Chương 7 Hoạt Động Moise.
Tất cả mọi người đều ở đó: Những nhà ngoại giao chạy trốn cái nóng ngột ngạt của Khartoum; những người du lịch châu Âu đến để học lặn xuống biển Hồng Hải, hay cùng nhau đi du ngoạn trong sa mạc Nubien; những nhà lãnh đạo Soudan, đứng trước Mecque (thành phố thánh đường của Ả Rập Saudi. Các tín đồ Hồi giáo ít nhất hành hương đến đây một lần trong đời họ).
Làm thế nào mà người ta đã có thể hiểu được đó là một “vỏ bọc” của Mossad? Vào một buổi sáng của tháng 1 năm 1985, khi khoảng năm chục khách hàng phát hiện ra một người mất tích - ngoại trừ một vài thứ để lại đó để ăn bữa điểm tâm sáng - thì người ta không hiểu đã xảy ra điều gì. Tới hôm nay còn ít người biết được điều ấy. Đối với những người du lịch, những người chủ châu Âu phức tạp đã phải phá sản, như người mất tích ghi chép để lại giải thích về việc đó. Người ta đã hứa bồi hoàn tất cả (những cái họ đạt được). Những người làm công, về hình thức làm cho Mossad hay cho hải quân Israel phải theo dõi một cách bí mật trong đêm tối, trên tàu hoặc trên máy bay. Họ đã để lại cho khách đồ ăn thừa thãi, cũng như bốn chiếc xe tải để chở họ tới Port-Soudan.
Điều đã xảy ra trong câu lạc bộ nghỉ hè, trên thực tế là một cuộc vượt trốn không bao giờ nhìn thấy, một câu chuyện mà thế giới chỉ được biết một phần dưới cái tên Operation Moise (Hoạt động Moise): Việc cứu vớt hàng nghìn người Do Thái da đen Ethiopie, hay những người Falachas, được lôi ra từ một nước Ethiopie bị tàn phá bởi hạn hán, bởi chiến tranh xâu xé, rồi đưa họ về Israel.
Nhiều tin tức, thậm chí cả các cuốn sách, đã kể về hoạt động táo bạo và bí mật này nhằm di tản bằng máy bay những người Falachas ra khỏi các trại tị nạn của Soudan và của Ethiopie. Một chiếc máy bay vận tải 707 thuê riêng của một công ty Bỉ đã được dùng để chuyên chở họ từ Khartum hay Addis-Abeba tới Tel Aviv, bay ngang qua Athen, Bruxelles, Rôm hay Bale.
Những bản báo cáo này - tất cả đều do những chuyên gia khai thác tin của Mossad cung cấp - đã khẳng định rằng 12.000 người Do Thái da đen Ethiopie đã được cứu sống trong suốt cả hoạt động ngắn và ly kỳ này. Trên thực tế, có khoảng 18.000 người được di tản, trong đó chỉ có 5.000 người đi bằng máy bay thuê riêng mà người ta nói tới nhiều. Phần còn lại, chính là sự phức tạp du lịch” của biển Hồng Hải đã gánh chịu.
Cuối thế kỷ vừa qua, hàng trăm nghìn người Falachas đã sinh sống ở Ethiopie, nhưng vào đầu những năm 1980, con số giảm xuống còn 25.000 người, thêm vào đó, họ bị ở phân tán trong tỉnh Gondar xa xôi trong vùng Tây Bắc của đất nước. Từ hai thế kỷ nay, người Falachas mong chờ được trở về vùng Đất Hứa, nhưng chỉ tới năm 1972, họ mới chính thức được Israel công nhận như những người Do Thái. Pháp sư Sefarade Ovadia Yosef tuyên bố rằng những người Falachas thuộc “một cách chắc chắn về bộ tộc Dan”. Điều này đã làm họ trở thành những người dân của lãnh thổ thuộc thánh kinh Havileh, ngày nay ở Torah, những Thánh địa chính của tôn giáo Do Thái. Họ đều cắt bao quy đầu, tuân thủ giáo phái Sabbath và những quy định đúng nghi lễ của con vật giết để thờ cúng của người Do Thái. Việc lạ lùng là một trong số những lập luận chủ yếu đã đưa pháp sư đến kết luận: Những người Falachas là những người Do Thái, đó là họ không kỷ niệm Hanoukah, ngày lễ của thần Ánh sáng. Ngày lễ này tưởng nhớ tới chiến thắng của Judas Maccabé đối với Antiochos IV khoảng năm 167 trước Công nguyên. Sau thắng lợi đó, Đền thờ đã được làm cho trong sạch và trở thành nơi thờ cúng (Antiochos IV Epiphane (175- 176, trước CN, đã đánh người Do Thái, nhưng không thành công).
Nhưng chiến thắng đó không phải là một phần lịch sử của những người Falachas đã rời bỏ Israel trước đây rất lâu cùng với Hoàng hậu Saba, trong thời trị vì của Vua Salomon.
Kết quả của những kết luận của Hội đồng pháp sư, một ủy ban thuộc Chính phủ, đã quyết định rằng những người Ethiopie có liên đới tới Đạo luật Trở về. Đạo luật này cho phép bất kỳ một người Do Thái nào, ngay từ khi trở về đất nước và sinh sống ở đó, mặc nhiên trở thành công dân Israel.
