Chương 5 Những Người Mới Vào Nghề.
Chúng tôi kết thúc khoá học của mình vào tháng ba năm 1984!
Còn lại mười ba người. Họ chia chúng tôi thành ba đội, trên cơ sở mỗi đội ở trong một căn hộ ở Tel Aviv, hoặc vùng ngoại vi. Đội của tôi được gửi đến một căn nhà trong vùng Givantayim; đội thứ hai ở trong trung tâm, gần đường Dizengoff; đội thứ ba ở đại lộ Ben-gourion, phía Bắc thành phố.
Mỗi căn hộ vừa được dùng làm nơi ẩn giấu, đồng thời làm ăng ten. Căn hộ của chúng tôi ở trên tầng tư, của một toà nhà không có thang máy, có một phòng khách, một ban công và hai phòng ngủ, một bếp cũng có ban công, một phòng tắm và phòng vệ sinh riêng biệt. Đồ đạc chỉ có ít đối với một katsa làm nhiệm vụ ở nước ngoài.
Shai Kauly là người phụ trách nơi ẩn giấu và ăng ten của tôi. Tôi ở chung với Tsvy, một nhà tâm lý học; A rik F. ở với bạn tôi, Avigdo, và một người tên là Ami, một nhà ngôn ngữ tâm thần thì đúng hơn. Ngoài những sai sót khác ra, anh này còn là một chiến sỹ không hút thuốc lá, nhưng lại lọt vào giữa những người hút thuốc nhiều.
Ami, một chàng trai chưa vợ, đến từ vùng Haifa, là một thanh niên khỏe mạnh, đã sợ hãi vì bị đánh đập. Đấy là câu trả lời điều người ta tự hỏi, anh ta đã vượt qua những thử thách như thế nào.
Vào lúc chín giờ, chúng tôi thu xếp va li, mỗi đứa được ứng 300 đô la, một số tiền không đáng kể, khi một người mới vào nghề được lĩnh lương 500 đô la một tháng.
Bực mình với sự có mặt của Ami, một người yếu ớt, chúng tôi bắt đầu trêu chọc, cùng lúc làm cho cảnh sát ập đến khám hỏi, những cách thức tránh các cú đòn, làm thế nào để chịu đựng được nỗi đau đớn. Nhìn qua, thấy cậu ta tái mét. Chúng tôi tỏ ra mãn nguyện trong trò đùa không đứng đắn ấy.
Khi người ta gõ cửa, Ami, hoảng sợ, giật bắn mình lên. Nhưng đó chỉ là Kauly, đem đến cho mỗi chúng tôi một chiếc phong bì bằng giấy bao bì.
— Tôi không chịu nổi điều này lâu hơn được nữa! - Ami hét lên.
Vì việc này, Kauly ra lệnh cho Ami quay lại gặp Araleh Sherf, người phụ trách Hàn lâm viện.
Ami bị thuyên chuyển sang đội ở đại lộ Dizengoff, nhưng trong một đêm, vì cảnh sát gõ cửa, Ami bật đứng dậy, gào lên: “Tôi chán ngấy trò này rồi! Tôi ngán lắm rồi!”, rồi cậu ta biến đi mất để không bao giờ trở lại nữa. Vì thế, chúng tôi chỉ còn lại mười hai người.
Những chiếc phong bì Kauly đem đến, có chứa những nhiệm vụ của mỗi người. Tôi phải liên hệ với một người tên là Mike Harari, mà khi đó tôi không hề biết, rồi thu thập tin tức về một người gọi là “Mickey”, một cựu cảnh sát, đã tình nguyện tòng ngũ trong cuộc chiến tranh Độc lập, vào khoảng cuối những năm 40.
Kauly giải thích cho chúng tôi rằng, chúng tôi phải tương trợ nhau. Vì thế, chúng tôi xây dựng kế hoạch của các hoạt động và một quá trình bảo vệ nơi trú ẩn của chúng tôi. Kauly cũng giao cho chúng tôi các tấm căn cước - một lần nữa, tôi lại gọi là “Simon”- như là tên gọi trong các thể thức làm báo cáo.
Việc đầu tiên, là chúng tôi phải thu xếp chỗ giấu tài liệu của mình, và bịa ra cho mỗi người một lý lịch để minh chứng cho sự hiện diện của mình khi rơi vào tay cảnh sát. Chúng tôi tìm chọn sự giải thích trong ngăn kéo của mình: Tôi sẽ khẳng định từ Holon đến, rồi kể về Jack, ông chủ căn hộ trong quán cà phê của Tel Aviv, và nói ông ta đã để lại các chìa khoá cho tôi trong thời gian ông đi vắng hai tháng. Sau đó, trong một quán ăn, tôi sẽ kể về Arik, người bạn chiến đấu đến từ Haifa, và tôi đã đề nghị ở chung căn hộ với anh ta. Avigdor sẽ giới thiệu là bạn của Arik, rồi mỗi người, kể một chuyện na ná như vậy. Chúng tôi đề nghị chính Kauly cũng tạo ra một lý lịch có thể chấp nhận được.
Trong phòng khách, chúng tôi có một trong số những bàn bằng gỗ, mặt bàn được phủ một tấm kính. Chúng tôi đã chế ra một chỗ cất giấu bằng cách thích nghi với một “mặt bàn giả” dưới tấm kính. Như thế, chỉ cần nhấc tấm mặt bàn giả này lên, đưa tài liệu vào giữa hai tấm thì không ai có thể nhìn thấy.
