Chương 6 .
Tiếp sau đó là một quãng thời gian lạ thường. Trong tám hoặc chín tháng, tôi sống theo một cách thức trước đây chưa từng khi nào là có thể, và ngay trước khi kết thúc, tôi tin mình đến gần với thiên đường hạ giới hơn bất kỳ thời điểm nào trong suốt những năm tôi sống trên hành tinh này. Không chỉ là vấn đề tiền (mặc dù tiền không thể bị coi nhẹ), mà còn vì tính đột ngột của mọi sự. Cái chết của Effing đã khiến tôi không còn phải phục vụ ông nữa, nhưng cùng lúc Effing cũng khiến tôi không phải phục vụ thế giới, và vì tôi còn trẻ, vì tôi còn biết quá ít về thế giới, tôi không sao hiểu nổi rằng quãng thời gian hạnh phúc này có thể có lúc chấm dứt. Tôi đã bị mất tích trong sa mạc, và rồi, đột nhiên, tôi đã tìm thấy vùng đất Canaan của tôi, mảnh đất hứa của tôi. Thời gian trôi đi, tôi chỉ còn có thể hân hoan, quỳ phục xuống trong sự hàm ơn, và hôn mặt đất tôi đang đứng ở trên, vẫn còn quá sớm để nghĩ rằng bất kỳ điều gì trong số đó có thể bị phá hủy, còn quá sớm để tưởng tượng sự lưu đày đang án ngữ ngay trước mặt.
Năm học của Kitty kết thúc khoảng một tuần sau khi tôi nhận được số tiền, và quãng giữa tháng Sáu chúng tôi tìm được một chỗ ở. Chỉ với giá chưa tới ba trăm đô la một tháng, chúng tôi ngụ tại một căn nhà rộng rãi, đầy bụi ở East Broadway, không xa Chatham Square và Manhattan Bridge bao lăm. Đó là trung tâm khu Tàu, và Kitty là người thực hiện mọi việc dàn xếp, sử dụng các mối quan hệ Trung Quốc của mình để mặc cả với người chủ nhà cho chúng tôi thuê trong vòng năm năm, tiền thuê được giảm với bất kỳ sửa chữa nào mà chúng tôi làm. Đó là năm 1970, và ngoài một vài họa sĩ và điêu khắc gia biến những nhà kho thành xưởng vẽ, ý tưởng sống trong các tòa nhà thương mại cũ kỹ mới chỉ bắt đầu trở thành mốt ở New York. Kitty muốn có không gian rộng để tập múa (tổng cộng có đến hơn hai nghìn feet vuông), và bản thân tôi cũng ngây ngất trước viễn cảnh được sống trong một nhà kho cũ với các đường ống nước chạy trên tường và trần nhà kim loại gỉ hoen.
Chúng tôi mua một cái bếp và một cái tủ lạnh cũ ở Lower East Side, rồi trả tiền để lắp đặt một vòi hoa sen đơn giản và máy đun nước nóng trong phòng tắm. Sau khi lượn lòng vòng khắp các phố để tìm những thứ đồ người ta bỏ đi - một cái bàn, một giá sách, ba hay bốn cái ghế, một cái tủ màu xanh lá cây không còn vững mấy - chúng tôi mua một cái đệm cỏ và các thứ vật dụng làm bếp. Đồ đạc chỉ chiếm một diện tích rất không đáng kể giữa lòng nhà rộng lớn, nhưng vì cả hai đều ác cảm với sự lộn xộn, nên chúng tôi rất hài lòng với thứ chủ nghĩa tối giản thô tháp của bài trí và không thêm gì vào nữa. Thay vì bỏ những khoản tiền quá đà vào căn nhà - tôi đã mất gần một nghìn đô la cho việc này - tôi dẫn Kitty càn quét các cửa hiệu để mua quần áo mới. Tôi tìm được mọi thứ mình cần trong chưa đầy một giờ, và rồi, quãng thời gian còn lại trong ngày, chúng tôi chuyển từ cửa hàng này sang cửa hàng kia để tìm quần áo đẹp nhất cho Kitty. Mãi đến khi về đến khu Tàu rốt cuộc chúng tôi mới tìm được nó: một chipao[23] bằng lụa màu chàm bóng láng, trang trí bằng những hình thêu màu đỏ và đen. Đó chính là trang phục lý tưởng của Hoàng hậu Rồng, với một đường xẻ dọc một bên và đoạn bó đẹp tuyệt ở hông và ngực. Vì bộ đồ rất đắt, tôi nhớ đã phải ép buộc Kitty để tôi mua nó cho cô, nhưng quả là tiền nào của nấy, sau đó tôi ngắm cô mặc nó mãi không chán. Mỗi khi ở nhà quá lâu, tôi lại bịa ra một cái cớ để chúng tôi đi ăn ở một cái quán lịch sự nhằm được mãn nhãn ngắm cô mặc nó. Kitty luôn luôn nhạy cảm với những ý nghĩ xấu xa của tôi, và khi đã hiểu ra niềm say mê lớn lao mà tôi dành cho bộ quần áo đó, thậm chí có những đêm cô còn mặc nó đi quanh nhà - lặng lẽ để nó tuột ra trên thân hình trần truồng như một cách thức quyến rũ.
Với tôi khu Tàu giống như một đất nước xa lạ, và mỗi lần ra khỏi nhà đi vào các phố, tôi đều bị chế ngự bởi một cảm giác mất phương hướng và sự bối rối. Đây là nước Mỹ, nhưng tôi không thể hiểu bất kỳ ai nói gì, không thể xâm nhập ý nghĩa những gì tôi nhìn thấy. Ngay cả sau khi tôi đã quen biết vài người bán hàng gần nhà, thì sự liên lạc của chúng tôi cũng không hơn những nụ cười lịch sự và vài cử chỉ xã giao, một thứ ngôn ngữ ký hiệu không chứa đựng nội dung thực thụ nào. Tôi không sao tìm được cách vượt qua bề mặt câm lặng của mọi sự, và nhiều lần sự loại trừ đó khiến tôi cảm thấy như thể mình đang sống giữa một thế giới trong mơ, di chuyển qua những đám người hư ảo tất thảy đều đeo mặt nạ. Ngược lại với những gì có thể nghĩ, tôi không muốn nói mình giống như một kẻ xa lạ. Đó là một trải nghiệm sảng khoái một cách kỳ lạ, và xét về dài hạn có vẻ như là nó củng cố thêm cho tính mới mẻ của mọi điều xảy đến với tôi. Tôi không có cảm giác mình đã chuyển đến ở một khu khác trong thành phố. Tôi đã phải đi cả nửa trái đất để đến được nơi mình đang ở, và cần phải khẳng định rằng sẽ không gì có thể gần gũi với tôi được nữa, ngay cả bản thân tôi.
Khi chúng tôi đã ổn định ở nhà mới, Kitty tìm được một việc làm cho phần còn lại của mùa hè. Tôi cố gắng thuyết phục cô đừng làm vậy, tôi muốn đưa cô tiền tiêu để đỡ phải đi làm phiền phức, nhưng Kitty từ chối. Cô muốn mọi thứ được ngang bằng nhau, cô nói, và cô không thích ý tưởng tôi phải cáng đáng cho cô mọi chuyện. Vấn đề cơ bản nhất là phải giữ được tiền, tiêu khoản tiền đó càng chậm càng tốt. Chắc chắn là Kitty khôn ngoan hơn tôi nhiều ở khoản này, nên tôi đầu hàng trước lập luận của cô. Cô đăng ký ở một hãng chuyên về thư ký tạm thời, và chỉ ba ngày sau họ tìm được cho cô một công việc tại tòa nhà McGraw-Hill tại đại lộ Sáu trong một tạp chí thương mại. Chúng tôi đùa cợt về cái tên tờ tạp chí đó đến nỗi tôi vẫn còn nhớ nó, và đến tận bây giờ tôi vẫn không thể nhắc đến mà không mỉm cười: Các loại nhựa hiện đại: Tạp chí về toàn bộ các khía cạnh nhựa. Kitty làm việc ở đó từ chín giờ sáng đến năm giờ chiều mỗi ngày, đi lại bằng tàu điện ngầm cùng với hàng triệu người khác trong cái nóng nực của mùa hè. Hẳn là không dễ dàng gì, nhưng Kitty không thuộc loại người thích than van về những chuyện tương tự. Buổi tối cô tập múa khoảng hai hay ba tiếng, rồi ngày hôm sau cô lại thức dậy từ sớm đầy tươi tỉnh, lao đến văn phòng làm việc cật lực. Trong khi cô không có nhà, tôi dọn dẹp nhà cửa và đi mua đồ, và tôi luôn đảm bảo khi cô về đến nhà là đã có bữa tối sẵn sàng. Đây là lần đầu tiên tôi nếm trải hương vị cuộc sống gia đình, và tôi sống nó một cách tự nhiên, không bao giờ có suy nghĩ lung tung nào. Cả hai chúng tôi đều không nói về tương lai, nhưng đến một lúc, có lẽ là hai hay ba tháng sau khi chúng tôi sống chung với nhau, tôi nghĩ cả hai đều ngờ rằng chúng tôi đang tiến thẳng đến hôn nhân.
