Phần II: Bên Trong Và Bên Ngoài:Chương 1: Chiếc Bàn Của Bỉ.
Tháng 4 năm 1984, chúng tôi chưa phải là những katsa, nhưng cũng không còn là những học sinh sỹ quan nữa. Chúng tôi là những người tập sự mà ở Tổng hành dinh có những nhiệm vụ khác nhau đang chờ đợi, trước khi theo học một khóa thứ hai về đào tạo tình báo, và chúng tôi mơ ước đến danh hiệu katsa.
Tôi được bổ nhiệm vào bộ phận Nghiên cứu. Như Kauly đã giải thích cho chúng tôi, trong khoảng một năm, những người thực tập, cứ hai tháng sẽ thay đổi công việc một lần, để có được cái nhìn tổng quát về Văn phòng, trước khi bắt đầu khoá học thứ hai của họ.
Một hôm, khi kết thúc một cuộc thảo luận dài, có tô điểm các chuyện vui thông thường, và được tưới cà phê trong bầu không khí đầy khói thuốc, Kauly thông báo cho chúng tôi rằng Aaron Shahar có ý muốn thăm chúng tôi. Aaron là phụ trách của Komemiute, trước đây là Metsada, mà người ta đã thay tên cùng lúc với tên của các tổ chức khác sau khi một quyển ghi mật mã đã bị biến mất ở London, tháng 7 năm 1984. Shahar chọn hai người trong số chúng tôi để vào Komenmiute, là Tsvy G., nhà tâm lý, và Amiram, một anh chàng trầm tĩnh, và dễ cảm tình. Amiram đã trực tiếp gắn với Văn phòng từ hồi trong quân đội, lúc đó anh ta là trung tá. Họ sẽ trở thành các sỹ quan xử lý đối với các chiến sỹ.
Momenminute, có thể được dịch ra là “Độc lập và Kiêu hãnh”, nó hoạt động như một Mossad trong Mossad. Đó là một vụ cực kỳ bí mật, gồm các chiến sỹ, những “tình báo viên” thực sự. Họ được gửi tới các nước Ả Rập với một vỏ bọc chắc như bê tông. Cơ quan này có một đơn vị nhỏ gọi là kidom, nghĩa là lưỡi lê. Kidora gồm ba nhóm, mỗi nhóm mười hai người. Họ là những người “bắn, giết”, mà theo cách chuyển ngữ, người ta gọi là: “Những cánh tay dài của công lý Israel”, về nguyên tắc, một đội đi làm nhiệm vụ ở nước ngoài, trong khi đó, hai đội kia tập luyện ở trong nước. Các chiến sỹ không biết gì về cơ chế của Mossad, cũng như tên thật của các đồng nghiệp.
Các chiến sỹ tạo thành những nhóm, hai với hai, rất gắn bó. Một người là chiến sỹ “nước mục tiêu”, người kia là chiến sỹ “nước chỗ dựa”. Họ không có những hoạt động đặc thù trong các nước bạn, như Algérie chẳng hạn, nhưng họ có thể cùng nhau tạo ra một công ty ở nước đó. Khi cần thiết, người chiến sỹ “nước mục tiêu” lên đường tới nước mục tiêu, phục vụ công ty này như một vỏ bọc, trong lúc đó, người bạn của anh ta, chiến sỹ “nước chỗ dựa”, tiếp tục cuộc sống hàng ngày bình thường, và tìm sắm cho mình tất cả những thứ cần thiết.
Trải qua nhiều năm tháng, vị trí của các chiến sỹ phát triển lên, giống như ở Israel. Một thời kỳ, Mossad có những người ở trong các nước Ả Rập, nhưng họ lưu trú ở đó quá lâu và cuối cùng kết thúc bằng tù tội. Những người đó, chủ yếu là những người Ả Rập, những người Israel, học tập và nói tiếng Ả Rập ở đó. Vào lúc khai sinh ra Nhà nước Israel, nhiều người Do Thái sống trong các nước Ả Rập đã di cư tới miền Đất Hứa, và những người Ả Rập chiếm số đông. Ngày nay, điều này không còn đúng nữa, và tiếng Ả Rập mà người ta dạy ở trường không đủ.
Ngày nay, những người của Komenmiute đã chuyển sang hàng ngũ những người châu Âu. Họ cam kết ở bốn năm, một thời kỳ tối thiểu cho phép họ mở ra một công ty, yêu cầu có các chuyến đi làm ăn trong các nước Ả Rập. Mossad chọn một người cho họ, một người cùng làm, một chiến sỹ của nước chỗ dựa. Những công ty được thành lập, vì thế, nhìn chung, tốt hơn các vỏ bọc đơn giản, khi đó, người ta có các cuộc thương lượng thật sự trong buôn bán xuất nhập khẩu ở đó.
Khoảng 70% các công ty này có trụ sở ở Canada. Lãnh đạo của các công ty chỉ liên lạc với văn phòng thông qua trung gian một sỹ quan xử lý. Viên sỹ quan này chỉ chịu trách nhiệm về bốn, hoặc năm nhóm chiến sỹ, không bao giờ nhiều hơn.
Khoảng hai chục chuyên gia thương mại làm việc cho Komenmiute. Họ phân tích từng công ty, đánh giá thị trường và thông báo những kết luận của họ cho người sỹ quan xử lý, người này đến lượt mình lại cố vấn cho các chiến sỹ trong công tác quản lý làm ăn.
Các chiến sỹ được tuyển từ mọi tầng lớp của dân chúng, bác sỹ, luật sư, kỹ sư, các đại học gia. Tất cả họ là những người yêu nước, chấp nhận hi sinh bốn năm cho đất nước. Gia đình họ nhận được sự đãi ngộ tương xứng với mức lương trung bình ở Israel, và một khoản tiền được gửi vào tài khoản riêng cho mỗi người; người chiến sỹ này sẽ lĩnh số tiền đó khi họ kết thúc cam kết của họ, một số tiền khuyến khích trị giá từ 20.000 đến 30.000 đô la.
Những nhân viên của Komenmiute không quan tâm tới tin tức tình báo trực tiếp - hoạt động của quân đội, công tác chuẩn bị của phòng vệ dân sự - nhưng lại chuyên môn hoá trong lĩnh vực thông tin “tổng hợp”, nghĩa là phân tích về kinh tế, những dư luận, những phong tục, tập quán, những quan điểm…Là những người tự do với các hoạt động của mình, họ có thể, không có rủi ro, mà chỉ tập trung quan tâm tới công ty nơi họ sống. Họ không bao giờ truyền tin qua vô tuyến điện từ một nước mục tiêu. Thỉnh thoảng, người ta chuyển tiền cho họ, và chuyển các thông điệp cho các điệp viên “đen”. Trong các nước Ả Rập, các chiến sỹ đã đánh mìn nhiều cầu. Tất cả các chiến sỹ đều được huấn luyện về kỹ thuật phá hoại. Trong trường hợp chiến tranh, mỗi chiến, sỹ đều được trang bị các kíp nổ đủ để phá các cầu.
Sau khi Tsvi và Amiran đi sang tổ chức Komenmiute, Shai Kauly đã giành cho chúng tôi một sự bất ngờ.