Chúng tôi đã quy định mật hiệu gõ cửa: Gõ hai tiếng- rồi một tiếng, rồi hai tiếng, rồi một tiếng, và chúng tôi gọi điện thoại bằng một thông điệp được mã hóa đối với căn hộ trước khi vào. Trong trường hợp đi vắng cả, một chiếc khăn vàng được treo lên dây phơi ở ban công nhà bếp, để báo cho biết là đường đi tự do.
Cuối cùng, chúng tôi đã có một nhiệm vụ, thậm chí đó chỉ là nhiệm vụ trong tập luyện.
Hôm đó, trước lúc Kauly đi, chúng tôi đã nghiên cứu một kế hoạch tiếp cận và vì chúng tôi đã có sẵn các mục tiêu của mình nên chúng tôi quyết định bắt đầu bằng công việc theo dõi nơi ở của các mục tiêu. Chính vì vậy, Avigdor sẽ theo dõi ngôi nhà của Harari, còn tôi, theo dõi mục tiêu của Arik, chủ nhân của một công ty những “Đồ chơi Bukis”.
Tôi chỉ biết tên và địa chỉ của Harari thôi. Tuy nhiên, có người cho tôi biết, ông ta là chủ tịch một trong những công ty bảo hiểm quan trọng nhất, công ty Migdal, có trụ sở trong khu có nhiều nhà ở. Tôi cũng biết, vợ của Harari là người trông thư viện ở Trường Đại học Tổng hợp Tel Aviv. Tôi quyết định xin một việc làm ở công ty Migdal, và thân chinh đến văn phòng phụ trách nhân sự. Trong khi chờ đợi đến lượt mình, tôi quan sát một người trạc tuổi mình đang làm việc trong văn phòng bên cạnh. Một người làm có tên gọi: “Yakov”.
Tôi tiến đến văn phòng này và hỏi:
— Anh là Yakov?
Chính anh ta hỏi lại:
— Anh là ai?
— Tôi là Simon. Anh không nhớ tôi ư? Chúng ta đã cùng ở Tel Hashomer - Tôi trả lời đồng thời kể về căn cứ quân sự, nơi ghé qua của tất cả những người được gọi của đội ngũ.
— Thế anh ở đó khi nào?
Tránh trả lời trực tiếp câu hỏi, tôi nói với anh rằng tôi là một “203”, gợi cho anh ta nhớ lại thời gian ở lớp học.
— Tôi cũng vậy, một thằng “203” đây! - Yakov kêu lên.
— Anh ở trong không quân à?
— Không, trong đơn vị chiến xa.
— Không nói đùa đấy chứ! Anh đã trở thành một pongos ư? (thành ngữ này trong tiếng Hébreu giữ vai trò trong từ Champion, người ngồi bên trong xe tăng, thì nổi tiếng là ẩm ướt và đen tối).
Tôi bịa ra rằng, tôi biết qua loa về Harari và tôi hỏi Yakov xem liệu họ có tuyển người không.
— Có, họ cần tìm kiếm người làm đại diện.
— Thế ông Harari vẫn làm chủ tịch công ty à?
— Không, anh có nghĩ là… - Vừa trả lời, anh ta vừa đọc một tên.
— Hay quá! Thế bây giờ anh có biết ông ta làm gì không?
— Ông ta là một nhà ngoại giao - Yakov nói với tôi - Nhưng, ông ta cũng điều hành một công ty xuất nhập khẩu trong khu tháp Kur.
Chà, đây là những lời chỉ bảo quý giá quá. Avigdor còn nói cho biết chiếc xe Mercedes có một tấm biển đăng ký ngoại giao, và tôi thấy sửng sốt hơn vì điều này. Ở Israel, việc lui tới của những nhà ngoại giao không được nhìn với con mắt thiện cảm. Tất cả những nhà ngoại giao đều được coi là gián điệp. Vì thế, một người lính, khi vẫy xe đi nhờ, họ luôn luôn từ chối leo lên xe ngoại giao. Người ta sẽ đưa họ ra toà án quân sự, nếu người bất hạnh kia chấp nhận đi nhờ xe ngoại giao. Khi Avigdor kể cho tôi nghe về việc anh ta nhìn thấy chiếc xe của Harari, tôi đã nghĩ ngay rằng chiếc xe Mercedes là của một vị khách tới thăm viếng.
Tôi đang nói chuyện phiếm với Avigdor, thì một phụ nữ báo cho tôi là đã đến lượt mình. Để tránh gây ra sự nghi ngờ, tôi chụp chiếc mũ lên chào vội vã rồi đi theo người phụ nữ.
Vì vậy, theo những điều tôi biết, vợ của Harari là một người làm ở thư viện, và bản thân Harari là một nhà ngoại giao. Đúng thế, nhưng ở đâu? Làm việc cho nước nào? Việc theo dõi chiếc xe của Harari thì đơn giản, nhưng nếu ông ta là một nhà ngoại giao thực sự, thì người ta đã phải dạy cho ông ta biết những mánh khoé bị săn đuổi, và tôi thì không muốn ngồi trong chấn song sắt ngay từ nhiệm vụ đầu tiên của mình (ý nói vào tù).
Ngày thứ hai, tôi đã tuyên bố với Kauly là tôi đã hoàn thành hai phần theo trình tự công việc. Trước hết là tiếp xúc với Harari, sau đó tìm hiểu Mikey là ai.
Khi rời khỏi căn hộ nếu biết bị theo dõi, thì chúng tôi phải báo trước cho những người khác là nơi ở đã bị lộ. Chúng tôi luôn luôn biết là chúng tôi sẽ gặp nhau ở đâu, nhờ có những báo cáo chúng tôi viết gửi Kauly. Từ những công việc ấy, tôi đã mơ tới APAM tới mức, tôi làm chủ được kỹ thuật.
