Chương 5 .
Đó là tất cả của ngày hôm ấy. Ngay khi thốt ra câu cuối cùng, Effing dừng lại để thở, và trước khi ông kịp tiếp tục câu chuyện của mình, bà Hume bước vào phòng thông báo đã đến giờ ăn trưa. Sau những điều khủng khiếp ông vừa thuật lại, tôi cứ nghĩ sẽ thật khó khăn cho ông để lấy lại phong thái, nhưng có vẻ như sự cắt đứt giữa chừng không mấy tác động đến ông. “Tốt”, ông nói, vỗ vỗ hai bàn tay vào nhau. “Đến lúc ăn trưa rồi. Tôi đói chết mất.” Tôi sửng sốt khi thấy ông có thể chuyển từ tâm trạng này sang tâm trạng khác nhanh chóng đến vậy. Chỉ mới một lúc trước, giọng ông còn run rẩy vì xúc cảm. Tôi đã nghĩ khéo mà ông sắp gục ngã, và giờ đây, đột nhiên, ông đã lại tràn đầy nhiệt hứng và thân ái. “Giờ thì chúng ta vào bàn thôi, cậu bé,” ông nói với tôi và tôi đẩy xe cho ông vào phòng ăn. Đó mới chỉ là đoạn đầu, cái mà anh có thể gọi là lời mào đầu ấy. Cứ đợi cho đến khi tôi hào hứng hơn nhé. Anh vẫn còn chưa nghe được mấy chuyện đâu.”
Khi chúng tôi đã ngồi xuống bàn, bản cáo phó không hề được nhắc đến nữa. Bữa trưa diễn ra một cách bình thường, đi kèm với những tiếng xì xoạp và những trò thô lỗ quen thuộc, không nhiều hơn không ít hơn thường ngày. Cứ như thể Effing đã quên biến mất là mình vừa bỏ ba tiếng đồng hồ trút bầu tâm sự với tôi trong căn phòng bên kia vậy. Chúng tôi nói những câu chuyện hàng ngày, và đến cuối bữa ăn chúng tôi xem bản tin dự báo thời tiết để chuẩn bị cho cuộc dạo chơi buổi chiều. Mọi việc diễn ra đều đều như vậy trong ba hoặc bốn tuần tiếp theo. Buổi sáng, chúng tôi làm việc với bản cáo phó; buổi chiều, chúng tôi ra ngoài đi dạo. Tôi chép những câu chuyện của Effing vào hơn một chục quyển sổ, tốc độ trung bình là khoảng hai mươi hay ba mươi trang mỗi ngày. Tôi phải viết thật nhanh để theo kịp ông, thành ra nhiều khi chữ rất khó đọc. Có lúc tôi hỏi ông liệu có thể chuyển sang thu băng được không, nhưng Effing từ chối. Không điện, ông nói, không máy móc. “Tôi ghét tiếng ồn của những thứ khó chịu ấy. Chỉ cần nghe tiếng vo vo vù vù đó là đủ phát ốm lên rồi. Thứ âm thanh duy nhất tôi muốn nghe là tiếng ngòi bút của anh chạy trên mặt giấy.” Tôi giải thích với ông mình không phải là một thư ký chuyên nghiệp. “Tôi không biết ghi tốc ký,” tôi nói, “rồi còn cả chuyện tôi luôn gặp khó khăn để luận những gì mình đã viết nữa.” “Thế thì cứ gõ máy chữ khi nào không có tôi ở đây,” ông nói. “Anh cứ dùng cái máy chữ của Pavel. Nó là một cái máy cũ rất đẹp, tôi đã mua cho ông ấy khi chúng tôi đến Mỹ vào năm ba mươi chín. Một chiếc Underwood. Người ta không làm những cái giống như thế nữa. Nó phải nặng đến cả tấn.” Đêm hôm đó, tôi lôi nó ra từ đằng sau cái tủ trong phòng và đặt nó lên một cái bàn nhỏ. Kể từ đó, mỗi tối tôi bỏ ra nhiều giờ đánh máy chữ chép lại những trang ghi trong buổi sáng. Đó là một công việc nhàm chán, nhưng các từ của Effing vẫn còn rất sống động trong óc tôi, thành thử tôi không làm rơi rớt chúng nhiều lắm.
Sau khi Byrne chết, ông nói, ông không còn chút hy vọng nào. Ông miễn cưỡng tìm cách thoát ra khỏi canyon, nhưng ông nhanh chóng lạc lối giữa một trận đồ những chướng ngại vật: các vách đá, hẻm núi, chỏm đất không thể trèo lên. Con ngựa của ông gục ngã vào ngày thứ hai, nhưng vì không tìm được củi nên thịt xẻ ra gần như không dùng để làm gì. Cái thứ cây ngải đắng không dùng để nhóm lửa được. Nó bốc khói và kêu xèo xèo, nhưng không bùng lên thành ngọn lửa. Để đè nén cơn đói, Effing lọc lấy từng rẻo thịt từ cái xác ngựa rồi lấy diêm hun lên. Làm vậy cũng đủ cho một bữa, nhưng sau khi hết diêm, ông vứt con vật lại đằng sau vì không muốn phải ăn thịt sống. Đến lúc đó, Effing tin rằng cuộc đời mình đã chấm dứt. Ông tiếp tục mò mẫm giữa những tảng đá, dẫn theo con lừa duy nhất còn lại, nhưng ở mỗi bước đi, ông lại bị hành hạ bởi ý nghĩ mình đang ngày càng rời xa khỏi khả năng được cứu thoát. Dụng cụ vẽ của ông vẫn còn nguyên vẹn, và ông có đủ lương thực và nước cho hai ngày nữa. Điều này có vẻ chẳng còn mấy ý nghĩa. Ngay cả khi sống được qua nó, thì ông cũng vẫn nhận ra rằng mọi thứ đã kết thúc với mình rồi. Cái chết của Byrne lấy đi của ông mọi lựa chọn, và không còn con đường nào ông có thể dùng để trở về nhà nữa. Có vẻ như nỗi tủi nhục về việc này là quá sức với ông: những câu hỏi, những lời buộc tội, sự mất mặt. Sẽ tốt hơn nhiều nếu họ nghĩ là ông cũng đã chết, như vậy thì ít ra danh dự của ông sẽ được bảo toàn, và sẽ không ai có thể biết được ông đã yếu đuối và vô trách nhiệm đến mức nào. Đó là thời điểm Julian Barber bị xóa sổ: ở trên sa mạc, giữa những tảng đá và ánh nắng chói chang, ông chỉ đơn giản là tự diệt trừ mình. Khi ấy, điều này với ông không hẳn là một quyết định lớn lao gì lắm. Không còn nghi ngờ gì chuyện ông sẽ chết, và ngay cả nếu không phải vậy, thì chết đi cũng là cách tốt nhất. Sẽ không ai biết một chút gì về những điều đã xảy đến với ông.
Effing nói với tôi rằng ông đã phát điên, nhưng tôi không chắc mình phải hiểu từ đó theo nghĩa đen đến mức độ nào. Sau khi Byrne chết, ông nói, ông hú hét trong suốt ba ngày, lấy máu rướm ra từ hai bàn tay bị đá cào rách bôi lên mặt, nhưng xét theo hoàn cảnh, tôi thấy hành động này không mấy bất thường. Tôi cũng đã la hét trong suốt cơn bão ở Công viên Trung tâm, mà tình thế của tôi còn xa mới tuyệt vọng bằng tình thế của ông. Khi một người cảm thấy đã không còn gì để trông chờ, sẽ hoàn toàn tự nhiên khi anh ta muốn hét lên. Không khí vón cục lại trong phổi anh ta, và anh ta không tài nào thở nổi nếu không đẩy nó bật ra khỏi người mình, nếu không hú lên bằng toàn bộ sức lực của mình. Nếu không, anh ta sẽ nghẹt thở, cả bầu trời sẽ đổ ụp xuống anh ta.