— Những kế hoạch đã soạn thảo được thay đổi, Kauly mở đầu. Tôi biết các anh đang kiên trì chờ đợi kỳ nghỉ hè của các anh, nhưng trước đây, Văn phòng đã giành cho các anh những ưu đãi vô hạn. Các anh sẽ là những người đầu tiên tiếp nhận khoá đào tạo tin học cấp tốc, bằng việc làm quen với máy tính QG (của Tổng hành dinh). Việc đó không chiếm của các anh quá ba tuần lễ, và sẽ còn lại cho các anh một ít thời gian để nghỉ hè.
Chúng tôi đã quen, không ngạc nhiên đối với việc đảo lộn thời gian thế này. Không hiếm những lúc đang ngày nghỉ, có một người đột nhiên gọi, nói là có việc cần đến chúng tôi, nhưng trong thời gian 24 giờ, không được chậm hơn, và nói chung chúng tôi phải dành 20 phút để thu xếp gia đình. Dĩ nhiên, điện thoại được dùng liên tục.
Những katsa, bản thân họ, sử dụng những thông điệp ghi âm sẵn. Băng ghi âm này tự động mở: “Xin chào, Đây là Văn phòng. Chồng bà còn đang bận, ông không thể về nhà như dự định được. Ông sẽ gọi điện cho bà ngay khi nào có thể được. Trong trường hợp khẩn cấp, xin hãy liên hệ với Jacob”.
Sự lưỡng lự là có ý muốn. Thấy được tầm quan trọng mà việc quan hệ nam nữ giữa trong cuộc sống của họ, các katsa xem việc lưỡng lự này như một yếu tố của tự do. Nếu một trong số họ say mê một người lính nữ và muốn cùng cô này đi nghỉ cuối tuần, người vợ anh ta, người đàn bà hay lui tới cản trở vào phút cuối cùng, sẽ không quan tâm đến việc anh ta vắng mặt. Sự hài hước của câu chuyện, đó là người ta không có thể trở thành katsa mà không có vợ. Người ta chứng minh điều đó bằng sự sợ một người chưa có vợ tán tỉnh những cô gái đẹp, rồi sẽ dễ trở thành con mồi cho một nữ gián điệp được một nước thù địch điều khiển từ xa. Nhưng, công việc bận rộn chính của katsa là đào bới và thậm chí, họ còn hiến cho kẻ thù của mình cả nghìn dịp để ca ngợi việc làm đó. Tôi chưa bao giờ hiểu được, vì sao người ta chỉ tuyển những người có vợ. Đây còn là một điều bí ẩn.
Một trong những phòng trên tầng hai của Viện Hàn lâm được dọn dẹp lại, những chiếc bàn được sắp xếp thành nửa vòng tròn và được trang bị các bàn phím điều khiển, cho khoá đào tạo tin học của chúng tôi. Giáo viên chiếu cho chúng tôi xem các phim dương bản để giải thích. Trước tiên, chúng tôi học làm thế nào để điền vào một chiếc phiếu nhận dạng nhờ một tờ giấy vàng, gọi là “cà rốt”, chứa đựng một loạt các câu hỏi phải điền vào để có đường dẫn tới tủ phiếu của máy tính. Chúng tôi làm việc trên những bảng điều khiển thật, được nối với Tổng hành dinh, mở đường vào các tủ phiếu thật, trên những tủ phiếu đó, chúng tôi học sử dụng chương trình và các dữ liệu.
Người ta cũng dạy chúng tôi sử dụng phần mềm, gọi là Ksharim (các đầu mối, hay các mối quan hệ). Phần này xử lý các mối quan hệ của những người này hoặc người kia, và đây là điểu đã xảy ra: Arik ngồi trước bảng phím điều khiến của thầy giáo chúng tôi, ông này đi vắng và Arik. gõ đường dẫn vào tên Arafat theo Ksharim. Mã số Arafat có đường dẫn ưu tiên vào bộ nhớ của máy tính. Chuyển biến theo tầm quan trọng của con người, mà trong đó, người ta muốn có những tin tức tình báo, người ta có được những câu trả lời, dù nhanh hơn hay chậm hơn, nhưng, Arafat lại là ưu tiên của những ưu tiên. Vì thế, máy tính trung tâm làm việc theo những câu hỏi được đặt cho nó. Vì lý do này hay lý do khác, đối với Arafat, máy trung tâm sử dụng hết mọi khả năng để giải quyết vấn đề này, đồng thời ngưng mọi mạch hoạt động của các máy tính khác. Arik đã làm tê liệt máy tính của Mossad trong 8 giờ liền.
Từ đó, hệ thống đã được sửa đổi, những câu hỏi cần phải được cụ thể và những câu trả lời giới hạn trong 300 dòng. Từ đây, người ta phải nêu rõ, thí dụ về các quan hệ của Arafat với những người Syrie, hơn là hỏi tổng quát, danh sách những quan hệ của Arafat.
Sau đợt thực tập này và ba ngày nghỉ hè còn lại cho tôi, tôi đã trở về với nhiệm vụ đầu tiên được giao là nghiên cứu, ở văn phòng Ả Rập Saudi của Mossad, dưới sự dẫn dắt của bà Aerna. Văn phòng này ở ngay cạnh văn phòng Jordanie do Ganit điều hành, và không có văn phòng nào trong hai văn phòng đó là quan trọng cả. Mossad chỉ có một “taupe” (một con chuột chũi) là một tuỳ viên làm việc trong Đại sứ quán Nhật. Các tin tức về khu vực này, đều thông qua báo chí, tạp chí và các phương tiện thông tin đại chúng. Thêm vào đó có một số tin tình báo được đơn vị 8200 dàn dựng sai lệch đi.
Bà Aerna làm việc ở toà soạn cuốn sách về các thế hệ của gia đình hoàng tộc Ả Rập. Song song với việc đó, bà tập hợp các tư liệu về dự án ống dẫn dầu thứ hai mà những người Iraq đang xem xét thoả thuận lại để dẫn dầu, nhằm mục đích tài trợ cho những nỗ lực chiến tranh của họ chống Iran, cuộc chiến tranh làm cho công việc chuyển vận dầu hoả trong vùng vịnh Persique trở nên phiêu lưu. Tôi đã có trong tay những bản báo cáo mang tính giáo huấn mạnh mẽ của các Cơ quan Tình báo Anh về nước Ả Rập Saudi. Những báo cáo của Anh cực kỳ mang tính tư liệu, nhưng, nó đề cập đến phân tích chính trị hơn là về Tình báo. Người Anh, không muốn chia sẻ trong tình báo. Một trong những báo cáo này cho thấy những người Ả Rập đang xem xét việc mở rộng khai thác dầu hoả, điều này làm cho đường ống dẫn dầu thứ hai trở thành cần thiết. Nhưng, những người Anh đã tạo ra tình trạng sản suất thừa cho thế giới trong tương lai, việc này gây nên mối đe dọa đối với nền kinh tế của Ả Rập, một đòn trừng phạt nặng nề vì chính sách chăm sóc và hệ thống giáo dục không mất tiền của Ả Rập.
