← Quay lại trang sách

Chương 15 MATTHIAS

Một đám đông đã tụ tập lại bên ngoài tửu quán, bị thu hút bởi tiếng đổ vỡ và huyên náo. Zoya hạ Nina và Matthias xuống sàn nhà một cách không được nhẹ tay cho lắm, rồi cả ba nhanh chóng rời khỏi quán bằng cửa hậu, hộ tống bởi một nhóm nhỏ đàn ông vũ trang. Những người còn lại trong quán nghĩ ra mọi lời giải thích khả dĩ cho việc các mẩu xương bay qua khu chợ và phá nát cửa sổ quán. Matthias không dám chắc anh hiểu được sự việc. Không lẽ Nina có thể điều khiển mớ thành tích giả đó? Hay đó là một chuyện hoàn toàn khác? Và tại sao họ bị tấn công?

Anh tưởng họ sẽ chui ra một con hẻm, nhưng thay vào đó, mọi người lần theo những bậc cầu thang trông có vẻ cổ kính để đi xuống một đường hầm tối om. Con kênh cũ, anh nhận ra khi họ leo lên một con thuyền lướt đi êm ru trong bóng tối. Con kênh đã không bị lấp hoàn toàn khi người ta làm đường phía bên trên.

Họ đang di chuyển ngay dưới trục đường chính chạy ngang qua toà đại sứ.

Giây lát sau, Zoya đã dẫn họ leo lên một cầu thang sắt nhỏ hẹp để vào một gian phòng có trần thấp tới nỗi Matthias phải cúi gập người.

Nina nói gì đó với Zoya bằng tiếng Ravka rồi dịch câu trả lời của Zoya cho anh nghe. “Đây là một bán phòng. Khi toà đại sứ được xây dựng, họ đã tạo ra một sàn giả nằm cách sàn nhà nguyên thuỷ một mét hai. Vì nó được ẩn vào phần móng nên người ta gần như không thể biết được có một căn phòng dưới chân mình.”

“Ở đây không gian chỉ vừa nhỉnh hơn mức cần thiết để trườn bò.”

“Đúng vậy, nhưng các toà nhà của Ketterdam không có tầng hầm, do vậy sẽ không có ai nghĩ tới việc mò xuống dưới này.”

Có vẻ như đây là một sự cẩn trọng quá mức ở một nơi đáng lẽ mang tính trung lập. Nhưng có thể người Ravka buộc phải có những biện pháp để bảo vệ công dân. Vì những người như mình. Matthias từng là một thợ săn, một sát thủ, và từng tự hào vì làm tốt công việc đó.

Ít phút sau, họ bắt gặp một nhóm người đang túm tụm ở nơi mà Matthias nghĩ là vách tường phía đông, nếu sự định hướng của anh còn chính xác.

“Chúng ta đang ở bên dưới khu vườn của toà đại sứ,” Nina cho biết.

Anh gật đầu. Đây là nơi an toàn nhất để che giấu một nhóm người nếu không muốn bị xầm xì bàn tán khắp toà đại sứ. Có khoảng mười lăm người, đủ mọi lứa tuổi và màu da. Hình như họ có rất ít điểm chung ngoại trừ nét mặt lo lắng, nhưng Matthias biết tất cả bọn họ đều là Grisha. Họ không cần được Nina cảnh báo để đi tìm nơi ẩn nấp.

“Ít vậy thôi sao?” Matthias thắc mắc. Theo ước lượng của Nina thì tại Ketterdam có gần ba mươi Grisha.

“Có thể những người khác đã tự trốn đi, hoặc đang ẩn mình đâu đó.”

Hoặc có thể họ đã bị bắt. Nếu Nina không muốn nói ra khả năng đó thì Matthias cũng không.

Zoya dẫn họ qua một vòm cửa để tới một khu vực mà Matthias có thể đứng thẳng người trong sự nhẹ nhõm. Căn cứ theo hình dạng tròn của gian phòng, anh đoán họ đang ở bên dưới một bể chứa nước giả hoặc một nhà hóng mát trong vườn. Sự nhẹ nhõm của anh tan biến khi một trong những người đàn ông vũ trang đi cùng Zoya giơ ra một cặp còng, và Zoya chỉ tay về phía anh.

Ngay lập tức, Nina bước tới chắn trước mặt Matthias, cô và Zoya bắt đầu tranh cãi bằng những lời thì thầm quyết liệt.

Matthias thừa biết anh đang phải đối mặt với ai. Zoya Nazyalensky là một trong những phù thuỷ hùng mạnh nhất ở Ravka. Chị là một Tiết Khí Sư huyền thoại, một chiến binh đã từng phục vụ Hắc Y, sau đó là Tiết Dương Sư, và được phong là một thành viên trong Tam Đại Grisha của vua Nikolai. Giờ đây, sau khi tận mắt trải nghiệm năng lực của Zoya, anh không ngạc nhiên trước sự thăng tiến nhanh chóng của chị.

Hai người cãi cọ hoàn toàn bằng tiếng Ravka, và Matthias không hiểu một từ nào, nhưng sự khinh miệt trong giọng điệu của Zoya rất rõ ràng, cũng như những cử chỉ mạnh bạo mà chị ta dành cho anh. Matthias đã chuẩn bị để gầm lên rằng nếu phù thuỷ bão tố nhất quyết muốn còng tay anh thì chị ta có thể thử tự mình làm điều đó và đón nhận chuyện sẽ xảy ra, nhưng đúng lúc đó Nina giơ hai tay lên.

“Thôi,” cô nói bằng tiếng Kerch. “Matthias vẫn được tự do, và chúng ta tiếp tục nói chuyện bằng thứ ngôn ngữ mọi người đều hiểu được. Anh ấy có quyền biết chuyện gì đang diễn ra.”

Đôi mắt Zoya nheo lại. Chị nhìn từ Matthias sang Nina, và rồi, với chất giọng Kerch nặng âm sắc, chị nói, “Nina Zenik, em vẫn là một binh sĩ của Hạ Quân, và tôi vẫn là chỉ huy của em. Em đang bất tuân thượng lệnh.”

“Vậy thì chỉ việc xích luôn cả em.”

“Đừng tưởng tôi không nghĩ tới khả năng đó.”

“Nina!” Tiếng hét vang lên từ một cô gái tóc đỏ vừa xuất hiện trong gian phòng tròn.