Ngày thứ tư, tôi đi tới tháp Kur, lúc đó, tôi nhận thấy một gã theo dõi chuyến tàu của tôi ngay từ khu Hakirya. Để đảm bảo an toàn cho hành trình của mình, tôi phải đi xe buýt ở Givatayim theo hướng Derah Petha Tiqva xuống ở góc phố Kaplan. Phố này sẽ chạy qua Hakirya.
Ngày hôm đó, tôi xuống xe buýt, rồi đi ngoặt - tôi cũng đã làm như thế trước khi nhảy xe buýt tới Givatayim - tôi nhìn quanh một lượt, song không thấy gì. Tuy nhiên, trong lúc liếc mắt nhìn, tôi đã lưu ý đến một chiếc xe đang bận bịu trong bãi đậu xe. Những hành khách thấy quả là không thích hợp ở nơi này khi tôi nói: “A, như vậy hả! Đợi mình với các cậu ơi, tôi sẽ làm cho các cậu phục sát đất”.
Tôi đi về hướng Nam, phía Derah Petha Tiqva, một con đường huyết mạch lớn, có ba con đường tách đôi. Mỗi đường đi về một hướng khác nhau. Tôi tới một chiếc cầu bắc qua Petha Tiqva để nối với tháp Kalka. Lúc gần 11 giờ 45, việc đi lại đông nghẹt. Tôi bước lên cầu, từ đó không ai biết tôi có thể nhìn thấy người lái xe đang đưa đôi mắt tìm kiếm tôi. Một người đàn ông theo dõi tôi từ xa, và từ mé bên kia cầu, có một người khác đang chuẩn bị sẵn sàng theo gót tôi trong trường hợp tôi đi về hướng Bắc; trong khi đó, một người thứ ba, đang đợi tôi ở phía Nam. Từ vị trí chiến lược của tôi trên cầu, tôi có một cái nhìn đầy đủ các việc bố trí của họ.
— Bên dưới cầu, có một tuyến đường nối, cho phép các xe chạy một nửa vòng đường. Lẽ ra phải vượt qua cầu, tôi làm ra vẻ quên một cái gì đó, rồi quay ngược trở lại. Tôi đã đi theo đường Kaplan với vẻ chậm chạp để người ta khỏi đuổi theo mình. Tôi cười thầm trong lúc lắng nghe bản hoà tấu của các loại còi xe giữa đám tắc nghẽn.
Trong phố Kaplan, họ chỉ theo dõi tôi trên một tuyến. Tôi đi tới một trạm quân cảnh, trước cửa Victor - cái tên của tôi khi còn là thượng sỹ- rồi tôi qua đường, mua một cái bánh ngọt và một chai nước gazouz, một loại như nước chanh gaz.
Trong lúc đang ăn, tôi thấy chiếc xe tiến gần lại một cách êm nhẹ, và đột nhiên tôi nhận ra, người lái xe không ai khác lại là Dov L. Ăn xong bánh, tôi vượt qua trước chiếc xe bị ách tắc giao thông, rồi tôi dựa vào đường dành cho bộ hành, trước mũi xe để tót lên vỉa hè, trước khi đi xa về hướng khác. Dov L. bấm một hồi còi như để nói cho tôi biết: “Thôi được rồi, cậu đã thắng. Một điểm nữa ghi cho cậu”.
Tôi mừng rỡ. Sau này, Dov L. thú nhận với tôi rằng, không bao giờ, người ta dám xem thường cách làm thế này, và người ta thấy bị phiền hà vì phải làm việc đuổi bắt.
Sau khi kiểm tra lại, biết việc săn đuổi đã chấm dứt, tôi yêu cầu một chiếc tắcxi chở tôi tới đầu khác của Tel Aviv, tại đó, tôi bắt đầu thực hiện kỹ thuật chống theo dõi. Tôi sợ rằng có ngón xảo trá của phía họ nhằm kích tôi bỏ sự chú ý của mình. Không theo dõi nữa, tôi quay trở lại tháp Kur, và tôi tuyên bố tại phòng đón tiếp là tôi có hẹn với Mike Harari. Một người hướng dẫn tôi lên tầng bốn, chỗ có tấm biển ghi của một công ty xuất nhập khẩu.
Tôi tính giờ ăn trưa, bởi vì ở Israel, các cán bộ cao cấp thường vắng mặt trong bữa ăn trưa, và thực sự tôi chỉ muốn người thư ký cho tôi biết số diện thoại thôi. Nếu chẳng may, Harari có ở đó, thì tôi sẽ phải ứng tác thôi.
Nhưng, khi đó người nữ thư ký tiếp tôi. Cô ta giải thích với tôi rằng công ty nhập khẩu những sản phẩm của họ thôi, chủ yếu từ châu Mỹ La Tinh, nhưng, thỉnh thoảng, công ty cũng nhận chở hàng nếu các container còn vơi. Tôi nói với người nữ thư ký rằng qua sự khẳng định của công ty tôi, là tôi có thể tới gặp ông Harari, tại địa chỉ này.
— Không, ông Harari là một người hùn vốn phối hợp. Ông ta không làm việc ở đây - Cô thư ký cam đoan với tôi, và nói tiếp: - ông ta là Đại sứ của Panama.
— Thôi được - Tôi buông một câu ngắn gọn - Tôi cứ tưởng ông ta là người Israel.
