đấy à?” Kuwei hỏi lại.

Jesper mỉm cười. “Tôi không phải loại người nóng tính.”

“Ồ, có chứ,” Matthias nói. “Nóng tính và nhát cáy.”

Jesper gườm mắt với anh chàng Fjerda to xác. “Anh nói cái gì?”

“Jesper rất can đảm,” Kuwei phản bác.

“Cảm ơn sự ghi nhận của cậu,” Jesper duỗi dài đôi chân rồi bắt chéo chúng. “Anh có gì cần nói à, Matthias?”

“Tại sao cậu không đi Ravka?”

“Bố tôi…”

“Bố cậu có thể đi cùng chúng tôi đêm nay. Và nếu cậu lo lắng cho ông ấy đến thế thì sao cậu không tới khách sạn?”

“Tôi không thấy chuyện đó có liên quan gì với anh.”

“Tôi thì biết cảm giác xấu hổ về con người mình, về những gì bản thân đã làm như thế nào.”

“Có thật anh muốn khơi chuyện này lên không vậy, thợ săn phù thuỷ? Tôi không xấu hổ. Tôi thận trọng. Nhờ những người như anh và cái đám drüskelle bạn anh, mà thế giới này trở nên nguy hiểm đối với những người như chúng tôi. Nó luôn như thế, và không có vẻ gì là sẽ khá lên.”

Kuwei vươn người nắm lấy bàn tay Jesper, khẩn khoản. “Hiểu mà. Làm ơn đi. Những gì bọn tôi đã làm, những gì mà cha tôi đã làm… Chúng tôi đã cố làm cho tình hình khá lên, cố làm ra cách để các Grisha có thể…” Cậu ta phác một cử chỉ như thể đang ấn thứ gì đó xuống.

“Có thể triệt tiêu năng lực của họ?” Matthias ướm lời.

“Phải. Chính xác là thế. Để ẩn mình dễ dàng hơn. Nếu các Grisha không sử dụng năng lực, họ sẽ trở nên ốm yếu, lão hoá, dễ mệt mỏi, mất cảm giác ngon miệng. Đó là một cách để người Shu xác định những Grisha đang cố che giấu thân phận.”

“Tôi đâu có sử dụng năng lực của mình,” Jesper nói. “Thế nhưng…” Anh giơ mấy ngón tay lên để liệt kê. “Thứ nhất: Tôi dám chắc mình có thể ăn cả một cái máng đầy bánh waffle rưới xi rô táo và gọi thêm cái nữa sau đó ít phút. Thứ hai: Thiếu sức sống chưa bao giờ là vấn đề tôi gặp phải. Thứ ba: Tôi chưa từng đau ốm một ngày nào trong đời.”

“Thật không?” Matthias hỏi lại. “Có nhiều kiểu bệnh tật lắm đấy.”

Jesper đặt tay lên báng súng. Rõ ràng đêm nay tay Fjerda này nghĩ linh tinh hơi nhiều.

Kuwei mở ba lô và lấy ra một lon jurda thông thường, thứ có thể được mua ở mọi cửa tiệm tạp hoá của Ketterdam. “Jurda là một chất kích thích, chống lại sự mệt mỏi một cách hữu hiệu. Cha tôi nghĩ… ông ấy đã nghĩ nó là giải pháp giúp đỡ cho những người giống như chúng tôi. Nếu ông tìm được công thức đúng, nó sẽ cho phép các Grisha duy trì sức khoẻ trong lúc che giấu năng lực của mình.”

“Nhưng hoá ra không phải như vậy, đúng không?” Jesper nói. Hình như anh hơi giận dữ.

“Các thử nghiệm không diễn ra theo dự tính. Ai đó trong nhóm nghiên cứu đã không giữ mồm giữ miệng. Lãnh đạo của chúng tôi đã phát hiện ra và nhìn thấy một định hướng khác cho parem.” Kuwei lắc đầu, chỉ tay vào túi hành lí. “Giờ thì tôi chỉ biết cố nhớ lại những thử nghiệm của cha.”