“Genya!” Nina thốt lên. Nhưng Matthias không cần phải được giới thiệu về nhân vật này. Khuôn mặt chị ta chằng chịt sẹo, một bên mắt được bịt bằng miếng lụa đỏ thêu hình mặt trời vàng toả ánh sáng. Genya Safin - người Thợ May huyền thoại, giáo viên trước đây của Nina, và cũng là một thành viên khác của Tam Đại Grisha. Khi Matthias nhìn họ ôm nhau, anh cảm thấy không ổn. Anh tưởng đâu mình sẽ gặp một nhóm Grisha vô danh, những người phải tị nạn ở Ketterdam, bị bỏ rơi và gặp nguy hiểm. Những người như Nina - chứ không phải người thuộc hàng ngũ các Grisha cao cấp của Ravka. Bản năng kêu gọi anh chiến đấu hoặc bỏ chạy khỏi nơi này nhanh nhất có thể, thay vì đứng trơ ra như một anh chàng hôn phu đi gặp phụ huynh của người yêu. Thế mà ở đây có cả những người bạn, người thầy của Nina. Đó là kẻ thù, một giọng nói vang lên trong đầu anh, và anh không chắc đó là giọng của chỉ huy Brum hay của chính mình.

Genya lùi lại, giơ tay vuốt một lọn tóc vương trên khuôn mặt Nina để quan sát cô kĩ hơn. “Nina, sao có thể có chuyện này được? Lần cuối cùng Zoya gặp em…”

“Thì con bé đã làm mình làm mẩy,” Zoya nói, “và vùng vằng rời khỏi khu trại với sự cẩn trọng của một con tuần lộc ương ngạnh.”

Trước sự ngạc nhiên của Matthias, Nina chỉ nhăn mặt như một đứa trẻ bị quở mắng. Hình như anh chưa bao giờ thấy cô xấu hổ trước đây.

“Chúng tôi tưởng em đã chết,” Genya thốt lên.

“Trông cũng quá bằng chết còn gì.”

“Trông con bé ổn mà.”

“Em đã biến mất,” Zoya rít lên với Nina. “Khi chúng tôi biết có người Fjerda ở gần đó, chúng tôi đã lo sợ điều tồi tệ nhất.

“Và nó đã xảy ra,” Nina đáp. “Ngoài ra còn nhiều điều tồi tệ khác nữa.” Cô nắm lấy bàn tay của Matthias. Nhưng giờ bọn em đã ở đây.”

Zoya lừ mắt nhìn hai bàn tay đang nắm của họ và khoanh tay lại. “Tôi hiểu rồi.”

Genya nhướn một bên lông mày nâu đỏ. “Ờ, nếu cậu ta là điều tồi tệ nhất thì…”

“Hai người làm gì ở đây?” Zoya tra hỏi. “Có phải em và gã Fjerda… đồng loã của em đang tìm cách rời khỏi Ketterdam?”

“Nếu vậy thì sao? Tại sao mọi người lại phục kích bọn em?”

“Những cuộc tấn công nhằm vào Grisha đang diễn ra khắp trong thành. Chúng tôi không biết hai người là ai, có thông đồng với bọn Shu hay không, chỉ biết hai người đã nói ra câu mật khẩu với người bán rong. Hiện giờ chúng tôi luôn cài sẵn lính tại tửu quán. Bất cứ ai đi tìm kiếm Grisha cũng là một mối đe doạ tiềm tàng.”

Căn cứ theo những gì Matthias đã thấy nơi các chiến binh người Shu, sự lo lắng của họ là có cơ sở.

“Chúng em đến để giúp đỡ,” Nina nói.

“Kiểu nào? Em không biết thế lực nào đang hoành hành ở đây đâu, Nina. Người Shu đã phát triển một loại thuốc…”

“Jurda parem.”

“Em biết gì biết về parem?”

Nina siết chặt bàn tay của Matthias, cô hít một hơi thật sâu.

“Em đã thấy tác dụng của nó. Trên chính… bản thân em.”

Con mắt độc nhất màu hổ phách của Genya mở to. “Ôi không, Nina. Em không làm điều đó.”

“Dĩ nhiên con bé đã làm,” Zoya nói. “Luôn luôn như thế! Nó lao vào rắc rối như thể đó là một bồn nước ấm. Có phải vì thế mà trông em như xác chết biết đi không? Sao em có thể liều mạng như vậy, Nina?”

“Trông em không giống như xác chết biết đi,” Nina phản đối, nhưng cô một lần nữa có vẻ mặt của một đứa trẻ bị phạt. Matthias không thể chịu nổi chuyện này.

“Cô ấy đã làm thế để cứu mạng chúng tôi,” anh lên tiếng. “Cô ấy đã làm dù biết điều đó đồng nghĩa với đưa mình vào sự đày đoạ, thậm chí là cái chết.”

“Khinh suất,” Zoya tuyên bố.

“Zoya,” Genya nói. “Chúng ta chưa biết hoàn cảnh nào…”

“Chúng ta biết con bé đã mất tích gần một năm ròng.” Chị trỏ một ngón tay buộc tội vào Nina. “Và giờ thì nó xuất hiện với một gã Fjerda theo sau, dềnh dàng như một chiến binh và sử dụng những kĩ thuật chiến đấu của drüskelle. ” Zoya thò tay vào trong túi áo và rút ra một nắm xương. “Con bé đã tấn công người của chúng ta, bằng những mảnh xương này, Genya. Cô có từng nghe tới điều gì như thế này chưa?”

Genya quan sát chỗ xương, trước khi nhìn Nina. “Chuyện này là thật à?”

Nina mím môi. “Có lẽ thế?”

“Có lẽ,” Zoya lặp lại. “Thế mà cô còn bảo chúng ta nên tin tưởng con bé?”

Genya tỏ ra nao núng, nhưng vẫn đáp, “Tôi chỉ nói là chúng ta nên lắng nghe.”

“Được thôi,” Zoya nói. “Tôi đang dỏng tai và mở lòng đợi nghe đây. Giải khuây cho tôi đi, Nina Zenik.”

Matthias biết việc đối mặt với những người dẫn dắt mà mình thần tượng là như thế nào, trở lại làm một học sinh lo lắng muốn làm người khác hài lòng là như thế nào. Anh quay sang Nina và nói bằng tiếng Fjerda, “Đừng để họ làm em sợ. Em không còn là cô gái trước đây. Em không phải là một binh sĩ chỉ biết nghe lệnh.”

