Chương 6 Chỉ Ở Nước Mỹ.
Cuối năm 1985, Jonathan Pollard, 31 tuổi, và vợ Anne Henderson-Pollard, 25 tuổi, bị bắt, sau khi thực sự định tìm nơi cư trú chính trị trong Đại sứ quán Israel ở Washington. Những người bị bắt có thể dự kiến được lại trùng vào lúc, có sự chú ý về một vấn đề đang lúng túng và khó khăn: Liệu Mossad có hoạt động ở Hoa Kỳ không?
Một cách chính thức, Mossad trả lời là Không. Tuyệt đối không. Trên thực tế, những katsa thậm chí không được quyền mang hộ chiếu Mỹ giả hoặc sử dụng các “vỏ bọc Mỹ” trong công việc của mình cũng như những báo cáo giữa Nhà nước Israel với đối tác hùng mạnh nhất của mình là rất tế nhị.
Vậy thì phải giải thích như thế nào về trường hợp Pollard - Thật đơn giản. Họ không phải người của Mossad. Từ buổi đầu của năm 1984, Pollard đã nhận 2.500 đô la mỗi tháng của một tổ chức được gọi Lishka le Kishrei Mada, hay là LAKAM, chữ Hébreu viết tắt để chỉ Văn phòng quan hệ về những vấn đề khoa học của Bộ Quốc phòng Israel, và đã gửi các tài liệu mật tới chỗ ở của Irit Erb, bí thư ở Đại sứ quán Israel. Khi đó LAKAM do Rafael Eitan lãnh đạo, ông này đã công khai phủ nhận có những quan hệ với Mossad, nhưng ông ta lại là một cựu katsa của Học viện. Ông đã tham gia vào vụ diệt trừ Adolf Eichmamn ở Argentina năm 1960.
Pollard là một người Do Thái, một nhà nghiên cứu ở Trung tâm Suitland (bang Maryland), gần Washington. Pollard là người của Cơ quan Tình báo Hải quân. Năm 1984, anh ta được chuyển tới Trung tâm báo động khủng bố của Tiểu đoàn Phân tích những mối đe dọa cũng của Cơ quan Tình báo Hải quân, một sự thuyên chuyển lạ lùng, nếu người ta biết rằng các Cơ quan An ninh trước đó đã quở trách anh ta về việc chuyển tin tức cho tuỳ viên quân sự Nam Phi, và cương vị mới của anh ta đã mở đường đến với những tài liệu rất quan trọng.
Không cần phải có thời gian lâu để tạo nên việc Pollard thông báo cho Israel những tài liệu. Do đụng độ với FBI, anh đã chấp nhận hợp tác bằng việc chuyển giao những mối “quan hệ của anh ta” với Israel cho họ. Vì thế, Pollard đã bị đặt dưới sự theo dõi của FBI 24/24 giờ, nhưng không cưỡng lại được sự hoảng sợ, Pollard đã xin cư trú ở Israel. Anh và vợ bị kết án đồng loã, đã bị bắt khi họ rời khỏi Sứ quán, đương nhiên, người Mỹ đòi phải có sự giải thích. Sau cú điện thoại của Bộ trưởng Ngoại giao George Shultz, vào hồi 3 giờ 30 phút sáng ngày 1 tháng 12, theo giờ Jelusalem, chính Thủ tướng Shimon Perés, người đã thành lập ra cơ quan LAKAM trong những năm 1960, lúc đó giữ chức Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, đã bày tỏ những lời xin lỗi chính thức: “Do thám Hoa Kỳ là hoàn toàn trái với đường lối của chúng tôi. Một hoạt động như vậy đã xảy ra là một sai lầm, và Chính phủ Israel xin lỗi”.
Perés nói thêm rằng, nếu những người chịu trách nhiệm của Chính phủ có dính líu vào, họ sẽ phải “báo cáo, tổ chức liên đới… sẽ được giải thể…và sẽ sử dụng những biện pháp cần thiết để các hoạt động như vậy sẽ không tái diễn”. (Tất cả những gì mà người Israel đã làm là thay đổi địa chỉ của LAKAM và gắn nó vào Bộ Ngoại giao).
Tuy nhiên, ngay cả Perés không tin rằng lời nói, những tuyên bố của ông được đưa ra sẽ làm người Mỹ hài lòng. Cựu Giám đốc CIA, Richard Helms, đã nhấn mạnh rằng việc các nước bạn do thám không phải là hiếm. Ông nói: “Người ta làm những gì người ta muốn. Sai lầm chính là đã để bị bắt”.
Và trong lúc Pollard bị giải vào nhà tù - Mossad đã xem cơ quan LAKAM như một băng nhóm nghiệp dư - Shultz đã tuyên bố với báo chí: “Những lời giải thích và xin lỗi của Israel đã làm chúng tôi hài lòng”. Sự tranh luận đã tắt sau một cơn tức giận công khai ngắn ngủi đối với Israel. Dĩ nhiên, những ngờ vực vẫn còn tồn tại đối với cương vị xã hội đích thực của vợ chồng Pollard nhưng hình như bản thân CIA cũng tin rằng, ngoài các hoạt động quan hệ của mình, Mossad không hoạt động ở Hoa Kỳ.
CIA đã lầm.
Pollard không thuộc người của Mossad, nhưng rất nhiều điệp viên khác, những người đang làm tình báo, tuyển mộ, tổ chức và tiến hành những hoạt động bí mật - chủ yếu tại New York và tại Washington, mà họ đặt cho biệt danh “sân chơi” của họ. Những người làm công việc này thuộc một ngành đặc biệt, cực kỳ bí mật của Mossad, gọi là Al, “ở trên”, “trên cao”.
Đơn vị này bí mật đến nỗi, hoàn toàn tách ra khỏi bộ phận còn lại của tổ chức, mà thậm chí đa số các thành viên của Mossad không hề biết tới những công việc họ làm và đơn vị này đã không truy nhập các tài liệu, hồ sơ của họ vào trong máy tính.
Thế nhưng, đơn vị này vẫn tồn tại, và dùng từ 24 tới 27 người lão luyện trên địa bàn, trong số đó có ba katsa tại ngũ. Phần lớn các hoạt động của họ được tiến hành bên trong biên giới của Hoa Kỳ. Nhiệm vụ hàng đầu của họ là thu thập những tin tức về thế giới Ả Rập và PLO - không phải về những hoạt động của người Mỹ. Tuy nhiên, chúng ta sẽ thấy, đường phân chia ranh giới không phải lúc nào cũng chính xác và trong sự mập mờ ấy, AI không hề do dự để vượt qua.
Khẳng định rằng AI không thu thập tin tức về Hoa Kỳ đã nói lên rằng hương vị cay không phải là gia vị chính, nhưng người ta thích quệt nó một ít lên xúc xích nóng. Chúng ta hãy giả định là có một thượng nghị sỹ, thành viên của ủy ban về quân bị quan tâm tới Mossad. AI ít khi cần tới sayanim, nhưng các giấy tờ của thượng nghị sỹ này, tất cả những cái có trong văn phòng của ông ta, là những tin tức quý giá, và người ta vì thế có mục tiêu kiếm lấy một trong những cộng tác viên của mình. Nếu người nghị sỹ đó là Do Thái, người ta sẽ cố biến họ thành, một sayan. Nếu không được thì tuyển mộ làm điệp viên, hay biến họ thành một người bạn, rồi thường xuyên tới và nghe.
