Chương 9 Beyrouth.
Những giờ phút đen tối đối với Israel. Giữa tháng 9 năm 1982, báo chí, tạp chí và vô tuyến truyền hình trên khắp thế giới đưa ra những hình ảnh về cuộc thảm sát. Khắp nơi là xác những người đàn ông, đàn bà và trẻ con. Người ta đã phanh bụng tới cả những con ngựa. Một số người đàn ông bị giết chết bằng một viên đạn vào gáy, một số bị cắt cổ, một số bị hoạn. Xác những nam thanh niên được tập trung thành từng nhóm 10 hoặc 20 người và những người bị xả súng bắn chết thì được tập trung thành đông. Phần lớn 800 người Palestine bị tàn sát trong hai trại Sarbra và Chatila đều là những người dân thường vô tội, không có vũ khí, những nạn nhân của sự trả thù gây ra do những người Phalangiste theo Thiên Chúa giáo.
Các đơn vị quân chiếm đóng Israel không chỉ châm trước cho những hành động này mà còn tạo thuận lợi cho những việc tàn sát. Việc làm đó tức khắc gây ra phản ứng của Ronald Reagan, khi đó đang là đồng minh vững chắc của Israel. Tổng thống Mỹ đã lấy làm tiếc với những cái nhìn của thế giới cho hình ảnh của một nước Israel, từ chỗ phản ứng về Trại David đến phản ứng về Gioliath ở Trung Đông. Hai hôm sau, một lần nữa Tổng thống Mỹ lại gửi lính hải quân đến Beyrouth tham gia trong đội quân hòa bình Mỹ - Pháp - Italy.
Sự phản ứng chống Israel là thống nhất. Tại Italy, công nhân bến cảng tẩy chay bốc dỡ hàng của các tàu Israel. Nước Anh lên án Israel và Ai Cập gọi Đại sứ của họ về nước. Các cuộc biểu tình phản đối Israel được tổ chức ở nhiều nơi trên thế giới và ở ngay cả Israel.
Từ khi Nhà nước Israel ra đời, nhiều người Israel đã mong muốn được sống hòa thuận với những người láng giềng Ả Rập, mơ ước trở thành một bộ phận của thế giới mà ở đó con người có thể đi qua biên giới và được đón tiếp như những người bạn. Đối với phần lớn dân chúng, người ta mong muốn biên giới được mở cửa, còn như biên giới chia cắt Canada và Mỹ dường như không thể chấp nhận được.
Vào những năm 70 nhờ có CIA và những liên lạc với Châu Âu, Admony - khi đó phụ trách quan hệ của Mossad - đã thắt chặt quan hệ với Bechir - Gemayel, một người Phalangiste. Con người này có sức mạnh tàn bạo đã thuyết phục Mossad rằng Lyban cần tới Israel, về phần mình Mossad thuyết phục Chính phủ Israel về sự chân thành của Gemayel - người bạn gần gũi của Salamed, ông Hoàng đỏ. Việc tuyên truyền thuyết phục này được dàn dựng từ nhiều năm nhờ vào các bài báo có chủ ý (định hướng) mà Mossad đã đưa ra từ từ bên cạnh Chính phủ.
Thời kỳ này, Gemayel đang quan hệ với CIA, nhưng lại có một “người bạn” trong một nước Ả Rập, thậm chí, nếu người bạn này đóng vai trò hai mang, thì đây quả là điều quá hấp dẫn cho Mossad. Mặt khác, Israel không hề sợ Lyban. Theo một câu chuyện vui đang thịnh hành, thì trường hợp nổ ra chiến tranh giữa hai nước, Israel sẽ gửi dàn quân nhạc của mình sang, chỉ cần làm mỗi một việc bịt miệng dàn quân nhạc của Lyban thôi.
Hơn nữa, người Lyban đang quá bận rộn với công việc tự đấm đá nhau. Các lực lượng Hồi giáo và Thiên Chúa giáo khác nhau luôn tranh giành nhau quyền lực y như hiện nay và Gemayel ngồi hướng nhìn về Israel. Mossad thấy một cơ hội vàng ở đó để dẹp bỏ kẻ thù số một của mình là PLO. Từ lâu, sau khi các thủ đoạn của Israel quay lại chống chính họ, Admony, người chỉ huy của Mossad vẫn xem những mạng lưới của Lyban như chính yếu, và ông đã đặt quyền lực của mình vào đó.
Nước Lyban, ngày nay giống với Chicago và New York của những năm 20 và 30 về nhiều điểm, khi đó các băng đảng kình địch hoặc các dòng họ Maphia đấu tranh một cách công khai để có được ưu thế bạo lực và sự phô trương là tiền tài hiện hành, và những giới cầm quyền dường như bất lực để dẹp bỏ những vấn đề này hoặc là chần chừ trong việc can thiệp Lyban cũng có những dòng họ, mỗi dòng họ được tổ chức tự vệ hoặc thành đội quân trung thành với “Thiên hướng” của họ. Nhưng những kẻ trung thành với tôn giáo hay của các dòng họ đã bị xóa bỏ từ lâu trước, các cuộc đấu tranh giành quyền lực và những lợi lộc lớn giành được từ nhiều hoạt động đó lại đã nuôi dưỡng sự mua chuộc của người Lyban và duy trì tình trạng quân chủ.
Có những người Druze, môn phái thứ 4 của Lyban xét theo tầm quan trọng của họ, sự thiện xạ trong phong trào giáo phái Isamailien (là người Ả Rập dòng Isamailien). Người Druze ở Lyban có 250.000 (ở Syrie 260.000, Syrie đang kìm hãm những người này; ở Israel có 40.000 người và chính Walid Joumblait là người đứng đầu môn phái này.
Hệ thống Chính phủ được thiết lập trên việc điều tra dân số cuối cùng năm 1932, khi những người Thiên Chúa giáo trở nên đa số. Hiến pháp muốn rằng Tổng thống được bầu trong số những người Thiên Chúa giáo, ngay cả nếu tất cả mọi người đều biết rằng người Hồi giáo chiếm tới 60% số 3,5 triệu dân Lyban, là số lượng lớn nhất; khoảng 40%, ]à người Chute (người đứng đấu của họ là Nabih Berri). Những người chính giáo Hồi của Racliid Karame, từ đầu những năm 80 đã là một lực lượng quan trọng khác.
Chủ yếu, những lực lượng Thiên Chúa giáo gồm hai dòng họ, những người Gemayel và những người Fraugie. Pierre Gemayel là người sáng lập ra Đảng Kataeb (tức Phalangiste), và Sleimame Frangie đã là Tổng thống Lyban. Để chấp nhận cầm quyền, Bechir Gemayel đã có một đối thủ là Tony Frangie, nhưng ông này đã bị giết.
Tháng 6 năm 1978, trong một cuộc tấn công vào dinh thự mùa hè Ehden, những người Phalangiste đã sát hại Tony, vợ ông và đứa con gái Israel cùng nhiều cận vệ. Gemayel, bị lên án về vụ sát hại này, đã bác bỏ những lời buộc tội và đổ trách nhiệm cuộc phục kích cho “một cuộc nổi loạn của xã hội chống lại chế độ phong kiến chủ nghĩa”. Tháng 2 năm 1980, một chiếc xe bị gài mìn giết chết con gái mới 18 tháng của Gemayed và ba lính cận vệ. Tháng 7 năm 1980, những đội quân của chính Gemayed đã tiêu diệt tự vệ Thiên Chúa giáo thuộc Đảng Giải phóng dân tộc của cựu Tổng thống Camille Chamoun.