“Đó là những gì cậu hí hoáy trong mấy cuốn sổ à?”

“Tôi còn viết nhật kí nữa.”

“Chắc là hay ho lắm. Ngày thứ nhất: ngồi trong nhà mồ. Ngày thứ hai: tiếp tục ngồi trong nhà mồ.”

Matthias phớt lờ Jesper và hỏi, “Cậu có thu được thành công nào không?”

Kuwei nhíu mày. “Một số. Tôi nghĩ thế. Với một phòng thí nghiệm và các nhà khoa học thực thụ thì kết quả sẽ tốt hơn. Tôi không phải là cha tôi. Ông ấy là một Sáng Chế Gia. Tôi là Tiết Hoả Sư. Đây không phải là việc mà tôi thành thạo.”

“Thế cậu thành thạo chuyện gì?” Jesper hỏi.

Kuwei nhìn anh với ánh mắt ngờ vực, rồi nhíu mày. “Tôi chưa có cơ hội tìm ra. Chúng tôi sống một cuộc đời rất đáng sợ tại Shu Han. Nó chưa bao giờ là nhà.”

Đó chắc chắn là một điều mà Jesper có thể hiểu được. Anh cầm lon jurda lên và mở nắp. Chất lượng tốt. Những bông hoa khô gần như nguyên vẹn với màu cam rực rỡ toả mùi thơm ngòn ngọt.

“Cậu nghĩ nếu có một phòng thí nghiệm cùng vài Sáng Chế Gia vây quanh thì cậu có thể làm lại các thử nghiệm của cha mình và bằng cách nào đó tìm được thuốc giải ư?”

“Tôi hi vọng thế,” Kuwei đáp.

“Nó sẽ hoạt động như thế nào?”

“Nó có thanh lọc parem khỏi cơ thể không?” Matthias hỏi.

“Có. Rút hết parem ra,” Kuwei đáp. “Nhưng ngay cả khi chúng ta thành công, làm sao đưa nó vào được?”

“Cậu sẽ phải tiếp cận đủ gần để tiêm nó vào, hoặc bắt người ta nuốt nó,” Matthias nói.

“Và tiêu tùng trong lúc làm điều đó,” Jesper đế vào.

Anh nhón lấy một bông jurda. Rồi ai đó sẽ tìm được cách tự tạo ra phiên bản jurda parem cho mình, và khi họ làm điều đó, chỉ một bông hoa nhỏ này cũng sẽ đáng giá cả gia tài. Khi nhìn kĩ các cánh hoa, anh có thể thấy chúng phân ra thành những mảnh nhỏ hơn. Không hẳn là anh nhìn thấy, nó giống như cảm nhận được những phần nhỏ vật chất cấu thành khác nhau thì đúng hơn.

Anh đặt bông hoa vào lon. Hồi còn bé, khi nằm trên những cánh đồng của bố, anh đã phát hiện mình có thể rút màu khỏi hoa jurda, từng cánh một. Vào một buổi chiều nhàm chán, anh đã tẩy trắng cỏ thành một từ bậy bạ trên bãi chăn gia súc phía tây. Những chữ cái in hoa. Bố anh bực lắm, nhưng ông cũng tỏ ra sợ hãi nữa. Ông rầy la anh tới khản tiếng, rồi chỉ ngồi đó, nhìn con trai trân trối, đôi bàn tay bấu chặt li trà để khỏi run rẩy. Lúc đầu, Jesper tưởng đâu ông giận vì cái từ bậy bạ kia, nhưng hoá ra không phải thế.

“Jes,” cuối cùng ông nói. “Con không bao giờ được làm chuyện này nữa. Hứa với bố đi. Mẹ con cũng có năng lực như vậy. Nó chỉ làm con khổ thôi.”