“Vậy sao em vẫn cảm thấy như chỉ muốn chui vào một cái góc nào đó để khóc?”

“Đây là một gian phòng tròn. Chẳng có cái góc nào cho em đâu.”

“Matthias…”

“Hãy nhớ những gì chúng ta đã trải qua. Hãy nhớ chúng ta tới đây vì mục đích gì.”

“Tôi tưởng chúng ta nói với nhau bằng tiếng Kerch,” Zoya lên tiếng.

Nina một lần nữa siết chặt bàn tay Matthias, rồi hếch cằm lên và nói, “Em đã bị các drüskelle bắt. Matthias đã giúp em trốn thoát. Nhưng anh ấy bị người Kerch bắt giữ. Em giúp anh ấy vượt ngục. Rồi em bị Jarl Brum bắt và Matthias giúp em thoát thân.” Matthias cảm thấy không thoải mái cho lắm trước việc cả hai người cứ thay phiên nhau bị bắt giữ.

“Jarl Brum sao?” Zoya kinh hãi hỏi lại.

Nina thở dài. “Năm vừa qua đúng là khổ ải. Em thề là em sẽ giải thích mọi chuyện với chị, và nếu chị quyết định rằng em nên bị cùm chân tay thả xuống sông Sokol thì em sẽ chấp thuận điều đó không một lời than vãn. Nhưng đêm nay bọn em đến đây vì em đã chứng kiến cuộc tấn công của bọn Kherguud ở Tây Stave . Em muốn giúp các Grisha rời khỏi Ketterdam trước khi bị người Shu tìm bắt.”

Zoya thấp hơn Nina, nhưng vẫn có thể nghênh mặt với cô khi đáp, “Thế em định giúp bằng cách nào?”

“Bọn em có một con tàu.”

Chuyện đó chưa hoàn toàn là sự thật, nhưng Matthias sẽ không bác bỏ nó.

Zoya phẩy tay. “Chúng tôi cũng có tàu. Nó bị kẹt ở ngoài khơi, cách bờ biển vài dặm. Hải cảng đã bị người Kerch và Hội đồng Thuỷ triều phong toả. Không một con tàu nước ngoài nào được ra vào cảng nếu không có sự cho phép của Hội đồng Thương buôn.”

Vậy là Kaz đã nói đúng. Van Eck đã dùng toàn bộ sức ảnh hưởng của mình để bảo đảm Kaz không thể đưa được Kuwei ra khỏi Ketterdam.

“Vâng,” Nina đáp. “Nhưng con tàu của bọn em thuộc về một thành viên của Hội đồng Thương buôn.”

Zoya và Genya đưa mắt nhìn nhau.

“Được rồi, Zenik,” Zoya lên tiếng. “Giờ thì tôi nghe em đây.”

***

Nina cung cấp một số chi tiết cho Zoya và Genya, nhưng Matthias nhận thấy cô không nhắc tới Kaz và giữ cho Lâu Đài Băng nằm ngoài câu chuyện.

Khi họ đi lên trên để thảo luận kế hoạch, Nina và Matthias bị bỏ lại cùng với hai lính canh có vũ trang tại lối vào của bể nước.

Matthias thì thầm bằng tiếng Fjerda, “Nếu các gián điệp Ravka làm ăn đàng hoàng, bạn bè của em sẽ biết chúng ta là những người đã giải cứu Kuwei.”

“Đừng có thì thào,” Nina đáp lại cùng bằng tiếng Fjerda. “Như thế sẽ chỉ làm lính canh nghi ngờ. Sau này em sẽ kể hết mọi chuyện với Zoya và Genya, nhưng anh có nhớ chúng ta đã muốn thủ tiêu cậu ta đến thế nào không? Em không rõ Zoya có cùng lựa chọn như vậy hay không. Chị ấy không cần phải biết người lên thuyền là ai cho đến khi nó cập cảng ở Os Kervo.”

An toàn trên đất Ravka. Mấy chữ đó làm ruột gan Matthias quặn lại. Anh rất muốn đưa Nina rời khỏi Ketterdam, nhưng viễn cảnh đi tới Ravka có vẻ không an toàn đối với anh.

Chắc Nina cũng cảm nhận được sự không thoải mái của Matthias, vì cô nói ngay, “Ravka là nơi an toàn nhất đối với Kuwei. Cậu ta cần sự bảo vệ của chúng em.”

“Vậy sự bảo vệ của Zoya Nazyalensky là như thế nào?”

“Chị ấy không tệ như vậy đâu.” Matthias đưa ánh mắt hoang mang nhìn Nina. “Thật ra, Zoya rất dữ dằn, nhưng chị ấy và chị Genya đã chứng kiến nhiều thương vong trong cuộc nội chiến. Em không tin họ muốn máu đổ thêm nữa.”

Matthias thầm mong đó là sự thật, nhưng ngay cả như thế anh cũng không chắc là nó có ý nghĩa. “Em còn nhớ những điều đã nói với anh chứ, Nina? Em ước gì vua Nikolai tiến quân lên phía bắc và quét sạch mọi thứ trên đường.”

“Lúc đó em nóng giận…”

“Em có quyền nóng giận. Tất cả chúng ta đều như vậy. Vấn đề là ở chỗ đó. Brum sẽ không dừng lại. Các drüskelle sẽ không dừng lại. Họ coi sứ mạng thần thánh của mình là tận diệt bọn em.” Đó cũng từng là sứ mạng của anh, và anh vẫn còn cảm thấy sự hoài nghi, sự thôi thúc của lòng hận thù. Anh tự nguyền rủa bản thân vì điều đó.

“Vậy thì chúng ta sẽ tìm cách làm họ thay đổi suy nghĩ. Tất cả bọn họ.” Cô nhìn anh một lúc. “Hôm nay anh sử dụng bom khói. Anh đã bảo Wylan chế tạo nó à?”

“Đúng,” Mattthias thừa nhận.

“Tại sao?”

Anh biết cô sẽ không thích nghe điều này. “Anh không rõ parem ảnh hưởng tới năng lực của em ở mức độ nào. Vì anh không cho em dùng thuốc, anh cần phải đủ khả năng bảo vệ em mà không làm em đau.”

“Và anh đã mang nó theo đề phòng trường hợp chúng ta gặp rắc rối?”

