← Quay lại trang sách

Chương 3 Những Nhiệm Vụ Xanh.

Những kiến thức về kỹ thuật mà chúng tôi thu được trong học tập, đòi hỏi phải được thử nghiệm trên hiện trường, việc mà mỗi ngày chúng tôi làm hai lần. Người ta gọi điều đó là làm “những quán hàng ngoài trời”. Mục đích khác là làm cho chúng tôi quen với những cuộc họp được tổ chức sau mỗi lần tiếp xúc với một tân binh.

Ở đó còn nữa, những thành tích của chúng tôi được chuyển qua một phòng kế bên, nơi để các học sinh sỹ quan phân tích và phê phán nó. Mỗi cuộc họp mổ xẻ kéo dài khoảng 1 giờ 30 phút là một việc làm man rợ khủng khiếp.

Mỗi lời nói, mỗi cử chỉ đều được rà soát. “Và anh có tin rằng nó sẽ cắn vào mồi câu của anh không? Vì sao anh khen ngợi bộ quần áo của nó đẹp? Anh muốn đi tới đâu?”.

Những sai lầm phạm phải trong “khi làm các quán hàng” rối bời lên, chắc hẳn là vậy, nhưng không có gì nguy hại. Sau này, trong thế giới Tình báo, những thành tích của chúng tôi là không thể phủ nhận được. Tuy nhiên, chính trong cái thế giới đó, chúng tôi đã sống những ngày nóng bỏng.

Mọi người đều cố gắng dành được những điểm tốt nhất, nhưng sự thất bại vẫn thường xuyên là nỗi ám ảnh. Chúng tôi đã trở thành những con nghiện nghề Tình báo. Ngoài Mossad ra, cuộc sống của chúng tôi rất tẻ nhạt: Phải chăng, ở đó có những sự thôi thúc khích lệ?

Chính Amy Yaar, là người phụ trách Vụ Viễn Đông và châu Phi đối với Tevel (sự liên lạc), người đã truyền dạy cho chúng tôi sau này. Lúc ông ta kể câu chuyện đầy quyến rũ của mình, tất cả chúng tôi thấy sẵn sàng lao vào công việc Tevel.

Những người mà Yaar chỉ huy, được-phân bổ qua phương Đông, và ít làm Tình báo. Họ nhảy vào các cơ sở của hợp tác về thương mại, nhằm tạo ra hay tăng cường các mối quan hệ ngoại giao. Chẳng hạn, một người trong số họ đã sống ở Djakarta với hộ chiếu Anh để làm nhiệm vụ môi giới, tạo thuận lợi cho việc bán vũ khí trong vùng. Chính phủ Indonesia biết người này thuộc Mossad. Khi cần, một giải pháp đã được dự tính trước, để người này rút đi. Yaar cũng có một người ở Nhật, một người ở Ấn Độ, một người ở châu Phi, và khi có dịp, đưa người tới Sri Lanka, Malaysia. Hàng năm, ông ta tập hợp người của ông về Seychelles. Công việc của ông ta không thật nguy hiểm, và ông ta vui thích với thời gian quý báu của mình. Ở châu Phi, những nhân viên liên lạc của ông Yaar đã tung hứng nhiều triệu đô la dành cho việc giao bán vũ khí. Công việc của họ chia làm ba thời kỳ. Trước hết, đánh giá nhu cầu của một nước, biết tiềm năng của kẻ thù nước đó và những mục tiêu nguy hiểm của cuộc xung đột. Sau đó, gắn vào những mối quan hệ sức mạnh và để nghe xem liệu Israel có thể cung cấp cho chính phủ của các nước đang đặt vấn đề về vũ khí, về kỹ thuật…Ví dụ, một khi nước nào đó phụ thuộc vào vũ khí và công nghệ của Israel, người của Mossad sẽ tác động để họ cũng mua trang bị nông nghiệp của Israel. Dần dà, người đứng đầu của các nước này sẽ tiến đến nói chuyện hoặc thiết lập những quan hệ ngoại giao với Israel, nếu như họ muốn tiếp tục được hưởng sự giúp đỡ về kinh tế và quân sự của Israel. Mục tiêu của hoạt động là thiết lập các quan hệ ngoại giao, nhưng việc bán vũ khí quá thường xuyên đã đem lại nhiều lợi lộc khiến những nhân viên liên lạc, thậm chí không được làm khó khăn đối với việc chuyển qua giai đoạn tiếp theo. Thế mà, ở Sri Lanka, họ đã hoàn thành tất cả nhiệm vụ của họ. Amy Yaar chăm lo về các mối quan hệ, chuyển giao những hợp đồng về thiết bị quân sự, trong số đó gồm cả những tàu phóng ngư lôi nhằm bảo vệ các bờ biển. Cùng trong thời gian đó, Yaar và những người của ông ta, cung cấp những vũ khí chống tàu phóng ngư lôi cho những người Tamoul, để giúp họ chống lại các lực lượng của các chính phủ. Những người Israel cũng huấn luyện những đơn vị kiểu mẫu của cả hai phe, hiển nhiên là giải quyết khó khăn cho cả bên này và bên kia (xem chương I, phần 2). Ngoài ra, họ còn giúp Sri Lanka chiếm đoạt hàng triệu đô la đối với Ngân hàng thế giới và của những nhà đầu tư khác, để trả tiền mua vũ khí của những người Israel bán cho họ.

Đất nước có những vấn đề kinh tế kinh niên và sự khuấy động của người nông dân gây lo ngại cho Chính phủ Sri Lanka, người đang tìm cách đập tan những cuộc nổi loạn, trong lúc di chuyển một bộ phận nông dân qua phía khác của hòn đảo. Nhưng để làm điều đó cần phải kiếm một cái cớ.

Chính ở đó, Amy Yaar đã lao vào đạo diễn. Do sáng kiến của ông, mà người ta phải làm một dự án khổng lồ cho “đập Mahaweli”, nhằm thay đổi dòng chảy của con sông Mahaweli, để tưới cho đất đai khô cằn. Chiếc đập phải đáp ứng hai vấn đề là sản xuất ra năng lượng thuỷ điện, và mở rộng diện tích trồng trọt tới 300.000 ha. Ngoài Ngân hàng thế giới, Thuỵ Điển, Canada, Nhật, Đức, CEE và cả Hoa Kỳ nhận sẽ hợp tác với dự án 2,5 tỷ đô la.