Chúng ta còn giả định rằng Me Donnell Douglas mong muốn bán máy bay do Mỹ chế tạo cho Ả Rập Saudi. Vậy thì phải chăng đó là vấn đề của người Mỹ hay của người Israel? Đối với những gì có liên quan đến Học viện, đó chính là công việc của Israel. Khi người ta có một định đề như vậy, thì thật là rất khó lại không sử dụng đến nó. Thế là người Israel đã sử dụng việc này.
Một trong số những hoạt động bí mật nhất của AI là chuyến bay làm việc nghiên cứu đối với nhiều tổ hợp nhà máy sản xuất máy bay lớn của Mỹ, hồi tháng 1 năm 1986, nhằm giúp cho Israel giành được một hợp đồng trị giá 25,8 triệu đô la trong vòng 5 năm. Tiền đặt giao cho hải quân và “thuỷ quân lục chiến” Mỹ 21 máy bay máy bay trinh sát không người lái, có chiều dài 5 mét. Đó là các máy bay Mazlat Pioneer-1 được điều khiển từ xa, phóng lên rồi thu về với các máy chỉ huy từ xa. Các máy bay trinh sát này có máy quay vô tuyến truyền hình gắn dưới bụng, đã được sử dụng trong do thám quân sự. Mazlat, một chi nhánh của công ty sản xuất máy bay Israel được nhà nước hoá (IAI), “được hưởng” hợp đồng khi trúng thầu năm 1985 bằng cách đưa ra những điều kiện tốt nhất đáp ứng yêu cầu của các công ty Mỹ.
Trên thực tế, AI đã ăn cắp tài liệu. Israel làm việc tốt trên chiếc áy bay thám thính, nhưng đã tiến triển một cách không thoả mãn để đuổi theo được với những nhà cạnh tranh Mỹ. Khi mà người ta đã không nêu vào trong bản đề nghị giá thành của công việc nghiên cứu, điều ấy là một sự khác biệt về nội dung.
Sau khi giành được hợp đồng, Mazlat kết hợp với AI ở Baltimore, Maryland để làm tăng thêm phần vinh dự.
AI giống như Tsomet, nhưng lại không bị đặt dưới cùng một sự cầm quyền bởi vì nó phụ thuộc trực tiếp vào ông chủ của Mossad. Khác với các ăng ten thông thường của cơ quan, các ăng ten của AI không hoạt động ở trong Sứ quán của Israel, mà được đặt trong những nhà thuê bí mật hoặc trong các khu nhà lớn.
Ba đội của AI được cơ cấu như một ăng ten.
Giả sử rằng vì một lý do nào đó, quan hệ giữa Israel với Vương quốc Anh đột nhiên xấu đi, và Mossad phải rời khỏi Vương quốc Anh, thì ngày hôm sau, người Israel có thể gửi tới London một đội của AI và sẽ có một mạng lưới đầy đủ. Các sỹ quan xử lý của AI là những người trong số người dày dạn kinh nghiệm của Học viện.
Mỹ là một nước mà công việc đổ bể có thể đã có những hậu quả trầm trọng. Không làm việc dưới vỏ bọc của Sứ quán, đặt ra những vấn đề, đặc biệt đối với việc thông tin liên lạc. Nếu các điệp viên bị bắt ở Hoa Kỳ, họ sẽ bị tống giam vì tội do thám. Không có việc miễn trừ ngoại giao. Trường hợp xấu nhất đến với một katsa bình thường, được hưởng quy chế miễn trừ ngoại giao, đó là trục xuất, về chính thức, Mossad có một ăng ten quan hệ ở Washington và chỉ có thế thôi.
Khó khăn khác nữa ngăn cản công việc từ khi Đại sứ quán Israel thiết lập ở Washington là nó được đặt ngay đằng sau một trung tâm thương mại, trên một sườn đồi, trong khu Iternatinal Drive (dành cho quốc tế). Có rất ít những ngôi nhà khác ở xung quanh, ngoại trừ Đại sứ quán Jordanie ở cao hơn một chút và cũng ngự trị như Đại sứ quán Israel - một vị trí tồi tàn đối với các hoạt động bí mật. Trái với dư luận, Mossad đã không có ăng ten ở Liên bang Xô viết. 99,99% những tin tức mà Mossad thu lượm được về khối Đông Âu là từ nguồn “thẩm vấn tích cực”, điều này có nghĩa là chỉ thẩm vấn một cách đơn giản những người Do Thái di cư khỏi các nước Cộng sản, phân tích và xử lý các thông tin này. Vì thế, người ta đã có một hình ảnh trung thực hơn về điều gì đã xảy ra ở Liên Xô, rồi giao phó cho một Cơ quan Tình báo hoạt động tại chỗ. Trên thực tế, làm việc ở đó cho thấy quá nguy hiểm. Hoạt động duy nhất là giúp con người thoát khỏi những việc loại này - giúp tạo ra những đường dây trốn vượt. Một tổ chức tách biệt đặt dưới tránh nhiệm của Mossad chăm lo công việc. Tổ chức ấy mang tên nativ, theo tiếng Hébreu có nghĩa là “vượt qua”. Những tin tức về các nước khối phương Đông tạo nên một thứ trao đổi tốt. Khớp với những tin tức đã thu được từ nhiều nước khác, các tin tức đó đã tạo cho Israel là hình ảnh của một nước biết nhiều sự việc - thí dụ những tin tức về ra-da của Đan Mạch.
Người Mỹ không nghi ngờ rằng một phần lớn tin tức của chúng tôi do khối NATO cung cấp, những tin tức mà người ta có thể đem mua bán để làm cho nó trở nên giật gân hơn. Trước Gorbatchev, các phương tiện thông tin đại chúng Xô viết không phải là một nguồn quan trọng, nhưng người ta luôn luôn có thể nhặt nhạnh được thậm chí những tin có tính chất tình báo từ những dư luận, tin đồn hay các cuộc nói chuyện. Thậm chí ngay cả trong trường hợp di chuyển của quân đội. Chẳng hạn, một người nào đó có thể thưa kiện không nhận được tin tức của người bà con. Ngay cả hàng ngày chỉ có 10 người di cư tới Israel thì họ cũng đã cung cấp một số lượng tin tức thật kinh khủng.
Mặc dù ở ngoài Sứ quán, những ăng ten của AI phần lớn hoạt động như những ăng ten thông thường và thông báo trực tiếp bằng điện thoại telex hoặc phương tiện hiện đại. Các ăng ten không dùng đài vô tuyến điện phát sóng, bởi vì ngay cả khi người Mỹ chưa phá được mật mã của các bức điện, thì họ cũng tính đến những hoạt động bí mật trong khu vực, đó là cái mà Mossad cố tránh. Khoảng cách cũng giữ một vai trò quan trọng.
