← Quay lại trang sách

Cuộc Tập Kích Nhà Máy Điện Hạt Nhân Của Iraq.

(Đầu đề trên do chúng tôi đặt. Trong cuốn hồi ký do tác giả viết có tựa đề Operation Sphinx - tôi tạm dịch là Chiến dịch Sphinx).

Phải chê trách thế nào đây đổi với Butrus Eben Halim, vì ông đã chú ý đến người phụ nữ trẻ, có mái tóc hoe vàng, khêu gợi trong chiếc quần bó sát người và chiếc áo sơ mi cực ngắn, đủ để làm trỗi dậy niềm đam mê của bất kỳ người đàn ông nào.

Đã một tuần nay, hàng ngày, người phụ nữ ấy cứ tới đợi xe buýt tại điểm dừng xe ở Villejuif, ngoại ô phía Nam của Paris. Vì chỉ có hai chiếc ô tô buýt đi qua đây, mà một chiếc phục vụ vùng xung quanh và một chiếc chạy tới Paris, và chỉ có một số ít người đi trên những chiếc xe ấy. Cái khó cho Halim là ông không hề biết gì về cô. Nên Halim không nghi ngờ gì cả, nhưng mục đích đi tìm kiếm chính lại là ở đó.

Dường như vào tháng 8 năm 1978, người phụ nữ trẻ có mái tóc vàng cũng có cùng một thời gian biểu đi xe như Halim. Cô ta đã có mặt tại điểm dừng xe khi Halim đi đến đón xe buýt, và một lát sau đó, một người đàn ông có đôi mắt xanh, nước da sáng, ăn mặc lịch sự, đi trên chiếc ô tô hòm Ferrari BB512, hai chỗ, màu đỏ đến đỗ đối diện với hè đường. Rồi người đàn bà bước lên xe. Chiếc xe nổ máy phóng đi ngay. Halim là người Iraq, có vợ là Samira. Đã chán ghét người vợ của mình cũng như cuộc sống tẻ nhạt ở Paris, ông đã dành nốt phần còn lại của đời mình để suy nghĩ về người phụ nữ trẻ kia. Halim không phải loại người hay chuyện phiếm với hàng xóm. Mặt khác, các Cơ quan An ninh của Iraq đã dạy cho ông biết đi theo một con đường vòng, chuyển hướng để đạt tới công việc của mình, và phải biết thay đổi công việc một cách thường xuyên. Chỉ có hai sự lựa chọn đối với ông: Một là điểm đỗ ô tô buýt Villejuif, ngay gần nhà ông và hai là ga xe điện ngầm Khu học xá (Cité Universitaire). Từ ga đó, Halim đi tàu điện tới Saclay, ở phía Tây-Nam Paris, nơi ông đang làm một chương trình bí mật hàng đầu để xây dựng một lò phản ứng hạt nhân cho Iraq.

Một hôm, xe buýt đến trước chiếc xe Ferrari của người phụ nữ này. Cô gái tóc vàng chăm chú nhìn trên đường với hi vọng thấy chiếc xe Ferrari, rồi cô nhún vai, bước lên xe buýt. Chiếc xe buýt của Halim bị chậm vì một “tai nạn không trầm trọng”: Một chiếc xe Peugeot đã vượt trước nó và đã gây ra sự cố.

Một lát sau, chiếc Ferrari tới. Người tài xế đảo mắt tìm người phụ nữ trẻ. Halim thấy vậy thét to bằng tiếng Pháp với người tài xế rằng cô ta đã đi xe buýt rồi. Người lái xe đáp lại bằng tiếng Anh: Thật rắc rối. Halim đã giải thích bằng tiếng Pháp cho người tài xế.

Để tỏ lòng biết ơn, người lái xe hỏi Halim đi đâu. Halim trả lời rằng ông đến ga Porte d’Orléans, chỉ mất mấy phút đi từ Khu học xá đến đó thôi, và thế là người lái xe, Ran S. - mà Halim chỉ biết dưới cái tên Jack Donovan, một công dân Anh - nói ông ta cũng đi về hướng đó và mời Halim lên xe đưa đến ga.

— Sao lại không nhỉ? - Halim trả lời đồng thời bước lên xe.

Cá đã cắn câu và dịp may đã đến, điều đó cho thấy Mossad (Cơ quan Tình báo của Israel) đã làm được một cuộc đi câu ngoạn mục.

Cuộc oanh tạc nhà máy điện hạt nhân được hoàn thành một cách ly kỳ vào ngày 7 tháng 6 năm 1981, khi những chiếc máy bay ném bom, do Mỹ sản xuất, của Không lực Israel phá huỷ lò phản ứng nghiên cứu Tamouz 17 (hay Osirak), ở Tuwaitha, nằm ở ngoại vi Thủ đô Bagdad, trong một cuộc tập kích cảm tử vào sâu trong lãnh thổ Iraq, kết thúc những năm tháng của các âm mưu, kết thúc những nỗ lực ngoại giao, những vụ phá hoại, hay ám sát do Mossad dàn dựng nhằm làm chậm lại công cuộc xây dựng nhà máy điện hạt nhân, mà cho tới trước đó, mọi mưu đồ làm cho dự án xây dựng này bị thui chột, đã thất bại.

Sau khủng hoảng về dầu lửa năm 1973, nước Pháp đã ký một Hiệp định nhằm trang bị cho Iraq, khi đó là nước cung cấp dầu lửa thứ hai cho Pháp, một trung tâm nghiên cứu hạt nhân. Từ đó mối lo lắng ngày càng tăng lên ở Israel. Cuộc khủng hoảng đã làm trầm trọng thêm mối quan tâm đối với hạt nhân chừng nào nguồn năng lượng chuyển theo hướng khác và những nước xây dựng các nhà máy điện chạy bằng năng lượng hạt nhân tăng cường một cách đáng kể những nỗ lực thương mại của họ. Vào thời kỳ này, nước Pháp muốn bán cho Iraq một lò phản ứng hạt nhân 700 mê-ga-oát. Iraq nhấn mạnh vào việc sử dụng lò phản ứng này phục vụ mục đích hoà bình, như cung cấp điện cho Thủ đô Bagdad chẳng hạn. Israel, về phần mình, không phải không có cơ sở, lo sợ rằng lò phản ứng đó sẽ được dùng để chế tạo ra những quả bom nguyên tử nhằm huỷ diệt.

Người Pháp đã chấp nhận cung cấp Uranium được làm giàu tới 93% từ các nhà máy làm giàu quặng Pierrelatte cho hai lò phản ứng hoạt động. Nước Pháp cũng đồng ý bán cho Iraq 4 dàn nạp nhiên liệu: Toàn bộ là 67 kg Uranium đã được làm giàu, đủ để sản xuất ít ra cũng được 4 quả bom hạt nhân. Jimmy Carter, khi đó là Tổng thống Hoa Kỳ, đã đưa ra lá bài trong chính sách đối ngoại của mình với việc không truyền bá hạt nhân, những nhà ngoại giao Mỹ “quấy rầy” người Pháp và người Iraq để họ thay đổi dự án của mình.

Người Pháp ý thức được ý đồ của Iraq khi Iraq không chấp nhận việc thay thế Uranium được làm giàu bằng một thứ nhiên liệu kém nguy hiểm hơn được gọi là “Caramen”. Chất này có thể sản xuất ra năng lượng hạt nhân nhưng không sản xuất ra được bom nguyên tử.

Iraq không thay đổi lập trường. Buôn bán là buôn bán. Trong một cuộc họp báo ở Bagdad vào tháng 7 năm 1980, ông Saddam Hussein đã mỉa mai nói về những lo ngại của Israel bằng cách nhắc lại rằng vài năm trước đây, “những nhân vật sioniste châu Âu đã chế nhạo người Ả Rập. Họ nói, người Ả Rập là một dân tộc lạc hậu, chỉ giỏi cưỡi lạc đà đi trong các sa mạc. Các bạn hãy xem, ngày nay, cũng chính những nhân vật ấy lại mặc nhiên khẳng định rằng Iraq đang sắp chế tạo một quả bom nguyên tử”.