Chúng tôi đã có những thông tin từ những người Anh, rất nghiêm túc, nhưng mọi người trong cơ quan lại nghĩ rằng họ đã chịu ảnh hưởng bởi “Garce”, cái tên mà Mossad gán một cách khó coi cho bà Margaret Thatcher, nhãn hiệu một lần đối với tất cả những người Do Thái. Các việc nắm vị trí, không bao giờ được phân tích theo tiêu chuẩn chính trị, người ta tự hỏi một cách đơn giản: “Người Do Thái có tốt không?” và nếu câu trả lời mang tính tiêu cực, thì những người đó được liệt vào loại Do Thái, và sự phán quyết là xứng đáng hay không.
Chúng tôi nhận được những tờ giấy dài, giống như giấy than trắng, trên đó là những bản dịch viết các cuộc nghe điện thoại giữa vua Ả Rập Saudi với những người cộng sự thân cận. Ví như bản dịch: Hoàng thân Ả Rập đã gọi điện thoại cho một người bà con ở châu Âu báo trước rằng thiếu tiền để sử dụng ngay. Ông ta để người bà con liên hệ với một người có khả năng làm việc này. Một bản dịch khác liên quan đến một chuyến tàu chở hàng, vận chuyển hàng nghìn tấn dầu hoả, đi tới Amsterdam, và không người nào, trong số nói trên, đưa ra những chỉ thị cho người bà con để chuyển bảo đảm theo tên của Hoàng thân và đặt cọc tiền chuyển giao vào một tài khoản của Ngân hàng Thuỵ Sỹ. Gia đình hoàng gia vì thế có ngay số tiền khổng lồ.
Một trong những cuộc nói chuyện đáng nhớ nhất là cuộc nói chuyện của Arafat kêu gọi sự can thiệp của vua bên cạnh Assad của Syrie, người đã từ chối nói chuyện với Arafat. Vì vậy, vua điện thoại cho Assad, ca ngợi ông này, và gọi ông Assad là “Cha của những người Ả Rập” hay “Người con của Thanh kiếm thần”. Assad chấp nhận nói chuyện với vua của Ả Rập, nhưng không nói chuyện với Arafat!
Tôi gặp một số Ephraim (mà chúng tôi gọi là Effy), những điệp viên cũ liên lạc với CIA ở Washington. Effy bịa ra, trong năm 1977, đã chịu trách nhiệm về sự sụp đổ của Itzhak Rabin, người của Đảng Lao động, lúc đó là Thủ tướng đã ba năm. Mossad không ưa Rabin. Là Đại sứ ở Hoa Kỳ, năm 1974, ông đã từ nhiệm, để về cầm đầu Đảng Lao động và đã kế nhiệm chức Thủ tướng của bà Golda Meir. Rabin đòi hỏi Mossad những dữ liệu tàn ác và không phải là những bản trình bày làm dịu tin buồn thông thường phục vụ những ham muốn bóp méo đường lối chính trị của Israel theo hướng cho lợi ích của mình, điều đòi hỏi này gây phức tạp cho nhiệm vụ của Mossad.
Tháng 12 năm 1976, Rabin và Nội các của ông đã từ chức sau khi bắt ba Bộ trưởng của Đảng Dân tộc tôn giáo phải rời Chính phủ tiếp sau việc họ bỏ phiếu trắng trong cuộc bỏ phiếu tín nhiệm ở Knesset. Rabin ở lại làm Thủ tướng của Chính phủ giao thời, chờ tới cuộc tuyển cử tháng 5 năm 1977, cuộc tuyển cử đã đem lại thắng lợi cho Menahem Begin, đã đem lại sự hài lòng lớn cho Mossad. Tuy vậy, đây là một vụ “bê bối” do nhà báo nổi tiếng Dan Margalit phanh phui, đã làm cho Rabin phải ra đi ngay trước khi có cuộc tuyển cử.
Luật của Israel cấm không được mở một tài khoản ở một ngân hàng nước ngoài. Thế mà, vợ của Rabin đúng là có một tài khoản ở New York, mà số tiền gửi không quá 10.000 đô la, và bà ta đã sử dụng khi chuyển sang ở Hoa Kỳ. Thế nhưng, mọi chi phí cho vợ Thủ tướng, do Chính phủ gánh chịu. Mossad biết có tài khoản và Rabin cũng biết là Mossad biết, nhưng, Thủ tướng đã không áp dụng những sự đe dọa nghiêm khắc. Một sai lầm trầm trọng!
Mossad chờ đợi cơ hội thích hợp và tung ra cho Margalit. Theo Ephraim (những điệp viên cũ liên lạc với CIA), việc này, chính Mossad đã cung cấp những chi tiết chính xác cần thiết cho Margalit khi ông này tới Hoa Kỳ để thẩm tra thông tin. Vụ bê bối này đã giúp cho Begin đánh bại Rabin, một con người liêm khiết, nhưng Mossad không ưa. Họ say mê với việc đó. Khắp nơi, Ephraim kể rằng Mossad là người gây ra sự sụp đổ này và chưa bao giờ tôi thấy ai nói ngược lại.
Khi còn là học sinh sỹ quan ở Viện Hàn lâm, người ta đã cho chúng tôi thăm quan các ngành công nghiệp hàng không của Israel (IAI). Khi thực tập tại văn phòng về các vấn đề của Ả Rập Saudi, tôi đã biết người Israel đã bán cho Ả Rập, thông qua một nước thứ ba (tôi không biết nước nào), những bình nhiên liệu phụ (do IAI sản xuất), cho phép các máy bay tiêm kích của Ả Rập mang được nhiều nhiên liệu hơn và hoạt động với bán kính xa hơn. Israel cũng ký một hợp đồng với Hoa Kỳ để cung cấp những bình nhiên liệu phụ giống như của họ.
Người Ả Rập thấy sự dàn xếp bị tốn kém, quay sang mua của Hoa Kỳ các bình nhiên liệu phụ với giá hời hơn. Israel không đồng ý và nói rằng không phải vì vấn đề giá cả. Trong chừng mực nào đó, những người Ả Rập sẽ có thể tấn công Israel với các máy bay F.16. Lúng túng bởi thiện chí kém, khi người ta biết rằng những bình nhiên liệu phụ đã được bán, nấp dưới cái vỏ dân sự với cái giá cao hơn nhiều so với giá bán mà Hoa Kỳ đề nghị. Rất nhiều thứ bán cho Ả Rập Saudi theo cách này. Đó là một thị trường lớn.
Vụ nghiên cứu, chiếm cứ ở tầng trệt và dưới hầm của Tổng hành dinh còn có văn phòng của người phụ trách, người phó phụ trách, thư viện, một phòng máy tính, một ban thư ký, một văn phòng liên lạc. Nhân sự được phân bổ cho các bộ phận Hoa Kỳ, Nam Mỹ, văn phòng tổng hợp gồm Canada, Tây Âu, văn phòng Hạt nhân, dưới cái tên “Kaput” do không có nghĩa lý gì, và Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất, Lybie, Maghreb (Maroc, Algérie, Tuynisie), châu Phi, Liên Xô và Trung Quốc.
Vụ viết các báo cáo hàng ngày ngắn, mà mỗi một báo cáo có thể tìm hiểu bằng cách tra hỏi máy tính mỗi buổi sáng, ngay từ khi đến. Một báo cáo đầy đủ hơn gồm bốn trang giấy xanh, xuất hiện hàng tuần và nêu lên những việc đáng chú ý nhất gửi từ thế giới Ả Rập về. Một báo cáo khác, khoảng 20 trang, cực kỳ chi tiết với các bản đồ và các biểu đồ được đưa ra, cứ ba tháng một kỳ.