Ngay từ lúc khởi đầu, đó là một công trình có tham vọng lớn, nhưng Ngân hàng thế giới cũng không hơn gì những nhà đầu tư khác, đã không nhận ra điều đó và tất cả cứ tin là dự án vẫn luôn được duy trì. Lúc đầu, chương trình phải trải dài trong ba mươi năm, Tổng thống Sri Lanka, Junius Jayawardene, phát hiện ra trong năm 1977 rằng, cùng với sự giúp đỡ của Mossad, người ta có thể kéo chương trình ra trong một thời kỳ dài hơn.

Sự thành công của dự án kéo theo việc trưng dụng đất đai của những người nông dân và thuyết phục Ngân hàng thế giới, là người đang tung vào đó 250 triệu đô la. Mossad đóng góp hai viện sỹ Hàn lâm của Israel. Một kinh tế gia của Trường Tổng hợp Jelusalem và một giáo sư nông học, chịu trách nhiệm in những bản báo cáo xác định ích lợi của dự án và đưa ra con số giá thành của nó. Ngoài ra, một phần của giao kèo thuộc về một công ty lớn của Israel, Công ty Solel Bonah.

Thỉnh thoảng, các đại diện của Ngân hàng thế giới tới Sri Lanka để thanh sát những bước tiến của công việc, nhưng Yaar giải thích cho những nhà chức trách địa phương, tại sao lại mất cảnh giác với các vị đại diện này: Để mạo xưng vì lý do an ninh, người ta hướng dẫn những đại diện của Ngân hàng thế giới đi con đường khác, ở ngay công trường, được xây dựng do hoàn cảnh tạo nên.

Về sau, khi tôi làm việc cho vụ của Yaar, ở Tổng hành dinh của Mossad, tôi làm cận vệ cho con dâu của Tổng thống Jayawardene, khi bà sang thăm bí mật Israel. Người đàn bà trẻ này tên là Penny và làm quen với tôi, một người mang cái tên là “Simon”.

Tôi hướng dẫn bà đi khắp nơi mà bà muốn và chúng tôi đã nói chuyện với nhau. Chủ đề là do bà ta đề cập tới. Bà ta giải thích cho tôi vì sao vốn dành cho xây dựng một chiếc đập nổi tiếng lại bị dùng để tài trợ mua trang bị quân sự. Chiếc đập nước chỉ còn là bản vẽ. Tôi thừa nhận điều đó, khi chúng tôi tạo ra một dự án bằng mọi cách để rút được tiền ở Ngân hàng thế giới, tiền để dùng vào việc mua vũ khí!

Thời kỳ đó, Israel không duy trì quan hệ ngoại giao với Sri Lanka, mà ngược lại, nước này tham gia vào cấm vận chống chúng tôi. Penny kể cho tôi nghe về những cuộc gặp gỡ bí mật giữa hai quốc gia. Một số báo chí phong phanh biết được các cuộc gặp gỡ này, thậm chí nêu ra sự có mặt của hàng trăm katsa ở Sri Lanka, thực ra, lúc đó, chúng tôi không có chừng ấy nhân viên ở trên toàn thế giới. Trong thực tế, Amy Yaar và một trong số những người giúp việc của ông ta, là những nhân viên duy nhất của chúng tôi ở Colombo, vả lại họ cũng chỉ lưu lại ở đó một thời gian ngắn.

Bất ngờ thứ hai của chúng tôi, là khi chúng tôi tham dự khoá học về PAHA. PAHA, là một vụ của Paylut Hablanit Oyenet hay nói một cách khác là “phá hoại kẻ thù”, và liên quan chủ yếu tới PLO. Những người làm viên chức cho PAHA, chủ yếu lại là những người làm văn phòng. Họ là những người làm công việc nghiên cứu giỏi nhất của mọi tổ chức.

Người ta đưa chúng tôi vào một phòng ở tầng sáu của Tổng hành dinh Mossad, nơi, người ta nói với chúng tôi, mọi tin tức hàng ngày về việc di chuyển của các thành viên PLO và của các tổ chức khủng bố khác được báo về. Phần sau đã làm chúng tôi sửng sốt. Người giáo viên mở một tấm pa nô trên tường, lớn khoảng ba chục mét chiều rộng, dưới chân tấm pa nô là các bàn máy tính sát tường. Trên tấm pa nô, mà người ta chiếu các bản đồ lên, được chia thành những ô vuông nhỏ, sáng nhấp nháy hoặc chiếu sáng. Giả dụ rằng người ta lập chương trình “Arafat” trên bàn phím máy tính, thì tức khắc một ô vuông loé sáng trên tấm bản đồ, chỉ nơi ở cuối cùng của ông ta. Nếu người ta hỏi “Arafat, trong ba ngày”, người ta sẽ thấy sự di chuyển của ông trong ba ngày vừa qua. Dinh thự cuối cùng của ông ta được chỉ dẫn bằng ánh sáng mạnh hơn. Các chỉ dẫn đó sẽ giảm đi trong chừng mức mà những di chuyển đó đã xảy ra trong thời gian lâu rồi.

Nếu người ta muốn biết việc di chuyển của mười thành viên có vai vế của PLO, chỉ cần lập chương trình với tên của họ trên máy tính, thì ngay tức khắc các ô vuông trên pa nô sẽ sáng lên với màu ánh sáng khác nhau. Người ta cũng có thể thu được các ấn bản của những thông tin này. Bản đồ này cho phép có được các thông tin ngay tức khắc: Giả dụ, tám trong số mười thành viên của PLO đang nói tới, có mặt ở Paris trong cùng một ngày người ta có thể khấu trừ bớt các ô vuông trên bản đồ là vì họ cùng chuẩn bị một hoạt động và Israel phải chống lại cùng một kế hoạch của họ.

Máy tính trung ương của Mossad có bộ nhớ lưu giữ hơn một triệu rưỡi tên. Những ai là thành viên của PLO, hoặc của các tổ chức khủng bố khác, được sắp xếp theo PAHA, tuỳ thuộc từng vụ. Máy tính của PAHA có chương trình riêng, nhưng cũng có thể sử dụng bộ nhớ của máy trung ương, một máy Burroughs, trong khi đó Quân đội và các Cục Tình báo khác sử dụng các máy IBM.

Nếu cần, một chi tiết nào đó của bản đồ trên tường, có thể được phóng đại, và cung cấp bản đồ của cả một thành phố chẳng hạn. Khi một tin nào liên quan đến PLO, đến tới máy tính của PAHA, một ánh sáng tức khắc loé lên ngay trên màn hình. Người trực ghi tin lại và yêu cầu có một bản in trên máy tính. Không một động thái nào PLO làm mà không có tên trên màn ảnh khổng lồ này.