Lập trường kiên định của Iraq về điểm này, vào cuối những năm 70, đã dẫn tới chỗ làm cho AMAN, Cơ quan Tình báo của Israel, gửi một thông điệp được xếp vào loại “đen”, hay nói một cách khác là bí mật hàng đầu, cho Tsvy Zamir, nguyên là một tướng quân đội, một con người cao và bị hói bẩm sinh, khi đó phụ trách Mossad. AMAN muốn có những thông tin chính xác về các giai đoạn khác nhau trong dự án của Iraq.

Zamir triệu David Biran, phụ trách cơ quan Tsomet, cơ quan tuyển dụng của Mossad đến. Sau đó, Biran, nhà tình báo chuyên nghiệp, một con người béo mũm mĩm, đã ra lệnh cho chỉ huy của các cơ quan tìm ra các mối quan hệ của Iraq ở trung tâm nghiên cứu hạt nhân Saclay, càng nhanh, càng tốt.

Hai ngày tìm kiếm cấp tập không đem lại kết quả nào. Biran phải nhờ cậy đến người phụ trách phân ban ở Paris. David Arbel, một sỹ quan có tay nghề của Mossad, biết nhiều thứ tiếng và xác định rõ cho ông ta mọi chi tiết về nhiệm vụ mới trong tương lai. Cũng như các phái bộ khác, phái bộ Paris được đặt ngầm bên dưới toà Đại sứ. Với tư cách người chịu trách nhiệm của Mossad, Arbel là người có thứ bậc cao nhất của chính bản thân Đại sứ quán. Các nhân viên của Mossad kiểm tra các va li ngoại giao và xem xét tỉ mỉ mọi tin tức do Đại sứ quán gửi đi. Họ cũng có nhiệm vụ sắp đặt những nơi ẩn náu, được gọi là “các địa điểm hoạt động”. Vì thế, phân ban London là chủ sở hữu của hơn một trăm căn hộ và là người đứng tên thuê khoảng năm mươi căn hộ khác.

Paris cũng có một số Sayanim (những người Do Thái hỗ trợ tình nguyện trên mọi phương diện), và một trong hai số đó có mật danh là Jacques Marcel, làm việc trong cơ quan nhân sự của Trung tâm nguyên tử Saclay. Nếu như nhiệm vụ không cấp bách, người ta không yêu cầu ông cung cấp những tài liệu gốc. Ông có thể thông báo miệng hoặc có thể phô tô lại các tài liệu. Ăn cắp một tài liệu là có những nguy hiểm và tạo ra mối nguy cơ không cần thiết cho một Sayan. Nhưng lần này, Mossad quyết định phải có tài liệu gốc vì trong chừng mực nào đó, tên của những người Ả Rập có sự vay mượn dễ nhầm lẫn (không hiếm các trường hợp ngoại kiều Ả Rập sử dụng những cái tên khác nhau trong bối cảnh đó). Vì vậy, để cú đánh của họ được chắc chắn, người Israel đã đề nghị Marcel đánh cắp danh sách những người Iraq đang làm việc ở trung tâm.

Marcel, người mà tuần sau đó phải tham dự một cuộc họp ở Paris, đã nhận được lệnh để danh sách đó trong cốp xe của ông, lẫn trong giấy tờ mà ông phải mang theo. Chiều hôm trước, ông đã đưa cho một katsa (sỹ quan xử lý) của Mossad một chìa khoá mở cốp xe (có hai chìa). Viên chức này đã tiếp xúc và giao cho ông những chỉ thị. Marcel phải đi đến trường quân chính bằng xe con và đi theo con đường kế bên trong khoảng một giờ. Tại đó, ông nhìn thấy chiếc xe Peugeot màu đỏ với một rèm che đặc biệt ở kính sau. Chiếc xe có thể được thuê từ hôm trước và đỗ suốt đêm trước một quán cà phê để giữ chỗ bởi ở Paris chỗ đỗ xe rất hiếm. Theo sự chỉ dẫn trước, Marcel phải đảo một vòng quanh ngôi nhà, và khi ông quanh vòng thứ hai tới trước chiếc xe Peugeot, thì chiếc xe này tách đi ra để nhường chỗ đậu xe cho ông. Tiếp đó, ông chỉ việc thản nhiên đi đến cuộc họp đồng thời để tài liệu lại trong cốp xe.

Những người làm việc trong một số khu vực đặc biệt dễ có thể bị kiểm soát mọi lúc. Cơ quan Mossad đã theo dõi Marcel, không để ông biết hôm hẹn gặp. Sau khi biết chắc chắn rằng không bị theo dõi. hai nhân viên của Mossad lấy tài liệu và đem vào trong quán cà phê. Trong lúc một người gọi đồ uống, người kia đi vào trong phòng vệ sinh. Trong nhà vệ sinh, viên sỹ quan kéo chiếc máy ảnh đặc biệt có giá đỡ từ trong áo vét ra chụp. Chiếc máy ảnh này cho phép tranh thủ thời gian vì nó đã được tính toán, điều chỉnh trước. Người này đã dùng những hộp phim của Mossad sản xuất và nó cho phép chụp được tới 500 kiểu trong cùng một cuốn phim. Sau khi chụp được ba trang giấy, anh ta đứng dậy ra khỏi quán cà phê, để trả tài liệu về chỗ cũ và đi mất hút.

Danh sách các tên tuổi lập tức được văn phòng chịu trách nhiệm ở Paris chuyển ngay về Tel Aviv qua máy tính bằng cách dùng hệ thống mã hoá hai lần có hiệu lực với Mossad. Người ta thêm nhiều thuật ngữ vào mỗi âm tiết. Giả sử như tên là Abdul, “Ab” sẽ có con số 7, và “dul” có số 21.

Để làm cho phức tạp thêm, mỗi số lại có một mật mã- hoặc là một chữ hay là một số khác - và mỗi khóa mật mã lại được thay đổi hàng tuần. Ngoài những sự phòng ngừa này, mỗi một bức điện lại chỉ được chuyển đi một nửa. Một nửa chứa nội dung mật mã của mật mã đối với “Ab” và nửa kia chứa mật mã của mật mã “dul”. Bằng cách đó, trong trường hợp phát hiện được một bức điện, thì bản thân bức điện không có ý nghĩa gì đối với người phá được khoá mã ấy. Chính vì thế mà bản danh sách những người Iraq làm việc ở Saclay được phát chuyển về Tel Aviv bằng hai lần. Ngay từ khi tên các người làm và cương vị tương xứng của họ được giải mã ở Tel Aviv, thì lập tức nó được thông báo cho Vụ Nghiên cứu của Mossad, thế nhưng ở đó Mossad còn thiếu một mảng lớn trong các hồ sơ của mình vì rằng nhân sự Iraq ở Saclay là những người làm khoa học. Trước đây họ không bị coi là nguy hiểm.

Vậy là viên chỉ huy của Tsomet giao toàn quyền cho phái bộ Paris tìm thật nhanh một con mồi. Và người ta đã tung con mồi nhử Butrus Eben Halkn như thế đấy. Hậu quả chứng tỏ rằng vận may đã mỉm cười với họ, nhưng lúc bắt đầu tiến hành, chỉ duy nhất có Halim là mục tiêu được chọn bởi vì ông ta là nhà nghiên cứu Iraq duy nhất đã cho biết địa chỉ của cá nhân. Điều đó có nghĩa rằng những người khác thận trọng hơn, hoặc họ sinh sống trong các khu gần nhà máy. Mặt khác, Halim đã có vợ, người Iraq, song đôi vợ chồng này không có con. Một người Iraq, 42 tuổi, không con cái, chắc chắn không phải là dấu hiệu của một cuộc hôn nhân hạnh phúc.

Lúc này, họ đã xác định được mục tiêu của mình. Cái khó là việc tuyển mộ được ông ta, vì Tel Aviv đã chỉ rõ: Tuyệt đối không để xảy ra thất bại.

Hai nhóm được chỉ định để hoàn thành hoạt động này.

Nhóm thứ nhất của chi nhánh Yarid chịu trách nhiệm về an ninh ở châu Âu. Nhóm này phải xác lập được lịch làm việc của Halim, cũng như thời gian biểu của vợ ông, bà Samira, kiểm tra xem ông ta có bị phía Iraq hoặc người Pháp theo dõi không, và qua trung gian một Sayan “bất động sản” thuê một căn hộ bên cạnh. Một trong những Sayanim của Paris làm việc trong lĩnh vực bất động sản, sẽ nói cho người đó khi phải thuê bí mật một căn hộ trong khu vực đã định.