Gemayed ngự trị trong phạm vi dòng họ Bikfaya cổ xưa tới 300 năm, trong vùng rừng núi ở phía Bắc Beyrouth. Họ đã kiếm được hàng triệu đô la trong một vòng quay không thể tưởng tượng nổi, từ năm này qua năm khác. Gia đình ấy đã vớ được một hợp đồng lớn về xây dựng và bảo dưỡng đường xá chạy qua vùng núi, kiếm tiền để xây dựng con đường và bỏ vào két tất cả lệ phí sửa chữa và bảo dưỡng trong các năm. Duy chỉ có con đường là không bao giờ được xây dựng cả. Họ lập luận rằng: Nếu gia đình khước từ tiền bạc bảo dưỡng thì người ta sẽ biết là con đường ấy không tồn tại.
Dù sao cũng vẫn là Gemayel được Quốc hội Lyban bầu làm Tổng thống nhiệm kỳ 6 năm hồi tháng 8 năm 1982 khi đó Gemayel mới chỉ có 35 tuổi. Ứng cử viên Tổng thống chỉ có một mình Gemayel. Vì chỉ có 56 Nghị sĩ tham gia bỏ phiếu vòng đầu - 6 người ít hơn số đại biểu phải giành được - các lính tự vệ của Gemayel tập hợp lại và kích động 6 Nghị sĩ có thái độ ngập ngừng và thế là Tổng thống được bầu với đa số áp đảo 57 phiếu thuận và 5 phiếu trắng. Begin đã gửi tới ông ta bức điện chức mừng bắt đầu câu: “Người bạn thân mến của tôi” (Mon cher ami).
Ngoài các dòng họ ra, thời kỳ này còn một đám băng đảng tự do, những kẻ khát máu cầm đầu nhưng hào hoa: Electroman, Toasteuro, Cowboy, Fi reball và King. Electroman giành được họ của mình sau khi nhận một viên đạn của người Syrie vào gáy, ông ta được chữa chạy ở Israel, nơi người ta đặt cho ông ta một máy điện tử trong thanh quản để ông ta có thể nói được. Chính Toasteur có thói quen giam giữ kẻ thù của mình hoàn toàn với việc phóng điện có áp lực cao - Fireball (Boule de Feu) tiếng Việt có nghĩa là: “Quả bóng lửa”. Đó là một con người chuyên bới lửa, ông ta lấy làm khoái trá với quang cảnh những ngôi nhà đang cháy. Cowboy dường như vừa trong một bộ phim của Hollywood bước ra, ông ta luôn đội chiếc mũ Cowboy, một chiếc thắt lưng với hai khẩu súng ngắn. Còn đối với King, ông ta bắt chước kiểu tóc của Elvis Presley, cố nói tiếng Anh bằng giọng mũi như Elvis và biểu diễn khúc nhạc chiều đối với gia đình ông, đồng thời hát sai nhạc Elvis.
Thành viên của các băng đảng này đi lại bằng những chiếc xe Mercedes hoặc xe BMW và mặc quần áo bằng vải xoa đưa từ Paris tới. Họ luôn có những bữa ăn thịnh soạn. Một ít đồ ăn của họ nhập cảng từ sáu tháng nên họ thường tìm kiếm sò huyết để ăn sáng. Ở đồn lũy của trụ sở tại Beyrouth, năm 1982, một người Lyban làm hàng ăn, (theo người ta nói) đã cố gắng mua được một chiếc tàu ngầm Đức qua kiểu bán sắt vụn, không phải để đánh nhau, mà để nhập cảng rượu vang và thực phẩm từ Châu Âu.
Ngoài những hoạt động tội ác của riêng họ, các băng đảng này lại thuê các gia đình chính yếu nhất để giám sát các chỗ chắn đường. Vì thế, để đi đến dinh thự của Chính phủ, Tổng thống phải vượt qua hai điểm chắn thu thuế cầu đường.
Người ta có thể hưởng một cuộc sống tươi đẹp ở Beyrouth, nhưng người ta không bao giờ biết được thời gian là bao lâu? Ngày nay, không nơi nào sự chết chóc lại gần gũi như ở Beyrouth, điều này giải thích vì sao các thành viên của các băng đảng hay các dòng họ đã phung phí tiền của cho cuộc sống của họ. Nếu 200.000 chiến sĩ sống không thiếu một thứ gì, thì hơn 1 triệu người Lyban ở Beyrouth và vùng phụ cận lại sống trong những điều kiện thật đáng ghê sợ.
Năm 1978, trong cuộc đấu tranh chống lại dòng họ Frangie, Béchir Gemayel, với bộ mặt xinh đẹp, tròn trĩnh, đã kêu gọi xin Mossad vũ khí. Mossad đã chấp nhận cung cấp vũ khí cho ông ta. (Tony Frangie không có quan hệ tốt với Mossad). Việc thanh toán được thực hiện trong các điều kiện mà Mossad hầu như không quên.
Năm 1980, một nhóm Phalangiste đã tới căn cứ quân sự ở Haifa để theo học lớp huấn luyện về những tàu nhỏ hộ tống chống tàu ngầm, loại tàu Dabur, do một công ty trang bị vũ khí Israel sản xuất tại Beershbar, một thành phố nằm giữa sa mạc, nhưng ở quãng giữa con đường nối biển Đỏ với Địa Trung Hải. Khi kết thúc khóa đào tạo của họ, người chỉ huy hải quân Thiên Chúa giáo Lyban, trong bộ quần áo xoa, đã tới Haifa bằng tàu, cùng đi có ba sĩ quan của Mossad và ba cận vệ trông giữ nhiều vali - người của Gemayel đã mua năm chiếc tàu Dabur với giá 6 triệu đô la một chiếc. Họ trả bằng tiền mặt với ngoại tệ Mỹ mà họ đem theo trong các vali. Họ đưa các tàu về Djouniye, một cảng xinh đẹp nằm ở phía Bắc Beyrouth. Khi các vali được mở ra, người chỉ huy hải quân của Lyban đề nghị người chịu trách nhiệm của Mossad kiểm tra tiền.
— Không, chúng tôi tin tưởng vào lời nói của các ông- Một người của Mossad nói: Nhưng nếu các ông lừa chúng tôi thì các ông là một con người đã chết.
Sau đó tiền được đếm rất đầy đủ.
Với “hải quân” của mình, những người Phalangiste tuần tiễu xa 5 hải lý ở ngoài khơi Tây - Beyrouth, đồng thời xả đạn liên tiếp vào những người Hồi giáo; các bài luyện tập này đã giết chết hàng trăm người dân vô tội, nhưng chỉ có được một chút ít tác động tới những diễn biến thù địch đang xảy ra.