“Con hứa,” Jesper nói luôn để dàn xếp mọi chuyện, chưa hết bàng hoàng khi chứng kiến một người điềm đạm như bố mình nổi đoá như vậy. Nhưng tất cả những gì anh nghĩ lúc đó là, Mẹ đâu có vẻ gì khổ sở đâu.

Thật ra, mẹ anh dường như tìm thấy niềm vui trong mọi chuyện. Bà là người Zemeni, với làn da nâu sẫm căng bóng, và cao đến nỗi bố anh phải ngửa đầu nếu muốn nhìn vào mắt vợ. Trước khi Jesper đủ lớn để phụ việc ngoài đồng cho bố, anh được ở nhà với mẹ. Luôn có đồ cần giặt, thức ăn cần nấu, củi cần chẻ, và Jesper rất thích giúp mẹ.

“Đất đai của em thế nào?” Mẹ anh luôn hỏi như thế khi bố anh đi làm đồng về, và sau này Jesper biết trang trại đứng tên mẹ. Đó là món quà cưới của bố anh, người đã phải tán tỉnh Aditi Hilli gần cả năm trời mới được người đẹp mở lời.

“Đương hoa,” bố anh vừa đáp vừa hôn lên má vợ. “Cũng giống như em ấy, tình yêu của anh.”

Bố của Jesper luôn hứa chơi với anh và dạy anh đẽo gọt vào buổi tối, nhưng trăm lần như một, ông Colm ăn xong bữa tối là lăn đùng ra ngủ bên cạnh bếp lửa, đôi ủng chưa kịp tháo vẫn còn dính màu cam của hoa jurda ở đế. Jesper cùng mẹ tháo chúng khỏi chân bố, rồi đắp cho ông một cái chăn và làm nốt việc nhà. Hai mẹ con dọn dẹp bàn, gỡ quần áo khỏi dây phơi, rồi Aditi cho Jesper đi ngủ. Dù mẹ có bận đến đâu, dù có bao nhiêu con thú cần lột da hoặc rá rổ cần sửa lại, bà dường như vẫn có một nguồn năng lượng vô tận giống như Jesper, và luôn có thời gian để kể một câu chuyện hoặc ngân nga một bài hát trước khi anh ngủ.

Mẹ của Jesper là người đã dạy anh cưỡi ngựa, gắn mồi câu, làm cá, vặt lông chim, đánh lửa bằng hai thanh gỗ, và pha một tách trà đúng điệu. Bà cũng dạy anh bắn súng, đầu tiên là với một khẩu súng hơi không khác mấy so với đồ chơi trẻ con, sau đó là súng ngắn và súng trường. “Ai cũng có thể bắn,” mẹ đã bảo anh như thế. “Nhưng không phải người nào cũng nhắm bắn được.” Bà dạy anh ngắm xa, cách theo dấu con thú trong bụi rậm, những hiệu ứng đánh lừa mà ánh sáng gây ra cho mắt, lầm sao để canh chỉnh theo sức gió, bắn súng khi đang chạy hoặc cưỡi ngựa. Chẳng có gì mà bà không thể làm được.

Ngoài ra còn có cả những bài học bí mật nữa. Thỉnh thoảng, khi họ về nhà muộn và mẹ cần nấu bữa tối thật nhanh, mẹ làm nước sôi mà không cần nhóm bếp, làm bánh mì nở chỉ bằng cách nhìn vào nó. Jesper đã thấy bà xử lí các vết bẩn trên quần áo chỉ bằng cách vuốt nhẹ. Bà cũng tự làm thuốc súng bằng cách chiết xuất diêm tiêu từ một cái lòng hồ khô cạn ở gần nơi họ sống. “Sao lại phải trả tiền cho một thứ mà mẹ tự làm còn tốt hơn kia chứ?” Bà nói với Jesper như thế. “Nhưng con đừng có kể chuyện này với bố nhé?” Khi Jesper hỏi lí do, bà chỉ đáp, “Bởi vì bố đã có đủ chuyện để lo lắng, mẹ không thích mỗi khi bố lo lắng cho mẹ.” Nhưng bố vẫn lo, nhất là khi một trong những người bạn Zemeni của mẹ đến gõ cửa nhà họ để tìm kiếm sự giúp đỡ hoặc nhờ mẹ hàn gắn cái gì đó.