Những katsa của AI, là những người duy nhất của cơ quan dùng các hộ chiếu Mỹ. Vì thế họ cùng lúc vi phạm hai quy tắc cơ bản: Hoạt động trong nước mục tiêu, và dùng quốc tịch địa phương để làm “vỏ bọc”. Không bao giờ người ta phải giả dạng như thế đối với người Anh ở nước Anh, hoặc một người Pháp ở nước Pháp. Việc này quá dễ để kiểm chứng lại các hồ sơ được sử dụng. Nếu như trao cho một viên cảnh sát Paris bằng lái xe của anh chẳng hạn, thì ngay lập tức có thể bảo đảm rằng đó là chính đáng hay không. AI đã tự rút bỏ việc đó bởi vì những giấy tờ giả mà AI sử dụng là giấy có chất lượng loại hạng nhất. Đó là một đòi hỏi cấp bách. Trong lãnh thổ kẻ thù, anh không được dùng để tránh bị đánh gục. Tại Hoa Kỳ, người bạn tốt nhất của mình, anh không được để bị bắt để rồi toàn thể đất nước anh bị ngã gục. Dần dà, có thể FBI có những nghi ngờ nhưng họ không thực sự biết rõ.
Câu chuyện tiếp sau, do Dinure, một thầy giáo của tôi kể lại cho tôi. Lúc đó, ông chịu trách nhiệm về ăng ten của AI ở New York. Dinure tham gia một tích cực vào một hoạt động đã tác động đến chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ, tạo ra một vấn đề nội bộ nghiêm trọng đối với Tổng thống Jimmy Carter, và khích lệ một cuộc đụng độ về chủng tộc giữa người Do Thái Mỹ với những nhà lãnh đạo của cộng đồng người da đen. Nếu như Hoa Kỳ hiểu được sự rộng lớn và tính chất của vai trò của Mossad một cách sớm sủa, thì những mối quan hệ giữa hai nước có thể bị dị luỵ, thậm chí bị cắt đứt.
Trước hết, hãy nhìn vào năm 1979.
Điều đánh dấu cho năm 1979, là việc ký Hiệp định Trại David, hồi tháng 9 năm 1978, xác định được một “khuôn khổ hoà bình”. Carter, Anouar Al-Sadate và Menahem Begin đã ký Hiệp định này. Phần lớn các nước Ả Rập đã có phản ứng giận dữ và khinh bỉ đối với thái độ của Tổng thống Ai Cập. Còn Begin, vừa ra khỏi Trại David, ông đã bắt đầu nuối tiếc không thể kể hết được.
Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ, Cyrus Vance đã làm một chuyến ngoại giao con thoi 17 tiếng đồng hồ nhằm đạt được một thoả thuận trước ngày 17 tháng 12, đã được xác định tại Trại David để ký một Hiệp ước, nhưng đã thất bại vào giờ phút cuối cùng khi Begin từ chối thương lượng nghiêm chỉnh. Thái độ này đã tạo nên một bầu không khí ngờ vực giữa Washington và Jelusalem. Đầu năm 1979, Begin cử Moshe Dayan, Bộ trưởng Ngoại giao đã đi vào truyền thuyết của ông, gặp Cyrus Vance và Thủ tướng Ai Cập, Moustapha Khlil, ở Bruxelles để xem xét lại những khả năng nối lại các cuộc thương lượng. Nhưng Begin thông báo không úp mở rằng, vấn đề duy nhất mà Dayan sẽ thảo luận, là “làm thế nào, khi nào và ở đâu” cuộc thương lượng có thể được nối lại, chứ không bàn đến nội dung của một thoả thuận.
Cuối năm 1978, Knesset (Quốc hội), nhìn chung đã bị chia rẽ, đã bỏ phiếu ủng hộ lập trường không thay đổi của Begin đối với Washington và LAKAM với 66 phiếu thuận chống lại 6 phiếu. Vì để minh hoạ cho tâm trạng của các nghị sỹ Quốc hội, Israel đã chấm dứt đối với việc rút thiết bị quân sự trước khi tăng cường việc di dân ra khỏi Sinai sau khi ký một hiệp ước hoà bình. Nhà nước Do Thái cũng tăng cường những cuộc tấn công vào các trại của người Palestine ở Lyban. Điều này đã dẫn Richard Stone, thượng nghị sỹ Dân chủ tiểu bang Florida và là chủ tịch tiểu ban của Thượng viện về các vấn đề Trung Đông và Đông Nam Á phải tuyên bố là: Người Israel đã “tạo nên một vòng tròn với những chiếc xe tập đi của họ” (cũng có thể gọi là những chiếc xe rùa của họ).
Sau cuộc bỏ phiếu của Quốc hội (Knesset), Begin điện thoại cho những người lãnh đạo Mỹ gốc Do Thái, khẩn khoản yêu cầu những nhóm thân Israel tung ra một chiến dịch thư từ và điện tín gửi cho Nhà Trắng và Quốc hội. Một nhóm chừng 30 nhà trí thức, trong đó có Saul Bellow và Irving Howe, những nhà văn đã chỉ trích tính không nhân nhượng của Begin, đã gửi một bức thư cho Carter mô tả - không có thể chấp nhận được” sự ủng hộ của Washington đối với lập trường của Ai Cập.
Tháng 1 năm 1979, với hi vọng mở ra được các cuộc thương lượng mới, Hoa Kỳ mời Israel và Ai Cập tới Trại David gặp Cyrus Vance ở cả hai phía đều chấp nhận, mặc dù Israel rất tức giận với bản báo cáo về nhân quyền của Quốc hội Mỹ do Vance soạn thảo. Báo cáo đã nêu lên sự tàn bạo có “hệ thống” đối với người Ả Rập ở Cisjorrdanie và ở dải Gaza, những lãnh thổ chiếm đóng.
Hai tuần trước khi tờ báo Washington Post chưa công bố bản báo cáo về nhân quyền, những chiến xa của quân đội Israel đã thâm nhập vào một số làng mạc của Cisjorrdanie rồi triệt phá bốn ngôi nhà của người Ả Rập. Chính phủ đã dựng lên một đồn tiền tiêu mới, khúc dạo đầu của khu định cư dân sự, ở Nueima, nằm về phía Đông Bắc Jericho - là vọng gác thứ 51 trên bờ sông phía Đông - nơi đây có khoảng 5.000 người Do Thái sinh sống trong số 700.000 người Palestine.
Trong khung cảnh của tình hình lộn xộn này, tháng 3, Carter đã tung ra chuyến công du riêng của mình tới Le Caire và Jerusalem. Sứ mạng này kéo dài trong 6 ngày. Mặc dù cơ may thành công rất nhỏ nhoi, Carter đã thuyết phục được hai bên chấp thuận một thoả ước do Hoa Kỳ soạn thảo, nhằm đưa hai địch thủ tới gần hoà bình hơn; cái mà họ chưa đạt được từ 30 năm nay. Giá mà Hoa Kỳ phải trả cho thỏa ước này là một khoản viện trợ bổ sung 5 tỷ đô la cho Ai Cập và Israel. Hai điều trở ngại chủ yếu là thái độ ngập ngừng của Israel, đất nước không có dầu hoả, đối với việc trao trả những vỉa đất của Sinai và đương nhiên, vấn đề thứ hai là gác lại vấn đề quyền tự trị của người Palestine.