Khi tới phiên một người nào trực gác, thì phản xạ đầu tiên của người đó là yêu cầu có một báo cáo đầy đủ trên máy tính về các sự việc và hành động của các thành viên tổ chức PLO trong hai mươi bốn giờ qua. Nếu một người quan sát thấy có hai chiếc xe tải chạy tới một trại của người Palestine, ở phía Bắc Lyban, thì người ấy, lập tức thông báo cho PAHA. Giai đoạn kế tiếp là phát hiện xem những chiếc xe đó chở gì. Sự liên lạc như vậy với những người quan sát, theo dõi đã diễn ra hàng ngày, đôi khi hàng giờ, tuỳ theo mức đe dọa đè lên Israel.

Kinh nghiệm cho thấy là những chi tiết tưởng không quan trọng lại có thể phát hiện ra những hoạt động trên quy mô lớn. Trước cuộc chiến tranh Ly ban, một điệp viên đã báo cho biết, có một tàu chở hàng thịt bò loại một, thứ thực phẩm hiếm thấy của những người Palestine, đã được chuyển giao cho một trại của PLO. Mossad biết là PLO đang chuẩn bị một cuộc tấn công, nhưng chưa biết chính xác ngày, giờ của cuộc tấn công đó. Chuyến tàu chở hàng đã làm trỗi dậy sự nghi ngờ của họ. Thế mà họ biết thịt bò được gửi tới để ăn mừng chiến thắng của cuộc tấn công. Với sự hỗ trợ của tin này, một đơn vị biệt kích hải quân đã tổ chức một cuộc tấn công phòng ngừa, và diệt mười một du kích PLO vào đúng lúc họ đang leo lên những chiếc ca nô cao su ở ngay đó.

Một chi tiết, về hình thức không có ý nghĩa gì, lại có thể có một tầm quan trọng lớn như vậy. Đó là vì sao lại cần các báo cần phải tỉ mỉ.

Vào đầu tháng thứ hai của chúng tôi, người ta giao cho chúng tôi vũ khí cá nhân, những khẩu Beretta 22 dài, loại vũ khí chính thức của các katsa, vả lại những vũ khí đó cũng hiếm thấy họ mang bên mình, do lo ngại về an toàn, ở Anh chẳng hạn, việc đeo vũ khí bị cấm, do vậy, chừng nào không có nguy hiểm, không phải mang vũ khí. Ngoài ra, một katsa giỏi không cần mang vũ khí. Trong trường hợp có phiền hà, tốt hơn là lủi đi hay dùng cách thuyết phục.

Nếu người ta phải sử dụng súng của mình để chống lại kẻ thù, điều đó nói lên rằng không có sự thương hại, chính đối với anh hay với kẻ thù. Vì vậy, người ta dạy chúng tôi học bắn để giết người.

Các buổi học bắn như các vở kịch múa ba lê.

Người ta dạy cách thay đổi, cách biến động mục tiêu.

Thông thường, người ta giắt súng ngắn ở thắt lưng mình, trên hông. Hiếm khi các katsa đeo bộ dây súng qua vai. Người ta chỉ bảo cho các anh làm thế nào lấy súng trong áo vét của các anh ra nhanh với viên đạn chì để không bị ngượng nghịu, hành động gồm động tác quanh người, đồng thời người xạ thủ quỳ gối xuống để làm giảm mục tiêu của mình một cách tối đa nếu có thể được. Thời gian trôi đi, để lấy khẩu súng từ trong áo vét anh ra, sẽ làm anh trở thành một người chết.

Nhưng, trong trường hợp bắt buộc thì không được do dự nhả hết cơ số đạn của anh vào mục tiêu và một khi đối thủ của anh lăn ra đất, anh hãy lại gần hắn và bắn vào đầu hắn. Có vậy, anh mới được bình yên.

Những katsa thường sử dụng đạn đum đum (đạn nổ hai lần) để gây ra sự công phá lớn khi nó bắn vào người. Chỉ bị một vết thương không thôi, cũng có thể gây chết người. Những buổi học bắn của chúng tôi diễn ra ở căn cứ quân sự Petah Tiqva, nơi những người Israel huấn luyện một số đơn vị đặc biệt do các Chính phủ nước ngoài gửi tới. Chúng tôi luyện tập trên các mục tiêu cố định và trong các hành lang, khi chúng tôi tiến, thỉnh thoảng lại có những mục tiêu bằng các tông xuất hiện.

Một trong số những địa điểm như vậy được bố trí trong hành lang của khách sạn. Bài luyện tập gồm quay sang trái, rồi quay sang phải, một tay xách một cái hòm nhỏ, tay kia cầm chìa khoá. Thỉnh thoảng, chúng tôi sáp tới “các phòng của mình” mà không xảy ra việc gì rắc rối. Những lần khác, cánh cửa mở, lộ ra một đám người và mục tiêu vụt xuất hiện, cần phải nằm cả xuống và bắn.

Người ta cũng dạy chúng tôi bắn nhau trong cửa hàng ăn, hoặc vừa lăn xuống đất, vừa bắn trên mặt bàn, hoặc nằm xuống và lật ngược bàn lên để bắn cùng một động tác. Đối với tôi, chưa bao giờ tôi tự làm chủ được kỹ thuật này.

Rồi, những người khách hàng không may kia, các bạn sẽ nói gì với tôi đây? Người ta dạy chúng tôi là không bao giờ đặt câu hỏi này ra cả. Nếu có một loạt đạn nổ, một người đi qua sẽ trở thành nhân chứng và những người làm chứng thì luôn luôn thấy khó chịu. Chỉ có một mục tiêu duy nhất, đó chính là sự an toàn của chúng tôi. cần phải quên đi mọi tình cảm. Nhiệm vụ của chúng ta là bảo vệ tất cả những ai thuộc Mossad, và chúng ta là những người của Mossad. Khi người ta hiểu ra điều đó, người ta không sợ sự ích kỷ xuất hiện. Ngược lại, chủ nghĩa ích kỷ trở thành phẩm chất mà sau này, người ta phải đau khổ để giũ bỏ nó.

— Lúc này là lúc các anh học cách sử dụng vũ khí của mình, các anh hãy quên những chuyện kia đi - Riff nói với chúng tôi như vậy - Sau buổi tập bắn. Các anh sẽ không cần đến những cái đó đâu.

Thế đấy! Những xạ thủ nhanh nhất của phương Tây đã bị lên án là không chịu hành động! Tuy vậy, mọi người đều tự nói: “Nguyên nhân là muôn thủa, còn tôi, tôi biết rằng mình sẽ sử dụng vũ khí”.