“Em tưởng bọn săn nô lệ không tìm đến đây được à?” Một đêm nọ bố đã hỏi như thế trong lúc rảo bước tới lui giữa căn nhà nhỏ, còn Jesper cuộn mình trong mền giả vờ ngủ để nghe lỏm câu chuyện. “Nếu tin đồn lan truyền về một Grisha đang sống ở đây…”

“Chữ đó,” bà Aditi phẩy tay duyên dáng, “đâu phải là em. Em không thể sống khác với bản thân, và nếu năng lực của em có thể giúp người, thì bổn phận của em là sử dụng nó.”

“Vậy con trai của chúng ta thì sao? Em có nợ nó điều gì không? Bổn phận đầu tiên của em là sống an toàn để bố con anh không mất em.”

Nhưng mẹ của Jesper chỉ đưa hai bàn tay ôm lấy khuôn mặt ông Colm, thật dịu dàng, thật ân cần, với tất cả tình yêu lấp lánh trong mắt. “Em sẽ là loại mẹ gì trong mắt con nếu như em giấu nhẹm năng lực của mình và để cho sự sợ hãi dẫn lối? Anh đã biết em là người như thế nào khi anh ngỏ lời với em rồi đấy, Colm. Bây giờ anh đừng bảo em phải hạ mình xuống.”

Và thế là sự giận dữ của bố Jesper cũng tiêu tan. “Anh biết. Anh chỉ không chịu nổi ý nghĩ bị mất em.”

Mẹ anh bật cười rồi hôn ông. “Vậy thì anh hãy giữ em ở bên,” bà nói với một cái nháy mắt. Và cuộc tranh cãi kết thúc. Cho đến lần tiếp theo.

Hoá ra bố của Jesper đã nhầm. Họ không mất bà Aditi vào tay bọn săn nô lệ.

Một đêm nọ, anh bật dậy khi nghe thấy nhiều tiếng nói, và từ bên dưới tấm mền, anh thấy mẹ khoác áo choàng lên người, bên ngoài chiếc áo ngủ, đội mũ rồi đi ủng. Lúc đó Jesper bảy tuổi, còn khá nhỏ, nhưng đủ lớn để biết phần lớn những mẩu đối thoại hấp dẫn diễn ra sau khi mình đã lên giường. Một người đàn ông Zemeni đứng trên ngưỡng cửa trong bộ quần áo cưỡi ngựa bụi bặm, và ông Colm lên tiếng, “Đang đêm hôm khuya khoắt, chuyện này có thể đợi đến sáng mai mà.”

“Nếu người đang gặp nạn là Jes thì anh có nói như vậy không?” Mẹ anh hỏi.

“Aditi…”

Mẹ hôn má bố, rồi đặt tay lên người Jesper và hỏi, “Thỏ con của mẹ thức hay ngủ?”

“Ngủ ạ,” anh đáp.

“Vậy là con đang nói mơ rồi.” Bà dém lại tấm mền, rồi hôn lên má và trán Jesper. “Ngủ đi nào, thỏ con, sáng mai mẹ sẽ về.”

Nhưng ngày hôm sau mẹ anh không quay về, và khi có tiếng gõ cửa vang lên vào ngày hôm sau nữa, người gõ không phải là mẹ anh, mà là người đàn ông Zemeni nọ.

Ông Colm ôm con trai vào lòng và bước ra cửa ngay. Ông đội mũ cho Jesper rồi ấn anh ngồi lên yên ngựa đằng trước mình, sau đó thúc ngựa phi nước đại. Người đàn ông bụi bặm cưỡi một con ngựa còn bụi bặm hơn, và họ đi theo ông ta qua nhiều dặm để tới một ngôi nhà màu trắng nằm cạnh một cánh đồng jurda. Nó đẹp hơn căn nhà nhỏ của họ, với hai tầng lầu và cửa sổ có lắp kính.