Nhóm thứ hai, thuộc chi nhánh Neviot, lo toan về căn hộ của mục tiêu (đối tượng): Ăn trộm, đặt máy nghe - một thứ “đồ gỗ” nếu như công cụ cần phải ngụy trang trong đồ đạc bằng gỗ, hay một cái “ly” (một cái cốc, một mắt kính) nếu dính đến nghe điện thoại.

Chi nhánh Yarid của Vụ An ninh được cấu tạo bởi 3 nhóm, mỗi nhóm có từ 7 đến 9 người. Hai nhóm làm việc ở nước ngoài và một nhóm làm việc trong nước Israel. Chọn một nhóm luôn tung ra công việc thầu khoán khó khăn, vì mỗi nhóm phải coi công việc của mình là sinh tử.

Chi nhánh thứ hai cũng bao gồm 3 nhóm với các chuyên gia thành thạo về dùng các đồ dùng, bao gồm bẻ khoá, đào ngạch, ảnh tài liệu, lắp đặt micro trong các phòng hay trong đồ dùng gia đình mà không để lại dấu vết. Những nhóm này có những người am hiểu phần lớn các khách sạn ở Châu Âu, và chi nhánh không ngừng cải tiến trang thiết bị của mình để mở các cánh cửa đóng mở bằng điện, bằng thẻ từ tính, bằng mật mã. Các buồng của một số khách sạn hiện nay, cửa chỉ mở khi có dấu ấn các ngón tay của khách.

Khi những máy nghe đã được đặt trong căn hộ của Halim, thì một nhân viên của Shicklut (Cơ quan phụ trách việc nghe trộm), có nhiệm vụ kiểm tra lại và ghi tất cả các cuộc nói chuyện. Chiếc cát xét đầu tiên được chuyển ngay về Tổng hành dinh ở Tel Aviv, tại đó, tiếng địa phương được phân tích một cách tỉ mỉ. Sau đó, người ta phái gấp đến Paris một marats (một nhân viên nghe quen với tiếng đó), để tiếp tục theo dõi băng điện tử và giao cho phái bộ Paris một bản dịch ngay lập tức.

Tới giai đoạn này của công việc, Mossad không chỉ còn có một địa chỉ và một cái tên đơn thuần nữa. Mossad thậm chí không có lấy những tấm ảnh của người Iraq và không có bất kỳ một tin tưởng nào về sự hữu ích của người đó. Nhóm Yarid bắt đầu theo dõi ngôi nhà từ phía đường cái, nhờ một chỗ ẩn náu của căn hộ bên cạnh. Vấn đề phải biết Halim và vợ ông ta có sở thích gì.

Cuộc tiếp xúc thực sự đã xảy ra hai ngày sau đó. Một người phụ nữ trẻ quyến rũ với bộ tóc được cắt như con trai, gõ cửa nhà Halim, và tự xưng tên là Jaqueline. Thực ra người phụ nữ tên là Dina. Cô này là một nhân viên của Yarid chịu trách nhiệm xác định rõ người vợ của Halim và sau đó miêu tả cho các đồng nghiệp trong nhóm theo dõi, nói một cách khác là để bắt đầu công việc. Dina tự giới thiệu là người chào bán hàng tại nhà của một hãng nước hoa, dĩ nhiên điều đó chỉ là một vỏ bọc. Đem theo một chiếc hộp và một cuốn sổ yêu cầu ở tay, người phụ nữ này cũng bấm chuông các căn hộ khác trên tầng ba để chào bán các sản phẩm của mình, mục đích để tránh sự nghi ngờ. Người phụ nữ đến nhà Halim, khi ông đã tới sở làm việc.

Cũng như những người phụ nữ khác trong khu nhà, Samira thử hàng mới của Jacqueline, điều đó cũng không có gì ngạc nhiên cả, những nước hoa chào hàng khá rẻ hơn so với ở các cửa hàng bán lẻ. Các bà mua hàng phải trả một nửa tiền theo tính toán, phần còn lại sẽ giao cùng với lời hứa có một tặng phẩm bất ngờ cho từng khách mua.

May làm sao, bà Samira lại mời Jacqueline vào nhà. Và bà tâm sự với cô rằng: Chồng bà không đạt được tham vọng, bà xuất thân từ một gia đình sung túc có cuộc sống khá đầy đủ với tài sản riêng của bản thân. Nhưng - với một cái chau mày - bà phải trở về Iraq trong hai tuần, sau khi mẹ bà chịu một cuộc phẫu thuật nghiêm trọng. Vì thế, chồng bà sống một mình và dễ bị tác động.

Jacqueline tự giới thiệu là một nữ sinh viên, sinh ra trong một gia đình ở miền Nam nước Pháp, đi bán nước hoa để có tiền tiêu vặt, đã chăm chú nghe với vẻ thông cảm. Nhiệm vụ lúc đầu của Jacqueline chỉ là thẩm tra người vợ, nhưng kết quả này đã vượt quá mong muốn của mình. Trong quá trình theo dõi, mỗi một chi tiết được báo cáo và được thảo luận trong Hội nghị, tại một nơi kín đáo mà nhóm hàng ngày tiếp nhận được các tin tức rồi họ quyết định công việc tiếp theo. Điều đó có nghĩa là có sự bàn cãi gay gắt trong nhiều giờ. Các thành viên của nhóm, hút thuốc lá nhiều và ngốn hàng lít cà phê, bầu không khí nơi họp kín trôi đi nặng nề hàng giờ.

Một trong các cuộc họp như thế này, đã đi đến quyết định khai thác mối quan hệ đã có giữa Dina (Jacqueline) với bà Samira. Vì thế, người ta giao cho Dina nhiệm vụ kéo cho được người phụ nữ Iraq kia ra khỏi căn hộ hai lần. Lần thứ nhất để nhóm xác định xem đặt micro ở đâu và lần thứ hai là lắp đặt chúng. Người ta đã phải vào căn nhà, chụp ảnh, đo đạc, lấy mẫu các bức tranh, để cho phép chế tạo một vật chính xác giống hệt vật mà sẽ gài đặt micro vào đó. Như mọi việc Mossad làm, tiêu chuẩn chính là giảm được các mối nguy hiểm.

Trong buổi nói chuyện đầu tiên của mình với Jacqueline, bà Samira có than phiền là không tìm được hiệu làm đầu nào tốt trong khu phố để nhuộm tóc. Hai ngày sau, khi đến, Jacqueline mang theo hàng (lần này thì đến trước lúc Halim đi làm một chút để xem ông ta quan tâm đến gì), cô nói về người quen của mình có một cửa hiệu làm đầu ở bên kia sông.

— Tôi chỉ nói hai câu thôi - Cô tuyên bố như vậy với André và ông này sẽ vui vẻ chăm sóc tóc cho bà. Chỉ cần bà đến đó hai lần. Bà hiểu cho, hơi đặc biệt một chút.

Samira chớp lấy dịp may đó. Vợ chồng bà không có những người bạn thực sự trong khu phố, và quan hệ xã hội lại eo hẹp.

Phong cảnh thành phố lướt qua khác xa với cuộc sống nhàm chán không chịu nổi ở căn hộ làm bà rất vui.

Vật kỷ niệm bất ngờ đối với người mua nước hoa mà Jacqueline trao tặng bà Samira là một cái đeo chìa khoá rất đẹp - mỗi chìa có một cái vòng riêng.

— Xin bà đưa chìa khoá của bà cho tôi - Jacqueline nói - tôi sẽ chỉ cho bà thấy nó vận hành như thế nào.

Samira không nhìn thấy Jacqueline nhét chiếc chìa khoá bà vừa đưa cho cô, vào trong một chiếc hộp nhỏ 5 cm, giống như tặng phẩm bất ngờ kia, nhưng đựng đầy bột làm khuôn mẫu phủ bột hòa tan được để chiếc chìa khoá không dính vào. Bằng cách đóng hộp đè lên chiếc chìa khoá, với một áp lực mạnh, người ta có một mẫu để chế tạo ra chiếc chìa thứ hai.