Năm 1977, khi Menahem Begin trở thành Thủ tướng, ông cam kết giúp đỡ những ngươi Falachas trở về Đất Hứa. Nhà lãnh đạo Ethiopie, Mengistu, trong cuộc nội chiến cay đắng nổ ra đầu những năm 1970, đã ra lệnh trừng phạt nghiêm khắc bất kỳ một người Ethiopie nào định bỏ trốn, và Begin đã dàn dựng một kế hoạch chuyển giao bí mật vũ khí cho Ethiopie bằng cách chuyển đổi những hoạt động cứu những người Falachas bắt đầu từ Soudan và từ Ethiopie. Chỉ có 122 người Do Thái da đen, rời Addis-Abeba bằng máy bay khi Moshe Dayan, Bộ trưởng Ngoại giao Israel, thổ lộ với một ký giả của đài phát thanh ở Zurich, ngày 6 tháng 1 năm 1978, rằng Israel đã bán vũ khí cho Ethiopie. Mengistu, người yêu cầu giữ bí mật, đã huỷ bỏ ngay bản giao kèo mua bán.
Năm 1979, khi Begin và Anouar AI Sadate ký những thoả thuận Trại David, Israel thuyết phục Ai Cập để Tổng thống Gaaffar Al-Nemeyri cho phép những người Falachas được rời khỏi các trại tị nạn Soudan để đi Israel. Suốt trong những năm sau đó, một số ít người Falachas, có thể là 4.000 - một làn nước nhỏ thay cho một lớp sóng thủy triều được tính trước - thực sự đã trở về tới Israel. Vả lại kế hoạch này cũng bị chôn vùi khi Sadate bị ám sát năm 1981, và Nemeyri phải quy theo chủ nghĩa Hồi giáo. Năm 1984, tình hình đã trở nên bi thảm hơn. Vì hàng triệu người Ethiopie khác, những người Falachas đã phải chịu đau khổ một cách khủng khiếp về nạn hạn hán và nạn đói và đã bắt đầu dồn tới Soudan để kiếm cái ăn. Tháng 9 năm 1984, trong cuộc gặp Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ, George Shultz tại Washington, phó Thủ tướng Israel, Itzhak Shamir, đã yêu cầu người Mỹ dùng ảnh hưởng của họ đối với Ai Cập và Ả Rập Saudi để đẩy Nemeyri cho phép có một cuộc cứu nạn dưới vỏ bọc là Viện trợ lương thực thực phẩm quốc tế. Soudan cũng có những vấn đề hạn hán của nước họ, và cuộc nội chiến trong vùng phía Nam của đất nước, không hài lòng với viễn cảnh có hàng nghìn cái mồm há ra chờ chết. Nhưng những nhà lãnh đạo Soudan và Ethiopie đã yêu cầu bí mật tuyệt đối về điều đó. Từ tháng 11 năm 1984 đến tháng 1 năm 1985, hoạt động đã tồn tại trong bí mật. Tuần đầu tiên của tháng 1 năm 1985, George Bush, khi đó là Phó Tổng thống Hoa Kỳ, đã phái một chiếc máy bay Herculess tới Khartum - với sự thoả thuận của Nemeyri tại đó, máy bay đã xếp 500 người Falachas lên, rồi đưa họ tới thẳng Israel.
Phần hoạt động này, về sau được mô tả một cách phong phú trên báo chí và các ấn phẩm khác. Rất nhiều người đã biết chuyện, nhất là người Mỹ, người Anh, người Ai Cập, người Soudan, thậm chí cả những người Ethiopie, cũng như nhiều nhà lãnh đạo của các đường bay châu Âu. Tất cả những người này đều giữ im lặng cho tới việc mà Yehuda Dorainitz, người chịu trách nhiệm của Hãng thông tấn Do Thái, để lộ ra cho một nhà báo Nekuda, một tờ báo nhỏ hàng ngày của người Do Thái di cư ở Cisjordanie, khi đó hoạt động cứu nạn còn đang tiếp tục. Điều này không chỉ chấm dứt hoạt động đã nói, mà còn chấm dứt cả hoạt động bí mật mà Mossad tổ chức trên hai bờ biển Hồng Hải.
Một cách tổng quát, vì những điều đã diễn ra trong vụ việc này, báo chí Israel đã biết ngay từ lúc khởi đầu - hoặc ít nhất, đã biết việc mà Mossad và Văn phòng Thủ tướng muốn để họ biết - nhưng báo chí chấp nhận giữ bí mật cho tới khi người ta cho phép xuất bản câu chuyện. Có một ủy ban của chủ bút các toà soạn - Vaadat Orchim - những nguyên tắc chính của các phương tiện thông tin đại chúng Israel, ủy ban này họp thường kỳ với những đại diện của Chính phủ để có những thông tin về các sự kiện đang diễn ra. Vì Chính phủ kiểm duyệt vô tuyến truyền hình, đài phát thanh cũng vậy, ngoại trừ một đài phát duy nhất. Các phương tiện Audiovisuel không bao giờ có vấn đề.
Tại các cuộc họp này, người ta phân phát cho các nhà báo những tài liệu chính thức mà người ta đã cố gắng để họ phân phát với nhau. Đôi khi, người ta gửi cả những tài liệu qua các phái bộ ra ngoài, rồi nghe ngóng xem khi mà có lợi cho đất nước để công bố câu chuyện, thì họ đã có tất cả những thông tin cần thiết. Một số người nghĩ rằng hệ thống này có giá trị hơn là sự kiểm duyệt (Israel cũng còn sử dụng tới việc kiểm duyệt này).