Tôi gửi bản cáo phó của Effing đến tờ Times, nhưng không bao giờ nhận được lời hồi đáp nào, một bức thư từ chối cũng không. Có thể bức thư của tôi bị thất lạc, hoặc có thể họ nghĩ một thằng điên đã gửi nó đến. Phiên bản dài hơn, mà tôi gửi đến cho tờ Art World Monthly theo yêu cầu của Effing, bị từ chối, nhưng tôi không nghĩ quyết định của họ là vô lý. Như vị biên tập của tờ tạp chí giải thích cho tôi trong lá thư của mình, chưa một ai trong số các nhân viên từng nghe nói đến Julian Barber, và trừ khi tôi có thể cung cấp cho họ những bằng chứng xác thực về tác phẩm của ông, họ sẽ cảm thấy quá phiêu lưu nếu đăng bài báo. “Tôi cũng không biết anh là ai, thưa anh Fogg,” bức thư tiếp tục, “nhưng có vẻ như là anh đã tự sáng tạo ra một trò lừa đảo tinh vi. Điều đó không có nghĩa câu chuyện của anh không hấp dẫn, nhưng tôi nghĩ anh có thể có nhiều cơ may đăng được nó hơn nếu anh ngừng cái chuyện này và gửi nó đi đâu đó chuyên đăng tác phẩm hư cấu.”
Tôi cảm thấy ít nhất mình cũng nợ Effing một nỗ lực nào đó nhân danh ông. Ngày hôm sau khi nhận được bức thư từ Art World Monthly, tôi đi đến thư viện và chụp lại bản cáo phó của Julian Barber vào năm 1917, gửi nó đến cho vị biên tập kèm với một bức thư ngắn. “Barber là một nghệ sĩ trẻ và không thể chối cãi là không mấy nổi tiếng vào quãng thời gian ông mất tích,” tôi viết, “nhưng ông ấy đã tồn tại. Tôi tin bản cáo phó đăng trên tờ The New York Sun này sẽ chứng thực rằng bài báo mà tôi gửi cho ông hoàn toàn đáng tin.” Tôi nhận được lời xin lỗi trong bức thư gửi tới cùng trong tuần, nhưng đó không gì khác là lời mào đầu cho một sự từ chối khác. “Tôi sẵn sàng công nhận đã từng có một họa sĩ Mỹ tên là Julian Barber,” vị biên tập viết, “nhưng điều đó không chứng tỏ Thomas Effing và Julian Barber là cùng một người. Và ngay cả nếu quả thực là như vậy, thì nếu không có tấm ảnh chụp nào tác phẩm của Barber, chúng tôi cũng không thể đánh giá được ông ấy thuộc dạng họa sĩ nào. Nhìn vào sự mờ nhạt của ông ấy, sẽ là lôgic khi nói rằng chúng ta đang không nói đến một tài năng quan trọng. Nếu quả thực là như vậy, chúng tôi sẽ không tìm được lý do nào để dành chỗ cho ông ấy trên tạp chí của chúng tôi. Trong bức thư trước tôi đã nói rằng tôi cảm thấy anh có đầy đủ chất liệu cho một cuốn tiểu thuyết hay. Giờ đây tôi xin nhắc lại điều ấy. Những gì anh có là một trường hợp thuộc ngành tâm lý học về cái bất thường. Tự bản thân nó có thể thú vị, nhưng nó không có gì chung với nghệ thuật cả.”
Đến chừng ấy thì tôi bỏ cuộc. Nếu muốn, tôi nghĩ mình có thể tìm được bản sao một bức tranh của Barber đâu đó, nhưng sự thật là tôi muốn không biết tác phẩm của ông trông ra sao hơn. Sau khi nghe Effing nói ròng rã mấy tháng trời, tôi dần bắt đầu tưởng tượng ra những bức tranh của ông, và giờ đây tôi nhận ra mình ngần ngừ trong việc để cho bất kỳ điều gì làm xáo trộn những bóng ma đẹp đẽ mà tôi đã tạo ra. In bài báo đó có thể đồng nghĩa với hủy diệt những hình ảnh ấy, và có vẻ như thật không đáng để làm vậy. Dù cho đã từng là một nghệ sĩ vĩ đại đến đâu, thì các bức tranh của Julian Barber cũng sẽ không bao giờ ăn nhập với những bức tranh mà Thomas Effing đã trao cho tôi. Tôi từng mơ thấy chúng từ những lời của ông, và chúng hoàn hảo, vô định, tái hiện cái thực chính xác hơn cả bản thân thực tế. Chừng nào còn chưa mở mắt, tôi còn có thể vĩnh viễn tưởng tượng ra chúng.
Tôi dành những ngày của mình cho sự lười biếng tuyệt diệu. Ngoài những việc vụn vặt liên quan đến căn nhà, không còn thứ trách nhiệm nào cần nói đến nữa. Hồi đó bảy nghìn đô la là một món tiền rất lớn, và tôi không chịu một sức ép nào để lập ra các kế hoạch. Tôi hút thuốc lại, tôi đọc sách, tôi đi lang thang trên các phố thuộc khu hạ Manhattan, tôi viết nhật ký. Những ghi chép ấy mang lại kết quả là một số tiểu luận ngắn, những mẩu văn xuôi nho nhỏ mà tôi thường đọc cho Kitty nghe ngay khi viết xong. Kể từ sau lần gặp gỡ đầu tiên, khi tôi làm cô sửng sốt với bài nói về Cyrano, cô đã đinh ninh tôi sẽ trở thành một nhà văn, và giờ đây khi tôi đã ngồi xuống bàn mỗi ngày, tay cầm một cây bút, mọi việc giống như thể lời tiên tri của cô đã trở thành sự thật. Trong tất cả các nhà văn mà tôi đọc, Montaigne là nguồn cảm hứng lớn nhất. Cũng giống như ông, tôi cố sử dụng các kinh nghiệm của chính mình làm chất liệu cho những gì tôi viết, và ngay cả khi những cái đó đẩy tôi đến với một địa hạt xa xôi và trừu tượng, thì tôi vẫn không cảm thấy mình đang nói gì mang tính nhất thiết về các chủ đề đó mà đúng hơn là đang viết một phiên bản ngầm ẩn của chuyện đời chính tôi. Tôi không thể nhớ hết được tất cả những gì đã viết, nhưng ít nhất là một số trong đó đã quay trở lại khi tôi cố gắng hết sức: một suy tư về tiền bạc, chẳng hạn, và một suy tư khác về trang phục; một tiểu luận về những đứa trẻ mồ côi, và một bài khác dài hơn về tự sát, được viết dưới dạng một tranh luận của Jacques Rigaut, một nhà thơ trường phái Dada Pháp ít người biết tới, người tuyên bố ở tuổi mười chín rằng ông tự cho mình mười năm để sống, và rồi, khi được hai mươi chín tuổi, khăng khăng giữ lời, ông tự bắn một viên đạn vào một ngày chọn trước. Tôi cũng nhớ đã nghiên cứu một chút về Tesla như một phần của dự án viết về vấn đề máy móc chống lại thế giới tự nhiên. Một hôm, trong khi đang lục lọi trong một hiệu sách cũ trên đại lộ Bốn, tôi tình cờ nhìn thấy một quyển tiểu sử tự thuật của Tesla, Các phát minh của tôi, lần đầu tiên xuất hiện trên một tờ tạp chí có tên Người kỹ sư điện vào năm 1919. Tôi mang quyển sách nhỏ về nhà và bắt đầu đọc ngay. Đọc được nhiều trang, tôi rơi vào đúng cái câu từng tìm thấy trên cái bánh may mắn tại Moon Palace gần một năm trước: “Mặt trời là quá khứ, trái đất là hiện tại, mặt trăng là tương lai.” Tôi vẫn giữ mẩu giấy trong ví, và tôi giật mình vì những từ đó được viết ra bởi Tesla, cùng con người đã từng quan trọng đến vậy với Effing. Tổng hợp hết các sự kiện đó có vẻ mang rất nhiều ý nghĩa, nhưng tôi thấy thật khó để nắm bắt một cách chính xác là theo cách nào. Giống như là tôi có thể nghe thấy số phận mình lên tiếng gọi, nhưng mỗi lần cố gắng lắng nghe, nó liền xoay sang nói một thứ ngôn ngữ mà tôi không hiểu. Liệu có phải là một người công nhân nào đó tại một nhà máy sản xuất bánh may mắn Trung Quốc từng đọc quyển sách của Tesla? Chuyện này thật khó tin, và ngay cả khi anh ta đã đọc, thì tại sao tôi lại là người ngồi ở cái bàn đó chọn chiếc bánh với chính mẩu giấy ấy ở bên trong? Tôi không thể không cảm thấy chao đảo vì những gì đã xảy ra. Đó là một điểm nút không thể xâm nhập, và có vẻ như là sẽ không có gì ngoài một giải pháp kỳ cục có thể có ý nghĩa: những âm mưu lạ thường của vật chất, những dấu hiệu tiền triệu, những linh cảm, một thế giới quan giống như của Charlie Bacon. Tôi bỏ bài tiểu luận về Tesla và lao vào vấn đề trùng hợp, nhưng tôi không bao giờ đi xa được. Với tôi đó là một chủ đề quá khó, và rốt cuộc tôi bỏ nó sang một bên, tự nhủ sau này sẽ có ngày mình quay trở lại. Sự thật là sẽ không bao giờ tôi làm vậy.
