Chương 2 KAZ
Đột nhập vào trong ngôi nhà không khó như đáng lẽ nó phải thế, điều này khiến Kaz bực bội. Có phải anh đã đánh giá quá cao Van Eck không? Lão ta suy nghĩ như một thương gia, anh tự nhắc mình như vậy trong lúc kẹp cây gậy chống dưới nách và leo xuống theo một ống thoát nước. Lão ta vẫn tin rằng tiền sẽ giữ cho lão an toàn.
Lối đột nhập dễ nhất là mấy cái cửa sổ ở tầng trên cùng, chỉ có thể tiếp cận từ mái nhà. Wylan không giỏi leo trèo, nên Kaz đột nhập trước rồi đưa cậu ta vào từ tầng dưới.
“Hai chân lành lặn mà vẫn phải cần một cái thang,” Kaz lẩm bẩm, phớt lờ cú nhói ra hiệu đồng tình của cái chân mình.
Anh chẳng ham thực hiện thêm một nhiệm vụ khác cùng với Wylan, nhưng hiểu biết của cậu ta về ngôi nhà này sẽ hữu ích nếu có điều gì bất ngờ xảy ra, ngoài ra cậu ta là người phù hợp nhất để xử lí axit auric. Kaz nghĩ đến Inej, vắt vẻo trên mái nhà thờ Barter, với những ánh đèn đô thị lấp lánh bên dưới. Đây là việc mà tôi làm tốt nhất, nên hãy để tôi làm công việc của mình. Tốt thôi. Anh sẽ để tất cả bọn họ tự làm công việc của mình. Nina sẽ đảm trách phần việc của cô ta, Inej có vẻ đủ tự tin vào khả năng đi thăng bằng trên dây - dù nghỉ ngơi không nhiều và không cần lưới an toàn. Liệu cô ấy có thổ lộ với mày nếu cô ấy lo lắng không? Có phải đó là điều từng khiến mày tỏ ra thương cảm không?
Kaz xua ý nghĩ đó ra khỏi đầu. Nếu Inej không nghi ngờ năng lực của bản thân thì anh cũng không cần phải làm thế. Ngoài ra, nếu muốn lấy cái triện cho đám người tị nạn yêu quý của Nina thì anh phải tập trung vào vấn đề của mình.
May thay, hệ thống an ninh của Van Eck không phải là một mối bận tâm. Inej đã nói với anh rằng các ổ khoá đều là loại Schuyler. Chúng đúng là những con quỷ nhỏ phức tạp, nhưng khi đã phá được một, ta sẽ phá được tất. Kaz từng chơi thân với một người thợ khoá ở Klokstraat. Anh ta tin sái cổ rằng Kaz là con trai của một thương gia giàu có, người rất trân quý bộ sưu tập hộp đựng thuốc hít vô giá của anh ta. Nhờ đó, Kaz luôn là người đầu tiên biết được một cách chính xác giới nhà giàu ở Ketterdam cất giấu của cải ra sao. Anh từng nghe sư phụ đạo chích Hubrecht Mohren của Pijl ngẫu hứng kể về vẻ đẹp của một ổ khoá chất lượng trong lúc say bia nâu tại Quạ Đen.
“Ổ khoá cũng giống như đàn bà vậy,” ông ta lè nhè nói. “Mày phải biết cách ve vuốt để làm nó tuôn hết các bí mật ra.” Ông ta là một trong những chiến hữu già của Per Haskell, rất khoái trá khi được khoe khoang về những ngày tháng tươi đẹp và những phi vụ lớn, nhất là khi nó giúp ông ta trốn việc, và đó luôn là thứ thông thái nửa mùa mà những lão bợm già ấy thích tuôn ra. Quả thực, ổ khoá đúng là giống như một phụ nữ. Nhưng cũng giống như một người đàn ông hay bất kì thứ gì khác, nếu muốn hiểu nó, bạn phải tháo tung ra và xem bên trong hoạt động như thế nào. Nếu muốn làm chủ nó, bạn phải tìm hiểu kĩ đến mức có thể tháo ra rồi lắp lại nguyên vẹn.