Trong tháng 5, Carter đã cử Texan Robert Strauss, 60 tuổi, cựu chủ tịch ủy ban toàn quốc Đảng Dân chủ, làm Đại sứ đặc biệt chịu trách nhiệm giai đoạn hai của các cuộc thương thuyết hoà bình. Trong khi đưa ra sự đồng ý chính thức của mình, Israel vẫn tiếp tục các cuộc đột kích vào các căn cứ của PLO ở Lyban. Chính phủ Begin đã bỏ phiếu đối với việc xây dựng một khu định cư nữa của người Do Thái ở Elon Moreh, trong Cisjorrdanie bị chiếm đóng với 2 phiếu thuận chống lại 5. Việc này đã làm cho 59 nhân vật người Mỹ, gốc Do Thái phải gửi một lá thư ngỏ cho Begin, công kích chính sách của Israel.
Để khỏi phải dàn xếp việc gì, Begin đã có một cơn đau tim nhẹ và Dayan phát hiện ra rằng ông ta bị ung thư. Tại Israel, lạm phát đã đạt tới 100%. Thâm hụt cán cân thanh toán lên tới 4 tỷ đô la, và nợ nước ngoài phải gánh chịu tới 13 tỷ đô la, tăng gấp đôi trong vòng 5 năm qua. Những khoản này đã gây ra một cuộc khủng hoảng chính trị trầm trọng trong nước.
Sadad và Carter bắt đầu gây sức ép để Israel chấp nhận một kế hoạch dẫn tới quyền tự trị cho người Palestine. Các nước Ả Rập là những người tán thành một Nhà nước độc lập có chủ quyền trên bờ Tây Jordain và trong dải Gaza. Những vùng này là một phần Tổ Quốc của Palestine. Vùng đất này là nơi sinh sống của hàng triệu người đã phải di tản đi khắp nơi. Những người Israel hoàn toàn chống lại một ý tưởng mà một Nhà nước thù địch - đặc biệt lại do Yasser Arafat, Chủ tịch của PLO lãnh đạo - được thiết lập ngay trên vùng biên giới của mình. Israel nghi ngại rằng sự phụ thuộc của Mỹ vào dầu hoả của các nước Ả Rập đã làm cho Hoa Kỳ nghiêng về phía lợi ích của các nước Ả Rập.
Do sự vắng mặt của Begin, đang dưỡng bệnh, Dayan cố gắng lãnh đạo Chính phủ. Tháng 8, ông ta đã lưu ý Mỹ chống lại một vụ do thám của PLO và tất cả những cái có thể tạo thuận lợi cho việc tạo lập một Nhà nước Palestine độc lập trong vùng Cisjordanie và trong dải Gaza. Trong khuôn khổ 5 giờ đồng hồ của một cuộc họp náo loạn, Văn phòng Thủ tướng của Israel đã quyết định thúc giục Hoa Kỳ phải tôn trọng những cam kết của họ trước đây, đặc biệt lời hứa của họ trái ngược với việc họ phủ quyết mọi ý đồ của các nước Ả Rập để sửa đổi lại Nghị quyết 242 của Liên hợp quốc đã công nhận sự tồn tại của Israel. Dayan đe dọa sẽ rút khỏi các cuộc thương lượng - trong sự bế tắc - về “quyền tự trị”, nếu những người Mỹ kêu gọi với sự quá nhấn mạnh đối với việc thiết lập các quan hệ với PLO.
Điều gây nên tức giận của Israel, đó là các nước Ả Rập Saudi, Koweite và PLO đã có một cuộc tập trận được bàn bạc tung ra vào mùa hè để cố gắng làm nghiêng cán cân về phía họ. Vào tháng 7, người Ả Rập đã bắt đầu bằng cách quyết định nâng cao sản lượng sản xuất dầu lên một triệu barils mỗi ngày, trong suốt thời gian kéo dài 3 tháng, vì thế đã hạn chế được việc khan hiếm đã làm cho việc xếp hàng kéo dài trước các cây xăng của Hoa Kỳ trong tháng năm và tháng sáu. Mặt khác, PLO đã chấp nhận một lập trường hoà giải, chí ít cũng là công khai, nhằm cải thiện một hình ảnh tiêu cực ở phương Tây. Tại Liên hợp quốc, những nhà ngoại giao Koweite đã đệ trình một dự thảo nghị quyết gắn quyền của Israel được tồn tại (Nghị quyết 242) với việc thừa nhận của quốc tế đối với quyền của người Palestine được tự trị.
Kế hoạch này đã được sản sinh ra vào tháng 6 ở Riyad, nơi mà hoàng thân Fahd Arabie đã mời Arafat tới, và thuyết phục ông ta cải thiện các quan hệ với Hoa Kỳ, bằng cách bắt đầu giảm các hoạt động khủng bố, ít ra cũng trong một thời gian. Koweite đã phối hợp với các hoạt động với những khả năng được biết tới một cách rộng rãi của ngài Đại sứ Koweite, Abdalla Yaccoub Bishara, khi đó đang giữ chiếc ghế trong Hội đồng Bảo an của Liên hợp quốc.
Để trấn an Israel, người Mỹ đã thẳng thừng bác bỏ việc bỏ phiếu cho bất kỳ dự án nào chủ xướng cho một Nhà nước Palestine độc lập, ngoại trừ khả năng của một nghị quyết ôn hoà hơn nhằm khẳng định một cách đơn giản những quyền chính đáng của người Palestine ăn khớp với các điều khoản của Nghị quyết 242 cùng với các thoả thuận ở Trại David.
Khi Thủ tướng Ai Cập, Moustapha Khalil thông báo với các cuộc thương thuyết đang diễn ra tại Khách sạn Mont Carmel, nằm đối diện với cảng Haifa, rằng - nước ông ủng hộ một nghị quyết của Liên hợp quốc về những quyền của người Palestine, thì Bộ trưởng Luật pháp của Israel, Samuel Tamir, đã lên án Ai Cập “đang đưa toàn bộ tiến trình hoà bình tới chỗ nguy hiểm”. Không thể tránh khỏi là bản thân Mossad đã lo ngại về sự phát triển của tình hình, đặc biệt về vai trò đang mạnh lên đối với trong nước của Bộ trưởng Quốc phòng Israel, Eier Weizman. Học viện không tin tưởng vào viên cựu phi công, người đã từng là chỉ huy phó các lực lượng vũ trang trong cuộc chiến tranh Sáu ngày, một sỹ quan anh hùng và là cha đẻ của các huyền thoại của không quân Israel. Ông ta là một người bạn của các nước Ả Rập, thậm chí với cả một kẻ phản bội. Tính hung hăng đối với ông là một điều phi lý. Mặc dù ông ta là Bộ trưởng Quốc phòng, người ta cũng không báo bất kỳ một tin tức nào tuyệt mật cho ông. Weizman là một tinh thần tự do, một loại người có khả năng đồng ý về một điểm, nhưng lại bất đồng toàn bộ về một vấn đề khác. Ông ta không đứng thẳng hàng một cách có hệ thống trên lập trường của đảng ông ta. Ông ta làm điều gì ông ta cảm thấy là đúng. Những con người dạng này thường là nguy hiểm vì không thể đoán trước được.
Tuy nhiên, Weizman đã qua những thử thách. Trong một nước mà hầu hết mọi người phải thực hiện nghĩa vụ quân sự, thì quân đội là quan trọng. Làm thế nào mà người ta ở được với một Chính phủ được cấu tạo với 70% là tướng lĩnh. Dư luận hình như không hiểu được những cái chính yếu trong việc này.