Năm 1979, Gemayel, cho phép Israel thiết lập trạm ra-da hải quân ở Djouniye do khoảng 30 lính Israel điều hành - đội quân đầu tiên của đất nước được trú đóng tại Lyban. Sự hiện diện của họ đã tăng cường quyền lực của người Phalangiste, bởi vì những người Hồi giáo - cả những người Syrie nữa - không thật phấn khởi với ý tưởng quan hệ với người Israel. Những cuộc mặc cả để đặt trạm ra-da đã diễn ra trong sự bao bọc của người Phalangiste ở phía Bắc Beyrouth. Mossad biết đền đáp lại Gemayel về sự hiểu biết của ông ta…
Cùng trong thời gian ấy, người Israel lại có một đồng minh khác ở Nam Lyban với cá nhân tướng Saad - Haddad, một người Thiên Chúa giáo chỉ huy lực lượng tự vệ Chiite và ông này muốn như người Israel tức là đánh đuổi lực lượng của Arafat đi. Vào giờ tấn công Arafat đến, ông tướng này sẽ chứng tỏ là một người rất hợp tác.
Ở Beyrouth, ăng ten của Mossad có tên là “tàu ngầm”, được đặt ở bên dưới gầm của một tòa nhà cũ của Chính phủ, gần đường biên giới chia cắt phía Đông Beyrouth, do người Thiên Chúa giáo chế ngự và phía Tây Beyrouth nằm trong tay những người Hồi giáo. Có cả thảy tới 9 người làm việc ở đó, trong số này có 7 hoặc 8 katsa với một hay hai thành viên của đơn vị 504, tương đương như quân đội của Mossad.
Vào buổi đầu của những năm 80, Mossad liên hệ chặt chẽ với nhiều dòng họ Lyban, trả tiền cho những tin tức tình báo, cho họ đi lại, thậm chí trả tiền cho một số băng đảng và cả cho những người Palestine trong các trại tị nạn. Ngoài Gemayel, các dòng họ Joumblatt và Berri cũng được nêu lên trong các danh sách của Mossad.
Người Israel gọi loại tình hình này là: Halemh, chữ Ả Rập có nghĩa là “Mớ tạp phí lù”. Nhưng với việc khởi đầu bắt giữ con tin phương Tây, thì sự xấu xa nhất còn để lại cho sau này.
Tháng 7 năm 1982, David Dodge, 58 tuổi, Chủ tịch Trường Đại học tổng hợp của Mỹ ở Beyrouth đã bị 4 người có vũ trang bắt cóc, khi ông vừa ra khỏi văn phòng của mình. Việc “vận chuyển xác ướp” là một cách thông thường để chuyên chở các con tin. Người ta đã cuốn bọc nạn nhân từ đầu tới chân với những tấm băng nhựa màu nâu hạt dẻ, chỉ để lại cho nạn nhận một lỗ phía trên mũi để thở và người ta giấu nạn nhân trong một hòm bên dưới chiếc ghế băng của xe. Nếu những người bắt cóc rơi vào các điểm chặn xe dựng lên bởi một băng đảng kình địch, những kẻ bất hạnh làm con tin kia khi đó bị bỏ mặc cho số phận và nhiều người trong số con tin bị chết. Vào thời bấy giờ, ở Lyban việc đó chỉ xảy ra với những người khác, thì không có gì trầm trọng.
Chính vì thế mà Mossad cùng với các mạng lưới người Lyban của mình, Bộ trưởng Quốc phòng Ariel Sharon - mà người Mỹ đã mô tả là: ”Một con diều hâu trong những con diều hâu”, đã ngứa ngáy với những ý tưởng đánh nhau. Tất cả họ đã thúc đẩy Begin lao vào việc tảo thanh Nam Lyban, vùng của Quân đội Palestine. Quân đội này đã dùng các cứ điểm của họ để phóng rốc két và tổ chức các cuộc đột kích chống lại dân làng Israel ở vùng biên giới.
Sau cuộc chiến tranh Kippour, năm 1973 Sharon đã bị quân đội của mình la ó: “Arik, Arit ông vua của Israel”. Sharon cao 1m68, nặng 100 kg, biệt danh là “BuUozer” (Chiếc máy ủi), vì cơ thể của ông ta và còn vì tính khí của ông ta. Khi mới 25 tuổi, ông ta đã lãnh đạo một đơn vị biệt kích chịu trách nhiệm về cái chết của nhiều người Jordannie vô tội. Việc này đã buộc Thủ tưởng, lúc đó là ông David Ben Gourion, phải công khai xin lỗi. Về sau, Moshes Dayan đã làm thất bại việc đưa vụ này ra tòa án quân sự, đặc biệt để kiểm điểm lại các mệnh lệnh trong chiến dịch của Sinai năm 1956 bằng cách tổ chức một cuộc thao diễn nhảy dù. Cuộc tập trận của các lính dù đã phải trả giá bằng tính mạng của hàng chục lính Israel.
Mấy tháng trước cuộc xâm lược của Israel vào Nam Lyban, PLO đã cảm nhận thấy việc này sẽ tới, Arafat đã ra lệnh ngừng bắn rốc két vào các làng bản của người Israel. Vào mùa xuân năm 1982, Israel đã tập trung tới 4 lần quân đội của họ ra biên giới và chỉ rút quân vào phút chót dưới áp lực của người Mỹ. Begin hứa với người Mỹ là trong trường hợp tấn công, người Israel không vượt qua Litani cách khoảng 30 km ở phía bắc đường biên giới, để làm cho dân làng Israel nằm ngoài tầm bắn rốc két của người Palestine. ông Begin đã không giữ lời hứa của mình và xem xét để ký rõ ràng về lời hứa của mình đối với người Israel đã tới vùng Beyrouth. Người ta tự hỏi liệu ông đã bao giờ có ý định giữ lời hứa chưa.
Ngày 25 tháng 4 năm 1982, phù hợp với các thỏa thuận ở Trại David, Israel đã rút khỏi 1/3 vùng Sinai, mà họ chiếm đóng từ cuộc chiến tranh sáu ngày năm 1967.
Nhưng trong lúc mà các máy ủi của Israel đang ủi những phần còn lại của các ngọn đồi của người Do Thái, thì trên 80 km dọc biên giới với Lyban, Israel đã ngừng bắn. Cuộc ngừng bắn này bắt đầu từ năm 1981. Năm 1978, quân đội của Israel đông tới 10.000 người, cùng với 200 xe tăng, đã xâm chiếm miền Nam Lyban mà không đạt được việc đánh đuổi quân PLO ra khỏi vùng đó.
Tháng 6 năm 1982, tại Galilee, vào một buổi sáng đẹp, chan hòa ánh nắng mặt trời, văn phòng của Begin đã bật đèn xanh cho Sharon xâm lược Lyban. Ngày hôm đó, viên tướng người Irland William Callaghan, chỉ huy các lực lượng tạm quyền của Liên hợp quốc đối với Lyban (FINUL) đã thông báo tại Tổng hành dinh tiền phương của Bộ chỉ huy phía Bắc của Quân đội Israel ở Zephát để thảo luận về một nghị quyết của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc kêu gọi chấm dứt những những trở ngại ngăn cách giữa Israel - Paslestin. Thay vì làm điều đó, tướng Raphat Eitan lại kêu gọi quân Israel đánh chiếm Lyban trong vòng 80 phút. Vào giờ đã định, 60.000 quân dựa vào sự yểm trợ của hơn 500 xe tăng ồ ạt vào lãnh thổ Lyban, bắt đầu chiến dịch bị nguyền rủa. Chiến dịch này chắc chắn phải đuổi khỏi Lyban 11.000 chiến sĩ của PLO, nhưng cũng làm mờ nhạt hình ảnh của Israel trên quốc tế và đã phải trả giá với 462 lính Israel chết và 2.218 người bị thương.