Kitty bắt đầu học lại tại Juilliard từ giữa tháng Chín, và thỉnh thoảng vào quãng cuối tuần đầu tiên đó, cuối cùng tôi cũng có tin tức của Solomon Barber. Đã gần bốn tháng trôi qua kể từ khi Effing chết, và tôi đã không còn trông chờ ông sẽ viết thư nữa. Dù sao thì điều đó cũng không mấy quan trọng, và nhìn vào nhiều câu trả lời khác nhau có thể có ở một người rơi vào địa vị của ông - sốc, giận dữ, hạnh phúc, sợ hãi - tôi khó có thể trách ông vì không liên lạc lại. Suốt năm mươi năm đầu tiên của cuộc đời bạn cứ nghĩ bố mình đã chết, thế rồi bạn phát hiện ông ta vẫn sống khỏe re ở đó, cùng lúc cũng chỉ để biết rằng giờ thì ông ta quả thực đã chết - thậm chí tôi còn không thể đoán nổi một người có thể tiếp nhận cơn địa chấn lớn đến vậy như thế nào. Nhưng rồi bức thư của Barber đến nơi: một bức thư lịch thiệp bày tỏ sự tiếc nuối, tràn ngập lòng biết ơn đối với những gì tôi đã làm để giúp đỡ bố ông trong những tháng cuối đời. Ông sẽ rất mừng nếu có dịp nói chuyện với tôi, ông viết, và nếu điều đó không phải là đòi hỏi quá đáng, ông tự hỏi liệu có nên đến New York vào một dịp cuối tuần mùa thu này hay không. Những gì ông viết thật lịch thiệp và khéo léo, tôi cảm thấy không thể từ chối được. Ngay khi đọc xong lá thư của ông, tôi liền viết phúc đáp, nói rằng tôi sẽ rất mừng nếu được gặp ông tại bất kỳ nơi nào ông muốn.
Không lâu sau đó ông đi máy bay đến New York - một buổi chiều thứ Sáu đầu tháng Mười, ngay khi thời tiết bắt đầu biến chuyển. Ngay sau khi đến lấy phòng tại khách sạn Warwick ở trung tâm thành phố, ông gọi điện cho tôi báo ông đã đến, và chúng tôi thỏa thuận sẽ gặp nhau tại khách sạn ngay khi nào tôi có thể tới. Khi tôi hỏi ông làm thế nào để nhận ra, ông cười nhẹ trong điện thoại. “Tôi sẽ là người to béo nhất trong phòng,” ông nói, “anh sẽ không thể không nhìn thấy tôi đâu. Nhưng để đề phòng trường hợp còn có thêm một người nữa cùng kích cỡ như tôi, tôi sẽ là người có cái đầu trọc lốc không một sợi tóc.”
Như tôi sẽ sớm nhận ra, từ “to béo” vẫn chưa đủ để miêu tả ông. Con trai Effing có tầm vóc kỳ vĩ, khổng lồ, hàng đống thịt chèn lấn lên nhau. Tôi chưa từng gặp ai có kích thước khủng khiếp như vậy, và khi nhìn thấy ông ngồi trên một cái sofa trong phòng khách của khách sạn, tôi do dự không dám tiến lại gần. Ông là một trong những người béo kinh khiếp thỉnh thoảng bạn đi lướt qua trong đám đông: dù cho có nỗ lực chỉ hướng mắt mình đến đâu, bạn vẫn không sao tự ngăn mình liếc nhìn ông ta. Ông phì nộn, sự tròn vung ra khắp phía đến mức bạn không thể nhìn ông mà không cảm thấy người mình rúm cả lại. Giống như thể ở ông tính chất ba chiều rõ nét hơn hẳn so với ở những người khác. Ông không chỉ chiếm nhiều không gian hơn họ, mà có vẻ ông còn chế ngự nó, phình hẳn ra khỏi các giới hạn của chính ông và ngự trị tại cả những nơi ông không hề ở. Ngồi đó với vẻ xả hơi, cái đầu trọc to tướng thò lên từ đống ngấn của cái cổ lực lưỡng, trông ông như thể có phẩm chất của huyền thoại, điều khiến tôi vừa cảm thấy ghê ghê vừa cảm thấy bi thảm. Không lẽ nào Effing gầy gò nhỏ bé lại có thể sinh ra một đứa con trai như thế: ông là một sai lệch di truyền, một cái mầm nổi loạn mọc lên thành một cái cây hoang, lớn vượt lên trên mọi chừng mực. Trong một lúc, tôi gần như thành công trong việc tự thuyết phục mình rằng ông là một ảo giác, nhưng rồi cái nhìn của chúng tôi giao nhau, và khuôn mặt ông bừng sáng lên trong một nụ cười. Ông mặc bộ com lê vải tuýt màu xanh lá cây và đôi giày Hush Puppy nâu. Điếu xì gà hút dở trên bàn tay trái trông không khác gì một cái đinh ghim.
“Solomon Barber phải không?” tôi hỏi.
“Đúng rồi,” ông nói. “Và anh chắc là anh Fogg. Tôi rất hân hạnh được gặp anh, thưa anh.”
Giọng nói của ông, oang oang và vang vọng, ầm ầm vọng ra từ đám khói xì gà trong phổi ông. Tôi bắt bàn tay khổng lồ và ông mời tôi ngồi xuống bên cạnh ông trên ghế sofa. Mất một lúc lâu chúng tôi không nói gì khác nữa. Nụ cười chầm chậm biến mất khỏi khuôn mặt Barber, và dáng vẻ ông chợt có chút gì xáo trộn, xa vắng. Ông nhìn ngó dò xét tôi thật chăm chú, nhưng cùng lúc ông lại có vẻ chìm đắm trong suy nghĩ, như thể một ý tưởng quan trọng nào đó vừa nảy ra trong óc ông. Rồi, không rõ tại sao, ông nhắm mắt lại và thở thật dài.
“Tôi từng biết một người mang họ Fogg,” cuối cùng ông nói. “Lâu lắm rồi.”
“Đây không phải là một cái họ phổ biến,” tôi nói. “Nhưng đôi khi cũng có thể bắt gặp.”
“Người mang họ Fogg đó là một sinh viên của tôi trong những năm bốn mươi. Khi đó tôi vừa mới bắt đầu nghề dạy học.”
“Ông còn nhớ tên của ông ấy không?”