Khi sự việc nổ bung ra ánh sáng, những người Ả Rập đã có một phản ứng có thể dự đoán trước được. Lybie đã kêu gọi có một cuộc họp đặc biệt của Liên đoàn các nước Ả Rập, và báo chí của nhiều nước Ả Rập đã lên án Soudan vì đã hợp tác với Israel về phần mình, Chính phủ Soudan đã phủ nhận mọi sự tham gia vào chiếc cầu không vận này và Bộ trưởng Ngoại giao, Hashem Osman kêu gọi các nhà ngoại giao Ả Rập, châu Phi, châu Á hãy lên án Ethiopie đã “nhắm mắt” đối với việc di dân Falachas để đổi lấy tiền và vũ khí của Israel. Goshu Wolde, Bộ trưởng Ngoại giao Ethiopie đã trả lời rằng Soudan đã trả tiền “cho một số lớn người Do Thái của Ethiopie để khuyến khích họ chạy trốn khỏi đất nước”. Trong một bài xã luận với giọng gay gắt, tờ báo của Koweite - tờ Al rai Aam đã viết: “Việc vận chuyển bí mật những người Do Thái Ethiopie qua Soudan không có thể được xem là một việc bình thương mà nó phải được xem như một thất bại mới trừng phạt đối với quốc gia Ả Rập”.
Người ta hãy hình dung xem có bao nhiêu người Ả Rập có thể đã phẫn nộ nếu như họ biết được tất cả sự việc.
Trong khi có hoạt động này, Thủ tướng Shimon Perés đã tuyên bố công khai: “Chúng tôi sẽ không ngừng việc làm cho những người anh em Ethiopie được quay trở về nhà họ”. Vào mùa xuân năm 1984, tình hình trở nên trầm trọng đối với người Falachas đang bị đói, Perés đã tìm cách thực hiện dự án. Trong khi mà các cuộc thảo luận đã diễn ra với các Chính phủ khác nhằm tổ chức một cầu không vận đi ngang qua Bruxelles, Perés đã đề nghị Nahum Admony, khi đó là ông chủ của Mossad, tìm một phương tiện cứu những người Falachas thêm nữa.
Ý thức được tính cấp bách của tình hình, Adraony đã yêu cầu được quyền sử dụng những nguồn trong nước, cả dân sự cũng như quân sự.
Sau cuộc gặp của ông với Thủ tướng Perés, Admony đã triệu tập David Arbel, lúc này phụ trách Tsafrim, ngành mà mục tiêu duy nhất của nó là cứu giúp những người Do Thái ở khắp mọi nơi họ bị đe dọa. Arbel, người mà chúng ta đã biết, đã làm một cái tên trong một vết nhoè của Lillehammer.
Cơ quan của Arbel chịu trách nhiệm thành lập các nhóm bảo vệ người Do Thái, gọi là misgerot, “những cán bộ” trên toàn thế giới, trong đó bao gồm cả một số bộ phận của Hoa Kỳ, nơi chủ nghĩa bài Do Thái được xem như một mối đe dọa. Những người có khả năng đặc biệt, những bác sỹ đã tạo thành một loại “dự trữ” và được gọi ra thực hiện việc giúp đỡ các “cán bộ” trong một thời hạn ngắn. Theo nguyên tắc chung, những người chịu trách nhiệm về “các cán bộ” trong các nước khác nhau đều là những thành viên kỳ cựu của Mossad đã về hưu. Nhiệm vụ của họ được xem như hành động đền đáp và việc làm trung thành, một tshupar - mục tiêu là sử dụng kinh nghiệm của những con người này.
Nhiệm vụ chính yếu của họ là giúp các nhà lãnh đạo của cộng đồng những người Do Thái phiêu bạt để bảo đảm an ninh của chính họ. Việc này đã được làm một phần thông qua những hets va-keshet, “cung và tên”, những đội thanh niên bán vũ trang (tự vệ). Nếu như tất cả các thanh niên Israel, trai cũng như gái, đều thuộc vào eduday noar ivry này, “những tiểu đoàn của thanh niên Hebreu”, những thanh niên của những nước khác thường qua kỳ hè ở Israel để học việc dựng lán trại, làm một cuộc hành quân, học sử dụng một khẩu carbine hay một loại súng tấn công Uzi. Một số người khác thì học xây dựng những nơi ở bí mật để giấu những tài liệu hoặc vũ khí, học những biện pháp bảo vệ an ninh, học tổ chức tiến hành một cuộc điều tra và thu thập tin tức.
Nếu như chưa bao giờ có một nhà lãnh đạo nào ủng hộ việc dùng các cán bộ ngoài quyền tự vệ, thì những kẻ thần thế của Mossad lại biết tất cả những cái mà người ta vận dụng cho nó. Vì thế, Itzhak Shamir đã biết, nhưng Perés, một người chưa bao giờ thuộc Mossad, chắc chắn là không biết, mặc dù ông ta là Thủ tướng. Israel không bán vũ khí cho các “cán bộ” nước ngoài, nhưng đã cung cấp cho họ một cách gián tiếp thông qua việc dàn xếp với những tay lái súng quen biết.