Ổ khoá cửa sổ nhượng bộ đôi bàn tay anh với một tiếng tách dễ chịu. Kaz đẩy khung kính trượt sang bên cạnh và leo vào trong. Những căn buồng nhỏ ở tầng trên cùng ngôi nhà của Van Eck được dành cho đám gia nhân, nhưng tất cả đều đang bận bịu với các khách khứa của chủ ở tầng dưới. Một số thành viên giàu có nhất của Hội đồng Thương buồn đang ních căng bụng ở phòng ăn tầng một, lắng nghe Van Eck than thở về việc con trai mình bị bắt cóc và ái ngại trước sự lộng hành của các băng đảng tại Barrel. Căn cứ theo mùi thơm, Kaz đoán trong thực đơn có món giăm bông.
Anh mở cửa và khẽ khàng đi tới cầu thang, rồi thận trọng bước xuống tầng hai. Anh hiểu căn nhà của Van Eck từ lần cùng Inej đánh cắp bức tranh sơn dầu của DeKappel, và anh luôn thích quay trở lại một ngôi nhà, một công ty mà mình từng có lí do để vào trước đây. Không phải chỉ vì sự quen thuộc. Như thể bằng việc quay lại, anh đã chiếm hữu được nó. Chúng ta đã tường tận các bí mật của nhau, ngôi nhà dường như nói thế. Chào mừng cậu quay lại.
Một vệ quân đang đứng gác ở cuối đoạn hành lang trải thảm, phía trước cửa căn phòng mà Kaz biết là của Alys. Kaz xem đồng hồ. Một tiếng bụp vang lên và ánh sáng chớp loè phía ngoài cửa sổ cuối hành lang. Ít nhất thì Wylan cũng chuẩn chỉ về giờ giấc. Tay vệ quân đi tới đó xem xét. Tranh thủ thời cơ, Kaz lẻn đi theo hành lang về hướng ngược lại.
Anh chui vào trong phòng cũ của Wylan - hiện giờ rõ ràng là được dự tính dùng làm phòng trẻ con. Nhờ ánh đèn đường, anh có thể thấy các bức tường đã được vẽ cảnh biển cầu kì để trang trí. Nôi em bé mang hình dáng của một chiếc thuyền buồm nhỏ, có hẳn những lá cờ đuôi nheo và bánh lái. Van Eck thực sự rất nâng niu người nối dõi mới của mình.
Kaz phá khoá cửa sổ phòng trẻ con rồi mở nó ra, buộc vào đó một cái thang dây và chờ đợi. Nghe thấy một tiếng uỵch, anh nhăn mặt. Có vẻ như Wylan đã trèo qua được hàng rào để vào vườn. Hi vọng cậu ta không đánh vỡ lọ axit auric và làm cháy một lỗ trên người lẫn trên khóm hoa hồng. Giây lát sau, Kaz nghe thấy tiếng thở hồng hộc, rồi Wylan vòng qua góc nhà, lạch bạch như một con vịt bầu. Khi đi đến chỗ phía dưới cửa sổ, cậu buộc chặt cái túi vào người và trèo lên thang dây, làm nó đong đưa dữ dội. Kaz giúp Wylan leo qua cửa sổ, sau đó rút thang và đóng cửa lại. Đây sẽ là lối thoát của họ.
Wylan trố mắt nhìn quanh phòng trẻ con, rồi chỉ lắc đầu. Kaz thị sát hành lang. Tay vệ quân đã quay trở lại vị trí gác trước cửa phòng Alys.
“Sao thế?” Kaz thì thào hỏi Wylan.
“Nó có ngòi nổ cháy chậm,” cậu ta đáp. “Tôi canh giờ chưa chính xác.”
Nhiều giây trôi qua. Cuối cùng, một tiếng bụp khác vang lên. Tay vệ quân lại đi đến chỗ cửa sổ, và Kaz ra hiệu cho Wylan theo mình rời khỏi phòng. Kaz nhanh chóng phá khoá phòng làm việc của Van Eck, và chỉ nháy mắt sau họ đã vào bên trong.
Lúc Kaz đột nhập vào đây để đánh cắp bức tranh, anh đã khá ngạc nhiên với cách bài trí xa hoa của nó. Anh chờ đợi một sự giản dị thường gặp của cánh thương gia, những lớp ván sàn được trang trí đầy những vòng lá nguyệt quế, một cái ngai bọc nhung đỏ nằm chễm chệ phía sau bàn làm việc dài, bóng loáng.
“Đằng sau bức tranh,” Wylan thì thào, tay chỉ về phía bức chân dung một vị tổ tiên của Van Eck.
“Người đó là ai vậy?”