Vào buổi sáng ngày thứ tư, khi đã hết thức ăn và bi đông chỉ còn lại chưa đầy một cốc nước, Effing nhìn thấy thấp thoáng một cái hang trên đỉnh một vách đá gần đó. Đây sẽ là một chỗ tốt để chết, ông nghĩ. Tránh được mặt trời chiếu vào và không bị lũ kền kền xông tới, một nơi khuất nẻo đến mức sẽ không ai tìm được ông. Thu hết lòng can đảm còn sót lại, ông bắt đầu chặng đường leo lên đầy gian khổ. Mất gần hai tiếng đồng hồ ông mới lên được đến nơi, và khi tới đỉnh thì ông kiệt sức, gần như không đứng vững nổi nữa. Cái hang rộng hơn nhiều so với nhìn từ bên dưới, và Effing kinh ngạc nhận ra mình không cần khom người cũng có thể vào trong được. Ông gạt đống cành lá chặn ở cửa hang để bước vào. Trái ngược với dự đoán của ông, cái hang không trống rỗng. Ăn sâu vào vách đá chừng hai mươi feet, nó chứa đựng nhiều thứ đồ đạc: một cái bàn, bốn cái ghế, một cái tủ, một cái bếp lò bụng phình cũ nát. Xét về mọi khía cạnh và mục đích, đó là một ngôi nhà. Các đồ vật đều có vẻ được chăm chút, và mọi thứ trong phòng đều được sắp xếp ngay ngắn, theo một dạng trật tự thô sơ. Effing thắp ngọn nến trên bàn và mang nó theo để đi về phía trong góc, khám phá những góc tối mà ánh sáng ban ngày không chiếu đến được. Ông tìm được một cái giường kê sát bức tường bên trái, và trên giường có một người đàn ông. Effing cứ nghĩ ông ta đang ngủ, nhưng khi hắng giọng để báo hiệu sự có mặt của mình mà không nhận được câu trả lời, ông cúi xuống và đưa ngọn nến vào sát mặt người lạ. Khi đó ông nhận ra người đàn ông đã chết. Không phải chỉ là chết, mà còn bị giết. Tại nơi từng là con mắt bên phải của ông ta, giờ chỉ còn là một hố đạn rộng toác miệng. Con mắt bên trái nhìn vô hồn vào bóng tối, và cái gối đặt dưới đầu đẫm máu.
Rời khỏi cái xác, Effing quay trở lại chỗ cái tủ và thấy nó đựng đầy đồ ăn. Đồ hộp, thịt ướp muối, bột mì và các dụng cụ nấu ăn - trên các giá có đủ lương thực cho một người trong một năm. Ông nhanh chóng nấu cho mình một bữa ăn, ngấu nghiến nửa ổ bánh mì và hai hộp đậu. Khi đã thỏa mãn cơn đói, ông bắt tay vào việc giải quyết cái xác người đàn ông. Ông đã lập ra một kế hoạch; chỉ còn lại việc biến nó thành hiện thực. Hẳn người đàn ông đã chết là một người ở ẩn, Effing lập luận, sống một mình như vậy ở trên núi, và nếu quả là như vậy, sẽ không có nhiều người biết ông ta ở đây. Với tất cả những gì ông thu thập được (thịt vẫn chưa bị phân hủy, không có mùi gì quá nồng, bánh mì còn chưa hỏng), vụ giết người hẳn mới xảy ra gần đây, có khả năng là mới được vài giờ - điều đó có nghĩa người duy nhất biết người đàn ông đã chết là kẻ đã giết ông ta. Không gì có thể ngăn cản ông chiếm lấy chỗ ở của người ẩn dật, Effing nghĩ. Họ ít nhiều cùng tuổi với nhau, ít nhiều cùng khổ người, cả hai đều có mái tóc màu nâu nhạt. Sẽ không khó khăn gì việc để một bộ râu và mặc quần áo của người đã chết. Ông có thể chiếm lấy cuộc đời của người ẩn dật và tiếp tục sống nó hộ ông ta, làm như thể hồn người đàn ông giờ đây đã chuyển sang trú ở trong người ông. Nếu có ai đó lên đây thăm ông, ông có thể chỉ đơn giản là vờ làm một người không phải là ông - và xem thử liệu mình có thể làm được việc đó không. Ông có một khẩu súng trường để tự vệ nếu có chuyện không hay xảy ra, nhưng ông cũng hình dung được là mình sẽ có lợi thế trong chuyện này, vì có vẻ như là một người sống ẩn dật sẽ có rất ít khách ghé thăm.
Sau khi cởi lấy quần áo của người xa lạ, ông kéo cái xác ra khỏi hang và lôi nó đi vòng quanh vách đá ra phía sau. Tại đó ông khám phá ra điều đáng chú ý hơn cả: một ốc đảo nhỏ thấp hơn cái hang chừng ba mươi hay bốn mươi feet, một khoảnh đất xanh um với hai cây dương tỏa bóng mát, một dòng suối đang chảy, và rất nhiều loại cây bụi nhỏ mà ông không biết tên. Đó là một cõi sống tí hon ở giữa sự cằn cỗi ghê gớm kia. Khi chôn người ở ẩn xuống dưới lòng đất mềm bên cạnh dòng suối, ông nhận ra ở nơi này mình có tất cả mọi thứ. Ông có lương thực và nước; ông có một ngôi nhà; ông đã tìm được một căn cước mới cho mình, một cuộc sống chưa từng bao giờ hình dung ra. Sự thay đổi lớn đến mức gần như ông không sao hiểu nổi. Chỉ mới một giờ trước, ông còn sẵn sàng để chết. Giờ đây, ông run rẩy vì hạnh phúc, không sao ngăn miệng mình nở nụ cười khi hất từng xẻng đất xuống mặt người đàn ông đã chết.
Nhiều tháng trôi qua. Thoạt đầu, Effing quá choáng váng vì vận may của mình đến mức không mấy quan tâm đến những gì xung quanh. Ông ăn và ngủ, và khi mặt trời không thiêu đốt quá mức, ông ngồi trên các tảng đá bên ngoài cái hang mà ngắm nhìn những con thằn lằn sáng màu, sặc sỡ chạy đi chạy lại dưới chân ông. Từ mỏm đá nhìn ra cảnh vật thật hùng vĩ, bao trùm nhiều dặm đất đai, nhưng ông không ngắm nhìn quá thường xuyên, mà thay vì đó lựa chọn cách tập trung các suy nghĩ của mình vào những gì ở thật gần: những chuyến đi lấy nước ở chỗ dòng suối, công việc lấy gỗ để đốt lò sưởi, ở bên trong hang. Ông đã ngắm nhìn phong cảnh quá nhiều, giờ đây ông không buồn quan tâm nữa. Rồi, thật đột ngột, cảm giác yên bình đó rời bỏ ông, và ông bước vào một giai đoạn cô đơn gần như không thể chịu đựng nổi. Nỗi hãi hùng về những tháng vừa trải qua nuốt trọn lấy ông, và trong một hoặc hai tuần tiếp đó ông đi rất gần đến việc tự sát. Trí óc ông ngập tràn những ảo giác và sợ hãi, và hơn một lần ông tưởng tượng mình đã chết, đã chết vào đúng khoảnh khắc bước chân vào cái hang và giờ đây trở thành tù nhân của một cuộc sống sau khi chết đầy tính ma quái nào đó. Một hôm, trong cơn điên rồ, ông lấy khẩu súng trường của người ở ẩn ra bắn chết con lừa, vì nghĩ rằng nó đã biến thành người ở ẩn kia, một hồn ma giận dữ quay trở lại để ám ảnh ông cùng với những tiếng kêu xảo quyệt. Con lừa biết sự thật về ông, nên ông không có lựa chọn nào khác ngoài việc loại trừ kẻ làm chứng sự gian lận của ông đó. Xong việc, ông lại bị ám ảnh bởi việc tìm hiểu nhân thân người đàn ông đã chết, dò xét kỹ lưỡng trong cái hang để tìm kiếm các manh mối, tìm một quyển sổ nhật ký, một bó thư, những tờ để trắng trong một quyển sách, mọi thứ có thể chứa đựng tên của người ở ẩn. Nhưng không có gì hiện ra, không lần nào ông tìm được một mảnh thông tin dù là nhỏ nhất.