— Vâng, đúng ông ấy là người Israel, nhưng ông ta cũng là Đại sứ danh dự cho Panama.
Sau khi đã có tất cả những điều tôi muốn biết, tôi trở về viết báo cáo, không phải là trước đây không viết một vài chi tiết đánh lạc hướng để làm thất bại mọi việc theo dõi.
Khi Kauly tới và sau khi tôi nộp báo cáo cho ông, ông muốn biết tôi tính toán sẽ làm việc gì tiếp theo.
— Tôi sẽ đến Đại sứ quán Panama - Tôi nói.
— Cậu hãy nói vì sao?
— Tôi đã chuẩn bị kế hoạch cho mình. Quần đảo Ngọc, trong vịnh Panama, có một nền công nghiệp nuôi cấy ngọc trai thịnh vượng. Biển Đỏ ở Israel, có tất cả những điều kiện thuận lợi để nuôi trai lấy ngọc. Đó là vùng biển yên tĩnh, tỷ lệ muối trong nước là lý tưởng. Rồi đi lui về vịnh Persique, người ta thấy, nuôi trai lấy ngọc rất trù phú. Tôi đã được đọc tư liệu ở thư viện, đặc biệt là những tài liệu nói về các biện pháp nuôi trai lấy ngọc. Vì thế, tôi quyết định đến Đại sứ quán Panama như một người cộng tác của nhà kinh doanh Mỹ giàu có, mong muốn thành lập một nơi nuôi trai lấy ngọc ở Eilat. Tôi bịa ra rằng, người cùng hùn vốn với tôi mong muốn nhập một container toàn trai ngọc của Panama, vì chất lượng của nó rất cao. Tôi đã xây dựng một kế hoạch khuyên dụ những nhà đầu tư có vốn quan trọng rằng việc nuôi trai ngọc chỉ sau ba năm là có lãi, và chúng tôi là những người làm ăn đứng đắn, và không phải đi tìm kiếm lợi nhuận ngay trước mắt.
Kauly ủng hộ dự án của tôi.
Tôi đợi có cuộc hẹn với Harari. Tôi gọi điện thoại tói Đại sứ quán, giới thiệu mình với cái tên Simon Lahav, và tôi nói rõ là muốn đầu tư vào Panama. Người nữ thư ký, đề nghị tôi gặp một tuỳ viên.
— Không - Tôi trả lời - Tôi muốn nói chuyện với ai đó có kinh nghiệm về làm ăn.
— Về vấn đề này, có lẽ, ông có thể gặp ngài Harari được không?
Chúng tôi thoả thuận cuộc gặp vào sáng hôm sau.
Tôi bảo đảm với người thư ký là, người ta có thể gặp tôi ở Sheraton. Mossad đã thu xếp với nhiều khách sạn: Các sỹ quan của Mossad đăng ký tên ở đó và mỗi người có một số phòng riêng, như kiểu “hộp thư”.
Hôm ấy, người ta đã chuyển cho tôi một thông điệp nói là mời tôi tới Đại sứ quán vào lúc 18 giờ. Điều này làm tôi hơi buồn cười, vì tất cả các văn phòng làm việc đều đóng cửa lúc 17 giờ.
Đại sứ quán Panama ở tầng một của một ngôi nhà nhìn ra bãi biển, nằm về phía Nam sân bay Sede Dov. Tôi tới Đại sứ quán trong bộ quần áo đẹp nhất. Tôi yêu cầu Kauly cho một hộ chiếu nhà kinh doanh Canada sống ở Colombie - Anh. Trước đấy, tôi điện thoại cho Thị trưởng Eilat, Rafi Hochman, mà tôi quen từ thời học trung học ở Eilat. Tôi đã ở nơi đây một năm. Tôi không tự khai với Hochman tôi là ai, nhưng chúng tôi đã thảo luận về dự án. Harari, vì thế có thể kiểm tra nên tôi tránh.
Rủi thay, Kauly không có được một tấm hộ chiếu cho tôi, tôi quyết định không cần nó nữa. Nếu cần, tôi sẽ nói tôi là người Canada và không mang hộ chiếu theo khắp nơi.
Có một mình Harari ở Đại sứ quán, ông ta đón tiếp tôi trong một phòng sang trọng và nghe tôi trình bày về dự án của mình. Câu hỏi đầu tiên của ông là:
— Ngài được sự hỗ trợ của các nhà đầu tư tư nhân, hay của một ngân hàng?
Tôi giải thích cho ông Đại sứ rằng, vấn để vốn có mạo hiểm. Điều này làm ông ta cười. Tôi nói về những chi tiết kỹ thuật của việc nuôi trai lấy ngọc, nhưng ông ta đã cắt ngang.
— Thế ngài có bao nhiêu tiền? - ông hỏi tôi.
— Chúng tôi sẽ đầu tư, điều này sẽ cần tối đa là 15 triệu đô la. Nhưng, chúng tôi có một sự tự do lớn trong việc điều hành. Chúng tôi cũng dự tính chi phí khai khẩn sẽ không phải vượt quá 3,5 triệu đô la cho thời gian 3 năm.
Tôi đề cập nhanh về vấn đề kỹ thuật, nêu ra tên ông Thị trưởng Eilat, một đòn chơi lớn. Nhưng Harari đã đến trước tôi, ngả người trên bàn của mình, nói nhỏ nhẹ:
— Nếu ngài sẵn sàng trả giá, ngài sẽ có tất cả những gì ngài muốn ở Panama.