“Martin Van Eck, cụ cố cố nội của tôi. Nguyên là thuyền trưởng, người đầu tiên đến Eames Chin và lái tàu vào dòng sông của nó. Cụ mang về cả một tàu gia vị và dùng lợi nhuận để mua một con tàu thứ hai. Là cha tôi kể như thế. Đó là khởi đầu cho cơ nghiệp của dòng họ Van Eck.”
“Và chúng ta sẽ là kết thúc của nó.” Kaz lắc lắc cái đèn xương, khiến ánh sáng xanh lét tràn ngập căn phòng. “Cũng khá giống,” anh bình phẩm trong lúc liếc nhìn khuôn mặt gầy guộc, hàng lông mày cao và đôi mắt xanh nghiêm nghị.
Wylan nhún vai. “Ngoại trừ mái tóc đỏ, tôi thừa hưởng mọi thứ từ cha. Và ông nội, cũng như tất cả những người mang họ Van Eck khác. Giờ thì hết rồi.”
Hai người đứng vào hai phía của bức tranh và tháo nó xuống khỏi tường.
“Nhìn mày kìa,” Kaz ngân nga khe khẽ khi két an toàn của Van Eck hiện ra. Két dường như không phải là từ chính xác ở đây. Nó giống với một cửa hầm kiên cố bằng thép hơn, bắt vào một bức tường cũng được gia cố bằng thép. Ổ khoá trên đó được làm tại Kerch, nhưng không giống với bất kì cái nào mà anh từng thấy. Nó bao gồm một loạt lẫy khoá có thể được cài đặt lại với các mã số mới mỗi ngày. Không thể phá nó trong khoảng thời gian một tiếng đồng hồ. Nhưng nếu cửa này không mở được thì bạn vẫn có thể trổ một cái cửa khác.
Âm thanh của những giọng nói to tiếng vọng lên từ tầng dưới. Các thương gia đã tìm thấy điểm bất đồng nào đó. Kaz sẽ không từ chối cơ hội nghe lỏm cuộc đối thoại. “Làm thôi,” anh nói. “Thời gian không còn nhiều.”
Wylan lấy hai cái lọ trong túi ra. Khi ở riêng thì chúng chẳng có gì đặc biệt, nhưng nếu cậu đúng thì một khi kết hợp với nhau, chúng sẽ tạo thành một hợp chất có khả năng xuyên thủng mọi thứ, ngoại trừ kính balsa.
Wylan hít một hơi sâu và giơ hai cái lọ ra xa. “Đừng lại gần,” cậu nói, đoạn đổ chất lỏng từ lọ này vào lọ kia. Chẳng có gì xảy ra.
“Sao thế?” Kaz hỏi.
“Tránh ra nào.”
Wylan dùng ống pipet bằng thuỷ tinh balsa rút một lượng nhỏ chất lỏng trong lọ, rồi cho nó chảy trên bề mặt cửa két sắt. Ngay lập tức, lớp kim loại bắt đầu tan chảy, làm phát ra âm thanh lụp bụp, ồn ào một cách đáng ngại trong căn phòng nhỏ. Mùi kim loại ngập tràn không gian. Cả Kaz lẫn Wylan đều lấy ống tay áo che mũi.
“Nhỏ mà có võ,” Kaz kinh ngạc thốt lên.
Wylan tiếp tục làm việc. Cậu cẩn thận đổ axit auric từ trong lọ lên lớp thép, khiến cho cái lỗ thủng mỗi lúc một lớn hơn.
“Nhanh tay lên,” Kaz đưa mắt nhìn đồng hồ và giục.
“Chỉ cần tôi làm vãi một giọt này thôi, nó sẽ xuyên thẳng qua sàn nhà và rơi xuống bàn tiệc của cha tôi.”
“Vậy thì cứ từ từ đi.”
Khi gặp kim loại, axit bùng cháy nhanh chóng rồi chậm rãi lụi đi. Hi vọng nó sẽ không làm thủng bức tường quá mức sau khi họ đi. Cái văn phòng này có đổ ập lên đầu đám khách khứa của Van Eck thì Kaz cũng chẳng màng, nhưng phải sau khi công việc đêm nay hoàn tất đã.
Sau khoảng thời gian tưởng như dài dằng dặc, cái lỗ đã đủ lớn để thò tay qua. Kaz chĩa đèn xương vào bên trong và trông thấy một cuốn sổ cái, nhiều cọc tiền, cùng một cái túi nhung nhỏ. Anh lấy cái túi ra khỏi két, nhăn mặt khi cánh tay chạm gờ kim loại của lỗ thủng. Lớp thép vẫn còn khá nóng.