Sau hai tuần, ông dần bình tâm lại, cuối cùng chuyển sang một dạng yên ổn về tinh thần. Việc này không thể kéo dài mãi được, ông tự nhủ, và chỉ riêng nó đã là một sự an ủi, một ý nghĩ mang lại cho ông lòng can đảm để tiếp tục. Đến một lúc nào đó, lương thực bắt đầu hết, và khi ấy ông sẽ phải đi đến một nơi khác. Ông tự cho mình quãng chừng một năm, lâu hơn một chút nếu ông cẩn thận. Đến chừng ấy, mọi người hẳn đã thôi không hy vọng là ông và Byrne còn trở về nữa. Ông ngờ là Scoresby chẳng bao giờ gửi thư của ông đi, nhưng ngay cả khi ông ta làm việc đó, về cơ bản kết quả cũng sẽ tương tự. Một đội tìm kiếm có thể được cử đi, do Elizabeth và bố của Byrne bỏ tiền chi trả. Họ sẽ đi lang thang trên sa mạc trong nhiều tuần, tìm kiếm kỹ lưỡng những người mất tích - chắc chắn là sẽ có phần thưởng cho việc ấy - nhưng họ sẽ không tìm thấy gì cả. Cùng lắm thì họ cũng chỉ có thể tìm được mộ Byrne, nhưng điều đó không dễ. Ngay cả nếu như vậy, họ cũng sẽ không đến được gần với ông hơn. Julian Barber đã biến mất, và không ai có thể tìm ra dấu vết của ông. Vấn đề là phải trốn kỹ cho đến khi họ ngừng tìm kiếm ông. Những bản cáo phó sẽ được in trên các báo của New York, một lễ tang sẽ được tổ chức, và thế là hết. Một khi chuyện đó đã xong xuôi, ông có thể đi bất kỳ đâu ông thích; ông có thể trở thành bất kỳ người nào ông thích.
Ông vẫn biết rằng thúc đẩy nhanh mọi việc lên không có ích lợi gì cả. Càng trốn lâu thì khi rời khỏi đây ông sẽ càng được an toàn hơn. Do vậy ông bắt đầu tổ chức cuộc sống của mình theo cách thức tiết kiệm nhất có thể, làm mọi cách để kéo dài thời gian ở lại đây: hạn chế ăn uống xuống còn một bữa mỗi ngày, tích trữ thật nhiều củi cho mùa đông, giữ cho cơ thể mạnh khỏe. Ông lên kế hoạch và giờ giấc cho bản thân mình, và đêm nào trước khi đi ngủ ông cũng ghi chép thật tỉ mỉ những gì đã sử dụng trong ngày, buộc mình phải tuân theo một kỷ luật nghiêm ngặt nhất. Thoạt đầu, ông thấy thật khó khăn để đạt được các mục đích đã đặt ra, thường xuyên gục ngã trước cám dỗ ăn thêm một lát bánh mì hoặc một ít đồ hầm đóng hộp nữa, nhưng tự thân nỗ lực đã là đáng giá, và nó giúp ông lúc nào cũng cảnh giác. Đó là một cách thức để tự thử nghiệm trước những yếu đuối của chính mình, và khi thực tế và lý tưởng dần dà gần với nhau hơn. Ông không thể ngăn mình nghĩ đến nó như một thắng lợi cá nhân. Ông biết rằng nó không có gì hơn một trò chơi, nhưng để chơi trò chơi đó cần phải có một sự tận tâm đến mức cuồng tín, và trạng thái tập trung cao độ đó chính là cái cho phép ông không rơi vào sự ngã lòng.
Sau hai hoặc ba tuần của cuộc sống mới mẻ và kỷ luật ấy, ông bắt đầu cảm thấy lại sự thôi thúc vẽ. Một đêm, ngồi với cây bút chì trên tay để viết báo cáo cho các hoạt động trong ngày, đột nhiên ông khởi sự bức tranh nhỏ vẽ một ngọn núi ở trang bên cạnh. Trước khi ông kịp nhận ra mình đang làm gì, bức tranh đã được hoàn thành. Chỉ mất chưa đầy nửa phút, nhưng trong cử chỉ đột ngột, vô thức ấy ông tìm thấy một sức mạnh chưa từng bao giờ hiện diện trong tác phẩm nào trước đó của ông. Cùng đêm đó, ông dỡ các dụng cụ vẽ tranh của mình ra, và kể từ bấy cho đến khi không còn màu nữa, ông tiếp tục vẽ, sáng nào cũng rời khỏi hang vào lúc bình minh và cả ngày ở lại bên ngoài. Việc đó kéo dài hai tháng rưỡi, và trong quãng thời gian đó ông hoàn thành được gần bốn mươi bức tranh. Không nghi ngờ gì nữa, ông nói với tôi, đó là quãng thời gian hạnh phúc nhất của cuộc đời ông.
Ông làm việc dưới đòi hỏi của một sự bó buộc kép, và mỗi cái giúp ông theo một cách thức riêng. Đầu tiên là chuyện sẽ không ai nhìn thấy những bức vẽ này. Đó là một kết luận tất yếu, nhưng thay vì làm Effing bứt rứt với một cảm giác về sự phù phiếm, thì quả thực nó lại như thể giải phóng cho ông. Giờ đây ông đang làm việc cho bản thân mình, không còn nặng gánh lo về ý kiến những người khác, và chỉ điều ấy thôi cũng đã đủ để tạo ra một thay đổi nền tảng trong cách thức tiếp cận nghệ thuật của ông. Lần đầu tiên trong cuộc đời mình, ông ngừng lo lắng đến các kết quả, và giống như một hệ quả, các khái niệm “thành công” và “thất bại” đột nhiên mất hết ý nghĩa. Mục đích thực thụ của nghệ thuật không phải là tạo ra những thứ đồ vật đẹp, ông nhận ra. Đó là một phương pháp để thấu hiểu, một con đường xâm nhập thế giới và tìm ra vị trí của một người ở trong đó, và tất cả những gì các phẩm chất mỹ học và những bức tranh của cá nhân có thể có đều gần như chỉ là một tác dụng phụ tình cờ của cái nỗ lực tự dấn thân vào cuộc đấu tranh này, cuộc bước vào bề dày của mọi sự này. Ông tự phế bỏ khỏi mình các quy tắc đã được học, tin tưởng vào phong cảnh như một đối tác ngang hàng, sẵn sàng rời bỏ các ý định của mình để bắt lấy vận may, sự bột phát, sự ùa tới của các chi tiết thô. Ông không còn sợ sự trống rỗng vây bủa xung quanh mình nữa. Hành động gắng sức đưa nó lên trên toan vẽ theo một cách nào đó đã làm nó nhập vào bên trong ông, và giờ đây ông đã có khả năng cảm thấy sự vô cảm của nó như một điều gì đó thuộc về ông, cũng giống như khi bản thân ông thuộc về sức mạnh im lìm của những không gian mênh mông xung quanh. Những bức tranh ông vẽ ra đều sống sượng, ông nói, đầy những màu mãnh liệt và mang các đợt sóng năng lượng lạ thường, không dự tính, một sự hỗn loạn những hình thù và màu sắc. Ông không hề biết chúng xấu hay đẹp, nhưng có khả năng điều đó không quan trọng. Chúng là của ông, và chúng không hề giống với bất kỳ bức tranh nào khác mà ông từng nhìn thấy trước đây. Năm mươi năm sau, ông nói, ông vẫn nhớ được từng bức tranh ấy.
Bó buộc thứ hai tinh tế hơn, nhưng tuy vậy nó lại gây một ảnh hưởng còn lớn hơn lên ông: trên thực tế, dụng cụ vẽ của ông đang hết dần. Dù sao thì ông cũng không có vô tận tuýp màu và toan, và chỉ cần ông tiếp tục vẽ là chúng sẽ vơi đi. Ngay từ giây phút đầu tiên, điều đó đã có thể thấy rõ. Ngay cả khi ông vẽ những bức tranh của mình, thì cũng như thể ông cảm thấy rõ ràng phong cảnh đang tan biến trước mắt mình. Điều này mang đến một vẻ cảm động đặc biệt trong tất cả những gì ông làm ra trong mấy tháng đó. Mỗi lần hoàn thành một bức tranh mới, với ông các kích thước của tương lai lại co lại, cương quyết kéo ông đến gần hơn với thời khắc khi không còn một chút tương lai nào nữa. Sau một tháng rưỡi làm việc không ngừng nghỉ, cuối cùng ông cũng dùng đến tấm toan cuối cùng. Tuy nhiên vẫn còn lại khoảng một chục tuýp màu. Sợ làm cắt đứt mất nguồn cảm hứng, Effing lật bức tranh lại và bắt đầu một loạt tranh mới ở mặt sau các tấm toan. Đó là một cách trì hoãn lạ thường, ông nói, và trong ba tuần sau đó ông cảm thấy như thể mình vừa được tái sinh trở lại. Ông vẽ loạt tranh phong cảnh mới này với cùng một sự hào hứng thậm chí còn lớn hơn trong loạt tranh trước, và khi cuối cùng tất cả mặt sau các bức tranh đều đã được bôi kín, ông bắt đầu vẽ lên đồ đạc trong hang, thực sự quệt cọ lên cái tủ, cái bàn, và những cái ghế gỗ, và khi tất cả các bề mặt ấy cũng đều đã bị phủ kín, ông bóp nốt chỗ màu còn lại trong những cái tuýp và bắt đầu làm việc trên vách đá phía Nam, phác họa những đường nét chính của một bức vẽ toàn cảnh trên đá. Đó có thể là kiệt tác của ông, Effing nói, nhưng khi mới vẽ được một nửa thì màu hết.