Mặc dù có một lực lượng kháng cự mạnh ở Sidon (Saida), Tyr (sour) và Ed Damour, các lực lượng quân PLO đã bị quét sạch trong bốn tám giờ đồng hồ, trả lời hai bức thư khẩn của Reagan yêu cầu không tấn công Lyban, Begin đã viết: Israel chỉ muốn đẩy lùi PLO xa khỏi biên giới. “Một kẻ xâm lược khát máu đang ở cửa nhà chúng tôi, phải chăng chúng tôi không có quyền căn bản bảo vệ chính đáng?”
Trong lúc một phần của lực lượng Israel tấn công PLO ở phía Nam, thì một phần khác hoạt động phối hợp với những người Phalangiste của Gemagel trong vùng phụ cận Beyrouth. Ban đầu, những người theo Thiên Chúa giáo đón chào họ như những người giải phóng, ném gạo, hoa và bánh kẹo xuống chỗ họ đi qua. Quân Israel đã nhanh chóng bao vây hàng nghìn lính biệt kích của PLO, mà xen lẫn trong số này có khoảng 500.000 người dân cư trú trong vùng Tây Beyrouth. Nhưng những người lính Israel không ở Beyrouth mà lòng ham mê chiến tranh đã choán rất nhiều thời gian của họ. Họ đã tìm được một ngôi làng ở cửa ngõ Beyrouth, một địa điếm lý tưởng, nổi tiếng vì những người phụ nữ xinh đẹp và chồng của họ lại đi vắng.
Thế nhưng những cuộc ném bom, bắn phá Beyrouth vẫn tiếp tục và trong tháng 8, giữa lúc có những lời chỉ trích, phê phán tăng lên ở cả trong nước và trên quốc tế, và những lo âu đối với nhân dân, thì Begin tuyên bố:
”Chúng tôi sẽ làm những cái mà chúng tôi phải làm. Tây - Beyrouth không phải là một thành phố, đó chỉ là mục tiêu quân sự được bao bọc bởi những người dân”.
Cuối cùng, sau 10 tuần lễ vây hãm, các họng súng đại bác đã bị diệt và những lính biệt kích của PLO đã di tản khỏi thành phố. Điều này đã làm cho Thủ tướng Lyban, Chaphic Wazzan cười và nói:
— Chúng tôi đã qua được nỗi khổ của mình.
Ông ta đã nói điều này quá sớm.
Cuối tháng 8, một phân đội của lực lượng hòa bình Pháp - Mỹ - Italia đã chiếm giữ vị trí ở Beyrouts, nhưng quân Israel vẫn tiếp tục siết chặt gọng kìm của họ vào thành phố.
Ngày 14 tháng 9 năm 1982, vào hồi mười sáu giờ tám phút, một quả bom 100 kg giấu ở tầng ba tại Tổng hành dinh của Đảng Phalangiste trong khu vực Đông Beyrouth, loại bom được hoạt động bằng kíp nổ điều khiển từ xa, đã nổ giết chết Tổng thống được bầu, ông Béchir Gemayel cùng 25 người cận vệ trung thành, giữa lúc khoảng 100 thành viên Phalangiste đang nhóm họp phiên họp hàng tuần của họ. Được người anh cả của Béchir, ông Amine Gemayel 40 tuổi lên thay thế.
Người đặt quả bom, Chartouny, 26 tuổi, thành viên của Đảng Nhân dân Syrie, địch thủ của người Phalangiste đã được xác định. Hoạt động nổ bom này do Cơ quan Tình báo Syrie tiến hành. Cơ quan này do tướng Mohmmed Ganen chỉ huy. CIA, người đã giúp Gemayed phối hợp với Mossad, đã thỏa thuận với ông này một Hiệp định hợp tác (Hiệp định này luôn có lợi cho Mossad, luôn luôn hạn chế thông báo tin tức). Mossad, người đã xem các nhân viên của CIA như những “điệp viên nghiệp dư”, biết rõ vai trò của Syrie trong vụ sát hại Gemayel, không có gì bất ngờ cả.
Hai hôm, sau vụ đánh bom, ông tướng quân đoàn Israel, Amir Drori, đứng đầu Bộ Chỉ huy miền Bắc và nhiều sỹ quan của Bộ Tham mưu Israel đã đón tiếp các vị khách mời tại nhiệm sở chỉ huy của họ ở cảng Beyrouth. Hiện diện trong buổi đón tiếp này có chỉ huy Bộ Tham mưu của các lực lượng Lyban, Elias Hobeika, nhân vật cao cấp, tàn bạo và rất cục cằn. Ông ta đi dạo khắp nơi với khẩu súng ngắn, con dao và lựu đạn (đây là một người Phalangiste đáng sợ nhất của Lyban). Mỗi khi ông ta giết một người lính Syrie, ông ta cắt tai nạn nhân và dùng sợi dây thép xâu những chiếc tai đó để lưu giữ trong nhà như những chiến lợi phẩm. Hobeika rất gắn bó với viên tướng theo Thiên Chúa giáo, Samir Geagea và mãi cho tới sau này, hai người đã thay phiên nhau chỉ huy quân đội Thiên Chúa giáo. Đối với Mossad, Hobeika là một điệp viên quan trọng. Con người này đã học tại trường chiến tranh cao cấp của Israel, chính ông ta đã chỉ huy các lính biệt kích để thâm nhập vào các trại tị nạn và tàn sát thường dân sống tại đó. Hobeika, người căm ghét Amine Gemayel và tìm mọi cách để làm hại ông ta. Bản thân ông ta đã bị vấp phải lực lượng kháng chiến trong cuộc đấu tranh tranh giành quyền lực, bởi vì một số người đã mắng chửi ông ta về việc bảo vệ kém cho Bechir Gemayel.
Ngày 16 tháng 9, Hobeika đã tập hợp quân lính của ông ở sân bay quốc tế Beyrouth và thâm nhập vào trại Chatila dưới sự yểm trợ của đạn và sau đó là xe tăng, rồi súng cối của lực lượng phòng vệ Israel (FID). Trong cùng lúc này, một bản thông cáo báo chí của Văn phòng Thủ tướng tuyên bố rằng quân đội phòng vệ (FID) “Đã chiếm được vị trí ở Tây Beyrouth, để phòng ngừa những nguy cơ bạo lực, tàn sát và nguy cơ của chế độ quân chủ”.
Ngày hôm sau, những người Israel cho phép Hobeika đưa vào trong trại những tiểu đoàn mới, và họ đã biết rằng một cuộc tàn sát đã xảy ra ở đó. Quân đội Israel đã triển khai nhiều trạm quan sát trên nóc các tòa nhà 7 tầng, gần Đại sứ quán Koweit, bởi vậy nên có một tầm nhìn không bị che lấp đối với các cuộc tàn sát.
Cả thế giới phải công phẫn vì cuộc tàn sát và vì vai trò có mặt của Israel ở đó. Cuộc chiến tranh giữa Reagan và Begin đã được khuếch đại. Đầu tháng 10, Tổng thống Mỹ lại gửi 1.200 lính thủy tới Beyrouth, chỉ có 19 ngày sau là họ được di chuyển đi khỏi Beyrouth. Họ luôn hòa nhập với 1.560 lính dù Pháp và 1.200 lính Italy để thành lập một lực lượng gìn giữ hòa bình mới.