Học viện không xem những “cán bộ” như những nguồn tin tức, mặc dù những người chịu trách nhiệm của họ qua kinh nghiệm biết rằng con đường ngắn nhất để đạt được những lời tán tụng là cung cấp những tin tình báo hữu ích. Một số lớn những thanh niên được đào tạo trong các trại hè ở Israel sau đó đã trở thành sayanim, và tạo thành những nhóm tình nguyện được huấn luyện tốt cũng đã chứng tỏ khả năng của họ nắm bắt những mối nguy hiểm. Ngoại trừ Canada và ngoại trừ phần lớn lãnh thổ Hoa Kỳ, những cộng đồng người Do Thái bạt xứ có những “cán bộ” được huấn luyện và vũ trang, sẵn sàng bảo vệ trong trường hợp cần.
Đối với hoạt động đặc biệt này, Mossad đã phải kêu gọi sự giúp đỡ của bên ngoài. Sau cuộc nói chuyện của mình với Admony, Arbel đã triệu tập tất cả những người chịu trách nhiệm của Tsafririm.
— Tôi mong muốn Entebbe “của tôi”- Ông ta nói- tôi muốn tên tôi đi vào lịch.
Arbel cắt nghĩa với họ rằng ông ta muốn đưa ra khỏi Soudan với số lượng lớn nhất người Falachas nếu có thể. “Tất cả”, ông ta đòi hỏi, và ông ta đã đề nghị họ hãy suy nghĩ tới các phương cách phải sử dụng.
Thông thường, cơ quan của Arbel hoạt động với ngân sách nghèo nàn, nhưng rõ ràng hoạt động lần này đã thu được tất cả những gì nó cần đến. Hayem Eliaze, người phụ trách sư đoàn chuyên môn hoá về những hoạt động bí mật để cứu người Do Thái đằng sau chiến tuyến của kẻ thù, đã trực tiếp được giao chức trách của dự án Moise, với mệnh lệnh cung cấp một kế hoạch hoạt động một cách nhanh nhất.
Trong vòng ba ngày, Elaze đã tập họp đơn vị của mình trong một buổi họp căng thẳng tại các văn phòng của vụ, đối diện với toà nhà chính của trụ sở Mossad, trên đại lộ lớn Gevirol, ở đúng bên trên Đại sứ quán Nam Phi tại Tel Aviv.
Trước những tấm bản đồ địa hình treo trên tường, mỗi người có những tin tức thu được về Soudan, trình bày quan điểm của mình về tình hình và cách thức tốt nhất đề cập tới vấn đề. Phần lớn người Falachas ở trong các trại của Kassala và của Alatarch, ở phía Đông Khartum, về phía biên giới Ethiopie. Người ta không có thể trông mong vào sự giúp đỡ của quân phiến loạn Soudan miền Nam, những người đã chiến đấu từ nhiều năm nay chống lại Chính phủ trung ương.
Trong một cuộc họp, một trong những người nghiên cứu tấm bản đồ khu vực đã nhắc lại sự việc xảy ra bất ngờ gần Magna, trong mũi Đông-Bắc của biển Hồng Hải, khi một chiếc tàu phóng tên lửa của Israel trở về qua kênh Suez đã có những vấn đề trục trặc kỹ thuật với ra-da của tàu. Chiếc sa bàn đổi hướng đã bị làm nghẽn, chiếc tàu đã bị lạc đường. Nó đã bị mắc cạn, ngay giữa đêm tối trên một bãi biển của Ả Rập, việc làm thất bại này đã nổ ra một sự kiện quốc tế.
May mắn thay, con tàu chạy 30 hải lý, đã thấy một chỗ đi qua trong hàng rào ngăn của san hô trước khi nó trườn lên bãi biển. Trong vài giờ đồng hồ, một đơn vị lính biệt kích của hải quân Israel, đáp ứng ngay những lời kêu cứu của chiếc tàu phóng tên lửa, đã được phái tới địa điểm xảy ra sự cố. Tất cả những tài liệu của con tàu đã được lấy mang đi, tổ lái được chuyển qua một chiếc tàu khác, trong khi lính biệt kích dựng một đầu của chiếc cầu lên bãi biển để bảo vệ vị trí cần dùng. Rạng đông, mặt trời ló lên trên tấm bảng khác thường của tàu phóng tên lửa Israel bị mắc cạn trên bờ biển Ả Rập Saudi, được một đơn vị biệt kích canh giữ.
Giữa hai nước không có quan hệ. Những người lãnh đạo Israel đã đề nghị Hoa Kỳ thông báo cho người Ả Rập rằng không phải một cuộc đổ bộ mà là một tai nạn, mặt khác, đề nghị bất kỳ ai tiến đến gần chiếc tàu sẽ bị bắn hạ. Bình thường, không có bất kỳ một người nào trong vòng hàng trăm kilômét ở khu vực hoang vắng này, nhưng, một sự ngẫu nhiên, có một bộ lạc người Ả Rập du cư, ở cách nơi đáy khoảng một cây số rưỡi, đang tổ chức mừng lễ. May thay, họ không đi tới gần chiếc tàu. Ả Rập đã phái những nhà quan sát tới và đã đạt được một thoả thuận: Nếu những lính biệt kích rời bỏ những những vị trí công sự của họ trên bãi biển, Ả Rập để cho những người Israel đưa tàu xuống nước.