Tôi lúng túng. Tôi vừa mồi ra một người, thì bị ngắt. Tôi bắt đầu đóng vai một người lương thiện, và trước hết, tôi có thể xếp đặt những con tốt của tôi. Chính ông ta là người giúp tôi đưa ra những đề nghị. Ngài Đại sứ, người đang chuếnh choáng men rượu không hiểu gì về tôi, nói với tôi chẳng phải về Eva cũng chẳng phải Adam!
— Thưa ngài, ngài muốn nói gì ạ? - Tôi hỏi.
— À, Panama là một nước đặc biệt, vả lại, chính xác ra, nó không phải là một nước. Nó chỉ là một cửa hàng lớn thì đúng hơn. Panama biết tôi có những mối quan hệ, hay nếu ngài muốn tìm hiểu, tôi có biết một số người bán ở cửa hàng đó. Ở Panama, cánh tả thì chả hiểu biết gì, mọi thứ đều do cánh hữu gánh vác. Giả sử, nếu chúng tôi giúp đỡ các ngài thực hiện dự án, thì ngày mai, chúng tôi có thể nhờ các ngài. Chính tương lai đang cuốn hút chúng ta, chắc ngài hiểu vấn đề? Nhưng trước khi đi sâu nghiên cứu về sự hợp tác giữa chúng ta sau một phút im lặng, ngài Đại sứ nói tiếp: Tôi có thể xem giấy tờ của ngài được không?
— Giấy tờ gì thưa ông?
— Chắc…hộ chiếu của ngài là hộ chiếu Canada.
— Tôi không bao giờ mang nó bên mình.
— Ngài nhầm rồi, ở Israel, điều đó là bắt buộc. Thôi, thế này, ngài hãy gọi lại cho tôi khi nào ngài có hộ chiếu, chúng ta sẽ tiếp tục cuộc nói chuyện ngắn này. Hôm nay, như ngài thấy đấy, Đại sứ quán đã đóng cửa.
Tới đây, ông đứng dậy và tiễn tôi không nói một lời nào.
Khi Harari hỏi tôi về hộ chiếu, tôi đã có một chút do dự thật tai hại. Tôi đã hầu như ấp úng. Tôi làm cho ông ta cảnh giác và thái độ của ông ta có sự thay đổi. Đó là một con người nguy hiểm.
Sau khi đã sử dụng các biện pháp phòng ngừa, tôi trở về nhà, viết báo cáo. Vào lúc 22 giờ, tôi hoàn thành xong báo cáo, khi đó Kauly tới. Kauly lục tung tài liệu của tôi một cách vội vã để tìm hiểu nội dung.
Kauly vừa ra khỏi, cảnh sát ập ngay tới. Những cú đấm, cú đá làm thủng cả cánh cửa. Lũ cớm xuất hiện đầy căn hộ và bắt chúng tôi đưa tới Sở Cảnh sát Ramat Gan. Tại đó, họ nhốt tôi trong một buồng giam. Tôi thẩm tra lại, một lần nữa, thấy kẻ thù tồi tệ của chúng tôi là cảnh sát địa phương. Một khi bị theo dõi, chúng tôi phải viết rõ trong báo cáo của mình, đó là những nhà chức trách của quận hay của một đơn vị cảnh sát khác. Chúng tôi ngủ qua đêm ở bốt cảnh sát, và khi chúng tôi về nhà, thì cánh cửa đã được sửa chữa lại. Về tới nơi ở chừng mười phút, thì chuông điện thoại réo. Đó là Sherf, phụ trách của Hàn lâm viện gọi.
— A lô! Victor phải không? Đến ngay lập tức - Ông ta ra lệnh cho tôi - Hãy bỏ tất cả lại đấy, mà tới đây nhanh lên, có hiểu không?
Tôi gọi một tắcxi và đề nghị người lái cho tôi xuống ngã tư đường, gần Viện Hàn lâm. Còn lại, tôi đi bộ. Có cái gì đó đi ngang qua. Có thể người buôn bán đồ chơi, một người cũ của Mossad, và ông chủ của xưởng rượu, mới tiếp xúc của Avigdor.
— Tôi sẽ nói một cách chân thành với anh - Sherf báo cho tôi biết như vậy -Mike Harari là người phụ trách cũ của Metsada. Chỉ có một điều dại dột ông ta phạm phải là ở Lillehammer.
Shai Kauly rất tự hào về cậu. Ông đã cho tôi xem báo cáo của cậu. Buồn thay, là cậu đã đem đến cho ông ta một vai trò xấu. Vì vậy, đêm hôm trước, tôi đã cho gọi ông ta về để nghe ông ta giải thích. Tôi đọc báo cáo của cậu cho ông ta nghe, và cậu có biết ông ta nói gì không? Rằng đó chỉ là một mớ dối trá.
— Sherf đưa cho tôi bản giải thích của Harari. Theo ông ta, ông ta đã làm tôi phải đợi hai mươi phút trước khi đến đón tôi. Tôi trình bày bằng tiếng Anh không rõ, ông ta hiểu ngay tức khắc tôi là ai và quẳng tôi ra ngoài, ông ta khẳng định không biết gì về nuôi trai lấy ngọc và bây giờ tôi đã bịa ra câu chuyện với mọi tình tiết.
— Harari từng là chỉ huy của tôi - Sherf giải thích với tôi - Lời nói của ông ta lại trái với lời nói của cậu. Cậu có nghĩ rằng tôi đã lưỡng lự trong giây lát không?
Tôi ngao ngán quá chừng.