Trong thời gian này, tại nơi đây ăng ten của Mossad ở Beyrouth tiếp tục thu thập các tin tức tình báo. Một trong số những người cung cấp thông tin là người mà ta gọi là một “Stinker” (một người đáng ghét) trong tiếng Đức cổ của người Do Thái ở Trung Âu và Đông Âu, hay nói một cách khác là một tên chỉ điểm. Tên nay biết một ga-ra đặc biệt trong việc ngụy trang các xe và nơi để bí mật hàng lậu. Rất nhiều lính Israel đi từ đó ra với máy video và thuốc lá của Lyban, để đưa về bán ở Israel nơi mà các hàng hóa này phải chịu từ 100- 200% thuế. Mossad thường làm thất bại loại hàng lậu bằng cách báo cho quân cảnh Israel.
Mùa hè năm 1983, cũng tên chỉ điểm này đã cảnh báo Mossad biết rằng bọn Chiite đã chuyển trong chiếc xe tải Mercedes, những đồ che giấu rỗng để ngụy trang quả bom ở trong. Hắn ta nói thêm rằng nhìn kích cỡ của các đồ che giấu, thì thường người ta hay nghĩ rằng chiếc xe tải đó được cử tới một mục tiêu có tầm cỡ. Mossad biết rằng mục tiêu tương ứng với việc mô tả này có ít. Một trong những mục tiêu đó là căn cứ quân sự của Mỹ. Khi đó vấn đề đã trở nên khá rõ ràng và nên biết rõ liệu có cần thông báo hay không cho người Mỹ để dè chừng với chiếc xe tải được người chỉ điểm của họ đã thông báo cho họ. Một quyết định quá quan trọng để cho ăng ten tại Beyrouth biết. Quyết định này ngay lập tức được chuyển về Tel Aviv, nơi Admony người chỉ huy của Mossad lựa chọn cách thông báo cho người Mỹ mà không cung cấp chi tiết cho họ. Ông này đã nói với họ rằng ông có lý do xác đáng để nghĩ rằng một kẻ nào đó có thể đang chuẩn bị một hoạt động chống lại người Mỹ. Nhưng như thế thì quá mơ hồ và chung chung, chẳng khác nào cung cấp cho họ một tin dự báo thời tiết; không có một lý do gì để báo động và để có những biện pháp an ninh phụ trợ. Ví dụ, trong 6 tháng tiếp theo đã có hơn 100 vụ báo động đối với bom. Một lần nữa sẽ không làm cho người Mỹ phải đề cao cảnh giác. Vì thế Admony đã chứng minh cho việc ông từ chối cung cấp những sự bổ sung chính xác.
— Chúng ta cần làm việc không phải để bảo vệ người Mỹ. Họ đủ lớn mạnh để tự bảo vệ lấy mình. Hãy thông báo cho họ như thường lệ.
Các doanh trại của Israel và bản thân họ cũng đã nhận được một sự mô tả chi tiết vệ chiếc xe tải Mercedes.
Ngày 23 tháng 10 năm 1983, vào lúc sáu giờ sáng, một chiếc tải Mercedez đồ sộ tiến gần tới sân bay Beyrouth, đi qua các trạm kiểm soát của Quân đội Lyban và rẽ trái vào bãi đỗ xe. Một lính gác thủy quân giận dữ báo hiệu rằng xe đã chạy quá tốc độ cho phép, nhưng trước khi người lính gác này có thể hành động, chiếc xe đã lao về phía cửa ra vào của tòa nhà bằng bê tông của Cơ quan An ninh hàng không được dùng làm Tổng hành dinh của Tiểu đoàn 8 lính thủy đánh bộ; xe lao sâu vào chiếc cửa chính bằng thép, lật đổ vọng gác của bảo vệ, mặc dù được bảo vệ bằng các bị cát và phóng chạy thẳng vào phòng khách cùng tiếng nổ long trời làm cho một tòa nhà bốn tầng ngay tức khắc sập đổ xuống thành một đống gạch vụn.
Vài phút sau đó, một chiếc xe tải khác lao hết tốc độ vào Tổng hành dinh của lính dù Pháp, ở Bir Hason, khu dinh thự có biển bao bọc dài 3 kilômét kể từ căn cứ của quân Mỹ. Tiếng nổ lớn đến mức làm cho tòa nhà bắn lùi ra tới 9 mét và làm cho 58 lính bị chết.
Hai trăm bốn mươi mốt (241) lính thủy đánh bộ bị chết khi còn đang ngủ trong những túi ngủ cá nhân, khi xảy ra cuộc tấn công cảm tử, là một sự mất mát nặng nề nhất chỉ trong một ngày, đã được người Mỹ ghi nhận kế từ khi 246 lính Mỹ chết trên toàn Việt Nam trong ngày đầu của cuộc Tổng Tiến công Tết (Mậu Thân), 13 tháng 1 năm 1968.
Những ngày tiếp theo các vụ đánh bom này, người Israel đã thông báo cho CIA một danh sách 13 người mà họ cáo giác là đã chuẩn bị những chiếc xe tải cảm tử. Danh sách này bao gồm các nhân viên của Tình báo Syrie, Iran ở Damas và nhân vật Chiite Mohammad Fadllah Hussein. Tại Tổng hành dinh của Mossad, người ta đã trút hơi thở nhẹ nhõm, trong khi biết rằng binh lính Israel không phải là mục tiêu bị nhòm ngó. Điều đó được xem như một vụ tai nạn nhỏ mà Mossad không có liên quan. Mệt giải thích chính thức khắng định là chúng ta đã phát hiện một cách tình cờ một tin tầm thường mà chúng ta đã không muốn tác động đến. Hãy xem sự việc dưới một góc độ khác: Nếu chúng ta đã chuyển thông tin đó cho người Mỹ và rằng những kẻ giết người đó sẽ có thể phát hiện được lỗ dò đó bắt nguồn từ đâu, thì người chỉ điếm của chúng ta liệu có còn sống hay không? Như thế là chúng ta sẽ không còn phương tiện để cho biết, nếu chúng ta nằm trong đường ngắm của những vụ đánh bom trong tương lai.
Tình cảm chung đối với người Mỹ là như sau: “A ha, họ muốn chõ mũi của họ vào trong đó, vậy thì việc đó sẽ dạy cho họ bài học!”.
Đối với tôi, việc này là một dịp chịu đựng những lỗi quở trách đầu tiên của thượng cấp tôi ở Mossad, viên sĩ quan liên lạc Amy Yaar. Vì tôi đã khẳng định rằng chúng tôi có lẽ có thấy cái chết của binh lính Mỹ trong thâm tâm, bởi vì, sau hết họ đến đây chỉ để giúp đỡ chúng tôi thoát ra khỏi tình thế lúng túng, rắc rối mà chúng tôi đang mắc phải. Amy vặn lại tôi:
— Anh câm ngay, anh không biết anh nói cái gì ư? Chúng ta đã cho người Mỹ nhiều hơn cái họ đem lại cho ta.
Điều đó là sai. Một phần lớn các trang thiết bị quân sự của Israel đã được chế tạo ở Mỹ và Mossad còn mang nợ họ rất nhiều.