Chúng tôi đến một sân vận động, mà tại đó, các bài học trong nhiều giờ được tiếp nối bằng những công việc thực hành trong vùng Tel Aviv, nhằm để nâng cao kỹ thuật theo dõi và chống theo dõi của chúng tôi. Một trong số những bài học ngán ngẩm nhất mà chúng tôi phải học, do một tướng của Quân đội Israel giảng, trong hơn sáu giờ đồng hồ với một giọng nói đơn điệu không ai muốn nghe, vị tướng này giảng cho chúng tôi thông qua việc chiếu các phim dương bản về ngụy trang, về trang bị vũ khí. ông ta chỉ hoạt động mỗi khi thay các tấm phim, ông nói: “Đây là một chiến xa của Ai Cập”, còn “Đây là tấm ảnh, chụp từ máy bay, bốn chiếc chiến xa của Ai Cập được ngụy trang”, tuyệt đối không có gì để nhìn thấy. Tấm ảnh một chiếc xe tăng được ngụy trang tốt giữa sa mạc, trông dễ lầm với ảnh của chính bãi sa mạc. Vị tướng cũng chỉ cho chúng tôi những chiếc xe Jeep của Syrie, của Mỹ, của Ai Cập, được ngụy trang và không được ngụy trang. Đó là bài học chán ngán nhất, mà ông ta bắt chúng tôi tham dự.

Bài học tiếp theo mang tính thời sự hơn. Pinhas Aderet; đã làm cho bài học sinh động hơn. Bài học liên quan đến hộ chiếu, căn cước, thẻ tín dụng, bằng lái xe… Vấn đề quan trọng nhất đối với Mossad là hộ chiếu. Các hộ chiếu được chia làm bốn loại: Loại lựa chọn thứ nhất, loại lựa chọn thứ hai, loại hoạt động và loại bình thường.

Loại hộ chiếu gọi là “bình thường” đã bị ăn cắp và được tìm thấy, và hộ chiếu này chỉ được sử dụng nếu có nguy cơ của việc kiểm tra thường lệ. Người ta thay ảnh, đôi khi thay tên, nhưng nguyên tắc còn lại là ít có thể sửa đổi. Và một tấm hộ chiếu như thế không thể chống lại được với việc kiểm tra tỉ mỉ. Loại hộ chiếu này được các sỹ quan Neviot sử dụng (Neviot là những người chịu trách nhiệm đi ăn trộm, đi đặt máy micro…). Người ta cũng dùng loại hộ chiếu này trong những công việc thực hành ở Israel.

Mỗi một hộ chiếu đều kèm theo một hồ sơ, một bản đồ phô tô về thành phố, mà ở đó có ghi địa chỉ của người mang hộ chiếu, cùng với một tấm ảnh ngôi nhà hay một căn hộ, và một bản mô tả những khu vực xung quanh. Vì thế nếu hộ chiếu lõ bị rơi vào tay một ai đó biết khu phố này, thì không có nguy cơ bị mất.

Khi một ai đó sử dụng hộ chiếu loại “bình thường”, trong hồ sơ chỉ rõ, người này trước kia đã phục vụ ở đâu. Nếu một ai đó đem hộ chiếu trình cho Hilton, trước ít thời gian, chẳng hạn tốt hơn là không tự dẫn thân tới đó. Người ta cũng sẽ cung cấp cho các anh một quá trình trước đó để chứng minh cho những thời kỳ gặp trở ngại và những thị thực trong hộ chiếu giả của các anh.

Một hộ chiếu loại “hoạt động” được sử dụng ở một nước ngoài, nhân dịp có một nhiệm vụ ngắn. Nhưng không bao giờ dùng để vượt biên giới. Các katsa, hầu như không bao giờ trình những giấy tờ, căn cước giả cho lính biên phòng, trừ phi họ cùng đi với một tốp tân binh, một vấn đề họ cố gắng tránh. Hộ chiếu giả mang đi bằng va li ngoại giao, trong một phong bì được đóng dấu niêm phong để không bị phát hiện, chừng nào điều đó không lộ ra. Người mang va li ngoại giao được hưởng quy chế miễn trừ ngoại giao (không bị khám xét). Các hộ chiếu giả có thể được chuyển cho các katsa thông qua người đưa thư (người liên lạc), hay bodel.

Loại hộ chiếu “lựa chọn thứ hai”, trên thực tế là một hộ chiếu “thật” được làm giả. Hộ chiếu được làm với đầy đủ tên vỏ bọc của katsa, là một người giả định nào đó.

Loại hộ chiếu “lựa chọn thứ nhất”, cũng là một loại hộ chiếu “thật” thuộc về người cầm giữ chính thức, có khả năng bao che cho katsa. Những giấy tờ như thế, chống lại được mọi sự kiểm tra, thậm chí, kiểm tra của chính những nhà chức trách của nước có những giấy tờ giả đó.

Mỗi nước đều có những loại giấy đặc biệt để làm các hộ chiếu. Thí dụ, Chính phủ Canada không bao giờ bán giấy mà người ta dùng làm hộ chiếu cho những kiều dân (những người ưa thích của Mossad). Một khía cạch khác, người ta không có thể làm ra hộ chiếu giả, mà không có giấy thích hợp. Đó giải thích vì sao, Mossad có một nhà in, một viện thí nghiệm bên dưới lòng đất của Viện Hàn lâm. Từ nơi đây, người ta sản xuất ra các loại giấy có chất lượng khác nhau. Các nhà hoá học, phân tích giấy của các loại hộ chiếu thật, để tìm ra công thức chính xác cho phép chế ra các loại giấy có chất lượng chấp nhận được.

Phòng kho, được trang bị máy điều hoà độ ẩm, được giữ ở một nhiệt độ thích hợp. Trên các kệ, có các loại giấy cho phép người ta làm ra hộ chiếu của hầu hết các nước trên thế giới. Nhà in cũng được dùng để in ra tiền Dina của Jordanie. Tiền Dina của Jordanie sau đó được đổi để chống lại đồng đô la thật, đang tràn ngập Jordanie, làm tăng thêm khó khăn lạm phát của họ.

Với tư cách thực tập sinh, người ta cho chúng tôi thăm nhà máy in. Tôi đã nhìn thấy hàng đống giấy hộ chiếu của Canada còn mới tinh, hơn một nghìn cái chắc chắn là bị ăn cắp, với sự hiểu biết của tôi, chưa có một tờ báo nào nêu vấn đề ấy trước công luận.