Tôi đã không có một trí nhớ tốt với các tên, đúng vậy, nhưng, người ta không thể làm cho bản báo cáo của tôi thành một sự ngờ vực! Tôi giấu một máy ghi âm trong túi của mình, trước khi đi vào văn phòng của Harari. Tôi đã đưa cuốn băng ghi cho Sherf.
— Xin ông cầm lấy, đó là cuộn băng ghi lại cuộc nói chuyện của chúng tôi, rồi sau đó, xin ông hãy nói cho biết là ông tin ai.
Sherf cầm cuốn băng và đi ra. Mười lăm phút sau ông ta trở lại.
— Đi, tôi sẽ đưa cậu tới nơi ẩn náu của cậu - Sherf nói với tôi - Ông ta có một sự hiểu nhầm ở đó. Hãy cầm lấy những chiếc phong bì này, đấy là tiền của nhóm cậu.
— Tôi có thể xin lại cuộn băng ghi âm được không? - Tôi hỏi. Phía trên đoạn đó còn có những đoạn ghi khác của một hoạt động trước đó. Tôi cần những phần ấy.
— Cuốn băng nào?
— Nhưng… nhưng cuốn băng mà tôi đã đưa cho ông ấy!
— Hãy nghe đây, anh bạn của tôi, tôi biết rằng cậu đã phải trải qua một đêm vất vả ở đồn cảnh sát và tôi không biết là đã làm phiền cậu, đúng là để trả lại tiền cho đội của cậu. Nhưng, đó là cuộc sống.
Về sau, Kauly thú nhận với tôi là ông đã được nhẹ nhõm, vì tôi nghĩ đến việc ghi âm cuộc nói chuyện với Harari.
— Nếu không - Ông ta nói thêm - cậu đã bị sạt nghiệp. Và tôi tin rằng cậu sẽ không đặt chân của mình vào Văn phòng sớm thế.
Tôi không bao giờ xem lại cuộn băng nữa, nhưng tôi giữ lại bài học. Quan niệm của tôi về Mossad đã bị tan võ. Tôi thường được nghe nói đến những chiến công của Harari, nhưng tôi chỉ quen với cái tên “Cobra” (rắn hổ mang bành). Và tôi mới phát hiện ra đúng người đó là ông ta!
Quá nửa đêm, ngày 20 tháng 12 năm 1989, Hoa Kỳ xâm lược Panama của Tướng Noriega, Những thông cáo đầu tiên là tình huống bắt Harari. Trên các máy nhận điện tín, ông ta được mô tả là “một cựu sỹ quan tình báo của Mossad, Cơ quan Mật vụ của Israel, đã trở thành một trong số những cố vấn có ảnh hưởng nhất của Noriega”. Một đại diện của Chính phủ mới do Mỹ dựng lên, bày tỏ sự hài lòng, vì Harari là một trong những “nhân vật quan trọng nhất của Panama, bên cạnh Noriega”. Tuy nhiên, niềm vui đó qua ngắn ngủi. Người ta bắt sống Noriega, nhưng Harari thì đã biến mất. Ít lâu sau, Harari xuất hiện ở Israel, nơi mà ông sống đến khi qua đời.
Còn phần thứ hai trong nhiệm vụ của tôi: Thu thập tin tức về “Mikey”, cựu phi công. Cha tôi, ông Syd, người đã Anh hoá tên của Mikey thành Osten và hiện đang sống ở Nebraska, trước đây đã từng là đại uý phi công Israel. Vì vậy, tôi đã có dịp làm quen với những đội bay anh hùng và vinh quang từng xung trận trong cuộc chiến tranh độc lập. Họ, những người phần lớn đã từng phục vụ trong hàng ngũ không quân Anh, Mỹ hoặc Canada, thời Chiến tranh thế giới thứ hai, đã tình nguyện bảo vệ Israel.
Đại đa số họ đã có nơi yên thân gắn bó với căn cứ Sede Dov mà cha tôi đã chỉ huy. Tôi đã khui tìm kho lưu trữ, nhưng tuyệt nhiên không tìm thấy một dấu vết nào của cái tên “Mikey”.
Tôi gọi Moussa M., trưởng phụ trách an ninh, đăng ký tên tôi với Khách sạn Hilton. Tôi tìm những tấm biển, hai cái giá ba chân và gọi điện cho viên sỹ quan liên lạc của căn cứ không quân, nói rằng tôi là một nhà quay phim Canada, và nói tôi muốn quay một phim tài liệu về những người tình nguyện đã chiến đấu để khai sinh ra nước Israel. Tôi nói thêm, tôi đang ở Khách sạn Hilton hai ngày nữa, và tôi muốn được gặp những người anh hùng đó.
Viên sỹ quan liên lạc, nhắc lại với tôi và cho tôi biết là một tháng trước đây, không quân đã làm lễ kỷ niệm. Và danh sách của họ vì vậy còn đến hôm nay. Viên sỹ quan liên lạc khẳng định đã liên lạc được với hai mươi ba chiến sỹ tình nguyện trước kia, và mười lăm người trong số đó hứa sẽ gặp tôi ở Hilton. Viên sỹ quan cũng nói thêm, nếu tôi cần gì nữa, thì đừng ngại, cứ gọi điện thoại cho ông ta.
Tôi viết trên những tấm biển của tôi: “Những hiệp sỹ của bầu trời. Lịch sử của cuộc chiến tranh Độc lập”. Và bên trên viết: “Hãng phim tài liệu Canada”.