Giải pháp thứ nhất được đưa ra là cho nổ tung chiếc tàu, nhưng những người lính hải quân đã chống lại (nhiều tàu phóng tên lửa, sau này được bán cho hải quân Nam Phi. Họ còn sử dụng cho tới nay). Người ta đã quyết định dùng trực thăng đưa tới một chất lỏng trên cơ sở của styrol mà người ta phun vào toàn bộ vỏ tàu; người ta buộc một đầu của tàu vào một sợi dây cáp nối với hai chiếc tàu khác; và bốc chiếc tàu lên khỏi cát rồi kéo nó tới cảng Eiliat.
Vì việc này thường xảy tới trong các buổi họp suy nghĩ tập thể, một ý kiến đã dẫn tới một ý kiến khác, và trong lúc lúc phán xét sự việc Magna, một người đã hỏi:
— Xin một phút: Chúng ta có quyền đi qua dọc bờ biển Soudan, chúng ta có thể tiến gần đến bờ biển đó bằng các tàu phóng tên lửa của chúng ta. Tại sao lại không chuyên chở người Falachas bằng tàu?
Người ta đã xem xét ý kiến dưới tất cả những khía cạnh (nguyên văn là dưới mọi đường kim mũi chỉ), nhưng cuối cùng, người ta đã bác bỏ một số lượng lớn lý do. Việc xuống tàu chiếm nhiều thời gian quá và không có thể thực hiện mà không có một ai đó không chú ý tới nó.
— Ít ra, chúng tôi có thể thiết lập được ở đó một kiểu ăng ten - Người thứ hai đề nghị.
— Như thế nào? Có phải với một tấm biển ghi “Căn cứ hoạt động của Mossad. Xin miễn vào” không? - Một trong những người đồng đội hài hước nói.
— Không. Créon là một câu lạc bộ bơi lặn. Biển Hồng Hải là một nơi lý tưởng để lặn xuống dưới biển.
Trước tiên, nhóm bác bỏ ý tưởng được đưa ra, nhưng càng để thời gian trôi qua, thì càng có những ý kiến khác nêu ra, ý kiến về một trường học và một câu lạc bộ lặn bắt đầu hình thành. Họ đã biết có một người điều hành một câu lạc bộ mạo xưng của loại này ở trên bãi biển. Nếu có thêm thời gian nữa cho người lặn và cho kẻ lười nhác đưa ra các bài học để thuê dụng cụ tập, thì ít ra con người đã có một sự hiện diện trên những nơi này. Với việc làm có tổ chức thích đáng và với thỏa thuận Khartum, người ta có thể biến câu lạc bộ thành một khu du lịch phức hợp thật sự.
Yehuda Gil, một trong những katsa dày dạn kinh nghiệm của cơ quan, được phái tới Khartum, đóng vai trò đại diện của một công ty du lịch Bỉ mong muốn khuyến khích việc lặn dưới biển Hồng Hải và có những cuộc đi du ngoạn trong sa mạc. Bình thường, các katsa không bao giờ được phái tới một nước Ả Rập bởi vì họ biết quá nhiều sự việc mà họ có thể bị lộ ở nơi kẻ thù trong trường hợp họ bị bắt. Nhưng, thấy tình cảnh cấp bách của tình hình, lần này, người ta đã quyết định sử dụng tới điều bất trắc.
Gil có nhiệm vụ dành được sự cho phép cần thiết, điều này bao gồm cả việc đút lót tiền cho một số người. Ông ta thuê một ngôi nhà trong vùng Bắc Khartum và bắt đầu làm việc.
Trong cùng thời gian này, một điệp viên khác của Tsafririm đáp máy bay đi Khartum, rồi tới cảng Port-Soudan, và tiếp đó dùng xe đi tới bãi biển; nơi đây con người ở câu lạc bộ bơi lặn nhỏ đang “làm việc”. Điều may mắn dường như là cái câu lạc bộ này có tương đối đủ địa điểm. Sau một hồi mặc cả lâu, Gil được phái tới Panama - ở đó, người điệp viên còn tiếp tục đi xin những bãi biển - và câu lạc bộ đã thay người chủ sở hữu.
Mossad bắt đầu thấy ở trong việc này một “Tấm thảm Ma thuật” (hoạt động cứu người Do Thái nổi tiếng khỏi Yémen, được đưa về Israel trong một chiếc máy bay Hercules hồi đầu những năm 1950). Mossad đã quyết định sử dụng máy bay Hercules một lần nữa để chuyên chở những người Falachas, nhưng sẽ phải phát triển một cách đáng kể trung tâm du lịch để “bao” hoạt động. Giữa lúc đó, Gil đã đăng ký một công ty sở hữu câu lạc bộ và bắt đầu tổ chức những đường đi từ châu Âu để đưa khách du lịch. Một xác thuyền đắm đã được phát hiện cách bờ khoảng 100 mét, và sâu dưới nước khoảng 20 mét; lý tưởng cho một cuộc lặn sâu, một phương tiện tốt để thu hút sự chú ý của khách du lịch.
Người Israel tuyển dụng nhân công trong số những dân làng sở tại. Trong thời gian này, tại Tel Aviv, Tsafririm tuyển dụng những người đầu bếp và người hướng dẫn lặn bằng cách chọn những người biết nói tiếng Pháp hoặc tiếng Anh. Biết tiếng Ả Rập là thêm khả năng cho phép biết các cuộc nói chuyện của những nhà ngoại giao và những người lãnh đạo Ả Rập thường lui tới câu lạc bộ.
Những người được tuyển mộ là những người trong số các diệp viên của Tsafririm đã được sử dụng trong những hoạt động khác. Đối với những người thợ lặn, trước khi lên lớp các bài về du lịch, Mossad đã nhờ vào Cơ quan Tình báo của Hải quân.