Nhiều người di cư khi về Israel, được yêu cầu biếu không các hộ chiếu của họ cho sự nghiệp của nước Do Thái. Thí dụ, một người Achentine gốc Do Thái, khi về Israel, bỏ hộ chiếu của mình, thì chiếc hộ chiếu này được chuyển vào trong thư viện, tại nơi chứa toàn hộ chiếu, ở bộ phận này, người ta phân loại, xếp theo nước, theo thành phố và thậm chí theo từng quận. Những tên có phụ âm Do Thái, được mã hoá và lưu vào bộ nhớ của máy tính điện tử.

Mossad cũng bảo quản trong cuốn sổ Sưu tập, đầy ấn tượng, các loại tem chính thức và các chữ ký, mà phần lớn họ thu thập được là nhờ sự giúp đỡ của cảnh sát. Cảnh sát là cơ quan thu giữ hộ chiếu, có những chiếc ảnh có đóng dấu, có visa, có tem dán khi cấp visa và chữ ký trước khi trao nó cho chủ sở hữu.

Trong việc làm hộ chiếu giả, mỗi một dấu vết nhỏ nào cũng phải là đối tượng của một việc điều tra có phương pháp. Thí dụ, nếu hộ chiếu của tôi mang dấu của sân bay A Ten với ngày tháng xác định, cơ quan Mossad phải nghiên cứu xem trong chỗ ghi, thì ai là sỹ quan cảnh sát thực hiện việc kiểm tra các hộ chiếu ngày hôm đó, chữ ký, và con dấu của anh ta, để nếu có ai đó kiểm tra hộ chiếu của tôi ở A Ten, người đó sẽ thấy đó là chứng cứ. Những người làm hộ chiếu giả rất tin tưởng vào công việc của mình và kiêu hãnh vì chưa bao giờ để hoạt động bị thất bại do các chi tiết của hộ chiếu bị phát hiện vì sai.

Với tấm hộ chiếu giả của mình, tôi thu thập được một báo cáo, sau khi học thuộc nó, tôi vứt bỏ đi, tôi thông tin về thời tiết ở A Ten ngày hôm đó, tình hình khách sạn tôi ở, những đồ dùng trong ngày tôi lưu lại, tôi tóm tắt nội dung trang nhất của các báo, và các chủ đề chính nói chuyện với những người ở A Ten…

Với mỗi một nhiệm vụ, các katsa nhận được một bản ghi nhớ nhỏ về những thay đổi vị trí trước đó. Ví dụ: “Nhớ rằng, ngày này anh đã ở khách sạn này, và anh tên là M. Machin. Đây là danh sách những người mà anh đã gặp…”. Còn một lý do nữa, ghi lại trong báo cáo từng chi tiết, thậm chí chi tiết đó chả có nghĩa gì cả.

Nếu tôi cần tuyển mộ một người nào đó, thì máy tính sẽ tìm kiếm tất cả những người tôi đã gặp. Ngay cả công việc tuyển mộ trong tương lai của tôi. Từ việc làm như vậy, nếu tôi tới dạ hội với người này, tôi không có nguy cơ nhầm với một ai đó, mà có lẽ tôi đã gặp với một căn cước khác.

Trong sáu tuần tiếp theo, do mỗi ngày học một hoặc hai giờ, có một giáo viên, Arnon, dạy chúng tôi về cuộc sống hàng ngày trong một nước Hồi giáo: Những sự khác biệt thường gặp của Hồi giáo, phong tục tập quán, lịch sử của họ, những ngày lễ tôn giáo của họ, cái gì mà họ tự được phép ngoài tất cả điều kiêng kỵ ra. Đó là một bài học rất có tính giáo huấn, bài học đó đã phác họa cho chúng tôi một bức tranh về kẻ thù, cho phép chúng tôi hiểu được phản ứng của kẻ thù, và cho chúng tôi điều khiển được một số động lực của họ. Bài học kết thúc bằng một bài trả lời viết cho các câu hỏi: Chỉ trong một ngày, soạn viết một tin về cuộc xung đột của Trung Đông.

Chủ đề nghiên cứu tiếp theo là về các bodlim (số nhiều của bodel). Những bodlim dùng làm người liên lạc giữa những người giấu mặt với Đại sứ quán, hoặc thậm chí giữa những người giấu mặt với nhau, hay còn dùng để chuyển giao các va li ngoại giao. Một bodel phải làm chủ các phương pháp APAM để bảo đảm rằng anh ta không là đối tượng bị theo dõi. Vai trò của anh ta thường là chuyển giao các hộ chiếu và tài liệu cho các katsa, và đi tới Đại sứ quán. Trên thực tế, các katsa đôi khi bị cấm lưu lại Đại sứ quán Israel. Điều này phụ thuộc vào nhiệm vụ của họ.

Những bodlim thường là những người trẻ dưới 30 tuổi. Họ làm công việc này trong một hay hai năm để có tiền trả học học phí. Tất cả họ đều phục vụ trong các đơn vị chiến đấu. Những đơn vị đó làm cho họ có thể tương đôi tin tưởng. Họ rèn luyện kỹ thuật APAM kết hợp với công việc học tập của mình, mặc dù ít vẻ vang, công việc mà họ hiến dâng cho sinh viên cũng có không ít ích lợi. Phần lớn các ăng ten dùng hai hoặc ba bodlim, mà một trong những nhiệm vụ của họ là giữ gìn những nơi ở bí mật. Không ít trường hợp một bodel, phải ở tới sáu nơi bí mật cùng một lúc. Việc làm đó để tránh gây ra sự chú ý của các hộ xung quanh đối với một nơi bỏ trống, hoặc có nhiều thư báo để chồng chất ngoài cửa. Những bodlim chịu trách nhiệm mua đầy các tủ lạnh và giải quyết các hoá đơn… Một khi có những katsa cần đến ở, thì các bodlim thu xếp sang ở chỗ khác, chờ đợi nhiệm vụ của họ kết thúc. Họ không được phép mời bạn bè đến chơi trong các nơi ở bí mật, nhưng các hợp đồng ký bảo đảm cho họ từ 1.000 đến 1.500 đô la, tuỳ theo số lượng nơi ở do họ bảo dưỡng, trông nom. Mọi việc như ăn, ở, học tập của họ do Mossad chi trả, tóm lại như thế cũng không phải là một công việc tồi.