Tôi đã phải vẽ một bản đồ về dự án ông dẫn dầu và một biểu đồ thống kê đánh giá khả năng một tàu chở dầu vượt qua vịnh Persique vô sự. Thời kỳ đó, tôi đánh giá khả năng này là 30%. Quá 48%, chính sách của Mossad là báo hiệu ngay cho mỗi doanh trại, việc di chuyển của các tàu phía kia. Một trong số những người của chúng tôi ở London gọi điện thoại cho các Đại sứ quán Iran và Iraq đồng thời bày tỏ ý kiến và cho họ biết tình hình. Họ muốn trả tiền cho người gọi điện thoại chừng nào những thông tin là chính xác, nhưng, người ta từ chối tiền, và khẳng định, chỉ hành động vì lợi ích của nước họ. Chúng tôi cho phép các tàu bè tự do đi lại, nhưng, ngay khi nào con số 48% kia bị vượt qua, chúng tôi sẽ thông báo cho căn cứ trước mặt, và các tàu chở dầu sẽ bị oanh tạc. Một cách như kiểu đổ dầu vào lửa: Chừng nào mà họ đánh lẫn nhau, thì họ không đe dọa chúng tôi.
Sau nhiều tháng trong công tác nghiên cứu, tôi được chuyển sang phục vụ. Niềm say mê nhất với tôi, là Quan hệ, hay gọi là Kaisarut. Tôi làm việc trong ban gọi là Dardasim (hay “Smerfs”), vụ này chịu trách nhiệm về Viễn Đông và châu Phi, do Amy Yaar lãnh đạo.
Đó là một Bộ Ngoại giao thu nhỏ, giải quyết những vấn đề của các nước chưa có quan hệ ngoại giao với Israel. Người ta ví nó như một nhà ga tàu hoả. Nhiều tướng lĩnh về hưu và các sỹ quan cũ của Văn phòng thường đến thăm dùng những mối quan hệ cũ với Mossad để thương thuyết các hợp đồng, mà chủ yếu là bán vũ khí, có lợi cho các công ty của họ. Những người Israel, những nhà “tư vấn” đa dạng này không có thể tới được một số nước, và cơ quan Quan hệ, tạo điều kiện cho họ bằng cách kiếm cho họ những hộ chiếu giả, hay các giấy tờ cần thiết khác.
Đó là bất hợp pháp, nhưng không ai nói gì cả. Mỗi người đều biết rằng, một ngày nào đó, họ sẽ về hưu và cũng sẽ làm giống như vậy thôi.
Amy cho tôi biết trước rằng, trong trường hợp có yêu cầu bất bình thường, tôi không phải đặt câu hỏi, nhưng phải trực tiếp báo ngay việc đó. Một hôm, có một người tới trình bản hợp đồng nhờ đưa Thủ tướng ký. Bản hợp đồng này dự kiến bán cho Indonesia từ 20 đến 30 chiến đấu cơ Skyhawk do Mỹ chế tạo, việc bán này trái với Hiệp định giữa Mỹ và Israel. Israel không thể bán lại những chiến đấu cơ này mà không có chuẩn y của Hoa Kỳ.
— Ngày mai ông có thể trở lại được không? Tôi hỏi- Ngoài ra, ông có thể để số điện thoại của ông lại cho tôi. Tôi sẽ gọi ngay cho ông khi đã sẵn sàng.
— Không, tôi đợi- Người đàn ông đáp.
Khi thăm các cơ sở công nghiệp phục vụ hàng không (IAI), tôi đã nhìn thấy trên đường băng có chừng 30 máy bay Skyhawk được phủ vải nhựa màu vàng tươi. Lúc đó, tôi đã hỏi những thứ này làm gì ở đây, người ta trả lời nó đang chờ được chuyển đi, nhưng không nói rõ đi đâu. Tôi hiểu rằng người Mỹ không chấp thuận việc bán các máy bay này cho Indonesia, bởi vì việc đó sẽ tạo ra sự thay đổi tương quan lực lượng trong khu vực này của thế giới. Nhưng, việc này không do tôi quyết định được. Lúc đó, người đàn ông nói rằng ông chờ đợi câu trả lời của Thủ tướng Simon Perés. Tôi mở ngăn bàn, gọi: “Simon! Simon! Tôi đang cô đơn đây, ngài Perés không có ở đấy lúc này.”
Người kia nhìn tôi giận dữ và ra lệnh cho tôi đi tìm Amy. Thậm chí tôi không cảm thấy khó chịu phải hỏi tên ông ta, nhưng khi tôi đang nói chuyện với ông ta về điều này, thì đột nhiên Amy đến, thét to:
— Ông ta ở đâu? Ông ta ở đâu?
— Đang trong phòng đợi.
— Thế thì chuyển ông ta lên tôi cùng với bản hợp đồng của ông nữa.
Hai mươi phút sau, người đó ra khỏi văn phòng Amy và đi qua văn phòng của tôi, bản hợp đồng đã được làm sáng rõ và ông ta tỏ ra rất vui.
Cuối cùng, ông Perés ở đó, ông khách kia làm ầm ĩ lên.
Trên thực tế, ông Perés có thể đang ở Jelusalem, mà chả biết gì về chữ ký của mình được ký bên dưới các văn bản này. Giấy tờ được nêu ở trên, mà chúng tôi gọi là “bidon”, chỉ được dùng trong nội bộ, chỉ nhằm để bảo đảm cho người vận chuyển, che đậy về mặt tài chính, bởi vì việc mua bán đã có sự đồng ý của Thủ tướng.
Một cách chính thức, những nhân viên của Mossad làm việc cho văn phòng của Thủ tướng. Thủ tướng đã được biết việc mà cả mua bán, tuy nhiên không biết chi tiết về các giao kèo có liên quan. Thông thường, muốn rằng mình không biết các giao kèo mua bán. Việc này tránh cho ông phải có những quyết định. Với cách đó, trong trường hợp người Mỹ phản đối, thì Thủ tướng sẽ nói rằng ông không hay biết gì. Đây chính là điều mà người Mỹ gọi là “một sự cự tuyệt có thể chấp nhận”.
Ngôi nhà châu Á của Israel Saul Eisenberg, ở gần Tổng hành dinh. Nhờ có nhiều mối liên hệ ở Trung Đông, Saul Eisenberg đã trở thành chiếc cầu nối giữa Mossad với Trung Quốc, và đã bán được vũ khí ra khắp thế giới. Phần lớn việc buôn bán này dựa vào số vũ khí thừa, trang thiết bị do Nga sản xuất cung cấp cho Ai Cập, Syrie bị Israel lấy được trong các cuộc chiến tranh. Khi bán tất cả những kho vũ khí AK-47 do Nga chế tạo, Israel đã sản xuất ra một loại súng gọi là Galil, một loại súng kết hợp giữa AK-47 của Nga và M-16 của Mỹ. Israel đã bán loại vũ khí này ra khắp thế giới.