Anh trút những thứ bên trong cái túi nhung ra tay: một chiếc nhẫn vàng to tướng khắc hình chiếc lá nguyệt quế màu đỏ và tên viết tắt của Van Eck.
Kaz nhét chiếc nhẫn vào trong túi quần, rồi thò tay lấy hai cọc tiền, đưa một cọc cho Wylan.
Anh suýt phì cười khi nhìn thấy vẻ mặt cậu ta. “Cậu không thích chuyện này à, thiếu gia?”
“Tôi không thích cảm giác làm một tên trộm.”
“Sau tất cả những chuyện ông ta đã làm?”
“Phải.”
“Cậu ngay thẳng quá. Cậu có nhận ra chúng ta đang đánh cắp tiền của chính cậu không?”
“Jesper cũng nói y như thế, nhưng tôi tin chắc cha tôi đã gạch tên tôi khỏi di chúc ngay khi dì Alys có thai.”
“Điều đó không đồng nghĩa rằng cậu không được quyền có nó.”
“Tôi không muốn. Tôi chỉ không muốn ông ta có nó.”
“Quay lưng với giàu sang thật là một đặc quyền khó tả.” Kaz nói trong lúc nhét tiền vào túi quần.
“Tôi sẽ điều hành cả một đế chế bằng cách nào kia chứ?” Wylan hỏi lại và vứt ống pipet vào trong két sắt cho cháy luôn. “Tôi không thể đọc được sổ sách chứng từ. Tôi không viết nổi lệnh mua hàng. Cha tôi sai lầm trong nhiều chuyện, nhưng ông ta đúng về chuyện này. Tôi sẽ là một trò cười.”
“Vậy thì thuê người khác đảm trách công việc đó cho cậu.”
“Liệu anh có làm thế không?” Wylan hỏi lại, cằm hếch lên. “Tin tưởng một người biết nhiều cỡ đó, với một bí mật có thể huỷ hoại anh?”
Có, Kaz nhủ thầm không do dự. Tôi có thể tin tưởng một người. Một người mà tôi biết sẽ không bao giờ dùng điểm yếu của tôi để chống lại tôi.
Anh lật nhanh cuốn sổ cái và hỏi lại, “Khi người ta nhìn thấy một thằng thọt bước đi trên phố, tì vào cây gậy chống, họ cảm thấy gì?” Wylan quay nhìn chỗ khác. Mọi người luôn làm như vậy mỗi khi Kaz nhắc đến cái chân bị tật của mình, như thể anh chưa biết tình trạng của mình, hoặc chưa biết mọi người nhìn nhận anh ra sao. “Họ thấy thương hại. Thế họ nghĩ gì khi họ thấy tôi đi tới?”
Khoé miệng Wylan nhếch lên. “Họ nghĩ tốt hơn nên tránh sang bên kia đường.”
Kaz quẳng cuốn sổ vào trong két sắt. “Cậu không yếu đuối vì không biết chữ. Cậu yếu đuối vì cậu sợ người khác nhìn thấy điểm yếu của mình. Cậu để cho sự hổ thẹn định đoạt con người mình. Giúp tôi một tay nào.”
Hai người nhấc bức chân dung lên và treo trở lại chỗ cũ che đi cái lỗ trên két sắt. Martin Van Eck quắc mắt nhìn xuống họ.
“Suy nghĩ đi, Wylan,” Kaz nói tiếp trong lúc chỉnh lại khung tranh cho ngay ngắn. “Sự hổ thẹn là thứ lấp đầy túi tôi, sự hổ thẹn là thứ giữ cho Barrel kín mít những kẻ ngu ngốc sẵn sàng đeo một cái mặt nạ để có được điều mình muốn mà không ai biết. Chúng ta có thể chịu đựng đủ loại đau đớn. Chính sự hổ thẹn nuốt chửng con người ta.”
“Nói hay lắm,” một giọng nói vang lên từ trong góc phòng.
Kaz và Wylan quay lại. Những ngọn đèn đồng loạt bật lên, khiến cả căn phòng ngập tràn ánh sáng, và một bóng người bước ra từ cái hốc ở bức tường đối diện mà trước đó ít phút không hề hiện diện: Pekka Rollins với nụ cười nhăn nhở trên mặt, hộ tống bởi một nhóm đàn em trong băng Kim Sư, tất cả đều được vũ trang với súng, dùi cui và rìu.
“Kaz Brekker,” Rollins chế giễu. “Tên trộm triết gia.”