Cuộc Hành Quân Babylonne.
Việc Mỹ và Anh cho các máy bay chiến đấu của họ liên tiếp tấn công các mục tiêu trên lãnh thổ Iraq, với lý do do họ tự đặt ra “bảo vệ vùng cấm bay, bảo vệ người Kurt”… không chỉ vi phạm thô bạo chủ quyền của một nước thành viên Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, mà làm dư luận liên tưởng tới cuộc tập kích phá hủy nhà máy điện hạt nhân của Iraq cách đây 20 năm do không quân Israel tiến hành với cái tên “Cuộc hành quân Babylonne”. Dưới đây, chúng tôi phỏng dịch lại sự kiện trên do nhà báo Claire Hoy viết theo lời kể của Victor Ostrovsky.
“Ngày 7 tháng 6 năm 1980, vào lúc 16 giờ, một ngày chủ nhật nắng đẹp, 12 chiếc F-15 và 16 do Mỹ sản xuất, đã cất cánh từ căn cứ Beersheba (không phải từ căn cứ Eilat như các phương tiện thông tin của thế giới thông báo, vì căn cứ này quá gần các trạm rada của Jordanie), để thực hiện một nhiệm vụ đặc biệt nguy hiểm, diễn ra trong 90 phút. Sau khi bay 1000 km trên lãnh thổ kẻ thù, những chiếc máy bay này đã tới Tuwaitha, nằm sát Thủ đô Bagdad, và phá huỷ nhà máy điện nguyên tử của Iraq”. Một chiếc máy bay giống như máy bay chuyển thư đường dài của công ty Air Lingus cùng bay với các máy bay Israel (vì người Irlandais thuê máy bay của họ cho các nước Ả Rập, sự có mặt của nó không làm ai ngạc nhiên). Nhưng, đó thực ra là một máy bay Boing 707 của Israel, một chiếc máy bay vận tải, các máy bay cường kích triển khai theo đội hình hẹp, chiếc 707 bay đúng bên dưới họ để ngụy trang và bay theo hành lang đường bay của máy bay dân sự. Các phi công lái máy bay giữ “yên lặng”, điều đó có nghĩa là họ không chuyển bất kỳ một bức điện nào cả, nhưng họ luôn nhận được tín hiệu của một máy bay được trang bị máy móc thông tin hỗ trợ để phục vụ cho việc làm nhiễu các tín hiệu khác, bao gồm cả những ra đa của địch.
Bay chừng nửa quãng đường trên lãnh thổ Iraq, thì chiếc Boing tiếp nhiên liệu cho các máy bay chiến đấu trên không; nếu không tiếp nhiên liệu, các máy bay sẽ không đủ nhiên liệu để quay trở lại Israel chừng nào họ bị truy đuổi. Hoàn thành nhiệm vụ, chiếc Boing 707 được hai máy bay chiến đấu bảo vệ, bay một nửa vòng, cắt ngang qua Syrie, để cuối cùng hạ cánh xuống Ai Cập. Hai máy bay chiến đấu rời khỏi chiếc Boing ngay khi họ bay khỏi không phận của Iraq, và quay trở về căn cứ ở Beersheba.
Trong thời gian này, các máy bay khác vẫn tiếp tục hành trình của mình. Các máy bay được trang bị tên lửa Sidewinder, bom phá thành từng mảnh nhỏ và một tấn bom điều khiển bằng la de.
Nhờ có những thông tin của Halim, người Israel biết chính xác đánh vào đâu để gây ra những tổn thất tối đa. Mục tiêu là phá huỷ cái vòm lớn của lò phản ứng của nhà máy điện. Từ mặt đất, một người Israel dùng một máy phát có công suất mạnh phát tín hiệu hướng dẫn các phi công đến mục tiêu.
Chỉ có hai phương pháp đạt tới mục tiêu.
Phương pháp thứ nhất, mục tiêu chỉ có thể nhìn thấy, khi máy bay phải bay với tốc độ là 1.200km/giờ. Cần nhận rõ mặt đất, nhất là mục tiêu lại nhỏ. Đương nhiên, các phi công Israel không có thời gian rảnh rỗi để luyện tập trên vùng trời Bagdad. Tuy nhiên, họ đã được luyện tập trên lãnh thổ Israel với mẫu giống nhà máy này.