Rồi mùa đông đến. Ông vẫn còn lại nhiều quyển sổ và một hộp bút chì, nhưng thay vì chuyển từ vẽ tranh sang ký họa, ông lại thu mình trong những tháng lạnh giá và dành thời gian để viết. Trong một quyển sổ ông ghi lại những suy nghĩ và quan sát của mình, cố sức làm bằng ngôn từ những gì trước đó ông đã làm với các hình ảnh, và trong một quyển sổ khác ông tiếp tục chép các hoạt động hàng ngày của cuộc sống, một cách thật chính xác: số lượng lương thực đã ăn, còn lại bao nhiêu lương thực, đã đốt bao nhiêu nến, còn lại bao nhiêu nến. Tháng Giêng, trời đổ tuyết suốt trong một tuần, và ông thích thú ngắm nhìn cái màu trắng đó rơi xuống các tảng đá màu đỏ, làm biến đổi phong cảnh vốn đã trở nên rất quen thuộc với ông. Buổi chiều, mặt trời ló ra và làm tan chảy tuyết thành những khoảng trống không đều đặn, tạo ra một dạng hình đốm đẹp đẽ, và khi gió nổi lên, nó sẽ thổi tung những hạt màu trắng dạng bụi vào không khí, làm chúng xoay tròn trong những điệu vũ ngắn ngủi và mãnh liệt. Effing có thể đứng nhìn tất cả những cái đó trong nhiều giờ liền, không bao giờ thấy mệt với chúng. Cuộc đời ông đã trở nên chậm rãi đến mức giờ đây những đổi thay dù là nhỏ nhất với ông cũng vô cùng hiển hiện. Sau khi hết màu vẽ, ông trải qua một giai đoạn ăn không ngồi rồi đầy đau khổ, nhưng rồi ông phát hiện viết có thể tạo ra một sự thay thế thích hợp cho vẽ tranh. Tuy nhiên, quãng giữa tháng Hai, ông viết hết tất cả những quyển sổ, không còn trang nào để viết chữ lên nữa. Ngược lại với những gì ông trông đợi, điều này không làm tâm trạng ông u tối thêm. Ông đã xuống sâu trong nỗi cô đơn của mình đến nỗi không còn cần sự giải trí nào cả. Ông thấy gần như là không thể tưởng tượng nổi, nhưng dần dần ông chán ngán thế giới.
Cuối tháng Ba, cuối cùng ông cũng có người khách đầu tiên. Thật là may mắn, khi đó Effing đang ngồi trên nóc hang thì người lạ mặt xuất hiện ở phía dưới vách đá, và điều này cho phép ông dõi theo chặng đường leo lên của người đàn ông, trong suốt gần một giờ ngắm nghía cái bóng dáng nhỏ xíu trèo về phía mình. Lúc ông ta lên đến đỉnh, Effing đã đợi sẵn với khẩu súng trường trên tay. Ông đã tập dượt cho tình huống này hàng trăm lần trước đó, nhưng giờ đây khi chuyện ấy thực sự xảy ra, ông vẫn choáng váng khi thấy mình sợ hãi đến mức nào. Chỉ cần chưa mất đến ba mươi giây để tình thế tự được làm sáng tỏ: liệu người đàn ông có biết người ở ẩn hay không, và nếu có biết, liệu sự giả trang có khiến được ông ta nghĩ Effing là người mà ông ta tưởng hay không. Nếu người đàn ông kia là kẻ đã giết người ở ẩn, thì sự giả trang sẽ không có ý nghĩa gì. Cũng vậy nếu đó là một thành viên của đội tìm kiếm, một kẻ ngây ngô vẫn còn mơ đến giải thưởng. Mọi thứ đều sẽ được định đoạt trong một lúc nữa, nhưng cho đến khi ấy, Effing không có lựa chọn nào khác ngoài việc tính đến điều tồi tệ nhất. Ông nhận ra rằng ở trên cùng tất cả những tội lỗi khác của ông, có nhiều khả năng để ông sắp phải trở thành một kẻ sát nhân.
Điều đầu tiên ông nhận thấy ở người đàn ông là ông ta rất béo, và ngay sau đó thấy ông ta ăn mặc kỳ quái đến thế nào. Trang phục của người đàn ông có vẻ như là sự kết hợp ngẫu nhiên của các mảnh vải - ở đây là một mảnh vuông đỏ chói, ở kia là một mảnh màu xanh nước biển với những đốm trắng, một mẩu len tại một điểm, một chút vải bông chéo ở điểm khác - và bộ trang phục này khiến ông ta có dáng vẻ của một anh hề kỳ cục, như thể vừa bước ra khỏi từ một rạp xiếc lưu động nào đó. Thay vì một cái mũ miền Tây rộng vành, ông ta lại mang một chiếc mũ quả dưa méo mó với một cái lông chim màu trắng thò ra từ cái dải. Mái tóc đen và thẳng đuột của ông ta chạy dọc xuống hai vai, và khi ông ta tiến lại gần, Effing nhìn thấy nửa bên trái khuôn mặt ông ta bị biến dạng, nhăn nhúm với một vết sẹo rộng hoác, lởm chởm chạy từ má xuống đến môi dưới. Effing đoán người đàn ông là một người Da đỏ, nhưng vào thời điểm này với ông việc ông ta là loại người nào không còn mấy quan trọng nữa. Ông ta là một sự xuất hiện, một tên hề trong cơn ác mộng đi ra từ những tảng đá. Người đàn ông lẩm bẩm vẻ kiệt sức khi lên được đến đỉnh, và khi đó ông ta đứng thẳng người lên rồi mỉm cười với Effing. Ông ta chỉ đứng cách ông mười hay mười hai feet. Effing nâng khẩu súng trường lên chĩa vào ông ta, nhưng người đàn ông có vẻ bối rối nhiều hơn là hoảng sợ.
“Kìa, Tom,” ông ta nói bằng một cái giọng chậm rãi, bộc tuệch. “Ông không nhớ tôi là ai nữa à? Tôi là bạn cũ của ông đây, George đây. Ông không phải chơi mấy trò ấy với tôi đâu.”
Effing do dự một lát, rồi hạ khẩu súng xuống, ngón tay vẫn đặt trên cò súng để đề phòng. “George,” ông lầm bầm, cố tình nói thật khó nghe để không làm lộ giọng thật của mình ra.
“Tôi bị mắc kẹt suốt mùa đông,” người đàn ông to béo nói. “Vì vậy tôi không lên thăm ông được.” Ông ta tiếp tục bước về phía Effing không dừng chân cho đến khi đủ gần để có thể bắt tay ông. Effing chuyển khẩu súng sang tay trái và chìa tay phải ra. Người đàn ông Da đỏ nhìn chằm chằm vào mắt ông một hồi lâu, nhưng rồi mối nguy hiểm đột ngột qua đi. “Trông ông khỏe khoắn quá, Tom ạ,” ông ta nói. “Thực sự khỏe khoắn.”
“Cám ơn,” Effing nói. “Trông ông cũng khỏe lắm.”