Tôi ấn tượng đang làm việc trong một siêu thị thì phải. Những nhà tư vấn tư nhân coi như những con tốt (trong bàn cờ) của chúng tôi nhưng lại là những con tốt chơi những nước của chính họ. Đúng hơn, khi có một kinh nghiệm rộng lớn hơn bất kỳ điều gì của chúng tôi, thì chính họ sẽ biến chúng tôi thành những con tốt của họ.
Vào khoảng giữa tháng bảy, năm 1984, một trong những nhiệm vụ của tôi là hộ vệ cho một nhóm những nhà nghiên cứu nguyên tử của Ấn Độ, sang thăm bí mật Israel để gặp gõ, trao đổi thông tin với các nhà bác học và chuyên gia hạt nhân của Israel, bởi vì Ấn Độ lo lắng về sự đe dọa của một quả “bom Hồi giáo” (Ý nói về vũ khí hạt nhân của Pakitstan). Thực ra, người Israel chấp nhận những thông báo thiện chí mà người ta đưa đến nhưng họ lại không sẵn sàng cung cấp thông tin của mình cho người ta.
Sau hôm đoàn Ấn Độ đi, khi Amy cho gọi tôi, tôi đã tập hợp tài liệu làm việc của mình. Ông ta giao cho tôi hai nhiệm vụ. Trước hết, tôi phải giúp sắp xếp hành lý và giúp đưa một nhóm người Israel đi Nam Phi để huấn luyện cho những đơn vị cảnh sát mật của nước này. Sau đó, tôi phải tìm một kiều dân châu Phi ở trong Đại sứ quán, đưa về nhà ở của họ tại Herzilya Pituah, và đưa tới sân bay. Tại sân bay, tôi phải giúp họ qua mọi sự kiểm soát của an ninh.
— Tôi sẽ cùng ra sân bay với anh - Amy nói với tôi - Tôi phải đón một nhóm Sri Lanka, mà chúng ta sẽ huấn luyện. Khi tôi tới sân bay, Amy đợi một chiếc máy bay chở những người Sri Lanka từ London tới.
— Khi nào thì họ đến? - Amy hỏi tôi.
— Tại sao anh hỏi tôi như vậy?
— Này nhé, tất cả họ đều là khỉ cả. Cậu biết đấy, họ từ một khu vực kém phát triển đến và điều này, mới đây thôi, họ từ giã cái cây của họ để xuống đất.
Chúng tôi đưa 9 người Sri Lanka ra bằng cửa sơ cua (cửa dự phòng), và hộ tống họ tới một chiếc xe mi ni buýt có máy điều hoà. Họ là những người đầu tiên trong một nhóm khoảng 50 người. Họ được chia thành ba nhóm nhỏ:
Một nhóm luyện tập chống khủng bố, ở Kfar Sirkin, một căn cứ quân sự gần Petah Tiqva. Người ta sẽ dạy họ làm thế nào để chống cưỡng đoạt máy bay hoặc xe buýt, làm thế nào để chế ngự được một kẻ giữ con tin ẩn náu trong một toà nhà, làm thế nào để từ trực thăng xuống với một thang dây…Và dĩ nhiên, người ta sẽ bán cho họ những Uzis, và các trang thiết bị khác được sản xuất tại Israel như áo giáp, lựu đạn đặc biệt…
Một nhóm là những người đi mua, đến thương thuyết các hợp đồng vũ khí quan trọng. Vì thế, những người Sri Lanka đã đặt 7 hoặc 8 tàu phóng ngư lôi Devora, để tuần tiễu dọc bờ biển phía Bắc và tự vệ chống lại người Tamoul.
Một nhóm các sỹ quan cao cấp muốn mua ra -da và một trang bị hải quân để ngăn chặn sự xâm nhập của người Tamoul.
Tôi phải hộ tống Penny (xem chương III; phần 1) trong hai ngày. Đó là con gái của Tổng thống Jayawardene. Rồi tôi đưa Penny đi thăm các thắng cảnh du lịch. Sau đó, có một ai đó của Văn phòng làm công đoạn tiếp theo. Penny là một người phụ nữ đẹp, duyên dáng, theo cách giải thích của người Ấn Độ là Cory Aquino. Là một người theo Phật giáo, vì chồng theo đạo Phật, tuy vậy, Penny vẫn giữ lại chút dáng dấp của một người theo Thiên Chúa giáo. Ngày thứ hai, tôi đưa Penny đến Veret Haglit, hay Rose de Galilée, một cửa hàng ăn nổi tiếng, nơi đây nhìn bao quát được phong cảnh. Mossad có một ngân khoản ở đây.
Tiếp sau, người ta lại giao cho tôi nhóm sỹ quan cao cấp đến tìm hiểu mua trang thiết bị ra - đa. Người ta dặn tôi đưa họ tới Ashdod, tới một nhà buôn tên là Alta, người này lo toan chuyện làm ăn. Nhưng, khi tôi nêu ra những quy cách kỹ thuật với người đại diện của ông Alta, thì ông này phản đối:
— Họ làm như muốn mua, nhưng họ không phải là khách hàng!
— Thế, vì sao? - Tôi hỏi.
— Những con khỉ này đã không thể đẻ ra được một quyển vở của những chức trách đâu. Đó là một gã người Anh, tay Deca, một lái buôn ra-da. Gã này đã đạo diễn cho họ thôi. Vì thế, một lời khuyên tốt là hãy cho chúng một ít chuối rồi thả chúng về chỗ của chúng. Các anh đã phung phí thời gian của mình đấy.
— Thôi được, nhưng ít ra cũng cho họ một số sách giới thiệu hay quảng cáo, chả nhẽ họ đến đây để về không à.
Chúng tôi cùng ngồi uống chè, uống cà phê với nhau, nhưng nói chuyện bằng tiếng Hébreu. Người đại diện của ông Alta chấp nhận làm một khoá học cho các sỹ quan cao cấp này, để họ không có cảm tưởng bị gửi tới xứ hoa hồng. “Các anh hãy đợi, người ta sẽ vui đùa”, người đại diện nói với một mình tôi.
Ông ta đi vào trong văn phòng và quay trở lại chiếu phim dương bản cho chúng tôi xem một hệ thống máy hút được sử dụng trong các cảng để dọn những váng dầu. Một số phim dương bản, giới thiệu lại các biểu đồ bằng màu. Lời chú thích viết bằng chữ Hébreu, nhưng ông ta dịch sang tiếng Anh “những khả năng vô tận của các thiết bị ra- da này”. Tôi thấy buồn khi phải giữ thái độ nghiêm túc của mình, ông này đã nhấn mạnh một cách khó nhọc, bịa ra những công dụng của ra-da. ông ta nói, ra-da có thể phát hiện được một người bơi, có thể chỉ rõ kích thước và thậm chí biết được cả cỡ giày, tên, địa chỉ và nhóm máu của người bơi. Khi mà ông ta giới thiệu xong, những người Sri Lanka cảm ơn ông đại diện, và tuyên bố rất cảm kích với những công nghệ tiên tiến, kỳ diệu này, nhưng lấy làm tiếc là không thể mua loại ra-da này được, vì nó không thích hợp với các, tàu của họ. Các tàu của họ! Khốn thay, các tàu đó lại do chính chúng tôi đóng!
Khi Amy để tôi về khách sạn, tôi giải thích cho ông rằng, những người Sri Lanka không mua ra-da.