Biện pháp thứ hai là làm công việc hướng dẫn bằng cọc tiêu, một người làm vật để tìm kiếm. Từ đó, mới có mặt của một chiến sỹ Israel ở sát cạnh nhà máy điện. Nhưng với biện pháp thận trọng, Mossad cũng đã tuyển mộ được một kỹ thuật viên Pháp và đề nghị người này giấu một vali các cọc tiêu ở bên trong nhà máy điện nguyên tử. Vì những lý do gì đó, anh ta đã kề cà trong nhà máy và là nạn nhân duy nhất của cuộc tấn công cảm tử này. Lúc 18 giờ 30 phút, giờ địa phương, những chiếc máy bay đã bay là là mặt đất để tránh ra-đa phát hiện, giữ ở độ cao đúng 600m trước khi tới mục tiêu.
Trận đánh nhanh đến nỗi nó làm thất bại sự phòng vệ của ra-đa và thêm vào đó, mặt trời lặn phía sau lưng những người tấn công làm loé mắt những người Iraq đang điều khiển các bệ pháo phòng không. Những chiếc máy bay tấn công khi bổ nhào xuống mục tiêu, cái nọ tiếp theo cái kia, bất thình lình đến mức những người Iraq chỉ có thể bắn những loạt đạn vô hại lên bầu tròi. Không có bất kỳ chiếc tên lửa Sam nào được bắn lên, cũng không có một chiếc máy bay Iraq nào được lệnh truy kích những chiếc máy bay chiến đấu của Israel. Họ đã bay trên một độ cao để trở về căn cứ và lần này đã sử dụng con đường ngắn hơn, qua không phận của Jordanie. Saddam Hussein, người muốn biến nước Iraq trở thành một cường quốc hạt nhân, đã thấy những mơ ước của mình bị tiêu tan.
Nhà máy điện hạt nhân đã hoàn toàn bị phá huy. Chòm cao đồ sộ bảo vệ xung quanh lò phản ứng đã bị sập xuống tận móng và những bức tường bê tông cốt thép đã bay tung lên thành từng mảnh. Hai trong số những toà nhà quan trọng nhất đã bị hư hại nghiêm trọng. Các phi công đã quay phim hoạt động bằng máy quay video và họ đã chiếu những hình ảnh ghi được cho một uỷ ban Nghị viện Israel xem. Người ta đã nhìn thấy phần trung tâm của lò phản ứng nổ tung lên và đổ sập xuống thùng tái làm lạnh.
Do Mossad biết được là lò phản ứng sẽ đưa vào vận hành ngày 1 tháng 7, Begin đã ra lệnh tấn công trước vào cuối tháng 4. Nhưng, các báo đã cho đăng tải bài bình luận của cựu Bộ trưởng Quốc phòng, Ezer Weizman, nói rằng ông Begin “đã chuẩn bị một chiến dịch bầu cử dại dột (khinh xuất)”, do cuộc tấn công đã đem lại.
Một ngày khác được ghi nhận, ngày 10 tháng 5, bảy tuần trước ngày bầu cử, cũng bị bãi bỏ khi bà Simon Perés, Chủ tịch Đảng Lao động, gửi một bức thư “cá nhân” và “tuyệt mật” cho ông Begin, ra lệnh từ bỏ cuộc tấn công với cái cớ: Những thông tin của Mossad không “thực Perés cũng đã dự tính là cuộc tấn công sẽ gây ra việc cô lập Israel “như một người Ả Rập đứng giữa sa mạc”.
Ba giờ đồng hồ sau khi cất cánh, các phi công đã trở về căn cứ của mình an toàn. Thủ tướng Menahem Begin ngồi chờ đợi tin tức ngay ở nhà mình, trên đường Smolenskinne cùng đầy đủ các quan chức văn phòng của mình.
Vài phút trước lúc 19 giờ, tướng Rafael Eitan, Tham mưu trưởng Quân đội Israel, đã gọi điện thoại cho Begin, để thông báo thắng lợi của nhiệm vụ (được gọi tên là cuộc hành quân Babylonne) và bảo đảm với ông rằng đã không có bất cứ sự thiệt hại nào về phía Israel.
Người ta dự tính là Begin sẽ kêu lên: Baruch Hashem! Câu đó nghĩa là: “ơn trời đã ban phúc”!
Phản ứng nóng của Saddam Hussein đã không bao giờ được công bố.