Một chủ đề nghiên cứu khác: Những mishlasim, theo tiếng lóng, là nghề Tình báo, là những nơi cất giấu, là các hộp thư. Đối với Mossad, những việc này có nghĩa duy nhất: Để chuyển các bức điện của chúng tôi về “Văn phòng”. Không bao giờ một điệp viên được sử dụng những thứ này để liên lạc với một điệp viên khác, ngoại trừ để báo cho họ những tình huống nguy hiểm.

Một nhóm điệp viên của Mossad, chịu trách nhiệm về những việc cất giấu, đã giảng cho chúng tôi cách hoạt động của hệ thống đó. Tôi giao cho các anh bốn chìa khoá của một nơi giấu tốt: 1. Lối vào dễ dàng; 2. Đưa vào không biết được; 3. Dễ dàng tìm được bức điện; 4. Bí mật đối với việc mang đi.

Tôi chế tạo ra một cái hòm cất giấu với một hộp xà phòng bằng nhựa. Tôi sơn lên nó một lớp kim loại màu xám với một vệt màu đỏ để báo hiệu sự nguy hiểm. Tôi cưa bốn đinh vít với những ốc vặn vào nó, sau đó, tôi sơn màu ghi, gắn chúng lên hộp và lắp một miếng nam châm vào đế. Tôi gắn hộp lên ắc quy bằng miếng nam châm đã có, bên dưới nắp ca pô của xe ô tô. Người ta không lưu ý tới nó, và thậm chí cả trong trường hợp, không ai động chạm tới các mạch điện. Người đưa thư (giao liên) có thể cầm lấy chiếc hộp, cũng giấu dưới nắp ca pô của xe mình rồi đi.

Người ta cũng dạy chúng tôi dành những chỗ giấu trong chỗ ở của mình, ở những nơi dễ vào, nhưng không thể phán đoán ra. Như thế còn tốt hơn một chiếc hòm chắc chắn. Nếu các anh phải tháo gỡ nhanh một vật nào đó, tốt hơn là dự định trước một chỗ giấu, được chế tạo với những vật liệu thông dụng thích hợp hơn.

Thí dụ, người ta chế tạo một cái cửa rỗng giữa, với hai tấm ván gỗ dán. Khi đó chỉ cần chọc thủng một cái lỗ ở mép phía trên cửa và treo ở đó những vật cần giấu. Người ta cũng có thể dùng những thanh treo đỡ vòm cuốn, trong các tủ treo áo. Chỗ để giấu không thiếu, thậm chí, người ta có thể lục tung quần áo của các anh, nhưng người ta thường quên mất xem xét những chiếc giá treo trong tủ.

Một cách thực tiễn để đưa tài liệu qua biên giới là, sử dụng một cái vòng cũ của người làm trò ảo thuật. Hãy dùng hai tờ báo, các anh để giữa hai tờ đó vật cần giấu với hai trang được gấp và dán lại rồi các anh cầm nó qua hải quan mà không sợ gì cả và thậm chí các anh giao tờ báo đó cho những nhân viên hải quan khi các anh tìm, lục giấy tờ của mình. Chúng tôi đọc rất nhiều sách có hình ảnh.

Đối với những công việc thực hành tiếp sau, những “quán cà phê”, chúng tôi làm việc theo nhóm ba người một: Yosy, Arik F, một con người khổng lồ, cao hai mét, và tôi, cùng với một thầy giáo huấn luyện, Shai Kauly. Chúng tôi đi đến phố Hayarkon, trong khu có nhiều khách sạn. Lần lượt, hai trong số chúng tôi đi vào quán cà phê, trong lúc đó, người thứ ba đi vào trong phòng đợi của một khách sạn, trong tay có những giấy tờ giả và một chiếc bìa. Trong phòng đợi, Kauly chỉ định một người bất chợt, mà người đó cần phải tiếp xúc. Để làm cho nhiệm vụ thêm phức tạp, có một nhân viên của Mossad, chốc chốc lại ló mặt ra. Mục đích là thu thập được tối đa những thông tin về “cuộc tiếp xúc” và có được cuộc hẹn gặp tiếp theo.

Về phần tôi, tôi có nhiệm vụ đi đến xin lửa của một người trông như là phóng viên của tờ báo Á-Phi. Tôi đã lợi dụng việc xin lửa để nói chuyện và tôi nghĩ rằng tôi đã vượt qua nhiệm vụ với lợi thế. Tuy nhiên, cái gã được xác định kia lại là một điệp viên, một katsa có vỏ bọc là một hội nghị của PLO Tuni, để làm cho tờ báo này. Anh ta phải cung cấp cho tờ báo nhiều tin, bài.

Sau mỗi bài tập, chúng tôi đều phải viết báo cáo chi tiết về những cuộc tiếp xúc được bố trí dựng lên, về các chủ đề đã được thảo luận, về những cam kết đã có… Hôm sau, theo nghi lễ được sắp đặt tốt, chúng tôi phân tích và phê bình những báo cáo của các học sinh khác. Đôi khi, chúng tôi bị bất ngờ lớn là chúng tôi đã đối mặt nhau với một “cuộc tiếp xúc” ngày hôm trước.

Cũng giống như các bài tập khác, chúng tôi phải làm lại những việc này không biết mệt mỏi. Thời gian biểu của chúng tôi đầy ắp, đã trở thành điên rồ. Ngoài những công việc luyện tập đơn thuần, chúng tôi còn thực hành những phương pháp trong cuộc sống hàng ngày. Chúng tôi không tiếp xúc với người nào mà không tìm cách biến họ trở thành một người được tuyển mộ có tiềm năng, bằng cách đưa mồi của chúng tôi ra nhử. Về nguyên tắc, khi người ta tuyển mộ, thì tốt hơn là tỏ ra mình giàu có, song luôn giữ vẻ mơ mồ đôi với nghề nghiệp. Nhưng không nên quá mơ hồ, nếu không, dễ bị coi là kẻ lừa đảo.

Tóm lại, chúng tôi đều ở trường bất lương vĩ đại nhất…Người ta đã biến chúng tôi thành những kẻ ăn cắp để phục vụ cho Tổ Quốc. Sau bài tập, mà tôi đóng vai “một nhà thầu khoán” giàu có, tôi đã trải qua mọi khổ đau của thế giới để trở lại với trái đất. Tôi chấm dứt sự giàu có để trở thành một người công chức nhỏ bé làm việc với bản báo cáo của mình.

Những hiệu “cà phê” có thể giấu giếm được các vấn đề không ai ngờ tới. Chẳng hạn, một số học viên có xu hướng phóng đại lên trong báo cáo của họ.