“Đúng, chúng tôi biết việc này”, Amy trả lời.
Amy ra lệnh cho tôi về Kfàr Sirkin, nơi các lực lượng đặc biệt Sri Lanka đang luyện tập, để tìm kiếm những thứ họ cần thiết, sau đó đưa họ tới Tel Aviv để dự dạ hội.
Amy dặn trước, tôi phải rất thận trọng và phải hợp đồng tốt việc đi lại của tôi với Yosy, người vừa được thuyên chuyển sang cùng làm nhiệm vụ.
Chính bản thân Yosy cũng đang hướng dẫn một nhóm do Israel huấn luyện, nhưng nhóm này chưa có một trường hợp nào gặp phải Cinghalai. Thực tế đó là những người Tamoul, những kẻ thù đáng nguyền rủa của những Cinghalai, về phần mình, những người Tamoul, người Hindu, nói họ là nạn nhân của sự kỳ thị chủng tộc của những người Cinghalai theo đạo Phật chiếm đa số trong hòn đảo, kể từ khi nước Anh trao trả độc lập cho Sri Lanka (thời kỳ đó là Ceylan) năm 1948. Trong số 16 triệu dân Sri Lanka, khoảng 74% là người Cinghalai và chỉ có 20% người Taraoul, mà đại bộ phận tập trung ở phía Bắc hòn đảo. Vào khoảng năm 1983, một nhóm nghĩa quân, những Con hổ Tamoul, đã lao vào cuộc đấu tranh vũ trang để tạo lập một quốc gia độc lập Eclam. Cuộc chiến tranh kéo dài và đã có hàng nghìn nạn nhân.
Bang Tamil Nadu (trước đây là Bang Madras), ở phía Nam Ấn Độ, nơi đây có khoảng 40 triệu người Tamoul. Họ không che giấu cảm tình của họ đối với những người khởi nghĩa (có khi còn gọi là quân phiến loạn). Rất nhiều người Tamoul ở Sri Lanka bị tàn sát, đã tìm đến đây tỵ nạn, và Chính phủ Sri Lanka thường cáo buộc những sỹ quan Ấn Độ đã trang bị và huấn luyện cho quân Tamoul. Tốt hơn là nên cáo buộc Mossad đã làm việc này.
Những người Tamoul theo các khoá huấn luyện ở căn cứ của lính biệt kích hải quân, để tiếp thu những kỹ thuật thâm nhập, đánh mìn vào các thánh địa, thông tin liên lạc, phá hoại bằng tàu phóng ngư lôi (kiểu Devoral!).
Mỗi đội gồm khoảng 30 người, tôi và Yosy đã quyết định, trong khi Yosy dẫn đội Tamoul của anh đi dạ hội ở Kafar Sirkin, thì tôi ở lại với đội Cinghalai.
Sau hai tuần, mọi việc suýt nữa đổ bể, khi những người Tamoul và những người Cinghalai - tất nhiên đội này không biết có sự hiện diện của đội kia - theo một khoá huấn luyện trong cùng một thời kỳ ở Kfaf Sirkin, nơi đây không thiếu không gian tập, nhưng một ngày trong lúc đi bộ nóng bức, hai đội đã gặp nhau.
Khi đợt luyện tập của họ ở Kfar Sirkin kết thúc, những người Cinghalai được đưa về căn cứ hải quân, tại đó người ta dạy đúng các môn kỹ thuật mà những người Tamoul vừa mới học. Chúng tôi phải cảm ơn họ do không có một sai lầm nào. Chúng tôi luôn luôn bịa ra những lý do hoặc những bài luyện tập ban đêm, để tránh cho hai đội không gặp nhau vào buổi tối ở Tel Aviv. Nếu không, những sự phối hợp của Amy có thể thực sự làm nguy hại cho chính sách của Israel. Nếu ông Perés biết được việc đã xảy ra, tôi tin chắc rằng ông ta sẽ mất ngủ suốt đêm. Nhưng vì sự khéo léo, nên không người nào biết việc này.
Cuối tuần thứ ba, những người Cinghalai chuẩn đi về Atlit, một căn cứ tuyệt mật của lính biệt kích hải quân. Amy giải thích với tôi rằng ông không thể đi cùng với đội này được, và đơn vị Sayret Matcal, một đơn vị biệt kích kiểu mẫu về trinh sát và tình báo, đơn vị này sẽ làm tiếp công việc. Đây chính là đơn vị đã thực hiện cuộc đột kích Entebbe nổi tiếng trước đây.
— Có một việc khó- Amy thông báo cho tôi - Tôi có một đội 27 SWAT mới từ Ấn Độ tới.
— Mẹ kiếp! - Tôi thốt lên - Trò xiếc này là gì đây? Những người Cinghalai, những người Tamoul và bây giờ là những người Ấn Độ, rồi còn ai nữa?
Đội SWAT hình như sẽ luyện tập ở căn cứ, mà Yosy và những người Tamoul đang ở đấy. Tình hình bùng nổ bột phát. Buổi chiều, sau khi kết thúc công việc của tôi ở văn phòng, kết thúc các báo cáo, tôi dẫn những người Ấn Độ đi ăn cơm tối tại một nhà hàng trong thành phố, đồng thời tránh không chọn phải cửa hàng ăn mà Yosy đã chọn. Người ta giao cho tôi mỗi ngày một phong bì có 300 đô la tiền Israel để chi phí.
Cũng trong thời gian này, tôi gặp một tướng không quân Đài Loan, ngài Ky, người phụ trách công tác tình báo cho nước ông ở Israel, và ông tướng này muốn mua vũ khí. Người ta yêu cầu tôi đi hướng dẫn ông Ky, nhưng không bán gì cho ông ta. Những người Trung Hoa Đài Loan nổi tiếng có khả năng tái sản xuất ra tất cả những thứ họ mua được chỉ trong hai ngày, và họ đang tìm cách cạnh tranh với Israel trên thị trường thế giới.
Tôi đưa người bạn Trung Hoa tới nhà máy Sultan chuyên sản xuất súng cối và đạn súng cối. Ông rất cảm kích. Tuy nhiên ông giám đốc nhà máy nói, ông ta không muốn bán gì cho ông Ky. Bởi vì, trước hết là ông Ky mua cho Đài Loan và một lý do nữa, là tất cả sản phẩm đã bán hết. Tôi tỏ ngạc nhiên, đồng thời nói rằng, chúng tôi muốn mua một số lượng súng ống như thế là để phục vụ tập luyện.
— Ồ không! Điều đó không thuộc phạm vi chúng tôi- Ông giám đốc thanh minh - Chính những người Israel đã đặt mua những sản phẩm đó.
Đấy, người ta đã bắt chúng tôi đi vòng vèo như vậy.
Mossad đã đạt được việc thông qua một thoả thuận cho một nhóm người Trung Hoa Đài Loan đến Israel để học tập. Đó là một sự thỏa hiệp đạt được sau một thời gian bàn bạc. Thực tế, Đài Loan đã đề nghị Mossad cử các chiến sỹ sang Trung Hoa, Mossad đã từ chối việc này, nhưng lại chấp nhận dạy cho một đơn vị đặc biệt về nghệ thuật làm cho các đồ vật biết nói, kiểu giống như đơn vị neviot của họ. (đặt giấu các máy phát trong đồ dùng để nghe trộm).