Một nhóm khoảng 30 người Israel chịu trách nhiệm khởi động khu du kịch này. Những công nhân xây dựng được chia thành bốn đội làm việc. Mỗi đội làm việc một ngày trong số bốn ngày. Ban đêm, một đội người Israel đã thúc đẩy công việc. Tuy nhiên, thực tế việc quay vòng ngày làm việc ấy, không ai ngạc nhiên, khi bốn ngày sau thấy một phần của toà nhà được hoàn thành.
Còn về những công nhân Israel, chính họ cũng bị thay đổi đều đặn. Thà mất thời gian để có những hồ sơ cần thiết cho tất cả mọi người, Mossad đã nhờ làm giấy tờ cho một số cái tên đồng thời dùng cho một số người và cho một số người sẽ kế tiếp.
Mặc dù Mossad được phép đưa đến ba chiếc xe - một xe Land Rover và hai chiếc xe tải - trên thực tế, Mossad đã sử dụng chín chiếc xe tải. Mossad chỉ đơn giản nhờ đăng ký lại các biển số xe và giấy tờ thôi, rồi che đậy những chiếc xe phụ đi.
Công việc suýt bị đảo lộn vì một sai sót dốt nát. Một ai đó đã quyết định nhờ máy bay chở tới trong đêm một chuyến hàng đất có cỏ (những vầng cỏ được đánh đem đi trồng nơi khác), đến nỗi khi những người lao động địa phương, sáng hôm sau tới làm việc, họ phát hiện ra một vạt rộng lớn cỏ xanh ở cái nơi mà từ nhiều thế kỷ nay chỉ có toàn là cát. Làm thế nào mà người ta lại làm cho cỏ mọc trong vòng có 24 giờ đồng hồ? Và ngay cả như người ta giải thích rằng đó là những tảng đất, thì người ta đã tìm thấy đất ở chỗ nào tại Soudan? May mắn thay, những người công nhân Soudan lại hài lòng khi nhìn thấy cỏ và có một chút lúng túng trước khi bắt tay vào làm việc.
Ở Khartum, Gil đã nhờ in những cuốn sách bỏ túi về câu lạc bộ và đã phân phát chúng cho các cơ quan du lịch châu Âu, và đưa ra những biểu giá đặc biệt với những cá nhân đi lẻ. Trung tâm không đón tiếp tập thể từng nhóm; những thành viên trong một nhóm đã biết và cho thấy ích lợi của sự tò mò đối với những gì đang diễn ra quanh họ.
Khu du lịch được xây trong một tháng. Ngoài những toà nhà chính dành cho người du lịch, bếp, … còn có nhiều sự bớt giá, nhận để trang bị vô tuyến điện và vũ khí. Israel cũng đã đưa tới mọi máy móc cần thiết để đặt cọc tiêu và đèn chiếu sáng một đường băng hạ cánh tạm bợ trên sa mạc.
Việc cung ứng hậu cần do các tàu của Israel đảm nhận. Các tàu này tiến gần tới bãi biến, đậu ở ngoài khơi cách bờ chừng vài trăm mét- cách bãi du lịch 800 mét. Vì có 5 hay 6 công nhân địa phương làm việc trên bãi biển, nên cần biết họ làm việc ở chỗ nào trước khi tàu đến nhằm tránh cho họ rơi vào tình huống bất ngờ đối với một chiếc tàu của Israel đang bốc dỡ hàng.
Trong thời gian này, công việc phải nhờ cậy vào chiếc máy bay thuê riêng của Bỉ đang diễn ra ở bên cạnh. Mossad đã phân phát tiền móc ngoặc (tiền biếu, tiền trà thuốc do ai đó giúp mình đạt được việc gì) cho những người Soudan. Một trong số họ, tướng Omar Mohamed Al-Tayeb, cựu Phó Tổng thống, sau trở thành phụ trách các Cơ quan An ninh trong dinh Tổng thống của Nemeyri, sẽ bị kết án tử hình và một khoản phạt 80 triệu Livres (tiền Soudan), hồi tháng 4 năm 1986, vì đã dành sự giúp đỡ cứu những người Falachas.
Trong suốt thời kỳ này, Mossad đã nghe thấy có một quan chức cao cấp Soudan muốn có một chiếc xe đạp 10 tốc độ để dễ trao hồ sơ cho người Falachas khi đi du ngoạn. Nhìn chung công việc không phải là việc có vẻ mang tính nghề nghiệp, Học viện đã đề nghị được làm cho rõ ràng ra.
Người ta đã khẳng định với Học viện về người có yêu cầu một chiếc xe đạp 10 tốc độ. Người Israel đã cố gắng đoán xem điều ấy có nghĩa là gì. Phải chăng ông ta muốn có trọng lượng của một cái xe đạp bằng vàng? Sự việc vẫn rối mù lên, họ gợi ý một lần nữa có sự minh xác và người ta cũng một lần nữa trả lời rằng người Soudan kia muốn có một chiếc xe đạp 10 tốc độ, chấm hết.
Cuối cùng thì họ cũng hiểu được là thực sự ông ta muốn có một chiếc xe đạp. Họ đã gửi cho ông ta một chiếc Raleigh. Đấy là việc mà người ta ít nghĩ tới rằng những người Israel đã thúc đẩy làm.