“Phải.”

“Với các Grisha.”

Anh gật đầu, chờ đợi lời mắng mỏ của cô. Nhưng tất cả những gì cô làm chỉ là nhìn anh với vẻ mặt trầm ngâm. Cô tiến lại gần. Matthias ngượng nghịu liếc nhìn các lính canh đang đứng phía bên kia cửa.

“Kệ họ đi,” cô nói. “Tại sao anh không hôn em, Matthias?”

“Đây không phải là lúc…”

“Có phải vì bản chất của em không? Có phải vì anh vẫn e sợ em không?”

“Không.”

Cô ngừng lại, và anh có thể thấy cô lúng túng với điều muốn nói ra. “Có phải vì cách cư xử của em trên tàu? Cách cư xử của em đêm hôm nọ… khi em cố bắt anh đưa nốt chỗ parem còn lại?”

“Sao em lại nghĩ như thế?”

“Anh luôn bảo em không biết xấu hổ là gì. Em nghĩ là… em xấu hổ.” Cô nhún vai. “Nó giống như mặc một chiếc áo không vừa với mình.”

“Nina, anh đã thề với em.”

“Nhưng…”

“Kẻ thù của em cũng là kẻ thù của anh, và anh sẽ cùng em chiến đấu chống lại mọi địch thủ, kể cả thứ ma dược đó.”

Nina lắc đầu như thể Matthias đang nói linh tinh. “Em không muốn anh ở bên em vì lời thề thốt đó, hoặc bởi vì anh cho rằng em cần anh bảo vệ, hoặc bởi vì anh nghĩ rằng anh nợ em một món nợ xương máu ngu ngốc nào đó.”

“Nina à…’’Anh nói, rồi khựng lại. “Nina, anh ở bên em vì em cho phép anh làm điều đó. Không có vinh dự nào lớn hơn việc được ở bên em.”

“Danh dự. Trách nhiệm. Em hiểu rồi.”

Matthias có thể chịu được tính khí nóng nảy của cô, nhưng sự thất vọng thì không. Anh chỉ biết thứ ngôn ngữ của chiến trận. Anh không có vốn từ cho chuyện này. “Việc gặp em đúng là một thảm hoạ.”

Cô nhướn mày. “Cảm ơn anh.”

Djel ơi, anh dở chuyện này khủng khiếp. Anh luống cuống nói tiếp, cố gắng làm cô hiểu. “Nhưng anh biết ơn thảm hoạ đó mỗi ngày. Anh cần một biến cố để lôi anh ra khỏi cuộc sống từng có. Em là một cơn địa chấn, một trận lở đất.”

“Em…” Cô chống nạnh và nói, “là một bông hoa mong manh.”

“Em không phải là một bông hoa, em là tất cả những đoá hoa đồng loạt nở bừng trong khu rừng. Em là một ngọn sóng triều. Em là một đàn thú chạy loạn. Em thật choáng ngợp.”

“Thế anh thích cái gì?” Cô hỏi lại, mắt long lanh, một chút run rẩy xuất hiện trong giọng nói. “Một cô nàng Fjerda ăn mặc kín cổng cao tường sẵn sàng trầm mình trong nước lạnh mỗi khi quá háo hức một chuyện gì đó sao?”

“Đó không phải là ý anh muốn nói!”

Nina nhích lại gần Matthias. Một lần nữa, anh liếc mắt nhìn đám lính canh. Họ đang quay lưng lại, nhưng Matthias biết họ vẫn lắng nghe, cho dù anh với Nina đang nói chuyện bằng thứ ngôn ngữ nào.

“Anh sợ cái gì?” Cô thách thức. “Đừng có nhìn họ, Matthias. Nhìn em đây này.”

Và anh nhìn. Thật khó mà không nhìn cô. Anh thích thấy cô trong trang phục Fjerda, với chiếc áo khoác len ngắn và tà váy rộng. Cặp mắt màu lục của cô rực sáng, má cô ửng hồng, đôi môi hơi hé mở. Thật dễ dàng hình dung anh quỳ gối trước cô như một người sám hối, để bàn tay lướt nhẹ trên bắp chân trắng nõn, vén tà váy lên cao quá đầu gối, tới bắp đùi nóng ấm của cô. Và điều tệ hại nhất là anh biết cô sẽ cảm thấy khoan khoái như thế nào. Mọi tế bào của anh vẫn còn nhớ sự tiếp xúc với cơ thể cô vào cái đêm đầu tiên ở trại săn cá voi. “Anh… Không có điều gì anh thèm muốn hơn. Không có gì anh thèm muốn hơn là được choáng ngợp bởi em.”

“Nhưng anh lại không muốn hôn em?”

Anh hít vào thật chậm, cố gắng sắp xếp các suy nghĩ của mình. Chuyện này thật sai trái.

“Ở Fjerda…’’Anh lên tiếng.

“Chúng ta không phải đang ở Fjerda.”

Anh cần phải làm cho cô hiểu. “Ở Fjerda, anh sẽ phải xin phép bố mẹ em để được đi chơi với em.”

“Em không gặp bố mẹ từ hồi còn là một đứa trẻ.”

“Chúng ta sẽ bị kèm chặt. Anh sẽ phải dùng bữa tối với gia đình em ít nhất ba lần trước khi chúng ta được phép ở một mình với nhau.”

“Hiện giờ chúng ta đang ở một mình với nhau, Matthias.”

“Anh sẽ phải tặng quà cho em.”

Nina nghiêng đầu. “Anh nói tiếp đi.”

“Những đoá hồng đông, nếu anh đủ tiền mua, một chiếc lược bạc để em chải tóc.”

“Em không cần những cái đó.”

“Bánh táo với lớp kem ngọt.”

“Em tưởng drüskelle các anh không ăn đồ ngọt?”

“Tất cả là để cho em,” Matthias đáp.

“Em đang lắng nghe anh đây.”

“Nụ hôn đầu tiên của chúng ta sẽ phải diễn ra trong một khu rừng tràn ngập ánh nắng, hoặc dưới một bầu trời sao sau một điệu dân vũ, chứ không thể trong một nhà mồ, hay một cái hầm có lính canh ngoài cửa.”

“Để em diễn xuôi lại như thế này nhé. Anh không hôn em, bởi vì bối cảnh không đủ lãng mạn?”