Trong cùng thời gian đó, tất cả những người Phi chuyển sang cơ quan nơi tôi biết, nhằm kết thúc công việc. Theo đề nghị khẩn cấp của Amy, tôi ở lại vị trí này hai tháng phụ thêm. Đây cũng đồng thời là làm cho vui và là một phương tiện lớn đối với báo cáo của tôi.
Một câu chuyện vui được lưu truyền đã phác họa lên tính kỳ dị của những người Phi và khuynh hướng tự nhiên của họ ném tiền qua cửa sổ để mua những vật dụng mới lạ không cần thiết: Họ hỏi một lãnh tụ người Phi liệu ông có mua một chiếc máy MégaAoc không, ông ta trả lời không và người ta đề nghị xây dựng cho ông cái đó với giá 25 triệu đô la. Họ bắt đầu bằng việc xây dựng một cánh tay khổng lồ dài gần 300 mét, với 200 mét trên mặt nước, rồi đề nghị thêm 5 triệu đô là phát sinh để hoàn thành công việc. Họ xây dựng một thang máy để đõ một thanh sắt tròn khổng lồ, đường kính 2 mét. Người ta mời những người gần gũi với nhà lãnh đạo và các quan chức có nhân phẩm nhất của chế độ tới khánh thành một kỳ quan, rồi họ nhìn thấy gì? Chiếc thang máy nâng lên từ từ, tới đầu mút của cánh tay khổng lồ đang đung đưa, rồi chiếc thanh sắt tròn khổng lồ kia rơi tõm xuống “MégaAoc”.
Dĩ nhiên đó là một chuyện vui, nhưng nó phản ánh khá rõ sự thật.
Tôi chưa bao giờ nhìn thấy chừng ấy tiền chuyển nhanh như thế, trong thời gian tôi ở bên cạnh Amy. Mossad nghĩ sử dụng những mối quan hệ đầu tiên này như chiếc cầu nhảy để nối các quan hệ ngoại giao với một số nước sau đó, và không thấy một lập luận nào có lợi mà những người trung gian thực hiện. Nhưng những người này chỉ quan tâm đến tiền bạc tạo ra từ những ủy ban kếch xù mà không bao giờ chuẩn bị một cơ sở cho một hành động ngoại giao nào đó.
Nhiệm vụ cuối cùng của tôi do Amy giao, là phục vụ hướng dẫn một người đàn ông và một người đàn bà từ Trung Hoa đến, trong bốn ngày, để thương lượng các hợp đồng mua bán vũ khí.
Điều khiến tôi bực mình là người ta giới thiệu những trang thiết bị có phẩm chất kém cho khách. Amy lấy quyền phụ trách của mình để tiến hành việc đó.
Amy làm như Bộ trưởng Ngoại giao, mà không cần tham khảo bất kỳ một người nào, cả cuộc đời, ông làm việc cho chính phủ với lương của một công chức, nhưng ông ở tại ngôi biệt thự lộng lẫy nằm trong một khu rừng của gia đình phía Bắc Tel Aviv. Thỉnh thoảng, chúng tôi đến đây, để uống ly rượu sau ngày cuối tuần làm việc.
— Anh đã làm thế nào để có được tất cả những thứ người ta cung phụng cho anh? - Một hôm, tôi đã hỏi Amy như vậy.
— Ồ đơn giản thôi. Chỉ cần làm việc cật lực và tiết kiệm từng xu, từng xu một.
Đợt thực tập tiếp của tôi diễn ra ở Tsomet. Người ta bổ nhiệm tôi vào văn phòng Benelux, nơi mà một phần nhiệm vụ của tôi là nghiên cứu những yêu cầu về thị thực cho người Đan Mạch.
Trong nhiều trường hợp, người phụ trách chi nhánh có quyền ngang hàng với người phụ trách ngành bao trùm lên nó. (Kaisarut thì hoàn toàn ngược lại. Các quyết định được thông qua tại đấy trong các văn phòng và các ngành, tựa như người phụ trách chi nhánh Quan hệ ở London chẳng hạn, là phụ thuộc trực tiếp vào người phụ trách văn phòng về Anh tại Tel Aviv, và văn phòng về Anh có quyền cao nhất đối với các hoạt động).
Ngành thứ nhất của Tsomet được chia thành nhiều ngăn hay văn phòng. Văn phòng của Benelux kiểm soát Bỉ, Hà Lan, Luxembourg, những cũng kiểm soát cả bán đảo Scandiavie (Các chi nhánh đặt tại Bruxelles và Copenhague). Các văn phòng Pháp, và Anh có các chi nhánh ở Paris, Marseilles và London.
Ngành thứ hai của Tsomet đảm nhiệm văn phòng Italy, với chi nhánh ở Rôm và Milan. Văn phòng Đức- Áo có chi nhánh ở Hambourg và nay là ở Berlin.
Ngành thứ ba, được gọi là ngành Israel, quản lý các văn phòng có trụ sở tại Tổng hành dinh của Tel Aviv. Từ đó, các katsa thực hiện các cú “nhảy bọ chét” sang Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, Ai Cập hay Tây Ban Nha.
Người phụ trách của một chi nhánh có quyền như một người phụ trách ngành và thậm chí, có thể huỷ bỏ những quyết định của ngành này nếu điều đó là cần thiết và yêu cầu trọng tài của người phụ trách Tsomet. Việc thuyên chuyển không ngừng về nhân sự, hệ thống này đã gây ra những cuộc đấu tranh thường xuyên trong nội bộ. Để tránh có những cuộc xung đột, Mossad không áp đặt mệnh lệnh của mình, đó là mặt tốt của Mossad. Nhiều người đã lợi dụng việc này để có hai người bảo vệ: Một người bảo vệ leo trèo lên các nấc thang thứ bậc và người kia bảo vệ rút ra khỏi bước đi xấu, nếu cần thiết. Người ta đã bỏ thời gian của mình để cố trở thành người bảo vệ cho con người.
Một hôm, có tin một điệp viên là tuỳ viên không quân của Đại sứ quán Syrie ở Paris, đã báo cho chúng tôi biết trước người phụ trách không quân của Syrie (ông ta cũng là người phụ trách các Cơ quan Mật vụ) sẽ tới châu Âu để mua đồ đạc cao cấp dùng trong nhà (động sản). Tổng hành dinh ngay lập tức có ý làm cho những đồ đạc này biết nói, hay nói một cách khác là giấu những máy phát vào các đồ dùng đó.
Người ta đã yêu cầu máy tính đưa ra một danh sách các “sayanim động sản”. Một dự án của chiếc bàn “biết nói” sẽ được gửi tới bày trong nhà của các văn phòng thuộc Tổng hành dinh lực lượng không quân Syrie, bắt đầu được nghiên cứu. Người ta vội vã cử một katsa từ chi nhánh London tới để tổ chức việc bán, mặc dù Mossad biết rằng việc làm ăn sẽ được xử lý ở Bỉ chứ không phải ở Pháp.