Người phụ nữ đứng chờ trên ngưỡng cửa tròn trịa hơn mẹ của Jesper, nhưng cao gần bằng, với mái tóc được tết thành những bím tóc dày. Bà ta vẫy họ vào trong nhà và nói, “Bà ấy đang ở trên gác.”

Trong những năm sau đó, khi Jesper xâu chuỗi lại chuyện đã xảy ra vào cái ngày khủng khiếp ấy, anh chỉ nhớ được rất ít chi tiết: ván sàn của ngôi nhà trắng được đánh bóng khiến anh có cảm giác như sờ vào lụa, đôi mắt của người phụ nữ đẫy đà, và bé gái - một đứa trẻ lớn hơn anh vài tuổi, với mái tóc tết giống hệt mẹ. Cô bé đã uống nước từ một cái giếng được đào quá gần một khu mỏ. Lẽ ra nó phải bị bít ván, nhưng thay vào đó người ta chỉ tháo cái xô đi. Trục tời vẫn còn đó, cùng với sợi dây thừng cũ. Bé gái cùng bạn bè đã dùng hộp đựng đồ ăn trưa để lấy thứ nước mát lạnh và trong vắt như sớm mai lên uống. Đêm đó cả ba đứa trẻ đều ngã bệnh. Hai đứa đã qua đời, nhưng mẹ của Jesper đã cứu được cô bé gái con của người phụ nữ đẫy đà.

Bà Aditi đã đến bên giường cô bé, ngửi cái hộp đựng đồ ăn trưa bằng kim loại, rồi đặt tay lên làn da hâm hấp sốt của cô bé. Vào trưa ngày hôm sau, cơn sốt đã chấm dứt, và màu vàng nơi tròng mắt của cô bé đã biến đi. Tối hôm đó, cô bé đã ngồi dậy và đòi ăn. Bà Aditi mỉm cười được một lần với cô bé trước khi ngã quỵ.

“Bà ấy đã thiếu cẩn trọng khi rút chất độc ra,” người đàn ông bụi bặm nói. “Bà ấy đã hấp thu nó quá nhiều. Tôi đã từng thấy điều đó trước đây với các zowa.” Zowa. Nó có nghĩa đơn giản lả “người được trời phú”. Đó là chữ mà mẹ của Jesper dùng thay cho Grisha. Chúng ta là zowa, bà đã nói như thế với Jesper khi làm một bông hoa nở bung chỉ bằng một cái búng tay. Con và mẹ.

Nhưng lúc đó họ không có ai để gọi đến cứu mẹ Jesper. Anh không rõ vì sao. Nếu bà tỉnh táo, nếu bà khoẻ hơn, có lẽ bà đã có thể tự chữa lành bản thân. Nhưng bà đã rơi vào hôn mê, hơi thở bà trở nên càng lúc càng nặng nhọc.

Jesper đã ngủ thiếp đi, má anh áp vào lòng bàn tay của mẹ, chắc mẩm rằng mẹ sẽ tỉnh lại bất cứ lúc nào, vuốt má anh và nói, “Con làm gì ở đây vậy, thỏ con?” Nhưng thay vào đó, anh tỉnh giấc trong tiếng nức nở của bố.

Họ đưa bà Aditi về trang trại và chôn cất bà dưới một cây anh đào đã bắt đầu nở hoa. Đối với Jesper, nó quá đẹp cho một ngày bi thương như vậy, và ngay cả bây giờ, khi nhìn những bông hoa màu hồng phớt trong một tủ kính bày hàng hoặc được thêu trên chiếc váy lụa của một cô gái, anh vẫn còn buồn. Chúng làm anh nhớ đến mùi đất mới đào, cơn gió vi vu thổi qua những cánh đồng, và chất giọng trầm run rẩy của bố anh hát một khúc ca cô độc, một bài hát tiếng Kaelish mà Jesper không hiểu.