Trong cùng thời kỳ này, nhiều người phương Tây đã bị các phe phái khác nhau bắt giữ làm con tin. Cuối tháng 3 năm 1984, viên chỉ huy ăng ten của CIA, William Buckley, giữ cương vị tham tán chính trị tại Đại sứ quán Mỹ đã bị 3 lính Chiite bắt đi, khi ông ta vừa rời khỏi chỗ ở tại Tây Beyrouth. William Buckley bị bắt giữ làm tù nhân trong 18 tháng, bị tra tấn một cách man rợ và bị giết chết một cách tàn bạo. Ông ta lẽ ra có thể được cứu sống.
Nhờ vào mạng lưới thông tin của mình Mossad có một ý niệm khá chính xác những nơi mà con tin bị tạm giam giữ, và biết rõ kẻ bắt họ, thậm chí nếu những chỗ giấu bí mật còn chưa được biết thì việc quan trọng là biết ai đã cầm giữ ai, để không bị dẫn tới việc thương lượng với các phe khác, trong khi các phe này không bắt giữ con tin. Sự kiện này đã gợi lại một câu chuyện trong tôi: Một người Lyban yêu cầu người trợ lý của mình, tìm một người nào đó để thương thuyết giải phóng con tin.
— Con tin của ngài là người nước nào? - Người trợ lý hỏi?
— Hãy kiếm cho tôi một nước nào mà họ muốn tìm con tin.
Những con người có cương vị cao như William Buckley, có một tầm quan trọng không thể đánh giá hết đối với các thông tin mà họ nắm giữ. Nhỡ họ nói ra, họ sẽ đặt mạng sống của nhiều điệp viên vào mối nguy hiểm. Tổ chức Hồi giáo Jihad đã nhận lấy trách nhiệm bắt Buckley. Với mong muốn cứu lấy Bukley, Giám đốc CIA, William Casey đã nhanh chóng gửi tới Beyrouth một đội chuyên gia của FBI, đã được huấn luyện về khu vực bắt cóc, nhưng sau một tháng, họ đã không tìm kiếm được gì. Chính sách chính của Hoa Kỳ là cấm mọi hình thức buôn bán với những người bắt giữ con tin, nhưng Casey đã tháo khoán một khoản tiền đáng kể nhằm trả tiền thù lao cho người cung cấp thông tin, và nếu cần thì dùng tiền giải phóng Buckley.
CIA đã sớm nhờ đến sự giúp đỡ của Mossad. CIA đã giao phó cho điệp viên phụ trách quan hệ ở Tel Aviv cố gắng có được mọi thông tin từ Mossad đang nắm giữ về Buckley cũng như những con tin khác.
Lúc 11 giờ 30 của một buổi sáng, người ta đã yêu cầu mọi người trong Tổng hành dinh di chuyển khỏi tầng nhà chính và ra khỏi cầu thang trong vòng một giờ, bởi vì các vị khách yêu cầu. Hai đại diện chính thức của CIA đã được cảnh vệ dẫn tới. Văn phòng Admony nằm trên tầng 9. Viên chỉ huy Mossad bảo đảm với họ rằng ông ta sẽ chuyển giao cho họ những gì mà ông ta biết với điều kiện họ phải gửi yêu cầu tới Thủ tướng dưới chiêu bài (cái cớ) là chính quyết định được đưa ra ở đó. Trên thực tế Admony muốn rằng bản yêu cầu phải đúng thể thức và hình thức để có trường hợp xảy ra, người Mỹ sẽ làm việc với ông ta tương tự như vậy.
Qua trung gian Đại sứ quán của mình, những ngươi Mỹ đã chuyển lời yêu cầu chính thức tới Thủ tướng Shimon Perés, người đã cho phép Admony giúp đỡ CIA để giải phóng các con tin. Theo thông lệ, người ta đưa ra một số giới hạn đối với yêu cầu này và sẽ giao cho các bạn cái mà người ta biết, ngoại trừ những cái làm hại cho người của chúng tôi, ở đấy ông ta không có bất kỳ một hạn chế nào, bằng chứng là chuyện các con tin đã là điểm mấu chốt đối với hai nước.
Về mặt chính trị, đó là xuất phát từ tính năng động. Chính quyền Reagan đã ghi lại trong ký ức của mình những lỗi lầm không có thể nào sửa chữa được và một sự trừng phạt nhục nhã đối với Jimmy Carter về các con tin bị cầm giữ ở Iran sau khi Shah sụp đổ.
Admony cam đoan với Perés rằng ông ta sẽ làm hết sức mình để giúp đỡ những người Mỹ.
— Tôi hi vọng khả dĩ - Admony khẳng định. Chúng tôi đang nắm giữ những thông tin có ích đối với họ.
Trên thực tế Admony chả có ý định nào để giúp đỡ họ.
Hai sĩ quan CIA được triệu tới Midrasha (Viện Hàn lâm) để gặp những người Saifanin (hay còn gọi là những con cá đỏ), là các chuyên viên về PLO. PLO lại được xem là kẻ thù tồi tệ nhất. Mossad có khuynh hướng cho rằng phàm những ai đã mất uy tín của Palestine đều có thể lôi kéo, mua chuộc. Vì thế những Saifanin (những con cá đỏ) gợi ý rằng những kẻ đi bắt cóc là các thành viên của PLO, lúc đó thậm chí phần lớn con tin trong đó gồm cả Buckley, không hề có một mối liên hệ nào đối với Liên đoàn Palestine.
Về bề ngoài, những người Saifanin cho đóng lên tường các bản đồ và tìm cách làm thỏa mãn người Mỹ về các dữ liệu địa lý trên khu vực được xác định coi như có con tin. Mặc dù, người ta thuyên chuyển một cách đáng kể các con tin, Mossad đã có một ý nghĩ tương đối khả dĩ đối với những địa điểm giam giữ. Mossad giấu đi nhiều dấu hiệu do những người chỉ điểm của mình cung cấp, và Mossad đã đề nghị người Mỹ nếu họ muốn đưa ra nhiều chi tiết hơn. Một sự mua bán ngấm ngầm bằng tiền bạc. Tôi đưa ra cho anh nhưng anh nợ lại tôi.
Kết thúc cuộc gặp gỡ, Admony nhận được một báo cáo đầy đủ, về phía mình, người Mỹ phải xin ý kiến tham khảo cấp trên. Hai hôm sau, những người Mỹ quay lại tìm kiếm một phần bổ sung của thông tin đối với tin tình báo mà người ta đã trao cho họ trong cuộc trao đổi đầu tiên. CIA nghĩ rằng cầm giữ ở đó được một viên kim cương thô, nhưng muốn thẩm tra lại. Người Mỹ yêu cầu cho gặp người cung cấp thông tin.
— Không có vấn đề đó - Người của Mossad đáp - Chúng tôi không bao giờ để lộ ra nguồn cung cấp của mình.
— Vâng, tôi hiểu - Viên sĩ quan CIA nhượng bộ - Nhưng tại sao không để chúng tôi nói chuyện với viên sĩ quan xử lý?