Nhóm Neviot đã có thể thâm nhập vào căn hộ mà không có chìa khoá, nhưng tại sao phải chuốc lấy những nguy hiểm không cần thiết khi người ta có thể vào nhà một người nào đó như vào chính nhà mình? Khi vào trong nhà rồi, chỉ cần lấy chiếc ghế tì lên nền nhà chèn chặt quả đấm cửa, làm thế nào để nếu có một ai đó đến (sẽ làm hỏng việc theo dõi) và mở cửa không được, sẽ nghĩ rằng ổ khoá bị kẹt và thế là đi nhờ giúp, việc đó giúp cho những người ở trong nhà có thời gian tẩu thoát mà không bị phát hiện.

Ngay khi đã kiểm tra rõ Halim, nhóm Yarid sử dụng sự “theo dõi bất động”, một phương pháp để phát hiện thời gian biểu làm việc của một người nào đó mà không gây sự chú ý. Và đây là biện pháp đó: Một người chốt ở gần nhà mục tiêu và quan sát con đường mục tiêu này đi, nhưng không đi theo mục tiêu. Vài ngày sau, một người khác chốt xa nhà mục tiêu hơn một chút và cũng thực hiện công việc như người trước. Và cứ thế tiếp tục. Trong trường hợp hàng ngày Halim toàn đi xe buýt từ cùng một địa điểm, thì không có gì khó khăn.

Nhờ nghe trộm, nhóm biết chính xác khi nào bà Samira phải bay về Iraq. Nhóm cũng chột dạ về một câu chuyện trong đó Halim giải thích với bà rằng ông được triệu tới Đại sứ quán để kiểm tra sự an toàn (an ninh). Điều này làm cho Mossad phải tăng thêm sự thận trọng. Nhưng, Mossad vẫn không biết làm thế nào để lôi kéo, tuyển mộ ông ta và họ không có thời gian để đảm bảo là Halim có chấp nhận hợp tác không.

Ý nghĩ sử dụng một oter (một người Ả Rập được trả lương để móc nối với một người Ả Rập khác), đã bị uỷ ban An ninh dẹp sang một bên. Ủy ban thấy những nguy hiểm quá lớn trong trường hợp dùng một người như vậy. Họ không có quyền được phạm các sai lầm. Hy vọng Dina (Jacqueline) tiếp xúc được với Halim đã vụt bay biến. Sau hai lần hẹn đến hiệu làm đầu, Samira không còn muốn nghe nói đến Jacqueline nữa.

— Ôi chao ôi! Tôi thấy rõ ông ngắm nhìn con bé đó như thế nào rồi! - Bà Samira gào lên trong khi không ngớt lên án chồng - Đó không phải là vì tôi đi vắng mà ông tranh thủ nó. Tôi biết rõ cả rồi, thôi đi đi!

Chính vì điều này đã quyết định việc Mossad phải đưa ra kịch bản người phụ nữ trẻ có mái tóc vàng đứng ở nơi chờ ô tô buýt, với katsa Ran S. trong vai Jack Donovan, một người Anh lịch sự. Chiếc xe Ferrari đi thuê và vẻ giàu có bề ngoài của Donovan đã làm nốt phần việc còn lại.

Lần đầu tiên, khi đi cùng với Donovan một đoạn đường, Halim không nói gì đến công việc của mình. Halim khoe rằng đang theo học - Ran S. thì nghĩ rằng đối với một sinh viên, Halim hơi lớn tuổi. Ông ám chỉ tới chuyến đi của vợ, nói đến những món ăn ngon, nhưng là một người Hồi giáo ngoan đạo, ông không uống rượu.

Donovan tỏ ra lơ đãng nói có thể phải sắp xếp lại một kịch bản tự do lớn hơn. ông ta quyết định sang làm việc trong lĩnh vực xuất nhập khẩu và mời Halim tới thăm toà villa của Ran S. S. ở nông thôn hoặc đi ăn cơm tối trong thành phố khi nào vợ Halim đi rồi. Halim không có ý kiến gì.

Sáng hôm sau, người phụ nữ có mái tóc vàng đến, Donovan qua đón cô ta đi. Ngày tiếp theo, Donovan lái chiếc Ferrari tới, nhưng không thấy người phụ nữ kia đâu, và một lần nữa, Donovan lại mời Halim lên xe đưa vào thành phố. Lần này, ông ta đề nghị Halim dừng lại uống cà phê. Donovan giải thích về người bạn gái quyến rũ kia:

— Ôi! Một cô gái mà tôi đeo bám như vậy đây! Cô ấy bắt đầu trở nên khó tính, lúc mà tôi lỡ bỏ đón cô. Cô ấy có những nét thật tuyệt vời.

— Anh có hiểu tôi muốn nói gì không? Cuối cùng, đó không phải là những người phụ nữ dễ dứt đi được đâu, ông bạn ạ!

Halim không nói gì với bà Samira về người bạn mới của mình, ông muốn giữ bí mật.

Sau khi bà Samira đi, Donovan, người vẫn đều đặn qua đón Halim, và ngày càng trở nên thân thiện, đã thông báo rằng anh ta sẽ phải vắng mặt khoảng 10 ngày. Một chuyến đi làm ăn ở Hà Lan, lẽ dĩ nhiên đó chỉ là vỏ bọc, nhưng văn phòng do một nữ thư ký chăm lo vẫn làm việc trong trường hợp Halim gọi điện thoại đến hoặc Halim định qua. Văn phòng nằm trong một căn nhà mới được tân trang ở phía trên Champs-Elysées.

Tuy nhiên, trên thực tế, Ran S. (Donovan) vẫn ở chỗ ẩn náu theo dõi và sau mỗi cuộc gặp gỡ với Halim, Ran S. cùng với người phụ trách phái bộ hoặc viên phó của ông ta quyết định chi tiết những bước đi tiếp theo, vả lại, anh ta phải viết báo cáo, đọc những băng nghe trộm, đồng thời có thể kiểm tra lại kịch bản.

Để đi đến địa điểm bí mật, Ran đã đổi hướng đi nhằm tránh bị theo dõi. Một khi đến rồi, Ran đổi hộ chiếu Anh thay cho hộ chiếu thật của mình. Sau đó anh ta viết hai bản báo cáo. Một báo cáo có nội dung thông tin những gì thu thập được qua các cuộc nói chuyện. Một báo cáo có tính chất nghiệp vụ trả lời năm câu hỏi: Ai? Cái gì? Khi nào? Ở đâu? Vì sao? Sau đó, báo cáo nghiệp vụ được cắt làm hai phần chuyển đi để không có thể giải mã được. Thí dụ: Phần thứ nhất nói: “Tôi đã gặp untel ở”, và địa điểm được nói trong phần thứ hai của báo cáo. Cứ như vậy mà tiếp tục. Người ta đặt cho mỗi người hai tên mật danh mà bản thân con người đó cũng không biết: Mật danh mang tính chất thông tin và mật danh mang tính nghiệp vụ.

Việc thận trọng trong truyền tin là mối lo chính của Mossad. Họ biết rằng những gì mà họ có khả năng và họ tính toán được thì những người khác cũng có khả năng như vậy.

Samira đi rồi, Halim thay đổi thói quen: Sau giờ làm việc, Halim vào thành phố, ăn cơm tối ở hiệu hoặc vào xem chiếu bóng. Một buổi chiều, ông điện thoại cho Donovan và để lại lời nhắn gửi. Ba ngày sau, Donovan gọi điện thoại cho Halim. Vì Halim có mong muốn đi, Donovan đã chở ông ta đi ăn tối ở một tiệm ăn sang trọng và giành được trả tiền thanh toán.

Halim không uống rượu. Chiều tối, Donovan trình bày những nét lớn về dự án của mình. Dự án này nhằm bán lại cho các nước châu Phi những container cũ để cho họ dùng làm nhà ở.

— Ở đó còn có những khu nghèo khổ không thể tưởng tượng được - Donovan giải thích như vậy- Thế là họ có thể làm tổ ấm trong đó. Những container ấy có cửa ra vào, cửa sổ cho họ và họ sống ở bên trong! Tôi có một mối cho chuyến hàng ở Toulon mà nó có thể chẳng có nghĩa lý gì với tôi. Cuối tuần tôi cho hàng xuống tàu. Tại sao anh lại không đi với tôi?

— Tôi không biết tý gì về làm ăn - Halim cam đoan - Tôi sẽ làm phiền anh hơn thôi.