Vào ngày thứ sáu, lúc 10 giờ, Avigdor và tôi đi vào Khách sạn Hilton. Avigdor, trong bộ quân áo làm việc màu xanh, mang những tấm biển. Tôi mặc một bộ ba mảnh. Avigdor để một tấm biển trên lối vào chính, với số phòng sẽ có cuộc họp và một tấm biển khác để trong phòng đợi. Những người làm của khách sạn thậm chí cũng không lo nghĩ để biết chúng tôi làm cái gì.
Cuộc gặp gỡ kéo dài trong năm giờ, được ghi lại một cách trọn vẹn. Một trong số những người anh hùng đó đã nói chuyện với tôi, thậm chí nói cả về bố tôi, nhưng không biết tôi là ai.
Vào lúc có ba câu chuyện diễn ra đồng thời, tôi kêu lên:
— Mikey đâu? Ai là Mikey?
Dĩ nhiên không có ai nói tên mình ra.
— Ồ! Đó là Jake Cohen! - Một người trong đám phi công thốt lên thế - Anh ta là bác sỹ ở Nam - Phi.
Các phi công bắt đầu kể những câu chuyện vui về “Mikey”, người hiện đang chia sẻ thời gian của mình cho Israel và Hoa Kỳ. Một lúc sau, tôi cảm ơn mọi người, và lấy cớ có việc bận, tôi xin nghỉ. Tôi không đưa các vi-sít cho một ai, cũng không đưa ra một lời hứa nào. Tôi ghi tên từng người. Tất cả mọi người muốn mời tôi ăn bữa trưa. Bột nhào đã dậy mùi, thì người ta có thể làm những gì người ta muốn. Rồi, tôi ở lại đó.
Tôi quay về nhà, viết báo cáo, và quẳng nó cho Kauly:
— Nếu có cái gì đó trong cuốn băng này, mà tôi không phải viết vào báo cáo thì hãy nói cho tôi biết.
Điều này làm mọi người cười rộ lên.
Tháng ba năm 1984, Araleh Sherf tập hợp chúng tôi trong một cuộc biểu diễn do Amos Etinger trình diễn. Ông Amos là một nhà sản xuất phim. Cuộc biểu diễn này đã được trình diễn tại phòng nghe nhạc Mann của Tel Aviv, trong buổi bế mạc theo tập tục của Mossad. Tamar Avidar, vợ của Etinger, một người viết thời luận nổi tiếng, có một thời là tuỳ viên văn hoá của Đại sứ quán ở Washington.
Đó là một trong những cuộc biểu thị hiếm hoi công khai, do Mossad tổ chức, còn thì người ta làm “trong gia đình” - những chính trị gia, những nhà tình báo quân sự, những cán bộ cũ của Văn phòng, và một vài nhà xuất bản của báo chí.
Ngày trình diễn, chúng tôi bị làm kiệt sức. Chúng tôi không có thời gian để ngủ vì công việc soạn thảo các báo cáo cho Kauly và ôn luyện. Vì chúng tôi phải đồng diễn vào buổi tối, Yosy đã đề nghị chúng tôi về nhà anh ta ngủ một hai hai tiếng. Vừa về đến nhà, cậu ta đã chuồn đi và gặp một cô bạn gái láng giềng, người mà cậu ta hứa sẽ “phục vụ”, như thế nghĩa là cậu ta không ngủ nghê gì hết.
— Cậu vừa cưới vợ - Tôi chọc Yosy - vợ cậu đang chờ có một thằng con trai đấy. Thực tình, mình chả hiểu cậu ra làm sao! Mình muốn biết rõ điều cậu sẽ giải thích.
Yosy sẵn sàng giải thích cho tôi, ông bà ngoại của cậu ta là chủ một cửa hàng ở khu quý phái Kiker Hamdina và cậu ta không phải lo nghĩ về vấn đề tiền nong. Mặt khác, cậu ta sinh ra trong một gia đình của những người Do Thái sùng đạo, và bố mẹ cậu ta mong có một đứa cháu trai.
— Như thế đã đáp ứng câu hỏi của cậu chưa? - Yosy hỏi tôi.
— Được một phần thôi. Thế cậu không yêu vợ à?
— Có chứ… mỗi tuần hai lần.
Chỉ có Heim là người có khả năng đua tài với những kỳ tích của Yosy. Tôi không bao giờ hiểu nổi, tại sao Mossad lại tuyển mộ một con người tồi tệ như Yosy. Ngoại trừ những thủ đoạn của đường phố, cậu ta chả hiểu cái gì với cái gì cả. Những thành tích của cậu ta còn làm ngạc nhiên hơn nữa vì cậu ta xấu như ma, với cái mũi to tướng. Nhưng, cậu ta chỉ tìm kiếm số lượng chứ không phải tìm chất lượng. Nếu họ biết rằng các anh làm việc cho Mossad, những người gây được ấn tượng rất mạnh mẽ, họ nghĩ các anh có quyền lực. Vậy đấy, hai gã kia đã khoe khoang thuộc Mossad để làm thoả chí những chiến công của họ. Thật là nguy hiểm, nó trái với những quy chuẩn, nhưng họ cóc cần.
Heim đã có vợ, thường xuyên cùng vợ đến dự dạ hội chỗ chúng tôi. Một hôm bà vợ này tuyên bố với Bella, vợ tôi rằng Heim “là một trong số những người chồng chung thuỷ nhất”. Trước một sự mù quáng đến mức đó, những cánh tay tôi buông thõng xuống.