Mossad bảo vệ danh tính các katsa của họ với quyết tâm cuối cùng. Những katsa không thể để nguy hiểm bị nhận diện. Một katsa làm việc ở Beyrouth hôm nay, có thể ngày mai lại ở bất kỳ đâu. katsa này lại để rơi vào CIA. CIA nhận ra họ, rồi sẽ làm thất bại hoàn toàn cả chiến dịch. Có nhiều cách thức để xắp xếp một cuộc gặp bí mật. Người ta có thể nói đằng sau một tấm màn với tiếng được làm sai lạc đi, mang một áo choàng, đội mũ chỉ để hở con mắt thôi v.v. Nhưng tốt hơn hết, Mossad không muốn tiến tới điểm này. Mặc dù có mệnh lệnh của “Ông chủ” là Thủ tướng Perés, các Saifanin vẫn đòi hỏi phải tham khảo người chỉ huy Mossad.
Tiếng xì xào diễn ra ở Tổng hành dinh là Admony đã có liên quan tới dư luận xấu và rằng bà chủ của ông ta, con gái viên chỉ huy Tsomet, chính bà ta cũng vậy, là một người bản tính không được hay. Rồi ngày hôm đó, trong bữa ăn trưa, tất cả mọi người, trong khi nói chuyện về con tin, đã bình luận về phản ứng của Admony.
— “Những điều này đã đẩy những người Mỹ đến chỗ thất bại! Người Mỹ sẽ suy nghĩ thấy điều gì? Người ta sẽ trao các con tin của họ tại chỗ ư? Rồi còn những gì nữa?”
Dù sao thì câu trả lời của ông ta vẫn là không. CIA không có quyền thẩm vấn katsa. Tốt hơn, người ta làm cho người Mỹ tin rằng tình báo đã mất hiệu lực và không dính líu tới Buckley. Đây là việc làm sai, nhưng người ta cứ nhấn mạnh vào việc nói dối này bằng cách yêu cầu người Mỹ quên đi thông tin này để bảo vệ mạng sống của các con tin khác. Thậm chí, người ta hứa tăng gấp đôi các nỗ lực cho người Mỹ để tìm kiếm những tin tình báo mới cho họ.
Một số người nghĩ rằng một ngày nào đó Mossad sẽ phải hối tiếc. Nhưng đại đa số giữ cùng một lập trường: “Người ta biết rõ việc đó! Điều này không phải cứ người Mỹ là sẽ áp đặt được việc điều hành của chúng ta? Chúng ta là Mossad, chúng ta là những con người giỏi nhất!”
Điều lo lắng cho Buckley đã đẩy Casey lẩn tránh lệnh cấm do Quốc hội Mỹ áp đặt với sự việc bán vũ khí cho Iran, và lẩn tránh thương lượng với chế độ của những người Ayatollahs để đổi lấy việc bảo vệ an toàn cho các con tin. Vụ bê bối về việc bán vũ khí đã lên tới đỉnh cao với giai đoạn Iran - Contra. Nếu Mossad chấp nhận hợp tác, Buckley và nhiều con tin khác đã có thể được giải cứu, và vụ bê bối có lẽ không làm vấy bẩn đời sống chính trị Hoa Kỳ. Thủ tướng Perés đã biết rằng ông ta hợp tác vì lợi ích của Israel, nhưng Mossad và đặc biệt là Admony lại theo đuổi một mục tiêu khác.
Khi Israel rút ra khỏi Lyban, nơi Mossad đã thúc đẩy can thiệp vào, thì ăng ten của “Tàu ngầm” phải đóng cửa, bỏ lại đằng sau nó một số lớn điệp viên và mạng lưới người cung cấp tin tức rộng lớn, bao la. Một số điệp viên đã bị giết, người ta giúp đỡ số điệp viên khác chạy trốn.
Israel đã không bắt đầu cuộc chiến tranh và cũng không đặt một thời hạn nào nữa cho nó ở đấy. Đó như là Black Jack ở Casino (như cái chốt đen ở sòng bạc), người ta không bắt đầu trò chơi, và người ta cũng không kết thúc trò chơi. Người ta ở đó, thế thôi! Đó là điều diễn ra ở Lyban đối với Israel, chúng tôi không cuỗm được tiền đánh bạc.
Thời kỳ này, Thủ tướng Perés có cố vấn về khủng bố tên là Amiran Nir. Khi Perés nghi ngờ Mossad từ chối hợp tác, Thủ tướng dùng Nir làm người liên lạc cho hai nước. Vì thế mà Nir gặp đại tá Oliver North, người sẽ được phác họa trong vụ bế bối với Iran - Contra. Nir có được một vị trí như vậy, nhờ mang Kinh Thánh nổi tiếng do Ronald Reagan đề tặng khi North và Robert Me Farlane, cựu cố vấn an ninh quốc gia có được các hộ chiếu Irland để đi vào Iran, hồi tháng 5 năm 1985 nhằm đạt được một Hiệp định bán vũ khí. Tiền nong thu được từ việc bán vũ khí này được chuyển đi mua vũ khí cho phái Contra của Nicaragna là phái được Hoa Kỳ ủng hộ. Nir là một con người am hiểu, có sẵn nhiều mối quan hệ. Ông ta đóng vai trò hàng đầu trong việc bắt giữ những kẻ khủng bố. Những kẻ khủng bố này đã bắt chiếc máy bay AchiieLauro bay đổi hướng, trong năm 1985. Rồi Nir đã để cho George Bush, thời kỳ đó là Phó Tổng thống Hoa Kỳ (và cả cựu giám đốc CIA), biết về các vụ thương lượng với Iran liên quan đến việc bán vũ khí.
Theo những công bố của riêng ông, trong năm 1985 và 1986, Nir cùng với North đã giám sát nhiều hoạt động chống khủng bố do các thoả thuận bí mật giữa Iran và Hoa Kỳ cho phép. North quy cho Nir có ý tưởng sử dụng lợi nhuận thu được từ nguồn bán vũ khí cho Iran để tài trợ các hoạt động bí mật, trong tháng 11 năm 1985.
Vai trò của Nir trở thành then chốt hơn khi người ta biết được các quan hệ của Nir với Manucher Ghorbanifar, một con người thần bí trong làm ăn ở Iran. Viên phụ trách CIA, William Casey, cuối cùng đã báo trước cho North biết rằng người ta nghi ngờ Ghorbanifar làm việc cho các Cơ quan Tình báo Iran. Tháng 6 năm 1986, Nir và Ghorbanifar đã giành được sự giúp đỡ của những người Iran để giải phóng mục sư Lawrence Jenco, một con tin Mỹ bị những kẻ cực đoan Lyban bắt giữ. Một thời gian ngắn, sau khi thả Jenco, Nir đã làm cho George Bush hiểu sự cần thiết phải biểu lộ lòng biết ơn của mình bằng cách gửi vũ khí tới Iran. Ghorbanifar là người cung cấp tin tức của CIA từ năm 1974. Năm 1981, ông ta đã cung cấp dư luận mà theo đó một đơn vị biệt kích có lẽ đã được gửi sang Hoa Kỳ để ám sát Tổng thống Reagan. Hai năm sau, sau khi thẩm tra lại sự sai lạc của thông tin này, CIA đã chấm dứt hợp tác của họ và năm 1984, một báo cáo nội bộ đã cáo giác rằng Ghorbanifar là một con người “có tài bịa đặt”.