Ở câu lạc bộ bơi lặn, những người Israel nghiên cứu những tin tức về một hệ thống ra-da Soudan. Họ đã kết thúc việc nghiên cứu bằng việc tìm ra một kẽ hở trong hệ thống, được phủ che trong một phần duy nhất bởi các ra-da của Ai cập và Soudan, trong vùng đồi núi Rosal-Hadaribah, gần biên giới Ai Cập và Soudan. Nơi đây, một máy bay bay ở độ cao thấp có thể không bị phát hiện.
Quyết định được đưa ra là máy bay Hercules rời căn cứ quân sự Eiliat, bay qua vịnh Akaba và biển Hồng Hải tới tận hệ thống ra-da của kẻ thù, trước khi quay ngược lên phía đường băng hạ cánh mà người ta đã vạch trên sa mạc. Để nhận ra những địa điểm thích ứng, Mossad đã phái tới câu lạc bộ bốn phi công Israel đóng giả làm những người hướng dẫn các cuộc đi du ngoạn trong sa mạc. Họ có thể đi loanh quanh các vùng lân cận mà không gây sự nghi ngờ và chỉ ra trên bản đồ những địa điểm thích hợp cho một đường băng. Họ cũng giải thích cho những thành viên khác của nhân sự là làm thế nào để vạch ra những đường băng, những công việc chiếu sáng dẫn đường,…
Ngay cả những nhân viên tình báo, đôi khi cũng phải hài hước. Một hôm, một điệp viên của Tsafririm hướng dẫn một phi công Israel ở Khartum để làm việc và đưa viên phi công vào một dinh thự địa phương thương thuyết. Gil cũng ở đó và viên phi công hiểu ông ta thực sự là một người làm ăn ở đây. Khi vị khách đi ra ngoài, người điệp viên của Tsafririm đã hỏi Gil ở trong ngành nào.
Chính Gil trả lời hỏi lại anh ta:
— Thế còn anh?
— Tôi là một tình báo viên của Israel.
Viên phi công tái người đi nhưng hai người khác cười phá lên và viên phi công không nói một lời nào thêm cho tới lúc trở về. Khi đã rời khỏi Khartum nhiều kilômét, ông kêu to lên với người chiến hữu:
— Một loại đần độn quá! Người ta không bao giờ làm những việc như vậy, ngay cả để vui đùa!
Phải mất gần 15 phút ở bên Tsafririm để trấn an viên phi công và giải thích cho người này biết Oil là ai.
Đưa những người Falachas khỏi các trại còn là một vấn đề đối với những người tổ chức công việc.
Khi đó, có hàng trăm nghìn người Ethiopie, đang chạy trốn chiến tranh và nạn đói trong chính đất nước của họ đã tá túc trong các trại tỵ nạn Soudan, và cái khó nhất là phân biệt người Do Thái với những người khác.
Vì mục đích này, một số người Falachas dũng cảm đã ở Israel - và những người này sẽ bị hành quyết, nếu như họ bị bắt - chấp nhận trở về các trại tị nạn để tổ chức dân chúng họ thành từng nhóm. Rất nhanh chóng, tin này đã được lan truyền trong số những người Falachas, nhưng tồn tại ở bên trong cộng đồng, và không phải chờ đợi lâu để giai đoạn của công việc này được sẵn sàng.
Vào tháng 3 năm 1984, loạt người du lịch Châu Âu đầu tiên đã tới, và người ta bắt đầu kháo nhau trong giới ngoại giao và quan chức Chính phủ Khartum về câu lạc bộ tuyệt diệu này. Từ lúc mở cửa buổi sáng cho đến tối, nơi mà cái riêng tư biến đi mất, câu lạc bộ phức hợp đã hoàn toàn trở về với thành công thương mại rực rỡ. Người Israel đã ấp ủ ngay cả ý tưởng thu hút những nhà lãnh đạo PLO tới đó tìm kiếm một địa điểm để tổ chức một cuộc hội nghị. Người Palestine sẽ tin vào an ninh ở Soudan, đối diện với thánh địa Mecque. kế hoạch đưa ra là phái một đơn vị biệt kích tới vào ban đêm, rồi bắt những nhà lãnh đạo PLO đưa lên những chiếc tàu đưa về Israel. Điều này đã có thể tiến triển.
Tất cả đã sẵn sàng cho giai đoạn cuối. Người Israel giới hạn đường băng hạ cánh máy bay trong sa mạc, xác định một chỗ hẹn gặp, nơi đấy những người tị nạn lên những chiếc xe tải để vượt một chặng đường mệt lử trong 6 giờ đến với chiếc máy bay Hercules. Thông thường, những chiếc xe tải chỉ chở chừng một trăm người một lượt, nhưng gần gấp đôi số người đã đu bám những chiếc xe, ngồi chất lên bên dưới một tấm bạt cho một chuyến đi dài và khổ nhọc. Hàng trăm người Falachas bị mòn mỏi do đói và bệnh tật đã chết trong chuyến đi này, hàng trăm người khác đi trên máy bay Hercules, nhưng vì họ được công nhận là người Do Thái, nên mỗi khi họ chết, họ được chở về chôn cất tại Israel.
Trước mỗi chuyến xuất phát, một máy bay trinh sát của Israel bay trên độ cao phát hiện những rào chắn đường của Soudan được dựng lên (thông thường được dựng vào giữa buổi chiều) rồi thông báo cho câu lạc bộ qua vô tuyến điện, từ những vị trí của họ.