“Chuyện này không phải là vì sự lãng mạn. Một nụ hôn nghiêm chỉnh, một lời tỏ tình nghiêm túc. Những chuyện đó nên được thực hiện đúng cách.”

“Với những tên trộm lọc lõi sao?” Khoé miệng xinh đẹp của cô cong lên và trong một thoáng Matthias sợ cô sẽ cười anh, nhưng cô chỉ lắc đầu và nhích lại gần hơn. Cơ thể cô chỉ cách anh vừa vặn một tầm hơi thở. Nhu cầu xoá bỏ khoảng cách mỏng manh đó thật điên rồ.

“Ngày anh đến nhà em lần đầu để được làm cái trò tìm hiểu nghiêm túc này, em sẽ lùa anh vào góc bếp,” cô nói. “Nhưng anh hãy kể nhiều hơn về bọn con gái Fjerda đi.”

“Họ nói chuyện nhỏ nhẹ lắm. Họ không giở giọng tán tỉnh với mọi người đàn ông mình gặp.”

“Em còn tán cả phụ nữ ấy chứ.”

“Anh nghĩ em sẵn sàng cưa cẩm một cây chà là nếu nó làm em chú ý.”

“Nếu em làm thế, anh có thể đánh cược nó sẽ ưỡn thẳng và nghe lời. Anh ghen đấy à?”

“Luôn luôn.”

“Vậy cũng mừng. Anh đang nhìn cái gì đấy, Matthias?” Những âm trầm trong giọng nói của cô xuyên thẳng vào trong lòng anh.

Anh hướng mắt lên trần nhà, khẽ thì thầm đáp, “Không gì cả.”

“Matthias, anh đang cầu nguyện đấy à?”

“Có lẽ.”

“Để tự kiềm chế sao?” Cô ngọt ngào hỏi lại.

“Em đúng là phù thuỷ.”

“Em không mẫu mực.”

“Anh biết điều đó.” Biết một cách khổ sở, đau đáu, mê muội.

“Và em rất tiếc phải thông báo với anh, anh cũng chẳng chính trực gì đâu.”

Ánh mắt anh chiếu xuống cô. “Anh…”

“Anh đã phá vỡ bao nhiêu quy tắc kể từ khi gặp em rồi? Bao nhiêu luật lệ? Chúng chưa phải là cuối cùng. Sẽ không có gì khuôn phép nơi chúng ta,” cô nói. Cô đưa khuôn mặt lại gần anh. Gần đến nỗi họ gần như chạm nhau. “Trong cách chúng ta gặp nhau. Cuộc sống chúng ta lựa chọn, và cách chúng ta hôn nhau.”

Cô nhón gót, và dễ dàng làm sao, miệng cô áp vào môi anh. Nó chẳng phải một nụ hôn ra trò - chỉ là cú chạm nhanh và bất ngờ của đôi môi.

Trước khi cô kịp nghĩ đến việc dịch ra xa, anh đã ôm chầm lấy cô. Anh biết có lẽ mình đang làm sai mọi chuyện, nhưng anh không còn đầu óc nào để lo lắng điều đó, bởi vì cô đang ở trong vòng tay anh, đôi môi cô hé mở, hai bàn tay cô vít lấy gáy anh, và Djel lòng lành, lưỡi cô luồn vào trong miệng anh. Chẳng trách mà người Fjerda thận trọng đến thế về chuyện trai gái. Khi hôn Nina, cảm nhận những chiếc răng của cô ép vào môi anh, cơ thể cô nép sát vào anh, nghe tiếng rên khe khẽ mà cô phát ra trong cổ họng, anh đâu còn thiết làm điều gì khác nữa? Còn thiết đến ai nữa?

“Matthias,” Nina nói trong hơi thở đứt quãng, và họ lại hôn nhau lần nữa.

Cô ngọt ngào như cơn mưa đầu mùa, tươi tắn như những đồng cỏ mới mọc. Bàn tay anh ôm lấy lưng cô, lần theo thân hình đường cong sống lưng và sự nảy nở đầy đặn của cặp hông.

“Matthias,” cô nói dứt khoát hơn và gỡ mình ra.

Anh mở mắt, đoán chắc mình vừa phạm một sai lầm khủng khiếp nào đó. Nina đang cắn môi dưới - nó đỏ và sưng phồng lên. Nhưng cô mỉm cười, và đôi mắt cô ngời sáng.

“Anh làm gì sai à?”

“Không hề, chàng babink đáng yêu à, nhưng…”

Zoya hắng giọng. “Mừng là hai đứa tìm được cách giết thời gian trong khi chờ đợi.”

Sự kinh tởm lộ rõ trên khuôn mặt chị, nhưng Genya đứng ngay bên cạnh lại trông như sắp nổ tung vì vui sướng.

“Có lẽ anh nên hạ em xuống cái đã,” Nina đề xuất.

Thực tại ập vào đầu Matthias - những ánh mắt cảm thông của đám lính canh, Zoya và Genya trên ngưỡng cửa, và việc trong lúc anh hôn Nina với tất cả sự khao khát của cả năm trời dồn lại, anh đã nhấc bổng cô lên khỏi mặt đất.

Cảm giác xấu hổ ngập tràn trong anh. Người Fjerda nào lại đi làm một chuyện như thế này kia chứ? Thật nhẹ nhàng, anh nới lỏng vòng tay quanh cặp đùi tuyệt mĩ của Nina và để cô tuột xuống sàn.

“Không biết xấu hổ,” Nina thì thầm, và anh cảm thấy má mình ửng đỏ.

Zoya đảo mắt. “Chúng tôi phải thương thảo với một cặp thiếu niên yêu đương thắm thiết thế này đây.”

Matthias lại cảm thấy khuôn mặt anh nóng ran, nhưng Nina chỉ chỉnh lại bộ tóc giả và đáp, “Vậy là chị đã chấp nhận để chúng em hỗ trợ?”

Họ mất một khoảng thời gian ngắn để bàn thảo về công tác hậu cần của đêm tới. Vì việc quay lại tửu quán sẽ không an toàn cho Nina, một khi cô đã có thông tin về địa điểm và thời điểm lên con tàu của Van Eck, cô sẽ phải gửi một lời nhắn đến toà đại sứ - thông qua Inej, vì Bóng Ma là người có thể đến và đi mà không bị nhìn thấy. Nhóm người tị nạn phải tiếp tục ẩn mình lâu nhất có thể, trước khi được Genya và Zoya đưa tới hải cảng.