Người đàn ông to béo phá lên cười, vẻ chừng sung sướng theo lối ngu độn, và kể từ lúc ấy, Effing biết rằng mình không còn phải lo lắng gì nữa. Như thể ông vừa nói một điều buồn cười nhất của thế kỷ, và nếu như chỉ cần một chút xíu đó cũng đã thu về được nhiều kết quả đến vậy, thì sẽ không khó khăn gì để tiếp tục trò lừa đảo. Quả thực là rất đáng kinh ngạc khi thấy mọi chuyện diễn ra nhẹ nhàng đến thế. Effing chỉ giống người ở ẩn một cách đại khái, nhưng có vẻ như là sức mạnh của sự gợi ý đủ để biến sự hiển nhiên bề ngoài thành một cái gì đó hoàn toàn không liên quan. Người đàn ông Da đỏ đến chỗ cái hang với sự trông chờ sẽ tìm thấy Tom người ở ẩn, và bởi vì với ông ta thật khó hình dung chuyện một người đáp lại khi được gọi là Tom lại có thể là ai đó khác ngoài ông Tom mà ông ta đang tìm kiếm, ông ta nhanh chóng biến đổi các sự kiện có thật sao cho ăn nhập với điều trông đợi, biện minh mọi khác biệt giữa hai Tom bằng trí nhớ sai lạc của mình. Dĩ nhiên không có gì xấu khi người đàn ông là một kẻ ngốc nghếch. Có lẽ trong suốt thời gian ấy ông ta đã biết rằng Effing không phải là Tom thật. Ông ta đã leo lên chỗ cái hang để tìm bạn trong vài giờ đồng hồ, và vì đã tìm được cái mà mình muốn, ông ta không buồn tự đặt ra câu hỏi về người mà mình gặp là ai nữa. Rốt cuộc, có vẻ như việc đang ở cùng với Tom thật hay không chẳng mấy hề hấn gì với ông ta cả.
Họ ở cùng nhau suốt buổi chiều, ngồi trong hang mà hút thuốc lá. George mang theo một túi nhỏ đựng thuốc, món quà quen thuộc mà ông ta dành cho người ở ẩn, và Effing hút hết điếu này đến điếu khác trong một khoái cảm kéo dài. Ông thấy thật kỳ cục khi ở cùng một ai đó sau nhiều tháng trơ trọi đến vậy, và trong quãng chừng một giờ đồng hồ đầu tiên ông gặp khó khăn trong việc nói dù chỉ một từ. Ông đã mất thói quen nói, và lưỡi ông không còn hoạt động giống như đã từng trước đây nữa. Ông cảm thấy nó vụng về, một con rắn ưa cựa quậy khó bảo không còn chịu tuân lệnh ông nữa. Thật may mắn, cái ông Tom nguyên bản cũng không phải là một người nhiều lời, và người đàn ông Da đỏ không có vẻ gì trông chờ nhiều hơn một câu trả lời thảng hoặc từ ông ta. Rõ ràng là George tận hưởng đến hết sức lực, và cứ sau ba hoặc bốn câu, ông ta lại ngả đầu về phía sau mà cười. Mỗi khi cười, ông ta lại quên mất mạch suy nghĩ của mình và bắt đầu một chủ đề khác hẳn, điều này khiến Effing gặp khó khăn trong việc theo dõi những gì ông ta nói. Một câu chuyện về khu bảo tồn Navaho đột nhiên biến thành một câu chuyện về vụ ẩu đả giữa những kẻ say trong một quán rượu, đến lượt câu chuyện này lại biến thành một chuyện khác rất giật gân về một vụ cướp trên tàu hỏa. Theo tất cả những gì Effing thu lượm được, người bạn của ông có biệt danh George Xấu Miệng. Dù thế nào thì đó cũng là cách mọi người gọi ông ta, nhưng có vẻ như người đàn ông to béo không lý gì lắm đến chuyện này. Ngược lại, ông ta tạo cảm giác là mình khá vui sướng vì thế giới tặng cho ông ta một cái tên thuộc về một mình ông ta chứ không phải bất kỳ ai khác, như thể đó là một dấu hiệu của sự coi trọng. Effing chưa bao giờ gặp ai có khả năng kết hợp giữa ngọt ngào và ngu ngốc như thế, và ông cố gắng hết sức để chăm chú lắng nghe ông ta nói, để gật đầu cho đúng thời điểm. Một hoặc hai lần, ông cảm thấy ham muốn được hỏi George xem liệu ông ta có nghe nói gì về một đội tìm kiếm hay không, nhưng lần nào ông cũng tìm được cách đè nén sự bột phát lại.
Trong buổi chiều, Effing dần dà tập hợp được một vài chi tiết về ông Tom nguyên bản. Những lời ông chẳng bà chuộc của George Xấu Miệng, những câu chuyện kể chưa thực sự thành hình bắt đầu quay trở ngược lại với chính chúng với một tần suất nhất định, giao nhau ở một số điểm đủ để thoáng nhìn thấy được cấu trúc của một câu chuyện rộng lớn hơn, thống nhất hơn. Những sự cố được lặp lại, các đoạn quan trọng bị bỏ sót, những sự kiện từ đầu không được nói cho đến hết, nhưng cũng đủ để rốt cuộc khiến cho Effing kết luận được rằng người ở ẩn từng dính vào các hoạt động tội phạm của một dạng băng nhóm ngoài vòng pháp luật được biết đến dưới cái tên huynh đệ Gresham. Ông không thể chắc được rằng liệu người ở ẩn là một thành viên tích cực hay chỉ đơn giản là ông ta để cho băng nhóm sử dụng cái hang của mình làm chỗ trú ẩn, nhưng dù là cách nào, thì cũng đều có vẻ dính dáng đến vụ giết người đã xảy ra, chưa nói đến số lương thực dồi dào mà ông tìm thấy ở đây vào ngày đầu tiên. Sợ để lộ là mình không biết gì, Effing không dám thúc George nói nhiều hơn về các chi tiết, nhưng từ những gì người đàn ông Da đỏ nói, có vẻ như là anh em Gresham sẽ sớm quay lại đây, có thể là vào cuối mùa xuân. Tuy nhiên George quá lơ đãng để có thể nhớ được hiện giờ băng nhóm đang ở đâu, và ông ta bật dậy khỏi ghế để đi vòng quanh phòng xem những bức tranh, đầu gật gật vẻ ngưỡng mộ. Ông ta không biết Tom có biết vẽ đấy, ông ta nói, nhắc đi nhắc lại lời nhận xét đó hàng chục lần trong suốt buổi chiều. Đó là những thứ đẹp nhất trên đời mà ông ta từng nhìn thấy, những thứ đẹp nhất trên toàn cõi đời này. Nếu ông ta cư xử tốt, ông ta nói, có thể một ngày nào đó Tom sẽ dạy ông ta làm việc đó, và Effing nhìn vào mắt ông ta mà nói đúng, có thể một ngày nào đó. Effing rất bực bội vì có ai đó nhìn thấy những bức tranh, nhưng cùng lúc ông thích thú khi nhận được một lời bình luận nhiệt tình đến vậy, nhận ra rằng rất có thể đó là câu bình luận duy nhất mà các tác phẩm này có thể có được.
Sau chuyến thăm của George Xấu Miệng, mọi thứ không còn giống như trước đối với Effing nữa. Ông đã làm việc đều đặn trong vòng bảy tháng qua khi ở một mình, vật lộn để xây dựng sự cô độc của bản thân trở thành một cái gì đó cốt yếu, một thành trì tuyệt đối để định ra các ranh giới cho cuộc đời mình, nhưng giờ đây khi đã có ai đó ở cùng với ông trong cái hang, ông hiểu ra tình thế của mình chênh vênh đến mức nào. Người ta biết có thể tìm được ông ở đâu, và giờ đây khi chuyện ấy đã xảy ra, không có lý do gì để nghĩ rằng nó không còn xảy đến nữa. Ông sẽ phải cẩn trọng, lúc nào cũng phải cảnh giác với những kẻ đột nhập, và những đòi hỏi về sự cảnh giác đó gây tổn hại, dần dà ăn mòn ông cho đến khi sự hài hòa của thế giới của ông bị phá hủy. Ông không thể làm gì trong việc này. Ông phải dành những ngày của mình để nhìn ngó và chờ đợi, ông phải tự chuẩn bị cho những chuyện sắp xảy ra. Thoạt tiên, ông trông chờ George quay lại, nhưng khi nhiều tuần trôi qua mà người đàn ông to béo vẫn không xuất hiện, ông bắt đầu chuyển sự chú ý của mình sang huynh đệ Gresham. Sẽ là lôgic khi đầu hàng sớm, tập hợp đồ đạc của ông lại và rời hẳn khỏi cái hang, nhưng điều gì đó bên trong ông chống cự lại việc đầu hàng trước hiểm nguy sớm như vậy. Ông biết thật là điên rồ khi không bỏ đi, một hành động vô nghĩa lý gần như chắc chắn sẽ khiến ông bị giết chết, nhưng cái hang là điều duy nhất giờ đây ông phải chiến đấu để bảo vệ, và ông không thể cho phép mình bỏ chạy khỏi nó như thế.