“Có, tôi có nhớ, nhưng đó không phải là một người đàn ông, mà là một phụ nữ trẻ. Emily Fogg. Cô ấy học năm thứ nhất tại lớp lịch sử Mỹ của tôi.”
“Ông có biết bà ấy là người ở đâu không?”
“Chicago. Tôi nghĩ đó là Chicago.”
“Tên mẹ tôi là Emily, và bà ấy là người Chicago. Liệu có thể có hai Emily Fogg từ cùng một thành phố và học cùng một trường đại học không?”
“Có thể chứ, nhưng tôi không nghĩ là như vậy. Trông rất giống nhau. Tôi nhận ra cô ấy ngay khi anh bước vào phòng.”
“Lại thêm một sự trùng hợp nữa,” tôi nói. “Có vẻ như là vũ trụ ngập tràn chúng.”
“Phải, một vài khi nó có thể gây kinh ngạc rất lớn đấy,” Barber nói, bắt đầu chìm đắm trở lại trong các suy nghĩ của mình. Rõ ràng là đang rất cố gắng, ông nhập thần lại sau vài giây và tiếp tục nói. “Tôi hy vọng anh sẽ không cảm thấy bị xúc phạm trước câu hỏi của tôi,” ông nói, “nhưng tại sao anh lại mang họ thời con gái của mẹ anh?”
“Bố tôi chết trước khi tôi sinh ra, và mẹ tôi quay trở lại dùng họ Fogg.”
“Thứ lỗi cho tôi. Tôi không muốn tọc mạch đâu.”
“Không sao. Tôi chưa bao giờ biết bố tôi, và mẹ tôi thì chết được nhiều năm rồi.”
“Phải, tôi đã nghe tin đó không lâu sau khi nó xảy ra. Một tai nạn giao thông, hình như thế. Một bi kịch khủng khiếp. Chắc với anh nó phải kinh khủng lắm.”
“Bà ấy bị một cái xe bus cán chết tại Boston. Khi ấy tôi vẫn còn là một thằng bé.”
“Một bi kịch khủng khiếp,” Barber nhắc lại, nhắm mắt thêm một lần nữa. “Bà ấy từng là một cô gái đẹp và thông minh, mẹ anh ấy. Tôi vẫn còn nhớ rõ bà ấy.”
Mười tháng sau, khi Barber nằm hấp hối tại một bệnh viện Chicago với cái lưng gãy, ông nói với tôi là ông đã bắt đầu nghi ngờ đến sự thật ngay vào bữa trò chuyện đầu tiên tại khách sạn hôm ấy. Khi đó căn nguyên duy nhất khiến ông không nói thẳng ra là ông nghĩ điều này sẽ làm tôi hoảng sợ. Ông còn chưa biết gì về tôi, và ông không thể dự đoán tôi sẽ đáp lại cái tin đột ngột, đầy tính chất tai biến đó như thế nào. Ông chỉ cần hình dung ra cảnh đó là có thể hiểu được tầm quan trọng của việc giữ kín mọi chuyện. Một người xa lạ nặng 350 pound mời tôi đến một khách sạn, bắt tay tôi, và rồi, thay vì nói về những điều vì chúng tôi đến để nói, lại nhìn thẳng vào mắt tôi mà nói mình chính là người bố biệt tăm lâu ngày của tôi. Dù cho sự hấp dẫn có lớn đến đâu, thì cũng không thể làm vậy. Khả năng lớn nhất là tôi sẽ nghĩ ông là một thằng điên và từ chối nói chuyện tiếp. Vì sẽ còn có rất nhiều thời gian để chúng tôi làm quen với nhau, ông không muốn phá hủy đi các cơ may của mình bằng việc để chuyện xảy ra vào một thời điểm không thuận lợi. Cũng như rất nhiều điều trong câu chuyện tôi đang kể, đó hóa ra lại là một sai lầm. Trái ngược với những gì Barber tưởng tượng, thời gian không còn nhiều nữa. Ông tin rằng thời gian sẽ giải quyết vấn đề, nhưng rồi thời gian không bao giờ có để có thể trôi qua. Đây không hoàn toàn là lỗi của ông, nhưng dù thế ông vẫn phải trả giá cho nó, cũng ngang bằng với cái giá mà tôi phải trả cùng ông. Mặc cho các kết quả, tôi không thấy được bằng cách nào ông có thể hành động khác đi. Không ai có thể biết được điều gì sẽ xảy ra; không ai có thể đoán được những điều đen tối và khủng khiếp đang nằm chờ sẵn chúng ta.
Ngay cả giờ đây, tôi vẫn không thể nghĩ đến Barber mà lòng không tràn ngập sự thương xót. Nếu không bao giờ biết bố tôi là ai, thì ít nhất tôi cũng biết rằng một ông bố đã từng tồn tại. Dù sao thì một đứa trẻ cũng phải được sinh ra từ đâu đó, và người đàn ông sinh ra đứa trẻ đó dù muốn hay không cũng đều được gọi là một ông bố. Một mặt, Barber không biết gì cả. Ông chỉ ngủ với mẹ tôi một lần duy nhất (trong một đêm ẩm ướt, không trăng sao vào mùa xuân năm 1946), và ngày hôm sau bà đã đi khỏi, biến mất hoàn toàn khỏi cuộc đời ông. Ông không biết bà đã có thai, không biết mình có một đứa con trai, không biết một chút gì về những gì đã làm. Nhìn vào thảm họa tiếp nối sau đó, dường như sẽ là công bằng nếu ông nhận được cái gì đó để đền bù cho những đau đớn của ông, ngay cả khi đó chỉ là việc biết được những gì ông đã làm. Bà giúp việc sáng sớm hôm ấy bước vào mà không gõ cửa trước, và vì bà ta không thể ngăn tiếng thét kinh hoàng bật ra từ cổ họng, toàn bộ những người sống trong khu nhà đã kịp chạy vào phòng trước khi họ có đủ thời gian mặc lại quần áo. Nếu như chỉ có một mình bà giúp việc, hẳn là họ đã có thể bịa ra một câu chuyện, có lẽ thậm chí còn có thể lẩn tránh được, nhưng theo cách sự việc xảy ra, có quá nhiều người làm chứng chống lại họ. Một cô sinh viên năm nhất trên giường với thầy giáo môn lịch sử của mình. Có các điều luật chống lại dạng sự việc đó, và chỉ một kẻ đần độn mới có thể vụng về đến mức bị tóm được, đặc biệt là ở một nơi như Oldbum, Ohio. Ông bị đuổi việc, Emily quay trở lại Chicago, và mọi chuyện chấm dứt tại đó. Sự nghiệp của ông không bao giờ vươn được lên cao kể từ khi gặp tai nạn ấy, nhưng còn tệ hại hơn thế là nỗi dằn vặt vì để mất Emily. Điều đó cứ đeo đẳng ông mãi cho đến hết đời, và không một tháng nào trôi qua (theo lời ông kể cho tôi trong bệnh viện) mà ông không phải sống lại cái bạo liệt trong sự cự tuyệt của bà, cái nhìn kinh hoàng cùng cực trên khuôn mặt bà khi ông hỏi cưới bà. “Anh đã hủy hoại đời tôi,” bà nói, “và tôi sẽ bị nguyền rủa nếu còn gặp lại anh.” Quả thực sẽ không bao giờ hai người gặp nhau nữa. Đến khi ông tìm ra được tung tích của bà mười ba năm sau đó, thì bà đã nằm dưới mộ.
Từ tất cả những gì tôi thu thập được, mẹ tôi không bao giờ kể với ai về những gì đã xảy ra. Bố mẹ bà đều đã mất, và với Victor người dọc ngang đất nước cùng với Dàn nhạc Cleveland, không gì bắt buộc bà phải nhắc đến vụ bê bối cả. Xét theo mọi khía cạnh, bà chỉ thêm một lần bị đuổi khỏi trường đại học, và với một phụ nữ trẻ sống vào năm 1946, chuyện đó chẳng hề bị coi là cái gì quá to tát. Điều bí ẩn là ngay cả sau khi biết mình mang thai, bà vẫn từ chối không nói tên người bố. Tôi đã nhiều lần hỏi bác tôi điều này trong những năm chúng tôi sống cùng nhau, nhưng ông cũng mù tịt giống như tôi vậy. “Đó là bí mật của Emily,” ông nói. “Bác đã bắt mẹ cháu nói điều đó ra nhiều lần hơn là bác muốn nhớ, nhưng mẹ cháu không bao giờ cung cấp cho bác một đầu mối nào cả.” Trong những ngày đó sinh ra một đứa trẻ ngoài giá thú là một hành động can đảm và đầy bướng bỉnh, nhưng có vẻ như chưa lúc nào mẹ tôi do dự cả. Cùng với tất cả những thứ khác, tôi cần cảm ơn bà về điều này. Một người phụ nữ kém cương quyết hơn hẳn sẽ cho tôi đi làm con nuôi - hoặc, thậm chí còn tệ hại hơn, tìm cách phá thai. Đó không phải là một ý nghĩ dễ chịu cho lắm, nhưng nếu mẹ tôi không phải chính là bà, thì có thể tôi đã không được tạo ra ở trên cõi đời này. Nếu bà làm cái việc tuân theo lý trí kia, thì tôi đã chết trước khi được sinh ra, một cái thai nhi ba tháng tuổi nằm dưới đáy một thùng rác trong một ngõ phố heo hút.