Ngay chính giữa Begin và Dayan đã có những sự bất đồng. Dayan, một Đảng viên Công Đảng ngay từ những giờ phút đầu tiên, đã rời khỏi Đảng để ra nhập với Begin, một nhân vật có uy tín lớn trong phái hữu Israel. Tuy thế, hai con người này đã nhìn những người Palestine với một cách hoàn toàn khác. Vì vậy mà Dayan đã xem phần lớn những thành viên Công Đảng của thế hệ ông như những người đối địch, nhưng vẫn nằm trong một dân tộc. Khi Begin và Đảng của ông nhìn những người Palestine, họ không thấy đó là một dân tộc, mà chỉ là một vấn đề. Dayan nói: “Tôi thích được sống hoà bình với họ hơn, và tôi nhớ lại cái thời chúng tôi đã như vậy”. Begin đã nói: ‘‘Tôi có lẽ thích rằng họ không sống ở đó, thế nhưng tôi không thể làm được điều gì lớn lao”. Những quan điểm khác nhau như vậy không có gì ngạc nhiên là những xích mích giữa hai người ngày càng nhiều.
Chính trong bối cảnh đó, Mossad đã có tiếp xúc với những người trồng thuốc phiện ở Thái Lan. Khi đó, người Mỹ đã tính thúc ép những người nông dân bỏ việc trồng cây thuốc phiện và thay vào đó là trồng cà phê. Kế hoạch của Mossad là len vào phần này để giúp người Thái Lan trồng cà phê - nhưng cũng nhằm xuất khẩu thuốc phiện, một nguồn tài chính cho các hoạt động của Học viện.
Một trong những hoạt động của họ là tăng cường những nỗ lực của Al, ở New York và ở Washington, để phá quyết tâm của Ả Rập tìm kiếm sự giúp đỡ của Hoa Kỳ nhằm để đem lại cho PLO - hay cho người Palestine nói chung - một quy chế cao hơn, qua trung gian Liên hợp quốc.
Những người không hiểu được là những người Israel hoàn toàn không vui thú gì với các âm mưu này, đã liên tục có các cuộc tấn công vào các làng mạc của Israel, những vụ tàn sát, một không khí nguy hiểm luôn thường trực. Người ta đã kiểm tra túi sách tay trước khi vào các cửa hiệu lớn và trước khi vào các rạp chiếu bóng. Nếu người nào đó bỏ quên chiếc cặp của mình, họ có thế phải chờ vào cảnh sát lượm được nó và làm cho nó nổ.
Một số đông người Palestine ở Cisjordanie kéo đến Israel để làm việc. Một số những người Israel, trong lúc thực thi nghĩa vụ quân sự của mình, đã đi tuần tra trong khu vực này, và họ biết rằng những người Palestine căm ghét họ. Ngay cả những người tả khuynh và người ta nghĩ rằng mối căm ghét này là chính đáng và không muốn kết cục bị xé nát ra.
Thường gặp những người cánh hữu bày tỏ sự ngờ vực của họ đối với những người Palestine trong đối xử với họ, đó đúng là một cái vòng luẩn quẩn. Nếu có một người cánh tả nào đề nghị: “Hãy để cho họ tham gia vào bầu cử”. Thì một người Israel cánh hữu sẽ trả lời: “Đừng bao giờ nghĩ tới điều đó. Họ sẽ bầu một người mà tôi không muốn nói tới”. Người theo cánh tả lại lập luận: “Nhưng họ đã tuyên bố ngừng bắn”. Rồi người theo cánh hữu đáp lại: “Cuộc ngừng bắn nào? Chúng tôi không công nhận người Palestine như một nhóm có khả năng ra lệnh cho một cuộc ngừng bắn.” Ngày hôm sau, một người Israel bị giết do một quả bom và thế là người theo cánh hữu kết luận: “Ông đã thấy chưa, tôi đã nói với ông rằng họ sẽ không tôn trọng lệnh ngừng bắn mà”.
AI đã hoạt động tại New York từ năm 1978 để thu thập tin tức về các hoạt động được những người Ả Rập triển khai xung quanh các cuộc thương lượng hoà bình do Carter mong muốn. Tháng 9 năm 1975, Bộ trưởng Ngoại giao Kissinger đã chính thức cam kết rằng Hoa Kỳ không công nhận PLO và không thương lượng với PLO trước khi PLO xác nhận quyền tồn tại của Israel. Trước tiên là Gerald Ford, rồi sau là Carter tuyên bố rằng họ tôn trọng cam kết này. Tuy nhiên, người Israel không tin hoàn toàn vào đó.
Tháng 11 năm 1978, sau các cuộc thương lượng ở Trại David, nghị sỹ Quốc hội, Paul Findley, Đảng Cộng hoà tiểu bang Illinois, thành viên của ủy ban Ngoại giao của Hạ viện, đã đem một bức thư của Carter cho Arafat, tại Damas, trong một cuộc họp, mà ở đó nhà lãnh đạo Palestine đã tuyên bố rằng PLO sẽ trở nên không bạo lực, nếu người ta tạo ra một Nhà nước Palestine độc lập trên bờ sông phía Đông của Jordain và trong dải Gaza, với một hành lang nối liền hai vùng. Ngay từ năm 1977, Carter kêu gọi một “bên” Palestine, và vào mùa xuân 1979, Milton Wolf, Đại sứ Mỹ ở Áo, một người Do Thái lỗi lạc, gặp đại diện của PLO tại Viên, ngài Issam Sartaoui, đầu tiên là tại một bữa tiệc do Chính phủ Áo tổ chức, rồi sau đó tại một buổi coktail do Đại sứ quán Ả Rập chiêu đãi. Wolf đã nhận sứ mệnh gặp Sartaoui, nhưng không thảo luận vấn đề gì quan trọng cả. Vào giữa tháng 7, khi Arafat tới Viên để gặp Thủ tướng Áo, Bruno Kreisky và cựu thủ tướng Đức Willi Brandt, Wolf và Sartaoui đã có một cuộc họp nghiêm túc để thảo luận những cuộc thương lượng. Khi tin tức đã tiết lộ, Bộ Ngoại giao tuyên bố đã chính thức “nhắc nhở” Wolf về chính sách khước từ của Mỹ với bất kỳ một cuộc thương lượng nào với PLO, nhưng Mossad thừa hiểu rằng Wolf chỉ làm theo những chỉ thị trực tiếp của Washington.
Tại Mỹ, có một phong trào phát triển, có lợi cho việc giữ một lập trường hoà bình. Ngay cả người Ả Rập cũng đã phải thấy những cái lợi của lập trường ấy và Mossad, nhờ có các micro cài đặt trong văn phòng của nhiều Đại sứ và nhưng người lãnh đạo Ả Rập tại New York và Washington, đã biết được rằng PLO dự định ủng hộ lập trường của Kissinger đưa ra năm 1975, và dự định công nhận quyền tồn tại của Israel.