“Hãy chuẩn bị chiến đấu,” Matthias nói. “Người Shu sẽ canh chừng khu vực này của Ketterdam. Họ chưa liều lĩnh tấn công vào đại sứ quán hoặc khu chợ, nhưng đó chỉ là vấn đề thời gian mà thôi.”

“Chúng tôi sẽ sẵn sàng,” Zoya đáp, và trong ánh mắt chị, anh nhìn thấy ánh thép của một người chỉ huy bẩm sinh.

Trên đường rời khỏi đại sứ quán, Nina đi tìm người Độc Tâm Y mắt vàng đã tham gia phục kích họ ở tửu quán. Chị ta là người Shu, với mái tóc đen cắt ngắn, hông đeo một cặp rìu bạc nhỏ. Nina đã cho anh biết cô là Tâm Y duy nhất trong số các Grisha tị nạn và là viên chức ngoại giao của Ravka.

“Chị Tamar?” Nina dò hỏi. “Nếu bọn Kherguud đến, chị không được để mình bị bắt. Một Độc Tâm Y trong tay của người Shu và dưới ảnh hưởng của parem có thể làm cán cân nghiêng về chúng một cách chắc chắn. Chị không thể tưởng tượng nổi sức mạnh của loại thuốc này đâu.”

“Sẽ không ai bắt sống được tôi,” cô gái nói, và lấy từ trong túi ra một viên thuốc nhỏ màu vàng nhạt, để nó trên những ngón tay của mình.

“Thuốc độc ư?”

“Do chính tay Genya chế ra đấy. Chết ngay lập tức. Tất cả chúng tôi đều có chúng.” Tamar đưa một viên cho Nina. “Cầm lấy đi. Phòng khi hữu sự. Tôi còn viên khác.”

“Nina…” Matthias thốt lên.

Nhưng Nina không hề ngần ngại. Cô nhét viên thuốc vào túi váy trước khi anh kịp nói lời phản đối.

Họ rời khỏi khu sứ quán, tránh xa các sạp chợ và tửu quán, nơi lực lượng thị tuần đã kéo đến.

Matthias dặn mình cảnh giác và tập trung vào việc đưa cả hai bình an quay về Mạng Đen, nhưng anh không thể thôi nghĩ về viên thuốc màu vàng nhạt kia. Việc nhìn thấy nó đã khiến cho giấc mơ của anh trở lại sống động hơn bao giờ hết. Băng giá phương bắc, Nina mất tích, và anh bất lực trong việc cứu cô. Nó đã làm tan biến niềm vui vô bờ của nụ hôn trong anh.

Giấc mơ đã bắt đầu trên con tàu, khi Nina trải qua những cơn vật vã tồi tệ nhất vì thiếu parem. Cô như hoá điên vào đêm hôm đó, người quằn quại, quần áo ướt đẫm mồ hôi.

Anh không phải là một người tốt, cô đã hét lên như thế. Anh là một thằng lính thiện chiến, và buồn thay anh không hề biết phân biệt hai thứ đó. Sau đó cô khốn khổ khóc nấc lên, vật vã vì đói và vì hối hận. Em xin lỗi, cô nói. Em không có ý nói như thế. Anh biết mà. Giây lát sau cô nói thêm, Giá như anh giúp em. Đôi mắt tuyệt đẹp của cô đẫm lệ, làn da xanh xao của cô dường như bị phủ một lớp sương giá. Làm ơn đi, Matthias, em đau quá. Giúp em với. Anh sẽ làm bất cứ điều gì, đánh đổi bất cứ thứ gì để xoa dịu nỗi thống khổ của cô. Nhưng anh đã thề không đưa thêm parem cho cô. Anh đã thề không để cô trở thành nô lệ của thứ ma dược đó, và anh sẽ giữ lời, bằng mọi giá.

Anh không thể, em yêu à, anh đã thì thầm như thế trong lúc dấp một chiếc khăn ướt lên trán cô. Anh không thể đưa thêm parem cho em. Anh đã bảo họ khoá cửa phòng từ bên ngoài.

Trong một thoáng khuôn mặt cô biến đổi, đôi mắt cô nheo lại. Vậy thì phá tan cái cửa chết tiệt kia đi, đồ vô dụng.

Không.

Cô đã nhổ vào mặt anh.

Vài giờ sau, khi năng lượng đã giải phóng hết, Nina im lặng trở lại, rầu rĩ nhưng sáng suốt. Cô nằm nghiêng với mi mắt thâm tím, thở hổn hển đứt quãng, và nói, “Trò chuyện với em đi.”

“Về điều gì?”

“Về bất cứ điều gì. Nói cho em về isenulf đi.

Anh không ngạc nhiên khi cô biết về isenulf, những con sói trắng được nuôi nấng để chiến đấu bên cạnh các drüskelle. Chúng to lớn hơn những con sói thông thường, và mặc dù được huấn luyện để tuân lệnh chủ nhân, chúng không bao giờ từ bỏ sự hoang dã không thể thuần hoá, vốn làm chúng khác với loài chó nhà, họ hàng xa của chúng.

Thật khó khăn khi phải nghĩ về Fjerda, về quãng đời mà anh đã đoạn tuyệt, nhưng anh vẫn kể một cách hăm hở để làm cô khuây khoả.

“Có khi sói nhiều hơn drüskelle, có khi drüskelle đông đảo hơn sói. Lũ sói tự quyết định khi nào bắt cặp, ít bị ảnh hưởng bởi người phối giống. Chúng quá bướng bỉnh cho chuyện đó.”

Nina mỉm cười, rồi nhăn nhó vì đau. “Kể tiếp đi,” cô thì thào.

“Có một gia tộc nuôi nấng isenulf qua nhiều thế hệ. Họ sống ở trên miền bắc xa xôi, gần Stenrink, Vòng Đá. Khi một lứa sói ra đời, bọn anh đi tới đó bằng xe trượt hoặc cuốc bộ, và mỗi drüskelle chọn một con sói con. Kể từ đó, bọn anh chịu trách nhiệm về nhau. Chiến đấu cạnh nhau, ngủ cùng nhau, khẩu phần của anh là khẩu phần của sói. Nhưng nó không phải là thú cưng của anh. Nó là một chiến binh như anh, một người anh em.”