— Không có gì đâu. Sự có mặt của anh giúp cho chuyến đi và về thắng lợi thôi. Tôi khao khát có bạn đồng hành. Ta sẽ ngủ tại Toulon và chủ nhật quay về. Vả lại, anh có việc gì để làm đâu?

Kế hoạch đã bị thất bại vì Sayan ở Toulon, vào phút chót đã lo sợ. Một katsa đã thay thế vị trí “người làm ăn” định bán những container cho Donovan.

Trong hai cuộc thảo luận khác về giá cả, Halim đã chú ý đến một trong những container mà người ta cẩu lên có đế bị han rỉ (tất cả đều như thế và Donovan hi vọng là Iraq sẽ không phát hiện ra điều đó). Halim đã bí mật lưu ý điều này với Donovan, để anh ta có thể thương lượng với giá rẻ hơn cho khoảng 1.200 container.

Trong bữa cơm chiều hôm đó, Donovan đã biếu Halim 1.000 USD.

— Xin anh cầm lấy - Donovan khẩn khoản- Anh đã làm cho tôi tiết kiệm được nhiều khi báo cho biết nhũng container bị han gỉ. Cái đó không thay đổi khi bán, nhưng kiểu cách thì không có thể ước đoán ra sao.

Đột nhiên Halim nhận ra là anh bạn mới không chỉ đem lại cho mình thời gian bổ ích mà cũng còn giúp kiếm tiền cho mình nữa. Với Mossad, họ hiểu rằng tiền bạc, gái, và một vài lý do về tâm lý, hoặc cả ba yếu tố này gộp lại cho phép giành được tất cả. Con người mà họ (nói Halim) đã nắm, chắc là móc nối được. Thời gian đã chín muồi để chuyển qua những việc nghiêm túc với Halim.

Khi chắc chắn rằng Halim tin tưởng tuyệt đối vào chiếc vỏ bọc của mình, Donovan, sau đó mời anh bạn Iraq tới Khách sạn Sofitel - Bourbon ở tầng 32, đường Saint Dominique. Donovan đã lo đưa đến một cô gái gọi (Call Girl), tên là Marie - Claude Magal. Sau khi đã gọi đặt cơm tối, Donovan đột nhiên báo rằng anh ta phải vắng mặt vì một công việc đột xuất và bước ra, để lại một bức telex giả trên bàn, trường hợp đó có thể làm cho Halim hoài nghi.

— Tôi thực sự lấy làm buồn, ông bạn ạ Donovan nói trong lúc bước ra - Nhưng điều đó không cản trở anh ăn, vui đâu nhé. Hẹn gặp lại!

Halim và cô gái không làm khách, nhận ngay. Và để ăn chơi, họ đã ăn chơi! Mọi sự đùa giỡn của Halim đã được quay phim, không chỉ đơn thuần để đe dọa, bắt ép, mà còn để biết Halim làm gì, nói gì. Một nhà tâm lý Israel phân tích một cách tỉ mỉ mọi sự việc và hành động nhỏ nhất của Halim ghi lại trong các báo cáo và lập tức tìm ra cách thức tốt nhất để tác động đến anh bạn Iraq.

Hai ngày sau, Donovan gọi Halim. Ngồi trước tách cà phê, Halim nhận ngay ra rằng người bạn mình có điều gì băn khoăn.

— Tôi chết điếng người đi - Donovan giải thích - Một công ty Đức bán những ống đựng khi mà ta có thể sử dụng trong việc chuyển vận nguyên liệu phóng xạ dùng cho công tác nghiên cứu y học. Một dịp kiếm ra tiền, nhưng khốn nỗi đó là lĩnh vực mà tôi chả biết gì cả. Người ta giới thiệu cho tôi một chuyên gia người Anh. Ông ta đồng ý giúp kiểm tra những ống đó cho, nhưng đắt quá, vả lại tôi thấy không tin tưởng ở ông ta. Tôi cho rằng ông ta thông đồng với bọn Đức.

— Có lẽ, tôi có thể giúp anh được - Halim nêu vấn đề.

— Tôi xin cảm ơn anh, nhưng tôi cần một nhà khoa học dày dạn trong nghề.

— Đúng rồi, chính tôi đây.

— Vậy sao? - Donovan tỏ vẻ ngạc nhiên - Tôi nghĩ rằng anh là một sinh viên cơ mà.

— Vâng, tôi phải nói thế vì ở đây tôi có nhiệm vụ đặc biệt. Tôi tin chắc là giúp anh được.

Sau này Ran kể lại rằng lúc Halim thú nhận chức trách của mình rồi, anh ta có cảm giác như được tiếp thêm sức mạnh để làm việc. Sau đó, anh cần phải tuyệt đối im lặng.

— Này anh, tôi phải gặp họ ở Amsterdam cuối tuần này. Tôi cần phải đi sớm một hoặc hai ngày, nhưng anh tính sao nếu tôi gửi vé máy bay của tôi cho anh sáng thứ bảy?

Halim chấp nhận.

— Anh đừng có buồn phiền - Donovan hứa - Nếu như những cái đó còn trong tình trạng tốt, một nhà kiểm tra lỗi lạc sẽ bắt đầu đấy.

Do tác động về tình huống của công ty Donovan, một chiếc máy bay Learjet được phái cấp tốc từ Israel tới. Văn phòng ở Amsterdam thuộc quyền của một người thầu khoán Do Thái giàu có. Ran không muốn cùng đi với Halim qua biên giới, vì anh đi du lịch bằng hộ chiếu thật.

Điều đó tránh những rủi ro không cần thiết khi qua hải quan.

Còn Halim đến văn phòng ở Amsterdam trong chiếc xe Limousine đón anh ở sân bay về. Những người khác đã ở đó sẵn. Hai nhà làm ăn là katsa Itsik E. và Benjamin Goldstein, là một chuyên gia vật lý hạt nhân uyên bác của Israel, có sẵn hộ chiếu của Đức. Ông này mang một trong số những ống đựng khí để Halim xem xét.

Sau một vài thủ tục giới thiệu ban đầu, Ran và Itsik bỏ ra ngoài, lấy cớ thảo luận về tiền nong để cho hai nhà bác học trao đổi về kỹ thuật. Nhờ có những quan tâm chung về khoa học, hai người nhanh chóng có cảm tình với nhau và Goldstein hỏi halim do đâu mà ông có được những kiến thức về nền công nghiệp hạt nhân như vậy. Đó chỉ là một quả bóng tung ra để thử thôi, nhưng Halim, do sự đề phòng kém, đã nói hết công việc của mình cho Goldstein.

Sau đó, khi Goldstein kể lại cho Itsik về sự mù quáng của Halim, họ quyết định cùng nhau mời gã Iraq khù khờ kia đi ăn tối. Ran tìm cách xin lỗi không đến được.

Trong bữa ăn, hai người đưa ra những nét lớn về dự án họ đang làm: Bán những nhà máy điện hạt nhân cho các nước thế giới thứ ba - tất nhiên là để sử dụng vào mục đích hoà bình.

Dự án nhà máy điện hạt nhân của anh là một kiểu mẫu tuyệt hảo cho các nước này - Itsik tuyên bố như vậy - Nếu các anh có thể cung cấp cho chúng tôi các đồ án của những nhà máy đó, một cơ nghiệp mà chúng tôi đang chờ mong. Nhưng điều này cần giữ kín trong chúng ta thôi. Nếu như Ran biết được việc này, cậu ta cũng có thể muốn có phần. Chúng ta đã có những cuộc nói chuyện với nhau về công nghệ, Donovan không giúp gì cho chúng ta cả.

— Điều đó làm tôi hơi buồn - Halim đáp lại - Donovan là con người rất hào phóng. Và nữa, cái đó… ôi… cái đó nguy hiểm đấy.

— Không sao đâu, không có gì đáng lo lắng cả - Itsik cam đoan như vậy - Anh được tiếp xúc với các đồ án, chúng tôi chỉ đề nghị anh cho những bản sao thôi. Không ai biết, không ai thấy, và anh sẽ được trả tiền hậu, vả lại đây cũng là những ứng dụng đang thịnh hành.

— Được rồi, tôi nghĩ đã - Halim nói - không quyết định dứt khoát, nhưng quan tâm tới ý sẽ kiếm được nhiều tiền. Thế các anh định như thế nào đối với Donovan? Tôi không hài lòng khi làm điều gì đó sau lưng anh ta.