Đại sứ Mỹ tại Liên hợp quốc, khi đó là Andrew Young, một người theo phái tự do da đen, bạn gần gũi của Carter, ông ta là người đầu tiên tán thành Tổng thống và đã đóng vai trò trong mối tiếp xúc chính giữa Nhà Trắng với người da đen. Đại sứ với lối nói thẳng và thường gây tranh luận, Young là một sản phẩm thuần tuý của phong trào người Mỹ vì các quyền dân sự và đã có một yếu kém đối với những năng khiếu (hoặc đối với gia tài). Trong lúc nghiêng về Israel đã cho là chống người Israel lợi hơn là chống những người thân Palestin. Young đã được thuyết phục rằng, Carter muốn có một giải pháp, một quy chế giải phóng những người Palestine khỏi tình cảnh mà họ đang là những tù nhân, và điều đó đồng thời cũng tạo ra những điều kiện hoà bình trong khu vực.
Young chống lại việc thiết lập các khu định cư mới cho người Do Thái ở Cisjordanie, nhưng tuy thế lại muốn đặt trở lại tiểu ban do người Ả Rập về một nghị quyết nhằm công nhận PLO ở Liên hợp quốc, ông lập luận rằng một văn kiện như thế không dẫn đến đâu và vì vậy, vấn đề có giá trị là thảo ra một cách tốt nhất một nghị quyết có cân nhắc hơn, cuối cùng điều đó cho phép đạt được cùng một mục tiêu và có thể có cơ may được thông qua.
Bishara, Đại sứ Koweit, là lực lượng thúc đẩy phía sau nghị quyết của Ả Rập, đương nhiên có quan hệ với người đại diện chính thức của PLO ở Liên hợp quốc, Zehdi Labib Terzi. AI đã thuê các căn hộ trong khắp New York và Washington, đã đặt rất nhiều máy nghe trộm, những cái đó cho phép bắt được một cuộc nói chuyện giữa Bishara và Young, ngày 15 tháng 7: Những người Ả Rập không thể hoãn cuộc thảo luận của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc về nghị quyết và khuyên rằng Young sẽ thảo luận vấn đề đó với một ai đó của Young tuyên bố với Bishara rằng ông không thể gặp đại diện của PLO, nhưng nói thêm: “Tôi không thể không từ chối lời mời của một thành viên Hội đồng Bảo an tới nhà ông ta thảo luận công việc”. Bishara, dĩ nhiên, là một thành viên của Hội đồng Bảo an, rồi Young nói tiếp: “Cũng không thuộc thẩm quyền của tôi để nói ai là người anh sẽ tiếp đón tại nhà anh.”
Ngày 25 tháng 7 năm 1979, một điện tín từ New York tới trụ sở của Mossad ở Tel Aviv: Đại sứ Hoa Kỳ tại Liên hợp quốc cần gặp đại diện của PLO ở Liên hợp quốc. Điện tín mang một một câu; “Hoả tốc. Sư tử. Đen”, điều này có nghĩa rằng bức điện tín đó được dành cho Thủ tướng và một vài người cộng sự của ông ta có cấp bậc cao hơn - có khả năng không quá tổng số năm nhân vật.
Bức điện bằng mật mã đã được chuyển tới văn phòng của Giám đốc Mossad, Ithak Hofi, là người đích thân mang bản dịch điện tới cho thủ tướng Begin. Những nhà lãnh đạo của Israel đã sững sờ biết được rằng Young đã chuẩn bị gặp Terzi. Vấn đề là ngay bây giờ phải biết liệu có cần ngăn chặn cuộc tiếp xúc này hay cứ để nó diễn ra. Giải pháp thứ hai chứng tỏ rằng mối lo sợ của Israel là có cơ sở, rằng luôn có những sự thay đổi về thái độ của Hoa Kỳ đối với Israel. Giải pháp thứ hai, sẽ cho những người bạn Mỹ của Israel trong cấp lãnh đạo thấy mối nguy hiểm mà chính sách hiện nay của Mỹ đang tiềm ẩn, và từ cùng một cách làm sẽ gây nên sự thay đổi có lợi cho Nhà nước Do Thái.
Giải pháp đó cũng sẽ giúp để loại bỏ Young, con người được xem như một mối đe dọa vì sự cởi mở tinh thần của ông và vì thái độ tích cực của ông hướng về PLO. Ông ta không đáp ứng được những mong muốn của Israel.
Ngày 26 tháng 7, Young và người con trai của ông, Andrew, 6 tuổi, tới một khách sạn đặc biệt ở Bishara. Lúc đó, những máy nghe của AI đã thu được tất cả những gì người ta nói. Young đã được một người Koweit và Đại sứ Syrie tiếp. Năm phút sau đó, Terzi tới, và trong lúc cậu con trai đang chơi một mình, ba nhà ngoại giao thảo luận và chắc là thoả thuận để cuộc họp của Hội đồng Bảo an được họp lùi lại từ ngày 27 tháng 7 tới ngày 23 tháng 8. (Phiên họp thực tế đã được để lại).
Ngay sau đó, Young cùng cậu con trai ra đi. Khoảng gần một giờ sau đó, katsa của AI đã mang đi một bản ghi đầy đủ cuộc thảo luận, và người chỉ huy ăng ten, Uri Dinure, đã đáp máy bay của hãng E1 AI đi Tel Aviv, ông được Itzhak Hofi đón ở sân bay. Hofi đã trả lời bức điện trước mà ông đã nhận: “Con nhện đã nuốt con ruồi”. Hai người đã trực tiếp mang bức điện tới Begin, trên quãng đường đi, Hofi đã nắm tình hình. Dinure chỉ lưu lại Israel sáu tiếng đồng hồ trước khi ra đi cùng với một bản sao ghi lại điều mà ông ta phải đem trao cho Đại sứ Israel tại Liên hợp quốc, ông Yehuda Blum, một chuyên gia luật pháp quốc tế, gốc Tiệp Khắc.
Hofi không muốn rằng các phương tiện thông tin đại chúng biết cuộc gặp gỡ này. Đặc biệt, ông không muốn “nướng” cháy cả mạng lưới của ông tại New York. Vì vậy, để Begin có thể giành được lợi thế khi nói trực tiếp với Chính phủ Mỹ và thảo luận với họ - như là những người Israel đã làm sau các cuộc tiếp xúc của Milton Wolf với PLO tại Viên. Hofi nói thêm rằng về khía cạnh chính trị, ở Hoa Kỳ, sẽ rất xấu khi đổ lỗi cho Young, một người có sự hậu thuẫn của một đa số những người da đen và bằng mọi cách, người ta sẽ không đạt được sự nhượng bộ của người Mỹ ở đằng sau hậu trường.
Nhưng ngoại giao không làm Begin thích thú. Ông muốn dùng máu. Tuy thế, hai người cũng thoả thuận là việc tiết lộ sự việc chẳng nhằm phục vụ cái gì và chỉ chuốc lấy nguy hiểm “nướng cháy” mạng lưới của họ thôi. Tờ tạp chí Newsweek, do vậy chỉ thông tin rằng Young và Terzi đã gặp nhau. Điều này, đương nhiên gợi lên những vấn đề với Bộ Ngoại giao. Bộ Ngoại giao sẽ yêu cầu Young có sự giải thích. Ông này trả lời, trước hết ông đi dạo chơi với cậu con trai, đi qua chỗ Bishara. Tại đây, bất ngờ ông gặp Terzi. Họ đã trao đổi với nhau “những câu chuyện thân tình” trong khoảng 15 phút, ngoài ra không có gì hơn nữa.