Điểm mấu chốt là không để cho chúng bắt chợt được ông. Nếu chúng xông vào đúng lúc ông đang ngủ thì hẳn ông sẽ không có lấy một cơ may nào, chúng sẽ giết chết ông trước khi ông kịp nhảy khỏi giường. Chúng đã làm việc đó một lần, và chắc hẳn sẽ không gì ngăn cản chúng làm lại. Mặt khác, nếu ông sắp đặt một dạng hệ thống báo động ngõ hầu báo cho ông biết khi chúng tiến lại gần, thì nhiều khả năng việc này cũng chỉ cho ông lợi thế nhỏ nhoi của một chút thời gian. Đủ thời gian để tỉnh giấc và vớ lấy khẩu súng, có lẽ, nhưng nếu cả ba anh em chúng cùng đến một lúc, phần thua sẽ thuộc về ông. Ông có thể có được nhiều thời gian hơn nếu tự giam mình trong hang, dùng đá và cành cây bịt kín lối vào, nhưng khi đó ông sẽ phải từ bỏ một điều mang lại lợi thế cho ông trước những kẻ tấn công: việc chúng không biết có ông ở đây. Ngay khi nhìn thấy chiến lũy, chúng sẽ nhận ra có người sống trong hang và có thể nghĩ ra cách ứng phó. Effing bỏ gần như toàn bộ những giờ không ngủ để nghĩ đến các vấn đề ấy, xem xét các chiến lược khác nhau mà ông có thể sử dụng, cố gắng tìm đến một kế hoạch không đến nỗi mang tính tự sát. Cuối cùng, ông chấm dứt hoàn toàn việc ngủ trong hang, mang chăn và gối đến đặt trên một bờ rìa trên đường xuống phía bên kia vách đá. George Xấu Miệng đã nói cho ông về niềm say mê rượu whisky của anh em nhà Gresham, và Effing hình dung rằng sẽ rất tự nhiên khi những gã đàn ông đó nốc rượu ngay khi vào đến trong hang. Trên sa mạc chúng buồn chán thấu ruột, và nếu chúng uống đến mức say mềm, thì rượu sẽ trở thành đồng minh đáng tin cậy nhất của ông. Ông làm tất cả những gì có thể để xóa đi các dấu vết của mình trong hang, giấu kỹ những bức tranh và sổ ghi chép tận sâu cùng trong hang và không dùng cái bếp lò nữa. Không thể làm gì với những bức vẽ trên đồ đạc và tường, nhưng ít nhất thì bếp lò cũng sẽ không ấm khi chúng bước vào, anh em nhà Gresham có thể nghĩ rằng người vẽ những bức tranh kia đã đi khỏi. Không có gì chắc chắn là chúng sẽ nghĩ vậy, nhưng Effing không thể tìm được cách nào khác nữa cả. Ông cần chúng biết rằng đã từng có ai đó ở đây, vì nếu cái hang trông vẫn trống vắng giống hệt như vào lần chúng đến đây hồi mùa hè, thì không thể giải thích được việc cái xác người ở ẩn đã biến mất. Anh em nhà Gresham có thể sẽ băn khoăn về điều đó, nhưng khi đã nhận ra từng có người khác sống trong hang, có thể chúng sẽ thôi không nghĩ nữa. Ít nhất thì đó cũng là hy vọng của Effing. Nhìn vào tính bấp bênh tột độ của tình hình, ông không tự cho phép mình hy vọng quá nhiều.
Ông sống qua một tháng khủng khiếp, và rốt cuộc chúng cũng tới. Đó là giữa tháng Năm, hơn một năm một chút kể từ ngày ông cùng Byrne rời khỏi New York. Anh em nhà Gresham cưỡi ngựa đến lúc chạng vạng tối, tự thông báo sự hiện diện của chúng bằng những tiếng ồn đinh tai vọng lại giữa các tảng đá: những giọng nói oang oang, tiếng cười, lại có cả tiếng hát nghe khàn khàn. Effing có rất nhiều thời gian để chuẩn bị đón tiếp chúng, nhưng điều này cũng không ngăn được mạch máu ông đập dồn dập không sao kiểm soát nổi. Mặc cho những lời cảnh báo ông tự nói với mình về việc phải giữ bình tĩnh, ông vẫn hiểu mình phải chấm dứt việc này vào đêm nay. Sẽ không thể duy trì được mọi chuyện lâu hơn nữa.
Ông nằm phục trên bờ rìa hẹp gần cái hang, đợi đến thời điểm hành động trong khi bóng tối dần buông xuống xung quanh. Ông nghe tiếng anh em nhà Gresham tiến lại gần, nghe thấy vài câu nhận xét lẻ tẻ về nhiều thứ mà ông không hiểu nổi, và rồi một trong số chúng nói, “Tao nghĩ là chúng ta sẽ phải thông gió chỗ này sau khi vứt xác lão Tom già đó.” Hai gã còn lại cười phá lên, và ngay sau đó những giọng nói ngưng bặt. Điều đó có nghĩa là chúng đã vào trong hang. Nửa giờ sau, khói bắt đầu bốc lên từ cái ống thiếc gắn trên mái, và rồi ông bắt đầu nhận ra mùi xào nấu. Trong hai giờ sau đó, không có gì xảy ra. Ông nghe tiếng những con ngựa trệu trạo trong miệng và giậm giậm vó xuống một dải đất bên dưới cái hang, và dần dần màn đêm màu xanh sẫm chuyển thành đen. Đêm đó không có trăng, bầu trời lấp lánh những vì sao. Vài lần ông có thể nghe thấy những tiếng cười văng vẳng, nhưng tất cả chỉ có vậy. Rồi, cách từng quãng, lũ Gresham lần lượt ra khỏi hang để đái vào những tảng đá. Effing hy vọng điều đó có nghĩa là chúng ở trong hang để chơi bài và uống rượu, nhưng không thể nào chắc chắn về bất cứ điều gì. Ông quyết định đợi cho đến khi gã cuối cùng giải phóng xong bọng đái, và rồi ông sẽ chờ thêm một tiếng hoặc một tiếng rưỡi nữa. Đến khi đó có khả năng là chúng đã ngủ, và không nghe được tiếng ông vào trong hang nữa. Cùng lúc, ông tự hỏi làm thế nào để sử dụng khẩu súng trường chỉ bằng một tay. Nếu trong hang đã tắt hết đèn, thì ông sẽ phải cầm một ngọn nến để có thể nhìn rõ những cái đích, thế nhưng ông chưa bao giờ tập bắn súng bằng một tay cả. Đó là một khẩu Winchester bắn từng phát phải nạp lại đạn sau mỗi lần bắn, và ông vẫn luôn làm việc đó bằng tay trái. Ông có thể nhét cây nến vào miệng, dĩ nhiên, nhưng cũng có thể sẽ nguy hiểm khi để lửa quá gần mắt, đó là còn chưa nói việc gì có thể xảy ra nếu lửa bắt vào bộ râu của ông. Có lẽ ông sẽ phải cầm cây nến như là cầm một điếu xì gà, ông quyết định như vậy, kẹp nó giữa ngón trỏ và ngón giữa của bàn tay trái, hy vọng ba ngón còn lại vẫn đủ sức nâng nòng súng. Nếu ông tì báng khẩu súng vào bụng thay vì vào vai, có lẽ bàn tay phải của ông sẽ nạp đạn đủ nhanh sau khi bóp cò. Lại một lần nữa, ông không thể chắc chắn vào bất cứ điều gì. Đó là những tính toán tuyệt vọng vào phút cuối, và ông ngồi đó chờ đợi trong bóng tối, ông tự nguyền rủa vì sự cẩu thả, lấy làm kinh ngạc vì sự ngu xuẩn lớn lao của mình.