— Vậy, anh có tin là Donovan làm cho anh lợi lộc trong các hợp đồng không? Anh hãy yên tâm, cậu ta sẽ không biết việc này đâu. Công việc sẽ không làm anh mất bạn và anh vẫn tiếp tục làm ăn với cậu ta được. Hãy tính cho chúng ta, chúng ta sẽ không để cậu ta biết tí gì cả, chừng nào cậu ta biết việc này thì cậu ta đòi có phần.

Họ đã giữ kín điều này. Viễn cảnh tiền nhét đầy túi quá hấp dẫn. Halim có lòng tin đối với Goldstein và nói rằng, sau mọi việc, Halim không làm gì nữa, kể cả việc giúp họ chế tạo một quả bom nguyên tử.

Halim đã chính thức được tuyển mộ và cũng như những người khác, ông ta vẫn chả biết gì.

Donovan trả cho Halim 8.000 đô la vì sự giúp đỡ kỹ thuật của ông, và ngày hôm sau, sau buổi liên hoan ăn mừng trong phòng với một cô gái gọi chính cái anh chàng Iraq ngây ngô ấy đã lên máy bay tư nhân về Paris. Đến giai đoạn này, Donovan cần phải rút khỏi chu trình để giảm nhẹ tình trạng bối rối cho Halim. Vì thế, anh ta cần biến đi, tuy nhiên vẫn để lại một số điện thoại ở London để Halim liên lạc. Donovan nói rằng những công việc ở Anh giữ anh lại đó và anh không biết sẽ phải vắng mặt trong thời gian bao lâu.

Hai ngày sau, Halim gặp lại những người cộng tác mới ở Paris, Itsik hấp dẫn hơn Donovan, muốn có những đồ án nhà máy điện hạt nhân của Iraq, với sự lượng định chính xác về việc lắp đặt nhà máy, khả năng của nó và chương trình của những công việc được xây dựng.

Lúc mới đầu, anh chàng Iraq vui lòng chiều theo những đòi hỏi của họ. Hai người Israel kia dạy Halim cách phô tô “từng tờ một”. Người ta đặt tờ giấy đặc biệt lên tài liệu cần phô tô, dùng sức nặng của một quyển sách hay bất kỷ một đồ dùng nào khác cũng được, đè lên nó trong nhiều giờ. Tờ giấy sẽ thấm hình ảnh vào trong đó, bề ngoài trông vẫn giống một tờ giấy bình thường, nhưng sau khi xử lý, hình ảnh phô tô sẽ hiện lên.

Itsik càng bòn rút tin tức đối với Halim, trả tiền anh ta hậu hĩnh, thì anh chàng Iraq càng phát triển những tín hiệu của cái mà người ta gọi là “hội chứng của tình báo”: Những giọt mồ hôi nóng và lạnh, toát ra từ cơn sốt, mất ngủ, sự dày vò, những triệu chứng thể chất gây ra do sợ hãi bị bắt. Và càng hợp tác khăng khít, người ta càng sợ những hậu quả của nó.

Làm gì đây? Halim nghĩ ngay tức khắc đến anh bạn Donovan của mình. Anh ta sẽ biết. Anh ta quen biết nhiều người làm việc trong hàng ngũ quan chức cao cấp bí ẩn.

— Hãy giúp tôi, tôi xin anh - Halim nói tha thiết khi Donovan trả lời qua điện thoại - Tôi có những nỗi ưu phiền, nhưng tôi không thể nói những điều đó trên điện thoại. Tôi muốn có sự giúp đỡ của anh.

— Về điều ấy, bạn bè phải giúp thôi- Donovan đảm bảo vậy.

Hai ngày nữa, Donovan sẽ có mặt ở Paris và hẹn gặp Halim tại Khách sạn Sofitel sau khi anh tới.

— Tôi bị rơi vào bẫy sau cú giao kèo mù quáng bí mật với công ty Đức ở Amsterdam rồi - Halim bịa ra thế - Tôi ngao ngán lắm. Anh mới thực sự là người bạn của tôi, nhưng tôi lại để cho đồng tiền cám dỗ. Vợ tôi thì luôn luôn trách móc là không biết kiếm đủ tiền, không có tham vọng, khi tôi bỏ lỡ cơ hội. Tôi đã cư xử như một người ích kỷ và là một thằng đần. Tôi xin anh, tha lỗi cho tôi và hãy giúp tôi.

Donovan tỏ ra hào hiệp.

— Thôi bỏ qua chuyện đó đi, cái chính là làm ăn! - Donovan nói - Nhưng - Donovan nói bóng gió - những người Đức đó có thể là gián điệp của CIA.

Halim tảng lờ như không nghe.

— Nhưng… nhưng, tôi đã nói cho họ tất cả những gì tôi biết - Halim kêu lên (điều này làm Donovan khoái chí). Và những cái đó không đủ cho họ sao!

— Gượm đã, để tôi suy nghĩ. Tôi có những mối quan hệ. Chẳng phải anh là người đầu tiên bị đồng tiền cám dỗ đâu. Anh hãy thư giãn một chút và tạo cho mình thời gian tốt. Sự việc cũng không đến nỗi trầm trọng như người ta nghĩ khi nhìn nó với ánh mắt đầu tiên đâu.

Buổi chiều hôm đó, Donovan và Halim cùng nhau đi ăn tối và uống vài chén. Buổi tối, Donovan thuê một cô gái gọi cho Halim.

— Nào ông bạn, cô gái sẽ giúp anh khỏi phiền muộn đấy - Donovan trêu đùa.

Nhiệm vụ thật khó khăn! Gần năm tháng trôi đi kể từ khi bắt đầu chiến dịch, một khoảng thời gian tương đối ngắn đối với nhiệm vụ loại này, nhưng đã thấy tầm quan trọng của cái cần được, việc thực hiện nhanh chóng là chủ yếu. Dù sao, sự thận trọng vẫn có hiệu lực với giai đoạn này, và Halim đang trong tâm trạng căng thẳng, khiếp sợ, cần khẩn trương nương nhẹ với anh ta.

Sau một buổi thảo luận quyết liệt ở nơi bí mật, quyết định được đưa ra là Ran S. cần phải làm cho Halim tin rằng đó là cú đòn của CIA.

— Thế thì họ sẽ đến bắt tôi! - Halim hốt hoảng - Chắc chắn họ sẽ đến bắt tôi!

— Không đâu - Donovan đảm bảo điều đó- Đó không phải như anh đã làm việc cho Israel, không có gì trầm trọng cả. Và nữa, có ai sẽ biết việc này? Tôi sẽ thoả thuận với họ. Họ chỉ cần nắm tình hình, duy nhất có thế thôi. Họ sẽ để cho anh yên.

— Còn những gì? Liệu tôi có phải nói cho họ thêm nữa không?

— Này, cái đó chả có nghĩa gì với tôi đâu nhé, nhưng tôi nghĩ rằng anh hiểu - Donovan trả lời, đồng thời rút một trang giấy trong túi ra - đúng chưa! Đây này: Họ muốn biết phản ứng của Iraq khi nước Pháp đề nghị chuyển giao, chất đó gọi là gì? Caramel phải không? Thay thế cho chất Uranium đã được làm giàu. Anh đã nói với họ cái đó và anh sẽ không bao giờ nghe nói về họ nữa.

Halim nói rằng Iraq muốn mua Uranium đã được làm giàu, nhưng bằng mọi cách, Yahia El Meshad, một nhà vật lý gốc Ai Cập, trong vài ngày tới phải đến thanh sát dự án và chính ông là người thay mặt cho Iraq đưa ra quyết định cuối cùng.

— Liệu anh có dịp gặp ông ta không? - Donovan hỏi.

— Ô! Dĩ nhiên, ông ta phải gặp tất cả những người làm việc về dự án chứ!

— Tuyệt! Thế thì, anh có thể lấy được tin tức và anh sẽ thoát khỏi vụ việc.

Được an ủi, Halim đột nhiên thấy cần phải đi. Từ khi có tiền, Halim quyến luyến với cô gái gọi, có tên là Marie Claude Magal. Đó là một người phụ nữ trẻ dùng chỉ điểm cho cảnh sát, thế nhưng trên thực tế, chính Mossad đã thuê và trả tiền cho người này. Còn Halim, anh ta đã nói với Magal là muốn trở thành khách hàng thường xuyên. Cô gái này, theo gợi ý của Donovan, đã giới thiệu cho Halim cô bạn gái của mình.