Dù rất buồn bã, sự cự tuyệt của mẹ tôi không thực sự làm Barber ngạc nhiên, và khi nhiều năm đã qua đi, ông thấy thật khó khăn để lấy nó ra chống lại bà. Điều kỳ diệu là bà đã bị ông quyến rũ trước. Mùa xuân năm 1946 ông đã hai mươi chín tuổi và quả thực Emily là người phụ nữ đầu tiên ông không phải trả tiền lên giường với ông. Mà những phi vụ đó thật ra cũng hiếm hoi và cách xa nhau. Chỉ đơn giản là nguy cơ quá lớn, và khi biết được rằng khoái cảm này có thể bị tiêu diệt bởi nỗi nhục nhã, ông không dám dấn tới nữa. Barber không có ảo tưởng về chính mình. Ông hiểu người ta thấy gì khi nhìn vào ông, và ông biết họ đúng khi cảm thấy những gì họ cảm thấy. Emily từng là cơ may duy nhất của ông, và ông đã để mất. Dù thật khó để chấp nhận, ông cũng không thể không cảm thấy chính xác đó là cái mà ông xứng đáng.
Cơ thể ông là một nhà ngục, và ông bị kết án phải cả đời sống ở trong đó, một người tù bị lãng quên không có quyền đòi kháng cáo, không có hy vọng nào được giảm án, không cơ may nào được chuyển chỗ và một cuộc xử tử ân huệ. Ông đạt đến chiều cao tối đa năm mười lăm tuổi, khoảng giữa sáu feet hai và sáu feet ba, và kể từ đó trọng lượng của ông cứ không ngừng tăng lên. Suốt tuổi thiếu niên ông vật lộn giữ cho nó ở dưới 250 pound, nhưng những cuộc rượu thâu đêm không giúp được gì, cả những kỳ ăn kiêng cũng không có chút hiệu ứng nào. Ông kinh sợ những cái gương và cố gắng ở một mình nhiều thời gian nhất có thể. Thế giới là một cuộc chạy đua vượt rào của những cặp mắt nhìn chằm chằm và những ngón tay chỉ trỏ, và ông là một thứ trò hề lưu động, gã tròn ủng lạch bạch đi lại giữa hai hàng người độc ác cười nhạo và làm người ta đứng khựng lại trong khi đang bước đi. Những quyển sách trở thành nơi trú ẩn của ông từ rất sớm, một nơi ông có thể tự giấu kín mình - không chỉ khỏi những người khác, mà cả khỏi những suy nghĩ của chính ông nữa. Vì Barber chẳng bao giờ hồ nghi về chuyện phải đổ lỗi cho ai trong việc hình hài ông như thế. Bằng cách bước vào những từ ngữ trên trang giấy trước mặt, ông có thể quên đi cơ thể mình, và cái đó, hơn tất cả mọi thứ khác, giúp ông chặn lại được sự tự khinh rẻ bản thân. Những quyển sách cho ông cơ hội được bồng bềnh, được treo lơ lửng tồn tại của ông trong tâm trí, và chừng nào còn chú mục hết sức vào chúng, ông còn có thể nghĩ rằng mình đã được giải thoát, rằng những thứ dây trói buộc chặt ông vào những cái neo thô kệch đã bị cắt đứt.
Ông tốt nghiệp cao điểm nhất lớp ở trung học, thu thập những thứ hạng và điểm thi đủ sức làm choáng váng bất kỳ ai ở cái thị trấn nhỏ Shoreham, Long Island. Tháng Sáu năm đó ông có một bài phát biểu không mấy trôi chảy nhưng đầy nhiệt huyết để ủng hộ phong trào hòa bình, Cộng hòa Tây Ban Nha, và một nhiệm kỳ nữa cho Roosevelt. Đó là năm 1936, và đến cuối buổi đám đông công chúng trong phòng tập nóng như sôi vỗ tay nồng nhiệt khi nghe ông nói, ngay cả khi điều đó cũng không giúp gì được cho các hoạt động chính trị của ông. Rồi, giống hệt như đứa con trai đầu óc lơ đãng của ông sẽ làm hai mươi chín năm sau đó, ông lên New York học và trải qua bốn năm ở Đại học Columbia. Học xong, ông đã cố định được trọng lượng cơ thể mình ở mức 290. Tiếp theo là khoa lịch sử, đi kèm với một lời từ chối thẳng thừng của quân đội khi ông xin nhập ngũ. “Bọn béo không được vào đây,” viên thượng sĩ nói, miệng nhếch mép cười khinh bỉ. Do đó Barber gia nhập hàng ngũ đội quân hậu phương, đứng ở đằng sau cùng với những kẻ tật nguyền và có bệnh về đầu óc, những người quá trẻ và những người quá già. Ông qua hai năm tại khoa sử trường Columbia, xung quanh đặc phụ nữ, một đống thịt đàn ông ủ ê giữa các giá sách thư viện. Nhưng không ai chối được là ông rất giỏi trong những gì mình làm. Luận án của ông về Giám mục Berkeley và người Da đỏ giành giải thưởng Nghiên cứu nước Mỹ cho năm 1944, và sau đó ông được mời đi dạy ở một số trường đại học miền Đông. Vì nhiều lý do mà ông cũng không cố công tìm hiểu, ông chọn Ohio.
Năm đầu tiên khá thuận lợi. Ông trở thành một giáo viên được yêu mến, tham gia hát trong dàn nhạc của trường, giọng baritone, và viết ba chương đầu một cuốn sách về những câu chuyện bắt bớ người Da đỏ. Rốt cuộc chiến tranh ở châu u cũng kết thúc vào mùa xuân năm ấy, và khi hai quả bom rơi xuống Nhật Bản vào tháng Tám, ông cố tự an ủi mình với suy nghĩ chuyện này chắc sẽ không bao giờ tái diễn nữa. Mặc cho tất cả những khó nhọc, năm sau đó khởi đầu thật huy hoàng. Từ tháng Chín đến tháng Giêng ông giảm được trọng lượng cơ thể xuống còn ba trăm pound, và lần đầu tiên trong đời ông khởi sự nhìn tương lai với một chút lạc quan. Kỳ học mùa xuân mang Emily Fogg đến lớp lịch sử dành cho sinh viên mới của ông, một cô gái duyên dáng, đầy nhiệt hứng bỗng trở nên say mê ông. Điều đó quá tốt lành như thể không phải là sự thực, và mặc dù đã cố gắng hết sức để tiến hành câu chuyện một cách cẩn trọng, dần dần ông thấy rõ rằng đột nhiên mọi thứ đã có thể, ngay cả điều trước đây chưa bao giờ ông cả gan mơ đến. Rồi xảy đến câu chuyện ở khu nhà, bà phục vụ bất ngờ vào phòng, thảm họa. Tốc độ khủng khiếp của sự việc làm ông tê liệt, khiến ông quá choáng váng, không thể phản ứng. Khi ông bị gọi lên phòng ông hiệu trưởng trong ngày hôm đó, ý tưởng phản đối đuổi việc không hề xuất hiện trong trí óc ông. Ông quay về phòng, đóng gói đồ đạc, và bỏ đi mà không chào một ai.