Vance, người vừa từ Equateur trở về, nhận được bức điện của Young làm rõ những sự việc. Được nhẹ nhõm khi biết rằng đó chỉ là một cuộc gặp gỡ ngẫu nhiên, Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ ủy nhiệm cho người phát ngôn, Tom Reston, công bố bản giải thích của Đại sứ, vào trưa ngày thứ hai, 13 tháng 8.
Sự việc hình như không thành công, Mossad dàn xếp để Young có nghe đồn đại của dư luận, theo đó, ông ta đã lầm lẫn một cách ghê gớm, nếu ông ta nghĩ rằng Israel sẽ dừng lại ở đó.
Lo lắng, Young đã xin và đạt được một cuộc trao đổi với Yehuda Blum. Cuộc gặp diễn ra trong hai giờ. Người Mỹ không biết Blum đã có trong tay một bản dịch về cuộc thảo luận với Bishara và Terzi. Việc này cho phép người Israel làm cho Young nói ra nhiều hơn những điều ông ta đã tuyên bố với Bộ Ngoại giao Mỹ.
Blum không say mê gì Young - trong phần lớn những báo cáo của mình, ông ta không làm lớn công việc của người Mỹ, nhưng đây là một mục đích của ngoại giao. Biết chính xác được những sự việc đã xảy ra, Blum đã làm cho Young phải thú nhận về toàn bộ câu chuyện. Điều này có nghĩa rằng, từ giờ trở đi, người Israel có thể nêu tên Young như một nguồn để không phải tiết lộ là họ đã biết sự việc ngay từ đầu. Young, người vẫn còn tin rằng Israel muốn trước hết là mở các cuộc thương lượng, đã không hiểu rằng người ta đã lừa dối ông. Sau cuộc trao đổi với Blum, và những lời thú tội của Young, Đại sứ Mỹ ở Israel bị Begin triệu tới. Begin chính thức phàn nàn. Những lời rì rầm ngay sau đó đã cùng một lúc được đưa ra trong giới ngoại giao và báo chí để bảo đảm rằng nó vẫn đi đúng đường của Washington.
Vào lúc 7 giờ ngày 14 tháng 8, một bức điện khẩn của Đại sứ Hoa Kỳ tại Tel Aviv đã đến văn phòng của Vance ở Washington; những điều mà Young đã kể cho Blum nghe, theo người Israel, khác nhiều với những điều ông ta đã tuyên bố với Bộ Ngoại giao, và khác nhiều với điều ông nay đã thông báo cho các phương tiện thông tin đại chúng. Vance tới Nhà Trắng, nói với Carter rằng Young phải từ chức. Tổng thống chấp nhận, nhưng có một vài do dự, rồi yêu cầu có 24 giờ để suy nghĩ. Young tới khu nhà riêng của Tổng thống ở Nhà Trắng vào lúc 10 giờ sáng ngày hôm sau - ngày 15 tháng 8 năm 1979, với bức thư xin từ chức cầm trong tay. Sau 1 giờ 30 thảo luận, Young bước ra ngoài một lúc rồi gặp lại Carter. Hai người đi tới văn phòng của Hamilton Jordan. Tại đây, các cộng sự chính của Nhà Trắng đã có mặt. Các trợ lý của Carter ngồi xung quanh ông, Young đã thông báo với các bạn mình rằng ông từ chức. Hai giờ đồng hồ sau đó, bí thư phụ trách quan hệ với báo chí, Jody Powell, vừa có khả năng trấn an được sự sửng sốt cho bản thân, đã tuyên bô rằng, thật không may Young đã từ chức.
Strauss, phái viên đặc biệt của Hoa Kỳ, tuyên bố trên chuyến máy bay đưa ông tới Trung Đông: “Vụ Young… đang giữ lại những nghi ngờ mà không có cơ sở, theo đó Hoa Kỳ đang bí mật xử lý với PLO”.
Sau này, Young cố gắng chứng minh:
— Tôi không nói dối, tôi chưa nói hết sự thật. Tôi đã đưa ra trước các câu chuyện đáng chú ý này của mình (ở Bộ Ngoại giao) “Tôi sẽ chuyển đến các bạn một lời giải thích chính thức.”, tôi đã đưa ra một giải thích chính thức rồi, lời giải thích đó không phải là một cách lừa lọc.
Nhưng sự không may đã xảy ra, Young bị đổ lỗi, và việc đó đã kéo theo một thời gian dài trước khi mà Hoa Kỳ không có dự tính giải quyết với PLO. Vì thế, thông qua mạng lưới hoạt động bí mật rộng lớn của mình, AI đã thành công trong việc chấm dứt nghề nghiệp của một trong số những người bạn thân nhất của Carter - nhưng mà ông ta lại không được xem là người bạn của Israel.
Trong vài ngày, câu chuyện đã được nêu trên trang nhất của các báo chí và Uri Dinure, thấy rằng khu vực đã trở nên không lành mạnh (có nguy hại), đã yêu cầu cho mình thuyên chuyển. Tất cả những khu nhà thuê bí mật đều đóng cửa.
Mạng lưới của New York được đặt ở những khu nhà khác. Học viện chờ đợi một chiến dịch có quy mô chống lại họ - chiến dịch này đã không xảy ra. Điều được nghe thấy, chỉ đơn giản là một tiếng réo của một quả bom rơi: Người ta chờ một tiếng nổ, nhưng điều này không đến.
Tuy nhiên, những chính sách lại tung ra từ sự việc, đã mở ra một trong những chương đen tối nhất của quan hệ giữa người Do Thái và người Da đen ở Hoa Kỳ.
Những người lãnh đạo của cộng đồng người da đen Mỹ thấy rụng rời vì sự ra đi của Young. Richard Hatcher, Thị trưởng của Gary, trong vùng Indiana, đã tuyên bố với tạp chí Time rằng đây là một sự “từ chức bị ép buộc”, một “sự xúc phạm tới công chúng người da đen”. Benjamin Hooks, người lãnh đạo Hiệp hội quốc gia vì sự tiến bộ của những người da màu (NAACP) đã nhấn mạnh rằng Young đã là một con “cừu non hi sinh đúng lúc để tránh bị xoá tên mình”. Young - ông ta nói - có lẽ phải nhận một chiếc huân chương đối với “cú nổ ngoại giao” vào lúc ông mất việc làm.
Về phần mình, mục sư Jesse Jackson, người sau này là ứng cử viên Tổng thống, đã tuyên bố: “Việc từ chức ép buộc này đã tạo ra một bầu không khí cực kỳ căng thẳng”. Những mối quan hệ giữa người Do Thái và người Da đen “đã trở nên căng thẳng hơn những mối quan hệ có từ 25 năm nay Bản thân Young, bằng mọi cách tránh cho ý tưởng của một cuộc xung đột giữa những người da đen và người Do Thái, đã tiên đoán có “một cái gì đó giống như cuộc đụng độ giữa những người bạn”. Ông ta nói rằng thái độ mới của cộng đồng người da đen về vấn đề Trung Đông “tuyệt đối không thể được xem là chống Do Thái”.