Donovan năn nỉ nài Halim đứng ra tổ chức một bữa ăn tối với Meshad trong một quán rượu mà do ngẫu nhiên, anh ta cảm thấy ở đó “dễ chịu”.

Vào một buổi chiều đã định, Halim, bất ngờ giới thiệu Donovan với Meshad. Người Ai Cập này rất thận trọng, đành lòng nói xã giao “xin hân hạnh” rồi đi đến ngồi vào một bàn đồng thời nói Halim quay lại với ông khi nào nói chuyện với bạn xong. Quá bồn chồn, Halim không có khả năng đề cập về chủ đề chất Caramel nữa và Meshad không quan tâm gì đến những thông tin của Halim về Donovan, “người này mua tất và có thể mai mốt nó có ích cho họ”.

Sau đêm hôm đó, Halim điện thoại cho Donovan để báo cho biết là anh ta đã không thể moi được gì của Meshad. Chiều hôm sau, sau sự việc ở Khách sạn Soffitel, Donovan thuyết phục Halim tìm hiểu xem ngày nào các nguyên liệu hạt nhân được đưa xuống tàu gửi sang Iraq. Donovan đảm bảo rằng CIA bằng lòng và sẽ giữ yên lặng về việc đó.

Nhờ một nhân viên “da trắng” (không phải người Ả Rập), được trả tiền đang làm việc cho Chính phủ Pháp, Mossad biết được rằng Iraq từ chối việc thay Uranium được làm giàu bằng chất Caramel. Nhưng, Meshad, người chịu trách nhiệm về dự án của Iraq, có thể trở thành một tân binh có giá trị lớn. Làm thế nào để quyết định được việc đó?

Bà Samira từ Iraq trở về để tìm Halim. Tự phụ có được sự thăng tiến và đồng lương được nâng cao, Halim tỏ ra lãng mạn hơn, đưa vợ đi ăn hiệu. Thậm chí họ tính toán mua một chiếc xe ô tô.

Halim có thể là một nhà khoa học sáng giá. Ông ta có cố gắng nhiều nhưng không phải vì thế mà khôn ngoan hơn. Một đêm, không lâu sau khi vợ trở về, Halim không thể không nói cho vợ nghe về Donovan và những lo âu với CIA. Bà Samira nổi cơn thịnh nộ lên, dồn dập quở trách và nói rằng hai vụ việc đó có thể ông đã làm ăn với người Israel chứ không phải là CIA.

— Tại sao người Mỹ quan tâm đến dự án này Samira gầm lên - Còn ai khác, ngoài những người Israel và phải chăng tôi là người ngu, thậm chí chuốc lấy nỗi khổ để nói với ông những lời này?

Những tài xế của hai chiếc xe tải chở các động cơ máy bay Mirage từ nhà máy Dassault- Breguet tới kho La Seyne-surimer, gần cảng Toulon, đã không chú ý khi một chiếc xe tải thứ ba nối vào họ.

Trong chiếc xe thứ ba, một loại ngựa thành Troie hiện đại, người Israel giấu trong containner bằng thép, một nhóm phá hoại và một nhà nguyên tử học. Nhờ vào những thông tin của Halim, họ hi vọng sẽ đưa được những người phá hoại thâm nhập vào vùng được kiểm tra rất khắt khe, đồng thời cũng biết rằng những người gác kiểm tra hàng ra khỏi kho tỉ mỉ hơn hàng đưa vào kho. Trong trường hợp đó, họ ra hiệu cho xe vượt lên. ít ra thì những người Israel cũng đã tính toán được những việc nói trên. Nhà nguyên tử học thì từ Israel đến bằng máy bay để xác định chính xác những nơi để gài vào trong các động cơ hạt nhân những lượng thuốc nổ, nhằm thu được hiệu quả tối đa.

Một trong số những người phục vụ gác là nhân viên mới, nhưng việc tra cứu của anh ta quả là chắc chắn mà không ai nghi vấn anh ta ăn cắp chìa khoá trong nơi lưu giữ vật liệu vài ngày nữa sẽ đưa xuống tàu gửi sang Iraq. Theo sự hướng dẫn của nhà vật lý, nhóm phá hoại đã gài vào trong các động cơ phản lực năm liều thuốc nổ bọc nhựa tại năm nơi chính xác.

Đột nhiên, một tai nạn trên lòng đường thu hút sự chú ý của những người đứng gác xung quanh kho. Một người qua đường, một phụ nữ trẻ đẹp, vừa bị một chiếc xe ô tô con làm té ngã. Hình như cô ta bị va chạm không trầm trọng. Dù thế nào đi nữa, những tiếng nói của cô vẫn nguyên vẹn và cô trách móc một cách thiện chí người lái xe không may kia.

Một nhóm tò mò xúm lại, trong đó những người phá hoại đã leo lên lưới sắt của nhà kho bên cạnh và họ đã trà trộn vào đám đông. Đảm bảo đầu tiên là những người gác không tới, một trong số những người phá hoại đã bí mật tì lên một kíp nổ nhỏ xíu rất tinh vi, bằng một cú đã tiêu huỷ 60% các cấu kiện của lò phản ứng, gây thiệt hại khoảng 23 triệu đô la, làm cho dự án của Iraq chậm lại nhiều tháng, nhưng lạ thay là không làm hỏng được phần còn lại của những vật liệu được lưu giữ trong kho.

Ngay khi có tiếng nổ, những người gác đổ dồn về phía nhà kho. Chiếc xe tranh thủ lách đi, trong khi những người phá hoại và cô gái “bị thương” kia vui sướng đi trên những con đường bên cạnh, họ đã được luyện tập tốt trò thể thao này. Nhiệm vụ được hoàn thành thắng lợi, các kế hoạch của Iraq bị chậm lại một cách nghiêm trọng, tạo ra sự bối rối lớn nhất cho Saddam Hussein.

Một nhóm nhỏ trong những nhà sinh thái học Pháp, tới lúc đó chưa ai biết đến, nhận trách nhiệm về vụ phá hoại, một hướng tìm mà cảnh sát đã gạt ra ngoài. Nhưng, trước sự im lặng của cảnh sát trong quá trình tiến hành điều tra, mỗi một tờ báo lại đưa ra những giả thiết riêng. Chẳng hạn tờ Nước Pháp buổi chiều nói rằng cảnh sát đang điều tra những “người cánh tả”, trong khi đó tờ Buổi sáng lại thiên về một vụ phá hoại của người Palestine đang hoạt động ủng hộ Lybie. Tuần báo Le Point chĩa sự nghi ngờ của mình vào FBI. Còn một số tờ báo khác thì buộc tội cho Mossad, nhưng người phát ngôn của Chính phủ Israel đã bác bỏ lời buộc tội này và cho đó là “bài Do Thái”.

Sau khi ăn tối ở một quán bên tả ngạn con sông, Samira và Halim trở về nhà vào lúc quá nửa đêm. Halim mở đài ra nghe với hi vọng thư giãn một chút, bằng cách nghe nhạc trước khi đi ngủ. Thay vì được thư giãn Halim đã bật thẳng dậy vì tin thời sự chớp nhoáng liên quan đến vụ nổ.

Halim tự thấy hoảng sợ.

Halim bắt đầu bước đi trong nhà, ném tất cả cái gì ông có trong tay một cách hung dữ, và thét lên một cách rời rạc.

— Cái gì bắt ông như thế? - Samira kêu lên át cả tiếng ồn ào - Có phải ông điên rồi không?

— Chúng phá nổ lò phản ứng rồi - Halim thốt lên - Chúng đã phá lò phản ứng! Sẽ đến lượt tôi, chúng sẽ giết tôi!

Halim gọi điện thoại cho Donovan.

Khoảng gần một giờ sau, Donovan gọi lại.

— Trước hết, không được làm cái gì bậy bạ- Donovan đề nghị như vậy - Anh hãy bình tĩnh. Không ai có thể động tới chỗ anh đâu. Chiều mai hãy đến khách sạn của tôi.

Halim run sợ và ngẫu nhiên hôm sau đến Khách sạn Soffitel trình diện. Anh ta đã không cạo râu và không chợp mắt suốt đêm qua.