Chuyến tàu đêm đưa ông đến Cleveland, tại đó ông vào ở một phòng trong YMCA[24]. Kế hoạch đầu tiên của ông là nhảy qua cửa sổ, nhưng sau ba ngày chờ đến thời điểm thuận lợi, ông nhận ra mình thiếu can đảm để làm việc ấy. Sau đó, ông quyết định từ bỏ ý định, từ bỏ cuộc chiến một lần cho tất cả. Nếu mình không có đủ can đảm để chết, ông tự nhủ, thì ít nhất cũng phải sống được như một người tự do. Điều đó là chắc chắn. Ông sẽ không lẩn tránh chính mình nữa; ông sẽ không để những người khác quy định con người mình nữa. Trong bốn tháng sau đó, ông ăn uống thả cửa để lãng quên tất cả, tọng đầy miệng những bánh kem và bánh rán, khoai tây chiên và thịt nướng đẫm nước xốt, hay bánh bột, gà rán, và hàng bát xúp cá tổ chảng. Sau khi cơn giận dữ đã nguôi ngoai, ông đắp thêm ba mươi bảy pound lên người - nhưng các con số từ đây không còn chút quan trọng nào. Ông đã ngừng nhìn vào chúng, và do vậy chúng không còn tồn tại nữa.
Thân hình càng phình to ra, ông lại càng tự chôn vùi bản thân vào đó sâu hơn. Mục đích của Barber là tự nhổ mình ra khỏi thế giới, biến mình thành ra vô hình với khối lượng thịt cơ man. Những tháng đó ông sống ở Cleveland, học cách lờ tịt đi những gì người khác nghĩ về mình, tự tiêm thuốc kháng lại nỗi đau bị trông thấy. Hàng sáng, ông tự thể nghiệm bằng cách đi dọc đại lộ Euclid vào giờ cao điểm, còn thứ Bảy và Chủ nhật ông nhất quyết ngồi ì cả chiều ở công viên Weye, trưng bày mình ra cho càng nhiều người càng tốt, vờ như không nghe thấy những lời bình phẩm, sẵn sàng chịu đựng cho đến khi cái nhìn của người khác rời khỏi người mình. Giờ đây ông trở nên cô độc, hoàn toàn tách biệt khỏi mọi người khác: một kẻ lữ hành tròn vo hình dáng như quả trứng nặng nề di chuyển qua những điều lóng ngóng của ý thức. Nhưng sự luyện tập đã có thành quả, ông không còn hoảng sợ nỗi cô đơn ấy nữa. Bằng cách chìm đắm vào sự hỗn độn nằm bên trong mình, rốt cuộc ông cũng trở thành Solomon Barber, một nhân vật, một ai đó, một thế giới tự tạo ra cho chính ông.
Sự hoàn thiện cực đại đến vào nhiều năm sau đó, khi Barber bắt đầu bị rụng tóc. Trước tiên việc ấy giống như một trò chơi chữ tệ hại - một người hói đầu lại mang cái tên có nghĩa Thợ Cạo - nhưng kể từ khi các mớ tóc giả đủ loại bị gạt ra bên ngoài, ông không còn cách nào khác là sống chung với nó. Khu vườn đẹp đẽ trên đầu ông dần khô héo. Nơi những lọn tóc đỏ sậm dày dặn từng mọc, giờ đây chỉ còn trơ lại da đầu, một đám da cằn khô. Ông không thích sự thay đổi trong vẻ bên ngoài đó, nhưng vấn đề còn đáng ngại hơn là chuyện nó hoàn toàn không chịu sự kiểm soát của ông. Nó đẩy ông vào một mối quan hệ thụ động với chính mình, và đó chính xác là điều ông không thể tiếp tục tha thứ được. Tuy nhiên, một hôm, khi tiến trình sự việc đã đi được nửa chặng đường (còn tóc ở hai bên mai nhưng trên đỉnh đã rụng ráo cả), ông lặng lẽ lấy ra một con dao cạo sạch đi tất cả những gì còn sót lại. Kết quả của trải nghiệm này còn gây ấn tượng mạnh hơn là ông có thể nghĩ. Hóa ra là ông sở hữu cái đầu giống như một tảng đá, Barber thấy vậy, một cái đầu đầy tính thần thoại, và khi đứng trước gương, ông thấy thật chuẩn mực khi cái hình cầu kỳ vĩ cơ thể ông giờ đây đã có một mặt trăng ở phía trên. Kể từ hôm đó, ông vô cùng chăm chút cho cái hình tiểu cầu ấy, sáng nào cũng cẩn thận bôi kem và dầu lên để giữ được vẻ sáng loáng và mềm mại, chiều chuộng nó bằng lối matxa điện, đảm bảo lúc nào nó cũng được bảo vệ khỏi sự tiếp xúc với mọi thứ. Ông bắt đầu đội mũ, đủ mọi loại mũ, và dần dần chúng trở thành biểu tượng cho sự kỳ cục ở ông, dấu hiệu tột cùng về con người mà ông là. Ông không còn đơn thuần là tay Solomon Barber béo phì, ông là Người Đàn Ông Đội Mũ. Cần phải rất táo gan mới làm được những điều ấy, nhưng khi đó ông đã học được cách vui thú với việc chăm bẫm sự quái đản của mình, mua lấy những thứ đồ dùng màu sắc rợ nhất ở khắp nơi, điều này lại càng nhấn mạnh thêm tài năng của ông trong việc làm người khác sửng sốt. Ông mang những cái mũ quả dưa, cát két bóng chày và mũ phớt mềm, mũ kiểu thực dân và mũ cao bồi, mọi thứ mà ý thích của ông nảy ra, không buồn quan tâm đến phong cách hay chuẩn mực. Năm 1957, bộ sưu tập của ông đã lớn đến mức có lần ông chơi liền hai mươi ba ngày không đội một cái mũ nào đến lần thứ hai.
Sau vụ đóng thập giá Ohio (sau này ông sẽ kể), Barber tìm được việc ở nhiều trường đại học nhỏ không mấy tiếng tăm ở vùng Trung Tây và miền Tây. Thoạt tiên Ông nghĩ chuyện này giống như một cuộc lưu đày ngắn hạn, nhưng rồi nó sẽ kéo dài đến hơn hai mươi năm, và tấm bản đồ các thương tích của ông được đánh dấu bởi nhiều điểm ở mọi góc của những khu vực hẻo lánh: Indiana và Texas, Nebraska và Oklahoma, Nam Dakota và Kansas, Idaho và Minnesota. Ông không bao giờ ở lại nơi nào quá hai hoặc ba năm, và bởi vì các trường ngày càng hao hao giống nhau, sự di chuyển không ngừng nghỉ khiến ông khỏi rơi vào cảnh chán chường. Barber có khả năng làm việc rất lớn, và trong sự yên bình bụi phủ của những đợt hưu nghỉ ấy hiếm khi ông làm việc gì khác, chỉ bền bỉ sản xuất các bài báo và những cuốn sách, dự các hội thảo và đi giảng, bỏ ra rất nhiều giờ cho sinh viên và các bài giảng đến mức đâu đâu ông cũng vươn lên trở thành giáo viên được yêu thích nhất trường. Năng lực của ông trong tư cách một học giả là điều không phải nghi ngờ, nhưng ngay cả sau khi vụ tai tiếng Ohio đã lắng xuống, các trường lớn vẫn nhất quyết quay lưng với ông. Effing từng nói đến McCarthy, nhưng cuộc đột nhập duy nhất của Barber vào cánh tả chính trị chỉ là với vai trò một người đồng hành nhiều thiện cảm với phong trào hòa bình ở Columbia trong những năm ba mươi. Ông chưa bao giờ bị vào sổ đen theo đúng nghĩa, nhưng dù vậy các kẻ thù của ông vẫn thấy đó là cơ hội thuận tiện để quây những lời bóng gió bịa đặt quanh cái tên của ông, như thể rốt cuộc cũng đã tìm ra một cái cớ tốt hơn để loại bỏ ông.
Không có ai nói rõ ràng ra, nhưng cảm giác chung là đơn giản Barber không thích hợp. Theo một nghĩa nào đó, ông quá to lớn, quá cứng đầu cứng cổ, quá thiếu khả năng sám hối. Cứ thử tưởng tượng một người khổng lồ nặng 350 pound ì ạch đi ngang qua sân trong của trường Yale, trên đầu đội một cái mũ đựng được đến mười ga lông nước. Hẳn là không thể được rồi. Ông thật không biết xấu hổ chẳng biết thế nào là cư xử cho phải phép. Chỉ riêng sự có mặt của ông thôi đã đủ làm rối loạn trật tự mọi vật, thế cho nên tại sao lại phải rắc rối lằng nhằng trong khi còn có khối ứng cử viên khác để mà lựa chọn?