Đêm đầu tiên, tất cả dường như diễn ra suôn xẻ. Những người Falachas đã tìm thấy địa điểm hẹn; Những chiếc xe tải đã tránh được tất cả những ba-ri-e ngăn cản. Họ đã tới đường băng trước khi chiếc Hercules hạ cánh theo sự dẫn đường bởi hai giải ánh sáng chiếu lên cát ở sa mạc. Khi chiếc máy bay xuất hiện trong bóng đêm, những người Falachas- những người chưa bao giờ nhìn thấy một vật như vậy ngay gần bên - chăm chú nhìn con chim khổng lồ đỗ xuống ngược chiều gió, chạy nửa vòng, rồi tiến về phía họ, động cơ rít, thổi tung cát và bụi lên.
Bị khiếp sợ, hai trăm người Falachas, chạy trốn trong đêm tối, định giấu mình để tránh bộ máy kinh khủng kia. Những người Israel tìm lại được khoảng hai chục người. Sau một hồi lâu tìm kiếm, họ đã quyết định để máy bay đi, số người Falachas còn lại ngày mai sẽ chuyên chở.
Sáng hôm sau, người ta đã tìm được tất cả những người tị nạn, ngoại trừ một bà già sống sót một cách kỳ lạ sau ba ngày đi bộ quay trở về trại, và bà này đã về Israel cùng với một tốp khác. Những người Israel đã quyết định để những người Falachas ở nguyên trong những chiếc xe tải tới nơi chiếc Hercules đậu bất động rồi mở chiếc cửa phía sau của máy bay. Họ đưa những chiếc xe tải tới cách máy bay chừng một mét và đưa người Falachas trực tiếp lên máy bay.
Cho tới một hoạt động Moise khác bị lộ, chiếc cầu không vận trong sa mạc gặp ít vấn đề. Các chuyến bay diễn ra chủ yếu về ban đêm, thường thường có hai hoặc ba chiếc máy bay hoạt động cùng một lúc để chuyên chở tối đa người Falachas trong một thời gian tối thiểu.
Thậm chí họ đã gặp khó khăn. Một chiếc xe tải chạy không quay trở về câu lạc bộ đã rơi vào một ba-ri-e. Tài xế và khách đi xe không có giấy tờ đầy đủ. Họ bị hai lính quân cảnh Soudan bắt, trói dẫn đến một lán. Những ba-ri-e này dựng lên để vây bắt những quân phiến loạn phía Nam. Ba-ri-e chỉ có hai ngươi được trang bị máy vô tuyến trông giữ và người ta ở lại đó trong vài ngày.
Chiếc xe tải đã không trở về câu lạc bộ. Những người Israel đã phái một nhóm đi tìm kiếm họ. Một khi chiếc xe được phát hiện, một kế hoạch được vạch ra vội vã. Chiếc xe thứ hai tiến gần tới chiếc ba-ri-e, người lái xe thét to cho hai tù binh nằm xuống.
Những người lính Soudan tiến lại gần chiếc xe, khi miếng ván hậu được mở ra, một loạt súng tiểu liên đã hạ gục họ. Những người Israel châm lửa vào lán, giữ chiếc bàn đạp máy tăng tốc của chiếc xe thứ nhất cắm sâu xuống nhờ một tảng đá và bỏ lại chiếc xe trong sa mạc để làm cho người ta tin có một cuộc tấn công của quân phiến loạn. Trong toàn bộ sự việc xảy ra đã không có hậu quả.
Mất mát duy nhất mà Israel gánh chịu trong công việc này là một hành khách của chiếc xe tải chạy về Khartum và người tài xế, họ rơi vào một ba-ri-e, nhưng không dừng lại. Lính gác đã bắn, và người hành khách bị thiệt mạng. Vì không có phương tiện thông tin, cũng không có phương tiện vận tải, hai người lính Soudan chỉ còn cách nhắm bắn vào chiếc xe cho tới khi nó chạy khỏi tầm đạn.
Một đêm đầu tháng giêng năm 1975, có một bức điện từ Israel chuyển tới ra lệnh “rút” ngay lập tức. Tại Khartum, Yehuda Gil nhanh chóng thu xếp vali, một số việc cá nhân và toàn bộ tài liệu, lên chuyến máy bay đầu tiên đi Châu Âu, rồi từ đó trở về Israel. Ở câu lạc bộ, trong lúc những người khách đang ngủ, những người Israel xếp hết những thiết bị lên các tàu. Chiếc xe Land Rover và hai chiếc xe tải được đưa lên máy bay Hercules và chuồn đi. Haylem Eliaze, người chịu trách nhiệm của khu du lịch phức hợp, đã rơi từ trên chiếc xe tải xuống trong lúc chất hàng và bị gẫy chân.
Hai giờ sau, ông ta cũng đã tới được Israel.
Bất hạnh thay, hàng nghìn người Falachas ở Soudan hiện nay, lại ở ngoài tầm của những người đi cứu vớt. Người chiến sỹ Falachas Baruch Tanga đã tuyên bố:
— Từ lâu, việc ra đi luôn là một việc cực khổ Và bây giờ, khi mà một nửa các gia đình của chúng tôi còn ở đó, mà người ta lại công bố là tất cả đã được trở về. Làm sao người ta có thể làm một việc như vậy được ư?
Đây chưa phải điều duy nhất của ý kiến này.