— Những người Iraq sẽ đến bắt tôi, đó là điều chắc chắn- Halim nói - Sau đó, họ sẽ giao tôi cho người Pháp. Người Pháp sẽ chém đầu tôi.

— Anh chả có gì để mà xem xét - Donovan cam đoan và suy nghĩ trong hai giây - Không ai có lý do để chê trách anh.

— Thật tồi tệ. Tồi tệ. Liệu anh có nghĩ rằng người Israel đứng đằng sau vụ đó không? Samira nghĩ là có. Có thể như vậy ư?

— Thôi, nào anh bạn, hãy trấn tĩnh lại. Anh định nói về cái gì? Những người mà tôi làm việc với họ không bao giờ dính líu vào một vụ đánh bom. Chắc chắn đó là một câu chuyện của tình báo công nghiệp. Chính đó là lĩnh vực tranh giành tàn bạo, chính anh đã nói với tôi điều này.

Halim tuyên bố là ông sẽ quay về Iraq. Vợ ông muốn trở về, và thời gian Halim ở Paris đã đủ rồi. Càng sống xa những con người như vậy, Halim càng thấy tốt hơn. Thậm chí họ sẽ không theo đuổi ông đến tận Bagdad!

Donovan, người muốn gạt bỏ mọi trách nhiệm dính líu của người Israel, vẫn giữ lý lẽ do phá hoạt về công nghiệp và nói với Halim rằng nếu Halim có mong muốn thay đổi thực sự cuộc sống của mình sao lại không bắt tay tiếp xúc với người Israel? Donovan có hai lý do để đưa ra lời khuyên với Halim: Không nghi anh ta làm ăn với người Israel và nhất là chuẩn bị dọn đường cho việc tuyển mộ dứt khoát Halim.

— Họ sẽ trả tiền hậu hĩnh. Họ sẽ kiếm cho anh một căn cước mới và bảo vệ anh. Họ phải chết vì ham muốn biết những gì anh biết về nhà máy điện nguyên tử.

— Không, không thể như vậy được - Halim đáp lại - Không, nhất định không làm ăn với họ. Tôi về nước mình.

Và thế là Halim về.

Vấn đề còn lại: Meshad, một trong số những nhà thông thái Ả rập nổi tiếng trong lĩnh vực hạt nhân, gần gũi với các giới chức dân sự và quân sự cao cấp của Iraq, một con người của lĩnh vực này có thể làm Mossad quan tâm. Mặc dù có sự giúp đỡ tự nguyện của Halim, nhưng nhiều vấn đề chủ yếu vẫn còn bị gác lại. Chính trong một chuyến đi thường xuyên của mình đến Paris, ngày 7 tháng 6 năm 1980, mà Meshad phải có quyết định dứt khoát liên quan đến việc mua bán. Tại một chuyến viếng thăm ở trung tâm Saclay, ông đã tuyên bố với các nhà bác học Pháp: “Chúng tôi sẽ thay đổi tiến trình lịch sử của thế giới Ả rập”, và chính đó thực sự là mối lo ngại cho Israel. Mossad nhận được bức telex từ Pháp ghi rõ ngày, giờ đến của Meshad cũng như số phòng khách sạn dành cho ông (9041 ở Méridien) điều đó tạo thuận lợi cho việc đặt micro nghe trộm.

Meshad, sinh ngày 11 tháng 1 năm 1932 tại Banham, Ai Cập. Đó là một nhà bác học nghiêm túc và tài giỏi, với mái tóc đen bị rụng đi chút ít.

Hộ chiếu của ông cho thấy ông là Hiệu trưởng ở Trường Đại học Tổng hợp Alexandrie, trong ban Khoa học hạt nhân.

Sau này, trong một cuộc nói chuyện với một nhà báo Ai Cập, vợ Meshad, bà Zamba, kể rằng họ đã chuẩn bị đi nghỉ hè ở Thủ đô Lơ-ke cùng với ba người con (hai gái, một trai). Meshad đã mua vé máy bay, khi một người chịu trách nhiệm của trung tâm Saclay điện thoại cho ông. Bà Zamba nghe được ông ta trả lời: “Tại sao phải là tôi? Tôi có thể cử một trong số những cộng sự của mình”. Bà cũng nói rằng bắt đầu từ lúc đó, chồng bà trở nên bị căng thẳng đầu óc và cáu kỉnh, và bà nghĩ rằng một nhân viên tình báo Israel đã chui vào trong Chính phủ Pháp, giăng một cái bẫy đối với chồng bà. “Tất nhiên công việc của ông ấy thật nguy hiểm. Ông thường nói rằng ông sẽ chế tạo một quả bom nguyên tử với bất cứ giá nào, thậm chí phải trả giá bằng cả cuộc sống của mình”.

Một bản giải thích chính thức do nhà cầm quyền Pháp công bố với báo chí khẳng định rằng ông Meshad đã bị một người phụ nữ làm tiền bắt chuyện trong cầu thang máy khi ông lên phòng ở tầng 9 vào lúc 19 giờ ngày 13 tháng 6 năm 1980. Mossad đã biết Meshad miệt mài với thói loạn dâm khoái đản (sado-masochisme) và ông là khách thường xuyên của một cô gái gọi tên là Marie Express. Ông đã thoả thuận là cô gái sẽ đến thăm ông vào lúc 19 giờ 30 phút. Tên thật của cô ta là Marie Claude Magal, chính là cô gái mà Ran S. đã giới thiệu cho Halim. Cô ta đã làm việc rất nhiều cho Mossad cho dù cô chẳng biết tên những người thuê mình. Thế nhưng khi cô được trả tiền hậu, cô không thắc mắc gì.

Người Israel hiểu rằng Meshad là một con người cứng rắn và người ta không có thể lừa ông ta một cách dễ dàng như anh chàng Halim cả tin kia. Vì ông ta chỉ ở Paris có vài ngày, nên cần có quyết định đặt vấn đề một cách thẳng thừng. “Nếu ông ta chấp nhận, người ta sẽ cam kết với ông ta- Arbel giải thích như vậy - Nếu không, ông ta sẽ chết”. Ông ta khước từ. Yehuda Gil, một katsa nói tiếng Ả Rập, có mặt ở trong phòng của Meshad trước khi Magal đến một lúc. Với tính đa nghi, Meshad hé mở cánh cửa mà không cắt bỏ dây xích an toàn.

— Ông là ai? - Meshad kèo nhèo hỏi - Ông cần gì?

— Tôi được một cường quốc cử đến. Cường quốc đó sẵn sàng trả đắt giá cho một vài thông tin - Gil nói.

— Ông xéo đi ngay, một loài chó, hay tôi phải gọi cảnh sát!

Gil rút lui. Thực ra ông bay ngay về Israel để người ta không thể quy trách nhiệm về hậu quả của những sự kiện.

Còn đối với Meshad, số phận của ông đã được xác định.

Mossad chỉ giết những người mà bàn tay họ đã nhuốm máu. Và Meshad biết có thể sẽ có những bàn tay nhuốm máu trẻ em Israel, nếu như dự án của ông ta được thực hiện. Vậy tại sao còn chậm trễ?

Tuy vậy, Mossad vẫn đợi cho Magal toại nguyện với người khách của mình và đợi cô đi khỏi. Hai người lặng lẽ lẻn vào phòng của Meshad trong khi ông đang ngủ và cắt cổ ông. Sáng ngày hôm sau, một cô hầu phòng phát hiện thấy một xác chết đầy máu. Cô ta đã đến phòng nhiều lần, nhưng tấm màn “không bị lộn xộn”. Đợi mãi, cuối cùng cô gõ cửa, không thấy có tiếng trả lời và cô vào phòng. Cảnh sát Pháp cho nguyên nhân là về công việc chuyên môn. Người ta không ăn cắp gì cả, không lấy tiền, không lấy tài liệu. Nhưng, cảnh sát phát hiện trong chiếc khăn ở phòng tắm có dấu môi son đỏ.

Magal đã bị một cú choáng khi nhận được tin về vụ giết người. Meshad còn sống khi cô ta từ giã ông. Nắm được một nghi vấn và để bảo vệ mình, Magal đi tìm cảnh sát và khai rằng, khi cô đến, cô thấy Meshad khùng lên với một gã đang cố nài thuê tiền ông ta, chỉ trong m?