Có lẽ như thế lại tốt hơn. Trụ lại ở vòng ngoại vi, Barber có thể được là người mà ông muốn. Các trường đại học nhỏ vui mừng vì có được ông, và vì không chỉ là người thầy giáo béo nhất từng tồn tại, mà còn là Người Đàn Ông Đội Mũ, ông được miễn trừ khỏi những trò cãi vã vặt vãnh và đơm đặt thường đầu độc cuộc sống tỉnh lẻ. Mọi điều về ông đều quá sức tưởng tượng, kỳ cục, vượt ngoài khuôn khổ thông thường đến mức không ai dám lên tiếng đánh giá ông. Ông có thể đến vào cuối mùa hè, cả người bụi phủ sau những ngày trên đường, đằng sau chiếc xe cũ kỹ rệu rã là một cái rơ moóc. Nếu quanh đó có sinh viên, ông sẽ nhanh chóng thuê họ dỡ đồ đạc cho mình, trả một món tiền rất lớn cho họ và sau đó mời tất cả đi ăn trưa. Cách làm ấy luôn giúp ông tạo lập một phong thái. Họ sẽ nhìn thấy bộ sưu tập sách gây choáng váng của ông, hằng hà sa số mũ, và cái bàn viết đặc biệt được làm riêng cho ông tại Topeka - cái bàn của thánh Thomas Aquinas, theo cách ông gọi nó, với một hình bán nguyệt lớn rút được ra khỏi bề mặt để phù hợp với cái bụng của ông. Không khó để cảm thấy bị choáng váng khi nhìn ông di chuyển với cách thức hụt hơi, khò khè, chậm chạp nhúc nhích thân hình bồ tượng từ nơi này sang nơi khác, không ngừng hút những điếu xì gà dài làm vương đầy mẩu tro lên quần áo. Sinh viên cợt nhả sau lưng ông, nhưng họ cũng rất tận tụy với ông, và với những người con trai con gái nông dân, chủ cửa hiệu và mục sư đó, ông là thứ gần gũi nhất họ có thể với tới được để biết về sự xuất sắc trí óc thực thụ. Không thể tránh khỏi, có các nữ sinh tim đập rộn lên vì ông (điều đó cho thấy tâm trí quả thực có thể mạnh mẽ hơn cơ thể), nhưng Barber đã ngấm bài học của mình, ông không bao giờ thêm một lần rơi vào cái bẫy đó nữa. Ông thầm thích thú khi các cô gái trẻ thờ thẫn xung quanh ông, nhưng ông vờ như không hiểu, vào vai kẻ thô lỗ thông thái, viên thái giám vui tươi đã ăn hết ham muốn ngày qua. Đó là một việc đau lòng, cô độc, nhưng nó mang lại cho ông một cách thức tự vệ, và nếu điều này không phải lúc nào cũng có tác dụng, thì ít nhất ông cũng học được tầm quan trọng của việc đóng cửa chớp im ỉm và khóa chặt cửa ra vào. Trong toàn bộ những năm lang thang đó, chưa từng có ai bị phát hiện làm chuyện vụng trộm với ông. Ông chế ngự họ bằng sự độc tôn của mình, và trước khi các đồng nghiệp có một cơ hội để chơi xấu ông, ông đã di chuyển sang địa điểm kế tiếp, nói lời tạm biệt và biến vào trong hoàng hôn.
Theo những gì Barber kể với tôi, có một lần ông đã tình cờ gặp bác Victor, nhưng cứ nghĩ về các chi tiết cuộc đời cả hai người, tôi tin rằng có thể họ đã gặp nhau đến ba lần. Cuộc gặp đầu tiên hẳn là năm 1939, dịp Triển lãm Hoàn cầu New York. Tôi biết chắc chắn cả hai người đều có mặt ở đó, và dù cho việc này thật khó tin, rất có khả năng họ đã ở đó vào cùng một ngày. Tôi thích tưởng tượng ra cảnh họ cùng nhau đứng trước một hiện vật trưng bày nào đó - chẳng hạn như Chiếc xe của Tương lai, hoặc Nhà bếp của Ngày mai - và rồi vì tình cờ mà đâm sầm vào nhau, vội bỏ mũ rối rít xin lỗi nhau, hai người đàn ông trẻ tuổi mới bắt đầu bước vào cuộc đời, một người béo một người gầy, những diễn viên hài kịch ảo đang diễn tiết mục nho nhỏ của mình trong phòng chiếu của đầu óc tôi. Effing cũng có mặt ở hội chợ, dĩ nhiên, khi ấy ông vừa từ châu u quay về, và cũng có nhiều khi tôi đặt ông vào vở diễn tưởng tượng đó, ông ngồi trong một cái xe đẩy làm bằng gỗ liễu gai theo lối cũ và Pavel Shum đằng sau đẩy ông đi. Có thể Barber và bác Victor đang đứng cạnh nhau khi Effing đi ngang qua. Có thể, vào đúng lúc đó, Effing lại phun ra một lời chửi rủa kinh hoàng cho người bạn Nga của mình, và Barber cùng bác Victor, kinh ngạc trước sự thô lỗ của ông già ở ngay chỗ đông người, mỉm cười với nhau và buồn bã lắc lắc đầu. Dĩ nhiên chẳng thể nào biết được người đàn ông đó lại chính là bố một trong số họ và ông nội tương lai của người cháu của người còn lại. Các khả năng của những cảnh tượng ấy thật nhỏ, nhưng tôi cũng thường cố gắng giữ nguyên mức độ khiêm tốn của chúng - những giao nhau ngắn ngủi và im lìm: một nụ cười, một cái nhấc mũ, một lời xin lỗi lúng búng. Theo cách ấy chúng có sức gọi hơn nhiều, như thể khi không dám trông mong nhiều lắm, khi chỉ tập trung vào các chi tiết nhỏ bé và phù du, tôi có thể lừa gạt chính mình để tin rằng những việc ấy quả thực đã từng xảy ra.
Cuộc gặp thứ hai có thể là ở Cleveland, năm 1946. Lần này còn nặng tính giả thuyết hơn lần trước, nhưng tôi vẫn còn nhớ rõ một hôm mình đã đi bộ xuyên qua công viên Lincoln ở Chicago với bác tôi và nhìn thấy một người to béo khổng lồ ngồi ăn sandwich trên bãi cỏ. Người đàn ông này gợi cho bác Victor nhớ về một ông béo khác bác đã gặp ở Cleveland (“hồi ấy bác vẫn chơi cho dàn nhạc”), và mặc dù không có bằng chứng xác thực nào, tôi vẫn thích nghĩ người đã gây ra một ấn tượng lớn đến vậy với ông chính là Barber. Chưa tính đến các chuyện khác, chỉ riêng ngày tháng cũng đã ăn nhập một cách hoàn hảo, vì Victor chơi nhạc ở Cleveland từ 1945 đến 1948, và Barber chuyển tới YMCA vào mùa xuân năm 1946. Theo lời Victor, một đêm ông ăn bánh pho mát ở Lansky’s Delicatessen, một khu mua sắm lớn và ồn ã cách Severence Hall ba khối nhà. Dàn nhạc vừa chơi xong một chương trình toàn Beethoven, và ông ra chỗ đó cùng ba người thuộc bên bộ phận nhạc cụ gỗ để ăn đêm. Từ chỗ ngồi của mình phía góc trong của quán, ông nhìn thấy rất rõ một người đàn ông béo phì ngồi một mình bên phía cánh. Không thể rời mắt khỏi dáng hình khổng lồ, cô độc đó, bác tôi hoảng hồn nhìn ông ta ăn một lèo hai bát bánh viên nhân thịt kiểu Do Thái, một đĩa bắp cải nhồi, bánh kếp, ba đĩa rau cải trộn, một rổ bánh mì, và sáu hay bảy củ cải ngâm trong một cái lọ đựng. Victor sửng sốt trước màn trình diễn nhai nuốt đó đến mức cả đời mình ông sẽ vẫn nhớ, một bức chân dung của nỗi bất hạnh con người thuần khiết và trọn vẹn. “Bất kỳ ai ăn theo kiểu ấy cũng đều đang tìm cách tự hủy hoại bản thân mình,” ông nói với tôi. “Cũng giống hệt như là nhìn ai đó chết đói vậy.”