Đấy là trường hợp của Yoade Avnets, một tay huyênh hoang và không phải là ma lanh lắm. Sau mỗi buổi ở “quán cà phê”, thì bấy nhiêu lần hắn ta không phát hiện ra một katsa trá hình, Yoade đã kể những câu chuyện kỳ lạ. Cho tới ngày mà, vào lúc nghỉ, Shai kauly xuất hiện bất ngờ:

— Yoade Avnets! - Ông ta nói toáng lên.

— Vâng, sao?

— Hãy thu dọn toàn bộ đồ dùng và trang bị của người lính theo quy chế rồi đi ngay!

— Nhưng - Avnets nói ấp úng, trong tay vẫn cầm chiếc bánh mỳ kẹp thịt - nhưng… tại sao ạ?

— Anh có nhớ tới “quán cà phê của anh, hôm qua không? Thế đấy, chính con sâu làm rầu nồi canh! (Nguyên văn tiếng Pháp: Chính một giọt nước đã làm tràn một bình rồi!).

Tiếp đó, chúng tôi hiểu rằng, Yoade giới thiệu chủ đề để tuyển mộ trước, ông ta xin phép được ngồi. Nhưng khi đã ngồi, ông ta không mở miệng.

Bản báo cáo của ông ta, sau đó đã khơi lên cuộc thảo luận sôi nổi. Người ta nói im lặng là vàng, nhưng không phải với Yoade, mà nghề nghiệp của sự im lặng là những lời nói chặn ồn ào.

Hàng ngày, nửa giờ đầu của buổi học dành cho điểm báo. Bài tập gọi là Da, hay là “những kiến thức tổng quát”. Một học viên phân tích những tin tức của báo chí. Đây còn là một gánh nặng nhỏ, nhưng các giáo viên duy trì nó để cho chúng tôi hiểu tình hình thời sự. Nhằm luôn luôn thay đổi căn cước và đóng hài kịch, người ta đã cắt một cách nhanh chóng thế giới thực, sai lạc đi mà điều đó có thể gợi lên định mệnh. Với những đường nét xiêu vẹo đó, chúng tôi cũng phát huy cách nói lưu loát và vì hàng ngày, chúng tôi bắt buộc phải đọc báo chí, nên chúng tôi có thể đề cập tới bất kỳ một chủ đề nào. Chúng tôi cũng có thể đưa ra chính kiến của mình, tại sao lại không nói ngược lại với các kết luận chung đã được chấp nhận.

Một chút trước đó, chúng tôi học làm cái mà người ta gọi là những nhiệm vụ “mệnh lệnh xanh”, ám chỉ một số hoạt động liên lạc. Chúng tôi giả định là, người ta biết những nhà máy hay các trang thiết bị của một nước (được lấy làm ví dụ), đang bị đe dọa bởi một hoạt động khủng bố. Phân tích và đánh giá sự đe dọa đã làm cho cuộc thảo luận sôi nổi. Tóm lại, nếu có một âm mưu phá hoại liên quan tới những trang thiết bị trong khu vực mà không có liên can gì đến Israel, các anh, bằng một cú điện thoại nặc danh, sẽ báo cho cơ quan có thẩm quyền, nhưng không tiết lộ nguồn của các anh, hoặc giả các anh có thể báo thông qua những nhân viên liên lạc. Ngược lại, nếu các anh có chứng cứ thực, mà người ta không hỏi nguồn tin, thì các anh có thể thông báo trực tiếp cho cơ quan nêu trên, và trong trường hợp này, nói như thế, người ta hỏi anh là ai để người ta hỏi lại điều đó một lần nữa.

Nếu mục tiêu là thuộc Israel, các anh hãy dùng mọi phương tiện đế tránh được những thiệt hại, khi cần, thậm chí phải hi sinh nguồn của mình. Nếu phải thiêu cháy một điệp viên nào đó của nước “mục tiêu”(người do Mossad tuyển, bất kể là nước Ả Rập nào) để ngăn chặn một âm mưu phá hoại đối với một nước là “chỗ dựa”, thì các anh không bao giờ được do dự. Đó là hi sinh mà người ta luôn luôn đòi hỏi ở chúng ta.

Nếu phải để một nguồn của các anh rơi vào hiểm nguy nhằm thông báo về mục tiêu của một âm mưu phá hoại, mà âm mưu đó không mảy may gây tác hại gì cho Israel, thì hãy đừng hành động gì cả. Điều đó không liên quan gì tới Mossad. Điều tốt hơn mà các anh có thể làm là tung ra một thông báo kín đáo, thận trọng, thông báo này có thể bị chìm trong nhiều thông báo khác và ít có cơ may sẽ được tiếp nhận. (Xem chương IX, phần 3).

Những lời chỉ bảo này ăn sâu vào trong tâm trí chúng tôi và dạy chúng tôi biết phải hành động vì lợi ích của chúng tôi mà không cần tính đến những lợi ích của người khác. Vì rằng, trong tình hình ngược lại, cũng chẳng có ai lo lắng cho chúng tôi. Đây chính là điều người ta đang mong đợi ở các nhân vật cánh hữu ở Israel và hơn nữa, chúng tôi sẽ hướng tới phái hữu. Đó là một điều xấu xa. ở Israel, chỉ cần giữ được chính kiến về chính trị để tự động tìm lại với cánh tả, bởi vì cả nước đang trượt theo phái hữu. “Dưới chế độ quốc xã, khắp nơi - Người ta nói - những người không giết chết chúng ta, lại đang tiếp tay cho bọn đao phủ, còn những người khác thì lại thờ ơ”. Tuy nhiên, tôi chưa bao giờ tham dự vào một cuộc tuần hành chống lại những hành động phạm tội như ở Campuchia chẳng hạn. Thế thì, chúng ta chờ đợi gì ở người khác quan tâm đến số phận của chúng ta? Bởi vì những người Do Thái đã chịu đau khổ, phải chăng họ có quyển trút đau khổ, đói nghèo lên đầu kẻ khác?

Một phần việc giảng dạy của Tsomet dành cống hiến cho công việc chỉ dẫn cho một điệp viên được gửi tới nước mục tiêu. Người điệp viên bình thường, được dùng như một người “làm tín hiệu”. Người làm tín hiệu đó có thể là một người nữ y tá trong một bệnh viện, và vai trò của nó là dự phòng cho Mossad mọi hoạt động bất bình thường với công việc phục vụ của mình: Chuẩn bị giường bệnh, khăn trải giường mới, dự trữ thuốc men, hay tất cả những thứ chuẩn bị giống như chuẩn bị cho một cuộc tấn công quân sự. Những điệp viên “làm tín hiệu”, trong mỗi cảng, thông báo các chuyến tàu đến, trong các doanh trại của lính bơm, và những thứ khác thì được ghi chép lại như công việc chuẩn bị tại chỗ. Những thư viện, trong trường hợp ở đó sẽ có lệnh gọi nhập ngũ, thì với cái cớ là công việc của họ không phải là sự sống còn cho đất nước sẽ không phải nhập ngũ.