Những nhà lãnh đạo da màu khác muốn biết vì sao Young “từ chức” vì đã gặp một đại diện của PLO; trong khi đó, Đại sứ Mỹ. Wolf, nhà lãnh đạo người Do Thái vào loại hàng đầu gặp gỡ với một đại diện của PLO, lại không bị cách chức, mặc dù ông đã có nhiều cuộc gặp gỡ với PLO. Dĩ nhiên, sự khác biệt chủ yếu, đó là Wolf không bị bắt trong lúc đang nói bậy về chủ đề này.
Trên thực tế, kẻ chiến thắng chính của trò chơi mánh khoé này dường như là PLO chứ không phải là Israel, vì rằng rất nhiều tổ chức của người da đen Mỹ đã bày tỏ sự ủng hộ của họ với Young, và sự nghiệp của người Palestine mà trước đây, ít được các phương tiện thông tin đại chúng chú ý một cách rộng rãi, đã đột nhiên thu được sự chú ý thuận lợi hơn. Cuối tháng 8, mục sư Joseph Lowery, Chủ tịch của Hội nghị những nhà lãnh đạo Thiên Chúa giáo Miền Nam, một phong trào Thiên Chúa giáo, đã đưa một đoàn đại biểu tới New York để bày tỏ với Terzi sự ủng hộ không điều kiện của họ đối với “những quyền của tất cả người Palestine, trong đó gồm cả quyền tự quyết có liên quan đến Tổ Quốc họ”. Hôm sau, khi gặp Blum, Đại sứ Israel, nhóm này đã tuyên bố rằng họ không từ bỏ “sự ủng hộ những quyền của người Palestine, cũng như (họ không từ bỏ) luôn ở bên cạnh PLO tiếp tục ủng hộ cho một Nhà nước Israel”. Blum đã trả lời: “Sẽ là vô lý nếu đem so sánh chúng tôi với PLO. Điều đó chẳng khác nào quay lại xếp ngang bằng giữa những tên tội phạm với những người cảnh sát”.
Một tuần sau, 200 nhà lãnh đạo da đen Mỹ tụ họp ở trụ sở của NAACP tại New York và cùng nhấn mạnh rằng: “Một số những nhà tri thức và các tổ chức của người Do Thái, những người trước đây từng là niềm khát vọng của người da đen Mỹ đang bảo vệ tính nguyên trạng về chủng tộc cho tới ngày nay… Những người Do Thái phải chứng tỏ hơn nữa tính nhạy cảm, chứng tỏ sẵn sàng đối với những sự thay đổi quan điểm ngày càng nhiều trước khi có những lập trường trái ngược đối với lợi ích của cộng đồng người da đen”.
Một nhóm gồm 11 tổ chức người Do Thái đã đáp lại: “Chính vì nỗi lo lắng và nỗi tức giận mà chúng tôi đã chú ý tới những tuyên bố này. Chúng tôi không thể làm việc với những người mà họ chỉ nói một nửa sự thật, và một nửa là những lời nói dối và sự cuồng tín, cho dù núp dưới sự đánh lạc hướng nào đi nữa… Chúng tôi không có thể làm việc với những con người không chịu lùi bước đối với sự dọa nạt người Ả Rập”.
Tạp chí Time đã đưa ra hình ảnh Jesse Jackson ôm hôn Arafat trong khuôn khổ một sứ mệnh - Trung Đông mà nhà lãnh đạo da đen, mà bản thân ông ta tự phân định cho mình, sau khi mà Begin đã từ chối không gặp gỡ Arafat vì lý do tình cảm của Arafat đối với PLO. Jackson đã gọi sự từ chối này là “sự loại bỏ những người da đen Mỹ, loại bỏ sự ủng hộ của họ và loại bỏ tiền bạc của họ”. Cũng cùng trong chuyến công du này, Lowery, người cùng đi với Jackson, đã hát bài We Shall Overcome - “Chúng ta sẽ chiến thắng” đồng ca với Arafat.
Vài ngày sau đó, Chủ tịch Liên đoàn Đô thị toàn quốc, Vernon E. Jordan Jr, định trấn an cơn bão tố trong một bài diễn văn ở Kansas City: “Những mối quan hệ giữa người Do Thái với người da đen, không nên để rơi vào mối nguy hiểm bởi những người dại dột luôn được ve vãn với các nhóm khủng bố gắn vào việc thanh trừ của Israel. Phong trào vì những quyền dân sự của người da đen đã không có gì chung với các nhóm mà sự xâm nhập của họ đối với quyền chính đáng đã được thoả thuận bằng một cuộc sát hại thản nhiên những người dân vô tội và những học sinh”.
Jackson, người gọi PLO là “Chính phủ lưu vong”, đã gặp Jordan - Chicago và ông này đã giải thích bằng cách như sau: “Chúng tôi đã thoả thuận với nhau để không đồng ý mà không làm phiền nhau”. Không thích hợp với Dayan, Tháng 10 năm 1979, mệt mỏi với đường lối cứng rắn do Begin áp đặt đối với vấn đề Palestine, Dayan đã đưa đơn từ chức 1 vào một buổi sáng chủ nhật, ngay giữa cuộc họp của Văn phòng Thủ tướng để chính bản thân Begin lo liệu Bộ Ngoại giao. Sau này, trong một cuộc phỏng vấn dành cho Dean Fisher, trưởng văn phòng của tạp chí Time ở Jerusalem, và David Halevy, phóng viên của tạp chí. Dayan khẳng định: “Những người Palestine muốn có hoà bình, họ sẵn sàng đưa ra một quy chế. Tôi tin tưởng rằng điều đó là khả thi”.
Có thể. Ông đã không sống được tương đối lâu để nhìn thấy điều đó.
Sự việc đã mở ra con đường cho khá nhiều những hoạt động thu thập tin tức bên cạnh các nghị sỹ, bởi vì Mossad hình như đã được bật đèn xanh: Người Mỹ đã buộc phải hiểu việc cài cắm của Học viện, tuy vậy, không xảy ra một việc gì, không một ai phản đối. Trong thế giới tình báo, nếu như các anh bắt được một ai đó làm gián điệp và các anh hãy nhìn một cách khác, nó sẽ được khích lệ để thử làm những công việc tàn bạo hơn cho tới lúc mà các anh đánh nó chán tay hay nhức óc, tuỳ theo từng trường hợp.
AI đã tập hợp những tin tình báo được thực hiện trong nhiều chỗ ở khác nhau, những thông tin từ Thượng viện và Hạ viện. AI đã tiếp xúc, tuyển mộ, tìm các bản sao tài liệu - tiến hành mọi hoạt động của một ăng ten. Các katsa của Mossad thường lui tới các buổi dạ hội được tổ chức tại New York và Washington. Tất cả các katsa đều đứng đầu các doanh nghiệp hợp pháp. Thậm chí, có một người trong số họ điều hành một công ty bảo vệ. Công ty này hiện còn tồn tại.
Mossad ngoan cố không nhận sự hiện diện của Al. Tại Học viện, người ta khẳng định rằng Mossad không hoạt động ở Hoa Kỳ. Nhưng phần lớn các thành viên của cơ quan biết rằng AI tồn tại, ngay cả như họ không biết chính xác việc nó làm. Khi vụ Pollard bùng nổ, Mossad đã quả quyết một cách cứng đầu: “Có một vấn đề chắc chắn là: Chúng tôi không hoạt động ở Hoa Kỳ”.
Cái đó chỉ chứng tỏ rằng người ta không thể luôn tin vào người tình báo trên lời nói.