Nina rùng mình, và Matthias cảm thấy sự xấu hổ dâng lên trong lòng. Trong trận chiến với Grisha, isenulf có thể làm tình thế cân bằng trở lại đối với drüskelle. Chúng được huấn luyện để giúp sức họ và xé toạc cổ họng của kẻ tấn công. Sức mạnh của Độc Tâm Y dường như không tác động được tới muông thú. Một Grisha như Nina sẽ gần như bất lực trước sự tấn công của isenulf.

“Nếu có chuyện gì xảy ra với con sói thì sao?” Nina hỏi.

“Drüskelle có thể huấn luyện một con sói khác, nhưng đó là một mất mát khủng khiếp.”

“Thế chuyện gì xảy ra với con sói nếu drüskelle của nó bị chết?”

Matthias im lặng một lúc. Anh không muốn nghĩ tới chuyện này. Trass là con vật mà anh rất yêu thương.

“Chúng được thả về với thiên nhiên, nhưng chúng sẽ không bao giờ được bầy đàn chấp nhận.” Mà một con sói không có bầy đàn thì làm sao được? isenulf không thể sống đơn độc.

Các drüskelle khác tin rằng anh đã chết từ lúc nào? Có phải Brum là người đã đưa Trass lên miền băng giá phía bắc không? Hình ảnh con sói của anh bị bỏ lại một mình, hú gọi anh đến đưa nó về nhà, khiến anh đau nhói trong lồng ngực. Tựa hồ như có thứ gì trong đó đã vỡ và để lại một tiếng vọng. Tiếng rắc khô khốc của một cành cây bị tuyết đọng quá mức.

Như thể cảm nhận được nỗi buồn của anh, Nina mở mắt ra, màu xanh lục trong đôi mắt cô giống như một chồi lá sắp bung nở, thứ màu sắc đưa anh quay về với thực tại.

“Tên của nó là gì?”

“Trassel.”

Khoé miệng cô nhếch lên. “Chuyên gây rối.”

“Không ai muốn nó.”

“Nó bị còi à?”

“Không,” Matthias đáp. “Ngược lại là đằng khác.”

Phải mất hơn một tuần đi đường gian nan để tối được Vòng Đá. Matthias không thích thú với chuyến đi. Lúc đó anh mới mười hai tuổi, chân ướt chân ráo gia nhập đội ngũ drüskelle, và ngày nào cũng nghĩ tới việc bỏ về. Anh không ngại chuyện tập luyện. Những giờ chạy bộ và đấu võ giúp anh nguôi ngoai nỗi nhớ nhà. Anh muốn trở thành một sĩ quan. Anh muốn chiến đấu chống lại Grisha. Anh muốn có cơ hội vinh danh kí ức về bố mẹ và em gái. Drüskelle đã cho anh mục đích. Nhưng những cái khác thì sao? Những trò trêu chọc trong bữa ăn? Những lời khoa trương và tán gẫu rỗng tuếch? Chẳng được tích sự gì. Anh đã có một gia đình. Họ được chôn sâu dưới lòng đất, linh hồn họ đã về với Djel. Drüskelle chỉ là một phương tiện để đạt được mục đích.

Brum đã cảnh báo Matthias rằng anh sẽ không bao giờ trở thành một drüskelle thực sự nếu không học cách xem những thằng con trai khác như anh em của mình, nhưng Matthias không tin chuyện đó. Anh là người to con nhất, khoẻ nhất, nhanh nhất. Anh không cần được lòng mọi người để sống sót.

Anh đã đi chặn hậu đoàn xe trượt trong suốt hành trình, thu mình trong lớp áo lông, không nói chuyện với ai, và khi rốt cuộc họ cũng đến được Vòng Đá, anh lùi lại phía sau, ngần ngại, trong lúc các drüskelle khác chạy vào trong trang trại rộng lớn, la hét xô đẩy nhau, ai cũng muốn lao vào bầy sói con lông trắng với đôi mắt lạnh như băng đang ngoe nguẩy đuôi.

Sự thật là anh cực kì muốn có một chú sói con, nhưng anh biết số lượng sói có thể là không đủ cho tất cả mọi người. Người nuôi sói sẽ quyết định con nào dành cho ai, và những ai sẽ phải về nhà tay trắng. Nhiều drüskelle đã kịp bắt chuyện với bà già, cố gắng thuyết phục bà.

“Bà thấy không? Con này thích cháu.”

“Nhìn này! Nhìn này! Cháu ra lệnh cho nó ngồi được rồi!”

Matthias biết mình nên cố gắng tỏ ra dễ gần và tỏ ra nỗ lực một chút, nhưng thay vào đó, anh chỉ lui về phía mấy cái chuồng ở cuối trang trại. Trong chiếc chuồng lưới thép nằm ở góc, anh bắt gặp một tia sáng màu vàng - ánh sáng phản chiếu từ một cặp mắt cảnh giác. Anh tiến lại gần hơn và thấy một con sói, không còn nhỏ, nhưng cũng chưa hoàn toàn trưởng thành. Nó sủa vang khi Matthias đến gần chuồng, lông cổ dựng lên, đầu hạ thấp, răng nhe ra. Con sói có một vết sẹo dài vắt ngang mõm. Vết sẹo chạy thẳng qua mắt phải và làm cho một phần mống mắt chuyển từ màu xanh lơ sang lốm đốm nâu.

“Đừng có dại mà chọn nó,” người nuôi sói lên tiếng.

Matthias không biết bà ta đã đến đứng phía sau lưng anh từ lúc nào. “Nó có nhìn được không?”

“Có, nhưng nó không thích con người.”

“Tại sao vậy?”

“Nó xổng chuồng lúc còn bé. Chạy được hai dặm trên băng tuyết. Bọn trẻ con tìm thấy và làm nó bị thương với một cái chai vỡ. Kể từ đó, nó không để cho bất kì ai lại gần mình, và trở nên quá lớn để có thể huấn luyện. Chắc phải kết liễu nó sớm thôi.”

“Hãy để cháu nhận nó.”

“Nó sẽ xé xác cậu thành từng mảnh ngay lập tức sau khi để cậu cho nó ăn. Lần sau chúng tôi sẽ có con khác cho cậu.”

Ngay khi người phụ nữ bỏ đi, Matthias mở cửa chuồng. Nhanh như cắt, con sói lao vào cắn anh.