Khi ông Colm hát xong, khi những nốt nhạc cuối cùng đã tan biến vào tán cây anh đào, Jesper hỏi bố, “Mẹ có phải là phù thuỷ không, bố?”

Ông Colm đặt một bàn tay lốm đốm vết tàn nhang lên vai cậu con trai và kéo lại gần. “Bà ấy là một nữ hoàng, Jes à,” ông đáp. “Bà ấy là nữ hoàng của bố con mình.”

Tối đó Jesper đã nấu bữa tối cho hai người. Anh làm cháy bánh quy và cho quá nhiều nước vào súp, nhưng bố anh ăn sạch sẽ. Rồi ông đọc cho anh nghe một quyển sách về các vị thánh của Kaelish cho đến khi ngọn lửa lụi dần, và nỗi đau trong lòng Jesper đủ dịu lại để cậu có thể ngủ thiếp đi. Kể từ đó cuộc sống của hai bố con diễn ra như thế. Họ chăm sóc nhau, làm đồng, thu hoạch và sấy hoa jurda vào mùa hè, cố gắng làm cho trang trại sinh lời. Tại sao như vậy lại còn chưa đủ?

Mặc dù vậy, Jesper vẫn biết nó sẽ không bao giờ là đủ. Anh không bao giờ có thể quay lại cuộc sống ấy. Anh không được sinh ra cho nó. Nếu mẹ anh còn sống, chắc bà đã dạy anh cách kiềm chế sự chộn rộn của mình. Lẽ ra bà đã chỉ cho anh cách sử dụng năng lực của mình thay vì che giấu nó. Có lẽ anh đã đi Ravka để trở thành một binh sĩ hoàng gia. Hoặc có lẽ anh vẫn ra nông nỗi này.

Jesper lau vết bột hoa jurda bám trên đầu ngón tay rồi đậy nắp cái lon lại.

“Người Zemeni không chỉ dùng hoa,” anh nói. “Tôi còn nhớ mẹ tôi đã ngâm cuống hoa jurda vào sữa dê. Bà đã cho tôi uống nó khi tôi đi làm đồng.”

“Để làm gì?” Matthias hỏi.

“Để trung hoà hiệu ứng của việc hít phấn hoa jurda suốt cả ngày. Nó quá mạnh đối với cơ thể của một đứa trẻ, và không ai muốn tôi tăng động hơn vốn dĩ.”

“Cuống hoa á?” Kuwei hỏi lại. “Hầu hết mọi người đều vứt bỏ chúng.”

“Cuống hoa có chứa một loại nhựa thơm mà người Zemeni dùng để làm thuốc mỡ. Họ xoa chúng vào lợi và lỗ mũi của những đứa trẻ khi đốt jurda. ” Jesper nhịp nhịp ngón tay trên cái lon thiếc, trong đầu bỗng nảy ra một ý nghĩ. Có khi nào thuốc giải cho jurda parem lại nằm chính trong cây jurda không? Anh không phải là một nhà hoá học, anh không tư duy giống như Wylan, và chưa bao giờ được huấn luyện để làm một Sáng Chế Gia thực thụ. Nhưng anh là con trai của mẹ anh. “Sẽ thế nào nếu một phiên bản của loại nhựa thơm đó có thể trung hoà hiệu ứng của jurda parem! Nhưng vẫn cần một cách để đưa nó vào…”

Đúng lúc đó cửa sổ vỡ tan. Jesper rút súng trong nháy mắt, trong lúc Matthias ấn đầu Kuwei xuống và tì súng trường lên vai. Họ dịch dần tới bức tường và Jesper đưa mắt quan sát qua lớp kính ghép màu bị vỡ. Trong bóng tối của nghĩa địa, cậu thấy những ngọn đèn lồng giơ cao, soi tỏ những hình bóng hẳn là con người - rất nhiều người.

“Trừ phi đêm nay ma quỷ sống dậy,” anh nói, “chúng ta có người bầu bạn rồi.”