Nơi Yosy đã đi quá giới hạn, khi cậu ta sử dụng gian phòng “cấm” của Tổng hành dinh ở trên tầng sáu. Đó là phòng các katsa đến gọi điện thoại cho các điệp viên của họ. Hệ thống cho phép gọi điện thoại, chẳng hạn, tới Lyban, nhưng lại làm cho người nghe tưởng rằng tiếng của người gọi từ London, hay Paris hoặc từ một thủ đô nào đó của châu Âu. Khi phòng bận, một chiếc đèn đỏ bật lên cấm không ai vào.
Yosy đã đưa một cô thư ký vào đó, điều này đã là một vết nhơ đối với nội quy, và còn lạm dụng việc gọi điện thoại cho điệp viên của cậu ta ở Lyban nữa. Cậu ta nhét một chiếc quần lót của người con gái dưới một máy điện thoại, coi như một bằng chứng về “chiến công” của cậu ta. Heim đã đi kiểm tra, tìm thấy vật chứng của kẻ phạm tội, rồi đem vật chứng trả lại cho chủ nhân của nó.
— Này, cầm lấy, tôi tin rằng nó là của cô.
— Ô, không, không phải đâu - Cô ta ngượng ngịu đáp lại.
Heim ném chiếc quần lót xuống bàn và vừa đi ra vừa nói:
— Trước hết, hãy đừng để phải cảm lạnh.
Những cuộc gặp gỡ ngắn ngủi này là thường xuyên đối với một số trong chúng tôi, và nó đã biến thành những mối liên hệ. Quá nghiêm túc, chính bản thân tôi đã tự tách mình ra khỏi thế giới này và tự tước bỏ nhiều mối quan hệ. Tôi đã biểu lộ một sự thất vọng sâu sắc. Tôi đã tin vào Chúa Trời của Israel, hạ được xuống Sodome và Goraorrhe. Tổng hành dinh đã biến thành baisodrom mênh mông. Anh nhờ tôi cái này, tôi lại nhờ anh cái kia. Anh cho tôi cái này, tôi lại muốn trả anh cái kia. Những katsa đã trèo tới những nấc thang nhờ vào những câu chuyện của hãi hùng.
Những người được tuyển mộ, trước hết là vì thể chất con người họ. Những nữ thư ký, đại đa số là những cô gái rất đẹp, nhưng không một cô nào đáng tin cậy. Tuy nhiên có một quy định: Không được ăn ngủ với chính thư ký của mình, điều đó đã có hại cho công việc.
Các chiến sỹ, chính họ, ra đi làm nhiệm vụ trong hai, ba hoặc thậm chí bốn năm. Các katsa, người chỉ huy họ, những người của Metsada, là những mối liên hệ duy nhất gắn bó họ với những người vợ. Các katsa, hàng tuần bắt đầu viếng thăm những người vợ này, và dần dần những cuộc thăm viếng không còn dùng để thông báo tin tức của người chồng nữa, mà chỉ để giữ vị trí của người vợ.
Hãy hiến dâng cho họ cả cuộc đời của mình, nhưng đừng bao giờ hiến dâng vợ mình. Khi mà anh gặp rủi ro trong một nước Ả Rập nào đó, anh sẽ mất vợ anh vào tay một katsa. Thực tiễn diễn ra hàng ngày là nếu anh thỉnh cầu với Metsada, người ta sẽ hỏi anh:
— Vì sao? Anh muốn bắn một phát ư?
Buổi biểu diễn do những người mới vào nghề tự xưng là “Những chiếc bóng” trình diễn, một câu chuyện tình báo được đóng trong bóng đêm của Trung Hoa, diễn ra đằng sau ba tấm màn phông.
Những katsa trong tương lai đã không phải lột tả hết bộ mặt của họ trước công chúng.
Một điệu múa uốn bụng đệm nhạc của Thổ Nhĩ Kỳ, đã khai mạc buổi dạ hội. Một người đàn ông mang một bộ tai nghe, bước ra ngoài rèm phông, đưa mắt liếc nhìn những người am hiểu. Người ta pha trò bằng cách nói rằng katsa được nhận ra với ba chữ s: Samonite, Sept Etoiles (nhãn hiệu của một cuốn lịch bằng da) và montre Seiko, (ba chữ s là Samonite, Bảy ngôi sao và đồng hồ Seiko).
Màn tiếp theo mô tả một hoạt động tuyển mộ người, rồi tiếp đó là một cảnh châm biếm về việc mở khám va li ngoại giao. Sau đó, người ta tìm thấy một căn hộ ở London, nơi đây có một người đàn ông đang nói trong một phòng, mà trong một phòng bên cạnh có một người khác đưa bộ nghe lên tai để nghe cuộc nói chuyện.
Màn tiếp theo, mô tả một dạ hội ở London, với những người Ả Rập mặc quần áo truyền thống của họ. Tất cả mọi người uống, và bầu không khí càng ngày càng trở nên thân hữu. Trên tấm phông bên cạnh, một katsa gặp một người Ả Rập trên đường phố. Họ trao đổi Samonite của họ cho nhau.
Kết thúc buổi biểu diễn, tất cả diễn viên tay cầm tay vẫy chào và cùng hát bằng tiếng Hebreu bài Ngày đợi chờ. Âm nhạc chuyển sang một bài nổi tiếng Năm tới ở Jelusalem, niềm mơ ước truyền thống của những người Do Thái trước khi tạo lập nước Israel.
Hai hôm sau, chúng tôi tổ chức một buổi nướng thịt ăn ngoài trời, ngay trong sân của Hàn lâm viện. Những bà vợ của chúng tôi, các giáo viên của chúng tôi, và tất cả những ai đã tham dự vào bài học tập sự của chúng tôi đều có mặt cả.
Chúng tôi đã giành được thắng lợi.