Trước khi viên tướng không quân của Syrie tới, katsa của London đã có sự thống nhất của người trung gian nổi tiếng bán bất cứ một đồ dùng nào với giá cả cạnh tranh bất ngờ. Mossad biết rằng viên tướng kia không bao giờ mặc cả việc mua bán. Ông ta là một người giàu có, và hiển nhiên, Đại sứ quán sẽ thanh toán tiền. Vì vậy, mục đích không phải là chờ đợi ông ta, nhưng là chờ viên sỹ quan tuỳ tùng của ông ta, người lo toan việc mua bán. Chúng tôi có không tới ba tuần lễ để tổ chức.
Chúng tôi liên hệ với một người trang trí có tiếng, một sayan. Người này chuyển cho chúng tôi những tấm ảnh về những tác phẩm của ông ta. Với những tấm ảnh này, chúng tôi nghiên cứu trong hai ngày một catalogue của một công ty có khả năng cung cấp các đồ dùng trong nhà có chất lượng với giá cả có thể cạnh tranh được. Để nhử viên sỹ quan tuỳ tùng của ông tướng kia, chúng tôi lập một kế hoạch gồm ba phần. Chúng tôi, định tiếp cận trực tiếp để giao catalogue cho ông tướng. Nếu ông ta cắn câu và mua những đồ dùng của Mossad thì tốt biết chừng nào. Nếu điều đó không tiến triển, chúng tôi sẽ cố phát hiện xem ông ta muốn mua đồ dùng ở đâu, và chúng ta chịu trách nhiệm vận chuyển. Nếu tất cả đều thất bại, phải thay đổi việc mua bán hoặc đánh tráo hàng.
Chúng tôi biết khách sạn mà viên tướng kia sẽ đến ở Bruxelles trước khi tới Paris, và chúng tôi cũng biết ông ta sẽ ở lại đó ba ngày, cùng với lính cận vệ. Chúng tôi theo ông ta đến các cửa hàng, bản thân ông ta và viên sỹ quan tuỳ tùng sẽ ghi chép. Được một lúc, hatsa nghĩ rằng công việc đã hỏng cả rồi. Chúng tôi không biết phải làm gì đây.
Con “chuột chũi” (taupe) của chúng tôi trong Đại sứ quán Syrie thông báo rằng, ngày mai, viên tướng không quân sẽ đi Paris, nhưng chỉ có một trong hai chiếc vé được huỷ thôi. Chúng tôi quyết định đấy phải là người sỹ quan tuỳ tùng, chịu trách nhiệm giải quyết những chi tiết mua bán cuối cùng.
Chúng tôi đã phán đoán chính xác. Ngày hôm sau, người ta theo dõi viên sỹ quan tuỳ tùng tới một cửa hàng đồ gỗ rất đắt tiền. Tại đây, người ta trao đổi với những người bán hàng nhiều chuyện.
Vì thế, katsa quyết định xen vào đó. katsa thâm nhập vào cửa hàng. Một sayan, tới lượt mình, bước vào, lớn tiếng đưa ra một câu cảm ơn katsa đã giúp ông ta mua sắm đồ dùng và làm cho ông tiết kiệm được hàng nghìn đô la, rồi ra về.
Sau khi sayan đi khỏi, viên sỹ quan tuỳ tùng của ông tướng Syrie nhìn chằm chặp vào katsa với sự quan tâm.
— Thưa, ông muốn mua đồ dùng? katsa hỏi viên sỹ quan tuỳ tùng.
— Vâng.
— Xin ông cầm lấy, hãy xem ở bên trên - katsa vừa nói, vừa đưa catalogue ra.
— Ông làm việc trong cửa hàng này ư? - Viên sỹ quan tuỳ tùng ngạc nhiên hỏi. - Không, không, tôi là người gia công cho khách hàng. Tôi mua nhiều, để bán lại. Tôi lo vận chuyển và dành cho khách một cách thanh toán rộng rãi.
— Thế nghĩa là?
— Ờ, như ông thấy đấy, tôi có số khách hàng khắp nơi. Họ đến đây chọn mẫu hàng và tôi mua trực tiếp từ nơi sản xuất. Tôi lo việc vận chuyển, còn khách hàng trả tiền tại nơi tiếp nhận ở nơi bán. Nếu vì lý do gì đó, có hư hỏng, tôi chịu trách nhiệm tất cả, bảo đảm, bồi thường.
— Làm thế nào để ông tin sẽ được thanh toán?
— Ồ, tôi không lo ngại về điều đó.
Liệu viên sỹ quan tuỳ tùng đã cắn câu chưa? Tất cả sự hấp háy của ông ta đã báo hiệu và sự tính toán của ông ta là thủ tục của việc khỏi động. katsa đã mất ba tiếng đồng hồ với ông này và đã đạt được một danh sách đầy đủ do ông tướng lựa chọn. Hoá đơn tính lên tới 180.000 đô la, không kể các chi phí ở cảng và đóng gói, và katsa đã bán với giá tất cả là 105.000 đô la. Như vậy ông ta còn được hưởng lợi 75.000 đô la.
Hẩm hưu thay, viên sỹ quan tuỳ tùng người Syrie yêu cầu với những thứ hàng mua phải gửi tới Lattaquie, nhưng lại cho những tên giả của chính ông ta và của cả viên tướng kia. ông ta nói rõ là nếu những việc kiểm tra tỏ ra cần thiết, thì ông ta có thể gọi điện thoại tới Đại sứ quán Syrie ở Paris. Một nửa giờ, sau khi rời khỏi katsa, ông ta gọi điện cho “chuột chũi” người Paris trong Đại sứ quán Syrie báo trước, trả lời tất cả những yêu cầu kiểm tra các tên và các địa chỉ mà ông ta đưa cho, làm cho thấy một hoạt động tuyệt đối được ưu tiên.
Hai ngày sau đó, chiếc bàn từ Bỉ được chuyển giao về Israel. Chiếc bàn lập tức được rút xương và một thiết bị điện tử, trị giá khoảng 50.000 đô la - ngoài ra còn có một pin chạy được trong ba hoặc bốn năm, được giấu vào đó. Chiếc bàn sau đó được lắp ráp rất cẩn thận, mà người ta không thể phát hiện ra hệ thống nghe trộm, trừ phi cưa đôi nó. Sau đó, chiếc bàn được gửi sang Bỉ, và được chuyển về Syrie, tồn tại như một đồ dùng trong gia đình.
Mossad luôn trông đợi những tin tức từ chiếc bàn gửi về. Mossad đã phái nhiều chiến sỹ trang bị những đài thu, cố bắt các tín hiệu, nhưng vô vọng. Nếu như các biện pháp được tiến triển, thì đó quả thực sự là được ban một phúc lành. Có khả năng là chiếc bàn được đưa về Damas, và để trong một căn buồng công sự kín như người Nga đã xây ở Syrie, và công sự đó không cho phép các sóng vô tuyến thâm nhập được. Nhưng người ta đã thấy những micro, do người Syrie dùng phục vụ cho lợi ích của chính họ.
Ngoài câu chuyện vui này, công việc của tôi ở Tsomet ngán ngẩm lắm. Tôi làm đầy đủ các thẻ fiche, theo dõi thời gian biểu. Nhưng, đại bộ phận thời gian của tôi dành để trả lời điện thoại, chủ yếu là các bà vợ của những người có vai vế của cơ quan, và lặp lại rằng chồng của họ không có ở đó.
“Thưa bà, tôi thực sự lấy làm tiếc, ông nhà đang đi công tác…”