Hóa ra ánh sáng lại không phải là một vấn đề. Khi trườn ra khỏi chỗ trốn và bò đến trước miệng cái hang, ông phát hiện bên trong hang vẫn có một ngọn nến đang cháy. Ông dừng lại ở bên cạnh lối vào, cố trấn tĩnh, lắng nghe các âm thanh, sẵn sàng chạy về bờ rìa của mình nếu anh em nhà Gresham còn chưa ngủ. Sau một lúc, ông nghe thấy một cái gì đó giống như tiếng ngáy, nhưng tiếp ngay sau đó là một loạt những âm thanh có vẻ như phát ra từ ngay cạnh bàn: một tiếng thở dài, một quãng im lặng, và rồi tiếng một vật rơi, như thể một cái cốc vừa rơi xuống sàn nhà. Ít nhất một trong số chúng vẫn còn thức, ông nghĩ, nhưng làm sao chắc được rằng chỉ có một tên thôi? Rồi ông nghe thấy một tiếng quân bài loạt xoạt, tiếng bảy phát quật bài xuống mặt bàn, và rồi một quãng dừng ngắn. Rồi sáu phát quật và một quãng dừng nữa. Rồi năm tiếng. Rồi bốn, rồi ba, rồi hai, rồi một. Trò solitaire, Effing nghĩ, là trò solitaire không còn phải nghi ngờ gì nữa. Một trong số chúng đang ngồi đó, và hai tên còn lại đã ngủ. Hẳn là phải như vậy, bởi nếu không kẻ chơi bài phải nói chuyện với những kẻ còn lại. Nhưng hắn ta không nói, và điều đó chỉ có thể có nghĩa là hắn không có ai để nói chuyện cả.
Effing nâng súng lên chuẩn bị và lần đến lối vào. Không khó khăn gì để giữ cây nến ở tay trái, ông nhận ra là như vậy; ông đã sợ hãi một cách vô lối. Gã đàn ông ngồi ở bàn ngẩng phắt đầu lên khi Effing xuất hiện, rồi kinh hoảng nhìn chằm chằm vào ông. “Ôi mẹ kiếp Chúa ơi,” gã đàn ông thì thầm. “Ông chết rồi cơ mà.”
“Tôi e là ông đã nghĩ lầm rồi đó,” Effing đáp. “Ông mới là người chết, chứ không phải tôi.”
Ông bóp cò, và một khoảnh khắc sau gã đàn ông đã bật người ra sau ghế, hét lên khi bị viên đạn đập vào ngực, và rồi, đột nhiên, không còn âm thanh nào từ hắn nữa. Effing lên đạn cho khẩu súng trường và chĩa nó vào gã thứ hai, lúc đó đang cuống cuồng tìm cách chui ra khỏi cái ổ nằm của mình ở trên sàn. Effing cũng giết hắn bằng một viên đạn, nhằm thẳng vào giữa mặt với một viên đạn xuyên thủng ra phía sau đầu hắn, tiếp tục bay trong phòng với một đống bầy nhầy não và xương. Tuy nhiên mọi việc không dễ dàng với gã Gresham thứ ba. Hắn đang nằm trên cái giường đặt cuối hang, và trong thời gian Effing kết liễu hai gã đầu tiên, số ba đã kịp vớ lấy khẩu súng ngắn của mình và bắn. Một phát đạn bay sượt qua đầu Effing và nảy lên khi chạm vào cái nồi bằng kim loại sau lưng ông. Ông lên đạn cho khẩu súng trường và nhảy sang bên trái trốn vào sau cái bàn, vô ý làm tắt cả hai ngọn nến trong lúc nhảy. Cái hang trở nên tối như mực, và gã đàn ông ở cuối hang đột nhiên bắt đầu nức nở như thể lên cơn động kinh, lúng búng một tràng từ ngữ không thể hiểu nổi về người ở ẩn đã chết và bắn điên loạn về hướng Effing. Effing thuộc nằm lòng từng chi tiết của cái hang, và ngay cả trong bóng tối ông cũng có thể nói được chính xác gã đàn ông đang ở đâu. Ông đếm đến sáu phát đạn, nhận ra rằng gã thứ ba đang gào thét kia không thể nào nạp lại đạn mà không có ánh sáng, và rồi đứng lên bước về phía cái giường. Ông bóp cò khẩu súng trường, nghe tiếng gã đàn ông thét lên khi viên đạn xuyên vào người hắn, rồi nạp đạn và bắn tiếp. Trong hang trở nên im lặng như tờ. Effing hít thở trong mùi khói súng đang bay lơ lửng trong không khí, và đột nhiên ông bắt đầu cảm thấy người mình run lên. Ông vội dồn hết sức để chạy ra ngoài và ngã khuỵu xuống, rồi nôn thốc nôn tháo xuống đất.
Ông ngủ lại ngay tại đó, ở miệng hang. Khi sáng hôm sau tỉnh dậy, ngay lập tức ông bắt tay vào việc dọn mấy cái xác. Ông kinh ngạc nhận ra mình không hề cảm thấy hối hận, rằng ông có thể nhìn những kẻ mình vừa giết mà không hề có một chút nào cắn rứt lương tâm dù là nhỏ nhất. Ông lôi từng gã một ra khỏi căn phòng và mang xuống sườn dốc phía sau của vách đá, chôn chúng gần người ở ẩn dưới gốc cây dương. Đến đầu buổi chiều thì ông chôn xong cái xác cuối cùng. Kiệt sức, ông quay trở về hang để ăn trưa, và mãi đến khi đó, ngay khi ngồi xuống bàn và bắt đầu rót cho mình một cốc từ chai rượu whisky của anh em nhà Gresham, ông mới nhìn thấy mấy cái túi buộc yên ngựa dưới gầm giường. Như Effing thú nhận với tôi, chính xác vào giây phút ấy với ông mọi thứ lại thay đổi, cuộc đời ông lại đột nhiên rẽ sang một nhánh mới. Có tất cả sáu cái túi to, và khi dốc ngược để đổ những gì chứa trong cái túi đầu tiên xuống mặt bàn, ông biết rằng quãng thời gian sống trong hang của mình sắp kết thúc - chỉ vậy thôi, với tốc độ và sức mạnh của một quyển sách bị gập lại đột ngột. Trên bàn toàn là tiền, và mỗi lần ông dốc cạn một cái túi, đống tiền lại tiếp tục lớn lên. Khi cuối cùng ông cũng kiểm kê được toàn bộ số tài sản, chỉ riêng tiền mặt đã có đến hơn hai mươi nghìn đô la. Lẫn trong đống tiền giấy, ông tìm được rất nhiều đồng hồ, vòng đeo tay, vòng đeo cổ, và trong cái túi cuối cùng có ba tập cổ phiếu buộc rất chặt, tương đương với giá trị gồm mười nghìn đô la tiền đầu tư vào những thứ như mỏ bạc Colorado, công ty Westinghouse, và Ford Motors. Hồi ấy đây là một món tiền khủng khiếp, Effing nói, và là cả một gia sản. Nếu sử dụng một cách đúng đắn, ông có thể đủ tiền để sống cho đến hết đời.
Không một lúc nào ý tưởng trả lại số tiền bị lấy cắp nảy ra, ông nói, không bao giờ có ý tưởng về việc đến chỗ các cơ quan hữu trách để khai báo về những việc đã xảy ra. Không phải là vì ông sợ bị phát hiện khi kể câu chuyện của mình, chỉ đơn giản là ông muốn có số tiền đó cho bản thân. Thôi thúc này mạnh đến nỗi không bao giờ ông buồn xem xét lại những gì mình làm. Ông lấy tiền bởi vì nó có ở đấy, vì theo một nghĩa nào đó ông cảm thấy rằng nó đã thuộc về ông, và quả đúng là như vậy. Câu hỏi về sự đúng sai không bao giờ liên quan cả. Ông đã giết ba gã đàn ông một cách lạnh lùng, và giờ đây ông đã tự nâng mình lên cao hơn những bận tâm vặt vãnh ấy. Dù thế nào đi nữa, ông nghi ngờ về việc sẽ có nhiều người than khóc cho cái chết của mấy anh em nhà Gresham. Chúng đã biến mất, và sẽ không mất mấy thời gian để thế giới quen với việc chúng không còn ở đó nữa. Thế giới sẽ làm quen với việc này, theo cùng cách nó đã quen với việc sống mà không có Julian Barber.