Cần rất chính xác khi đưa ra các chỉ thị cho một điệp viên “làm tín hiệu”. Nếu, Tổng thống Syrie đe dọa tấn công chúng ta như ông ta thường đe dọa trong quá khứ, mà ông ta lại không thực hiện, thì đó là điều hoàn toàn tốt. Nhưng nếu trong cùng thời gian đó, ông ta chuẩn bị một vỏ bọc hợp lý, thì vấn đề trở nên cấp bách, cần phải biết rõ.

David Diamond, người phụ trách katsa, sau này phụ trách neviot, đã giảng cho chúng tôi những bài lý thuyết về cách thức phải nói về các đồ vật và cách theo dõi một ngôi nhà. Giả sử, mục tiêu của chúng tôi ở trên tầng sáu của một ngôi nhà và ông ta có một tài liệu mà các anh muốn tham khảo. Làm như thế nào đây?

Ông ta cũng dạy chúng tôi cách lắp đặt các micro, dạy cách ghi chép vào danh mục những lối đi, lối lại, việc cảnh sát thường lui tới đi tuần tra, dạy cách phát hiện những địa điểm “nóng” - ví dụ tránh đậu xe trước cửa các ngân hàng - chuẩn bị một kế hoạch rút lui ra sao… Chúng tôi cũng có nhiều buổi học về truyền tin. Các thông tin liên lạc do Mossad gửi tới được thực hiện thông qua vô tuyến, thư từ, điện, thoại, các hộp thư, hay qua một quá trình đơn giản là một cuộc gặp. Mỗi một điệp viên có một máy vô tuyến, một lịch làm việc đặc biệt để thu các bức điện đã được mã hoá, và bức điện chỉ được thay đổi một lần trong một tuần, khi biết chắc là bức điện gửi cho người điệp viên và đã nhận được. Các điệp viên này làm việc với các vô tuyến có ăng ten cố định, đặt tại nhà ở hoặc tại nơi làm việc.

Người ta cũng sử dụng cả những chiếc “phao”, những micro phim được giấu trong một chiếc phong bì. Người điệp viên cần phải xé chiếc phong bì ra, ngâm nó trong một cốc nước, rồi sau đó dán lên thành cốc để đọc bức điện với một kính lúp.

Các điệp viên, bản thân họ có thể tiếp xúc với các katsa của mình bằng điện thoại, bằng télex, thư từ, viết với loại mực không nhìn thấy (bí mật) hoặc không bí mật, bằng những cuộc tiếp xúc đơn giản hoặc bằng vô tuyến điện, trên các tần số đặc biệt, khó phát hiện. Mỗi khi, một điệp viên sử dụng phương pháp này, người đó phải thay đổi thường xuyên theo một trình tự đã được xác lập từ trước.

Nguyên tắc là làm sao cho thông tin liên lạc cũng trực tiếp nếu có thể được. Một điệp viên, càng ở trong một nước mục tiêu, càng nắm giữ những thông tin, thì những trang thiết bị cần thiết cho họ, càng cần phải tinh vi hơn. Song việc nắm giữ máy móc như thế, đặc biệt nguy hiểm, nó làm tăng thêm nỗi lo lắng của các điệp viên.

Nhằm tăng tính năng động của chủ nghĩa si- ô-nít, chúng tôi đã trải qua một ngày trọn vẹn ở Bảo tàng Diaspora, trên khu học xá của Trường Đại học Tổng hợp Tel Aviv. Đó là một bảo tàng có trưng bày nhiều nhà thờ Do Thái được phục chế của tất cả các nước, và nơi đây lịch sử dân tộc Do Thái được kể lại.

Một số Ganit, chịu trách nhiệm về phân ban Jordanie, đã giảng cho chúng tôi một bài cực kỳ quan trọng về vua Hussein của Jordanie và vấn đề Palestine. Bài học này được nối tiếp bằng một bài khác về các hoạt động của Quân đội Ai Cập. Hai ngày ở Shaback, chúng tôi học các phương pháp và các hoạt động của PAHA ở Israel. Và chương trình học của chúng tôi kết thúc với bài học của Lipean, một sử gia của Mossad. Khi đó là tháng sáu năm 1984.

Công việc luyện tập của chúng tôi, trước hết được nhắm vào việc chắp nối các mối liên lạc với những người không có hoạt động tấn công. Đối với chúng tôi, họ giống như những tân binh được tuyển mộ. “Chỉ cần tôi gặp được họ và tôi giữ được cuộc hẹn, điều đó luôn luôn dùng đến - Người ta nói như vậy”. Người ta giành được một tình cảm quyền lực lạ lùng. Mỗi một chuyện qua đi, lại trở thành một trò chơi. Tất cả chỉ là nói láo. Chỉ con rối tính rằng người ta có thể điều khiển nó. Vâng, chính nó không phải là tồi, nhưng động lực nào đã khuấy động nó? Làm thế nào để bắt nó phải làm việc cho tôi? Ôi, cả cho đất nước tôi nữa ư?

Tôi luôn luôn biết về những gì đang che giấu toà nhà của Viện Hàn lâm. Ở Israel, mọi người đều biết việc đó. Tới mức, Thủ tướng đã sử dụng toà nhà như dinh thự nghỉ hè để tiếp đón những nhân vật đáng chú ý. Chính Thủ tướng Goda Meir đã sử dụng ngôi nhà này. Nhưng, chúng tôi biết rằng toà nhà đó không phải chỉ dùng như vậy. Đấy là những điều người ta sẽ hiểu ra khi người ta lớn lên ở Israel.

Israel là quốc gia của những người hiếu chiến, các anh càng giáp mặt với kẻ thù bao nhiêu, thì các anh càng được kính trọng bấy nhiêu. Đó là điều làm cho Mossad trở thành biểu tượng thực sự của đất nước. Lúc này đây, tôi là một thành viên của Mossad. Tình cảm quyền lực, cái điều khó tìm cách diễn tả được và có giá trị hơn là nỗi đau khô kéo dài của những bằng chứng chua chát. Hiếm có ai ở Israel, lại là người không muốn đổi vị trí của họ lấy vị trí của tôi.