Lần cuối cùng họ va phải nhau là năm 1959, thời gian bác tôi và tôi sống ở Saint Paul, Minnesota. Khi ấy Barber đang làm việc ở trường Macalester, và một tối khi ngồi trong căn hộ của mình tìm thông tin mua xe ôtô cũ trên các trang cuối tờ Pioneer Press, mắt ông rơi trúng một mẩu quảng cáo lớp học thổi kèn clarinet của một ông tên là Victor Fogg, “trước đây chơi cho Dàn nhạc Cleveland.” Cái tên đâm xuyên qua ký ức của ông như một ngọn thương, và một hình ảnh Emily quay trở về với ông, sống động và rõ ràng hơn bất kỳ hình ảnh nào ông từng thấy ở bà trong suốt nhiều năm. Đột nhiên bà lại ở bên trong ông, phục sinh thông qua cái họ của mình, và trong suốt phần còn lại của tuần đó ông không sao đẩy được bà ra khỏi suy nghĩ, tự hỏi điều gì đã xảy đến với bà, hình dung ra rất nhiều điều về cuộc sống mà bà có thể đã sống, nhìn thấy bà với một sự rõ nét đến bàng hoàng. Có thể là người thầy dạy nhạc không có liên hệ gì với bà, nhưng ông không thấy có gì hại để tìm hiểu. Việc đầu tiên nảy ra trong óc ông là gọi điện cho Victor, nhưng rồi, sau khi nghiền ngẫm những gì có thể nói, ông nghĩ ra một cách khác hay hơn. Ông không muốn bị coi là một thằng điên khi cứ cố kể câu chuyện của mình, lắp bắp những điều ông chẳng bà chuộc với một người xa lạ buồn chán ở đầu dây bên kia. Ông quyết định thay vào đó sẽ viết thư, bỏ đi bảy hoặc tám bản nháp trước khi hài lòng, rồi gửi nó đi trong một tâm trạng não nề, thấy hối tiếc ngay giây phút cái phong bì biến mất vào trong thùng thư. Câu trả lời đến mười ngày sau đó, một bức thư viết chữ thật sít trên một tờ giấy màu vàng. “Thưa ông…” bức thư viết, “Emily Fogg quả thực là em gái tôi, nhưng tôi rất lấy làm buồn phải thông báo với ông rằng cô ấy đã mất trong một tai nạn giao thông cách đây tám tháng. Tiếc thương vô hạn. Kính thư, Victor Fogg.”
Nói đúng ra bức thư không nói gì về những điều ông chưa biết trước đó. Victor chỉ mang đến một điều duy nhất, và điều này thì Barber cũng đã tự biết được từ rất lâu: ông sẽ không bao giờ gặp lại Emily nữa. Cái chết không thay đổi được điều này. Nó chỉ khẳng định lại điều đã quá chắc chắn, nhắc nhở sự mất mát mà ông đã quen thuộc trong suốt nhiều năm. Điều này không khiến cho bức thư bớt đi hiệu ứng đau đớn, nhưng khi đã khóc xong, ông thấy mình khát khao có thêm nhiều thông tin hơn. Chuyện gì đã xảy đến với cô? Cô đã đi đâu và cô đã làm gì? Cô có lấy chồng không? Cô có để lại đứa con nào không? Có ai yêu cô không? Barber muốn có các chi tiết. Ông muốn điền đầy các chỗ trống và xây dựng một cuộc đời cho cô, một điều gì đó hữu hình để có thể mang theo với mình: một loạt những bức ảnh, một quyển album ảnh mà ông có thể mở ra trong đầu óc mình và nghiên cứu tùy ý. Hôm sau ông lại viết thư cho Victor. Sau khi bày tỏ sự phân ưu sâu sắc và nỗi buồn thương trong đoạn thứ nhất, ông gợi ý theo một cách thức rất tế nhị rằng với ông sẽ vô cùng quan trọng việc có được câu trả lời cho một số câu hỏi. Ông kiên nhẫn đợi một lời phúc đáp, nhưng hai tuần trôi qua mà không có gì hết. Cuối cùng, nghĩ rằng bức thư của mình đã bị thất lạc, ông gọi điện cho Victor. Sau ba hay bốn hồi chuông, một người trực tổng đài xen vào nói số điện thoại đã bị cắt. Thật là khó hiểu, nhưng Barber không để cho việc này làm ông nhụt trí (dù sao thì ông ấy cũng có thể quá nghèo, đến mức không trả nổi hóa đơn thanh toán), thế là ông leo lên chiếc Dodge đời 51 và lái đến căn hộ của Victor tại 1025 đại lộ Linwood. Không thể tìm thấy cái tên Fogg trong dãy nút chuông ở lối vào, ông bấm gọi người quản lý. Một lúc lâu sau, một người đàn ông nhỏ bé vận áo len dài tay hai màu xanh lá cây và vàng ra cửa nói với ông rằng ông Fogg đã đi rồi.
“Ông ấy và thằng bé,” người đàn ông nói, “họ vừa đi khỏi cách đây mười ngày.” Với Barber đây là một nỗi thất vọng lớn, một cú đánh mà ông không trông đợi. Nhưng không một lúc nào ông ngừng lại để nghĩ xem thằng bé là ai. Và ngay cả có làm vậy thì cũng sẽ không khác gì. Ông sẽ nghĩ đó là con trai của người đàn ông thổi kèn clarinet và dừng lại ở đó.
Nhiều năm sau, khi Barber nói với tôi về bức thư ông đã nhận được từ Victor, rốt cuộc tôi cũng hiểu được tại sao bác tôi và tôi lại rời khỏi Saint Paul một cách đột ngột như vậy hồi năm 1959 ấy. Giờ đây cảnh tượng đó với tôi đã bắt đầu có nghĩa: cuống cuồng đóng gói đồ đạc vào ban đêm, đi xe không nghỉ về đến Chicago, hai tuần sống trong khách sạn và không đến trường. Victor không thể biết sự thật về Barber, nhưng điều đó không khiến ông bớt lo ngại về việc sự thật có thể là như thế nào. Ở đâu đó ngoài kia có một ông bố, và tại sao lại phải liều lĩnh với cái gã đàn ông cứ tò mò hỏi mọi chuyện về Emily như vậy? Mọi việc sẽ ngày càng tồi tệ hơn mà thôi, ai dám nói ông ta sẽ không tìm cách cướp lấy thằng bé? Mọi việc hoàn toàn đơn giản khi tránh không nhắc đến tôi lúc ông viết lá thư đầu tiên, nhưng rồi lá thư thứ hai lại tới cùng tất cả những câu hỏi mới đó, Victor nhận ra mình đang mắc kẹt rồi. Không trả lời bức thư cũng sẽ chỉ đẩy lùi vấn đề lại, vì nếu người lạ mặt tò mò đúng như ông ta tỏ ra, ông ta hoàn toàn có thể đến tìm chúng tôi. Khi ấy chuyện gì có thể xảy ra? Victor không thấy có cơ hội nào khác ngoài bỏ trốn, giữa đêm mang theo tôi và biến đi vào một đám khói mờ.
Câu chuyện này là một trong những điều cuối cùng Barber kể với tôi, và tôi cảm thấy lòng mình tan nát khi nghe nó. Tôi hiểu việc Victor đã làm, và trước tính chất trìu mến của hành động ấy, tôi thấy trong mình trào lên một đợt tình cảm - đau đớn vì tiếc thương ông bác, lại một lần nữa khóc cái chết của ông. Nhưng cùng lúc tôi cũng cảm thấy tức tối, cay đắng cho những năm tháng đã mất. Bởi nếu Victor trả lời bức thư thứ hai của Barber thay vì bỏ chạy, hẳn là tôi đã phát hiện ai là bố mình từ mãi năm 1959. Không thể buộc tội ai cho những gì đã xảy ra, nhưng điều này cũng không làm cho nó dễ chấp nhận hơn được. Tất cả đều là vấn đề về những kết nối bị bỏ lỡ, tính toán thời gian sai, mò mẫm trong bóng tối. Chúng tôi đã luôn ở đúng chỗ vào sai thời điểm, ở sai chỗ vào đúng thời điểm, luôn luôn lạc mất nhau, luôn luôn chỉ cách việc tìm ra toàn bộ sự th?