Ông dành cả ngày hôm sau để chuẩn bị ra đi. Ông kê dọn lại đồ đạc, lau chùi các vết máu, và cất đống sổ ghi chép của mình vào trong tủ. Ông tiếc vì phải nói lời tạm biệt với các bức tranh, nhưng không thể làm gì khác, cho nên ông buộc chúng lại thật gọn ở chân giường và quay mặt chúng vào tường. Ông chỉ có vài giờ để làm việc đó, nhưng trong quãng thời gian còn lại của buổi sáng và suốt buổi chiều, ông đứng dưới mặt trời chói chang để nhặt đá và cành cây bịt kín miệng cái hang. Ông nghi ngờ về việc sẽ có lúc mình quay lại đây, nhưng dù sao ông cũng muốn che giấu kỹ nơi này. Nó là đài kỷ niệm riêng của ông, nấm mồ để ông chôn cất quá khứ của mình, và mỗi khi nghĩ về nó trong tương lai, ông lại muốn biết nó có còn ở nguyên đó hay không, ở chính xác nơi nó từng ở. Theo cách này nó vẫn tiếp tục là một nơi trú ngụ về tinh thần cho ông, ngay cả khi ông chưa bao giờ đặt chân về đó trở lại.
Đêm đó ông ngủ ngoài trời, và buổi sáng tiếp theo ông chuẩn bị để lên đường. Ông buộc đống túi lại, lấy lương thực và nước, chất mọi thứ lên ba con ngựa mà anh em nhà Gresham để lại. Rồi ông khởi hành, cố hình dung ra mình sẽ làm gì kế tiếp.
Chúng tôi mất hơn hai tuần mới đến được đây. Giáng sinh đã đến và đi từ lâu, và một tuần sau đó thì thập kỷ kết thúc. Tuy nhiên, Effing không mấy quan tâm đến những cái mốc thời gian ấy. Các suy nghĩ của ông gắn chặt vào một giai đoạn xa xưa, và ông đào bới câu chuyện của mình với một sự chăm chú không ngơi nghỉ, không để sót điều gì, dò tìm tất cả những chi tiết nhỏ nhất, suy tính từng sắc thái nhỏ nhất trong nỗ lực nắm bắt lại quá khứ. Sau một thời gian, tôi thôi tự hỏi liệu có phải ông đang kể cho mình sự thật hay không. Đến khi đó câu chuyện của ông đã mang một màu sắc huyễn tưởng, và có những lúc có vẻ như ông không nhớ lại các sự kiện bên ngoài của đời mình mà bịa ra một câu chuyện ngụ ngôn để giải thích những ý nghĩa bên trong của nó. Cái hang của người ở ẩn, những cái túi đựng tiền, cuộc đấu súng theo kiểu Miền Tây Hoang Dã - tất cả đều thật cường điệu, thế nhưng có khả năng chính sự kỳ quái của câu chuyện lại là yếu tố thuyết phục nhất. Không phải bất kỳ ai cũng có thể nghĩ ra nó, và Effing kể thật là hay, với sự thành thực có thể cảm thấy được, cho nên tôi chỉ đơn giản là buông lỏng mình đi theo, từ chối việc đặt câu hỏi liệu những việc ấy có thực đã từng diễn ra hay không. Tôi lắng nghe, tôi ghi lại những gì ông nói, tôi không cắt ngang lời ông. Thay vì nỗi khiếp sợ đôi khi ông gây ra ở tôi, tôi không thể ngăn mình nghĩ về ông như một người họ hàng thân thiết. Có lẽ điều này đã bắt đầu khi chúng tôi đến đoạn về cái hang. Dù gì thì chính tôi cũng có ký ức riêng về việc sống trong một cái hang, và khi ông miêu tả sự cô đơn cảm thấy vào khi ấy, tôi có cảm tưởng là theo một cách nào đó ông đang miêu tả cùng những điều tôi từng cảm thấy. Câu chuyện của tôi cũng phi lý ngang bằng với câu chuyện của Effing, nhưng tôi biết rằng nếu tôi lựa chọn việc kể nó lại cho ông, ông cũng sẽ tin từng từ tôi nói.
Ngày tháng cứ trôi đi, bầu không khí trong nhà mỗi lúc một tù túng hơn. Thời tiết bên ngoài thật dữ dội - mưa lạnh, đường phố phủ đầy băng, những cơn gió thổi xuyên qua người - và vì lẽ đó chúng tôi buộc phải thôi những chuyến đi dạo buổi chiều. Effing bắt đầu nhân đôi những buổi làm việc cho bài cáo phó, rút lui về phòng cho một giấc ngủ ngắn sau bữa trưa và sau đó lại tiếp tục ồn ào trở lại vào hai giờ rưỡi hoặc ba giờ, sẵn sàng nói liền trong nhiều giờ nữa. Tôi không biết ông tìm đâu được đủ nghị lực để tiếp tục công việc với tốc độ ấy, nhưng thay vì việc phải ngắt hơi giữa các câu nói một quãng dài hơn bình thường, có vẻ như là giọng nói của ông không bao giờ phản lại ông. Tôi bắt đầu sống bên trong giọng nói đó như thể nó là một căn phòng, một căn phòng không cửa sổ cứ thu hẹp dần theo mỗi ngày trôi qua. Giờ đây gần như lúc nào Effing cũng mang dải băng che mắt, và không còn cơ hội để tôi tự đánh lừa mình là giữa chúng tôi tồn tại một mối quan hệ nào đó nữa. Ông cô độc với câu chuyện trong đầu, còn tôi cô độc với những từ ngữ tuôn ra từ miệng ông. Những từ đó lấp đầy từng inch không khí xung quanh tôi, và rốt cuộc không còn gì khác cho tôi để thở nữa. Nếu không có Kitty, có khả năng tôi đã chết ngạt. Sau khi làm việc xong với Effing, tôi thường tìm cách gặp cô trong nhiều giờ, qua đêm với cô thường xuyên nhất trong khả năng có thể. Hơn một lần tôi không quay về nhà trước khi trời sáng. Bà Hume biết chuyện này, nhưng nếu Effing có bất kỳ ý tưởng nào về chuyện đi lại của tôi, thì ông cũng không bao giờ nói một lời. Điều duy nhất đáng nói là tôi xuất hiện ở bàn ăn mỗi sáng vào lúc tám giờ, và tôi không bao giờ sai giờ cả.
Khi đã rời khỏi hang, Effing đi xuyên qua sa mạc trong suốt nhiều ngày trước khi đến được thị trấn Bluff. Kể từ đó, mọi việc trở nên dễ dàng hơn. Ông đi về hướng Bắc, chậm rãi chuyển từ thành phố này sang thành phố khác, và đến cuối tháng Sáu thì quay về được Salt Lake City, tại đó ông chuyển sang đi tàu hỏa và mua vé đến San Francisco. California là nơi ông tạo ra cái tên mới, tự biến mình trở thành Thomas Effing khi ký sổ đăng ký khách sạn vào đêm đầu tiên. Ông lấy tên Thomas để tưởng nhớ Moran, ông nói, và mãi đến khi bỏ bút xuống rồi ông mới chợt nhận ra người ở ẩn cũng tên là Tom, cái tên đã thuộc về ông một cách bí mật trong hơn một năm trời. Ông coi sự trùng hợp ấy như một điềm tốt, như thể lựa chọn của ông là một điều gì đó không thể tránh khỏi, về cái họ, ông nói, sẽ không cần thiết phải giải thích dài dòng. Ông đã nói với tôi rằng Effing là một trò chơi chữ, và trừ khi hiểu sai hẳn, tôi cảm thấy mình biết được nguồn gốc của nó. Khi viết ra từ Thomas, có lẽ ông đã nhớ đến cụm từ doubting Thomas. Động danh từ đó lại dẫn đến một từ khác: fucking Thomas, và để khỏi tỏ ra quá đà nó được biến đổi tiếp nữa, thành f-ing. Do vậy, ông là Thomas Effing, người đã “fuck”[21] cuộc đời mình. Vì biết ông rất thích những câu nói đùa độc ác, tôi có thể hình dung ra ông đã tự hài lòng với bản thân đến cỡ nào.
Gần như là ngay từ khởi đầu, tôi đã trông chờ ông nói về đôi chân. Những tảng đá ở Utah khiến tôi nghĩ đến một địa điểm thích hợp cho dạng tai n?