Matthias muốn hét lên khi hàm răng con thú bập vào cẳng tay mình. Anh ngã vật xuống đất, con sói chồm lên anh, cơn đau vượt qua mọi giới hạn mà anh từng biết tới. Nhưng anh không phát ra âm thanh nào. Anh nhìn thẳng vào mắt con sói trong lúc răng nó nhấn sâu hơn vào cơ tay của anh, tiếng gầm gừ phát ra từ lồng ngực con thú.

Matthias đoán hàm răng con thú đủ mạnh để bẻ gãy xương, nhưng anh không vật lộn, không la hét, cũng không cụp mắt xuống. Tao sẽ không làm đau mày, anh thề, ngay cả khi mày làm đau tao.

Một khoảnh khắc kéo dài trôi qua. Lại một khoảnh khắc kéo dài nữa. Matthias có thể cảm thấy máu thấm qua tay áo mình. Anh nghĩ mình sắp ngất đến nơi.

Thế rồi, thật chậm rãi, hàm răng của con sói nhả ra. Nó ngồi xuống, bộ lông trắng thấm đẫm máu Matthias, đầu nghiêng sang một bên. Con sói thở ra.

“Rất vui được gặp mày,” Matthias nói.

Anh thận trọng ngồi lên, dùng vạt áo băng cánh tay lại, sau đó anh và con sói của mình trong bộ dạng lấm máu quay trở lại chỗ những người mặc đồng phục xám khác đang chơi với bầy sói con.

“Con này là của tôi,” anh nói khi tất cả mọi người quay lại nhìn, và bà già lắc đầu. Rồi anh ngất đi.

Đêm đó, trên tàu, Matthias đã kể cho Nina nghe về Trassel, bản băng hung dữ của nó, vết sẹo của nó. Sau đó cô đã ngủ thiếp đi, và Matthias cũng cho phép mình chợp mắt. Băng tuyết đã đợi sẵn. Luồng gió sát nhân nhe răng ập tới, tiếng sói tru văng vẳng phía xa, và Nina hét gọi, nhưng Matthias không thể tìm thấy cô.

Kể từ đó, giấc mơ tái xuất hiện hằng đêm. Thật khó mà không coi nó như một điềm gở, và khi Nina bỏ viên thuốc màu vàng kia vào túi, anh có cảm giác như đang chứng kiến cơn cuồng phong ập tới: tiếng gió rít gào đầy tai anh, hơi lạnh luồn vào tận xương, và anh đoán chắc mình sẽ mất cô.

“Parem có thể sẽ không phát huy tác dụng với em nữa,” anh nói khi hai người quay trở lại đoạn kênh vắng vẻ nơi neo chiếc gondel.

“Gì cơ?”

“Năng lực của em đã biến đổi, không phải vậy sao?”

Nina loạng choạng. “Đúng.”

“Bởi vì parem?”

Giờ thì Nina dừng hẳn lại. “Sao anh lại hỏi em?”

Anh không muốn hỏi cô. Anh muốn hôn cô lần nữa. Nhưng anh chỉ đáp, “Nếu em bị bắt, biết đâu người Shu sẽ không thể dùng ma dược để khống chế em.”

“Hoặc biết đâu nó vẫn tồi tệ như trước.”

“Viên thuốc độc mà Tamar đưa cho em ấy…”

Nina đặt một bàn tay lên cánh tay anh. “Em sẽ không bị bắt, Matthias.”

“Nhưng nếu em bị…”

“Em không biết parem đã làm gì em. Em phải tin rằng các tác động sẽ mất đi theo thời gian.”

“Và nếu chúng không mất đi?”

“Chúng sẽ mất đi,” Nina nhíu mày đáp. “Em không thể sống như thế này. Nó giống như… chỉ còn một nửa con người em là bình thường. Mặc dù…”

“Mặc dù sao?” Matthias hỏi dồn.

“Bây giờ cơn đói thuốc không còn quá tệ nữa,” cô đáp như thể tự mình nhận ra điều đó. “Thật ra, em gần như không nghĩ đến parem từ sau cuộc đụng độ ở tửu quán.”

“Nhờ việc sử dụng năng lực mới à?”

“Có lẽ thế,” Nina đáp một cách dè dặt. “Và…” cô lại nhíu mày. Matthias nghe thấy một tiếng ùng ục khe khẽ.

“Bụng em sôi đấy à?”

“Phải.” Nina toét miệng cười. “Matthias, em đang đói ngấu đây này.”

Có khi nào rốt cuộc Nina cũng đã hồi phục? Hay là những gì cô làm ở tửu quán đã khiến sự thèm ăn quay trở lại? Anh không cần biết. Anh chỉ thấy mừng vì cô mỉm cười như thế. Anh nhấc bổng Nina và quay cô trong không khí.

“Nếu cứ làm thế này thì anh sẽ bị căng cơ đấy,” cô đáp với một nụ cười rạng rỡ nữa.

“Em nhẹ như lông hồng ấy mà.”

“Em không muốn thấy con chim mang bộ lông hồng đó. Giờ thì đi mua cho em một chồng bánh waffle cao gấp đôi anh. Em…”

Cô bỗng khựng lại, khuôn mặt biến sắc. “Thánh thần ơi!”

Matthias ngoái đầu nhìn theo ánh mắt Nina và bắt gặp đôi mắt của chính anh. Một tờ cáo thị đã được dán lên bức tường, với hình vẽ phác hoạ chính xác đến phát sợ khuôn mặt của anh. Bên trên và bên dưới nó là một từ duy nhất, được viết bằng nhiều thứ tiếng khác nhau: TRUY NÃ.

Nina giật phăng tờ giấy khỏi bức tường. “Anh lẽ ra đã chết rồi mà.”

“Chắc ai đó đã yêu cầu kiểm tra xác của Muzzen trước khi anh ta được hoả táng.” Có thể là người Fjerda. Cũng có thể là người nào đó của nhà tù. Matthias không đọc được những chữ tiếng Kerch được in ở phía dưới cùng của tờ cáo thị, nhưng anh có thể nhận ra tên của mình và con số. “Năm mươi ngàn kruge. Bọn họ treo thưởng cho việc bắt giữ anh.”

“Không phải,” Nina đáp. Cô chỉ tay vào dòng chữ bên dưới con số và dịch, “Truy nã: Matthias Helvar. Sống hoặc chết. Họ treo thưởng cho cái đầu của anh đó.”