Thế nhưng, chính ngay cả Ghorbanifar, người đã giành được một khoản vay 5 triệu đô la của nhà tỷ phú Ả Rập Adnan Khashoggi, khi ông ta cần làm dịu đi mối ngờ vực giữa Israel và Iran trong một hợp đồng vũ khí. Mossad đã liên lạc với Khashoggi một vài năm trước. Mặt khác chiếc máy bay phản lực tư nhân của ông - cái gây ra sự tốn kém biết bao nhiêu mực - đã được trang bị ở Israel. Khashoggi không phải là con người giống những người khác: Tiền bạc của Mossad cho ông được dùng thực hiện những đòn tài chính, và mặt khác Mossad đã nhờ trung chuyển (quá cảnh) qua các công ty có số tiền khổng lồ của mình, do nhà tỷ phú Do Thái ở Pháp cung cấp. Đối với nhà tỷ phú này, thường phải cầu cứu khi có nhu cầu đối với số tiền cần thiết.
Dù thế đi chăng nữa, Iran không muốn trả tiền, chừng nào vũ khí chưa được giao, và Israel đã từ chối không gửi đi 508 tên lửa Tow khi chưa có tiền. Khoản này là của Khashoggi cho nên không thế thiếu để công việc được hoàn tất. Không lâu sau bản giao kèo này, một con tin Mỹ khác, mục sư Benfamin Weir, đến lượt được thả - việc này đã thuyết phục người Mỹ rằng Ghorbanifar có lẽ là một con người chuyên bịa ra các tin tức, nhưng cho thấy rằng việc đó không ngăn cản đạt được giải phóng con tin nhờ vào các mối quan hệ của Iran. Trong chính thời gian này Israel đã bí mật bán 500 triệu đô la tiền trang thiết bị quân sự cho Iran của Giáo chủ Khomeiny. Việc bán này để lại ít ngờ vực đối với chiếc đòn bẩy mà bản giao kèo này thủ vai nhằm giải quyết số phận của các con tin, không có tham dự của Ghorbanifar và không có Nir, người cùng ông phối hợp.
Ngày 29 tháng 7 năm 1986, Nir gặp Bush tại Khách sạn Hotel du Roi - David ở Jelusalem. Bản báo cáo tiếp xúc này đã được Chánh văn phòng của George Bush, Craig Fuller ghi lại trong một báo cáo mật dài ba trang. Craig Fuller kể là Nir đã thừa nhận với Bush: “Chúng tôi đã thương lượng về những yếu tố cơ bản nhất (ở Iran) bởi vì chúng tôi thấy họ có thể hành động một cách ngược lại với những người ôn hòa”. Về phía mình, Reagan đã luôn luôn khẳng định rằng Nir đã trao đổi với những người ôn hòa, điều này có thể hiểu rằng tại sao ông ta đã chứng minh việc bán vũ khí bằng cái gì. Nir đã nói với Bush: “Người Israel đã khởi động quá trình này. Chúng tôi cung cấp một vỏ bọc cho công việc, những cơ sở vật chất, vận tải”. Việc lắng nghe của Nir, ở vụ kiện của North năm 1989 là rất cần đến. Đấy là một nhân chứng chủ chốt, vì lẽ rằng ông ta đã tuyên bố các hoạt động chống khủng bố được tiến hành cùng với North trong năm 1985 và 1986 là kết quả của một Hiệp định bí mật giữa Mỹ và Israel. Nhân chứng của ông có thể là một nguồn gây rắc rối rất lớn đối với Chính quyền Reagan, nhưng cũng cần phải nhấn mạnh đến vai trò của những người Israel nắm giữ trong tất cả mọi sự việc.
Ngày 30 tháng 11 năm 1988, một chiếc máy bay Cessna T210 chở Nir bay qua đồng cỏ nằm cách Tây Mexico 180 km. Máy bay đã nổ, tất cả người trên máy bay đều chết, trong đó có cả Nir và viên phi công. Ba hành khách khác bị thương nhẹ. Đấy là trường hợp của Adriana Stanton, cô người Canada, 25 tuổi, gốc ở Toronto, cô gái này đã phủ nhận mọi quan hệ với Nir. Thế nhưng người Mexico lại mô tả cô ta như “Thư ký của Nir” và là “Người hướng dẫn của ông ta”, mà không tính đến rằng cô Adriana Stanton làm việc cho một công ty có liên hệ chặt chẽ với Nir. Cô ta khước từ mọi việc khai báo.
Nir đến Mexico để thảo luận về một giao kèo. Ngày 29 tháng 11, ông ta đã thăm một đồn điền trồng lê Tàu ở bang Michoacan mà ông ta nắm giữ một phần không nhỏ. Hôm sau, ông thuê một chiếc máy bay nhỏ, dưới cái tên Pat Weber, để tới Mexico. Một cách chính thức, thì ông chết trong một vụ tai nạn. Tuy nhiên, thi thể của ông được một người Argentina bí hiểm, Pedro Cruchet nhận ra. Người Argentina này làm việc cho Nir và đi du ngoạn sang Mexico dưới một tên khác. Ông ta khẳng định với cảnh sát rằng ông ta đã để thất lạc mất căn cước trong một hành lang, nhưng thậm chí ông không có cả giấy tờ tùy thân. Ông ta đã làm được việc thu lại thi hài của Nir.
Ngoài ra, các báo cáo của Văn phòng kiểm sát trưởng đã khẳng định rằng Nir và Staton, mặc dù đi làm ăn hợp pháp, nhưng lại nấp dưới những căn cước giả. Sau này, một viên thanh tra phi trường đã chứng nhận ngược lại, mà không để người ta có thể thẩm định xa hơn.
Hơn 1.000 người ở Israel đã dự buổi tang lễ truy điệu Nir và Bộ trưởng Quốc phòng Itzhak Rabin, đã nói về “những bí mật mà ông lưu giữ trong trái tim mình”.
Về cái chết của Nir, tờ báo Toronto Star đã nêu một viên sỹ quan tình báo, mà tên tuổi của ông ta bị phanh phui ra và tờ báo khẳng định rằng người ta chưa tin vào cái chết của Nir. Tờ báo cho rằng Nir đã có những may mắn được phẫu thuật thẩm mỹ ở Genève, nơi có các bệnh viện ngoại khoa tuyệt diệu và rất bí ẩn.
Cho dù điều gì đã xảy đến với Nir đi nữa, thì ông ta cũng chỉ còn lại để tự biện hộ cho những lỗi lầm mà nhân chứng của ông đã gây ra đối với Chính quyền Reagan và Chính phủ Israel. Nhưng trong tháng 6 năm 1987, trong thời gian có Ủy ban điều tra của Thượng viện, có một báo cáo do North soạn thảo gửi cho cựu cố vấn an ninh quốc gia, Phó đô đốc Jonhn Poindexter, đề ngày 15 tháng 9 năm 1986 và bị kiểm duyệt vì lý do an ninh, đã yêu cầu Poindexter thảo luận với Casey về giao kèo mua bán vũ khí trước khi thông báo với Tổng thống Reagan.
Trong số 7 nhân vật bị kết án, Poindexter là người duy nhất bị tống giam. Ngày 11 tháng 6 năm 1990, sau một bài thuyết giáo nghiêm khắc của thẩm phán tòa án Liên bang, Harold Greene, tòa tuyên bố rằng Poindexder là “Cái đầu nghĩ ra sự việc Iran - Contra”; Poindexter bị kết án tù 6 tháng.
Ngày 3 tháng 3 năm 1989, Rober Me Farlane bị kết án phải nộp một khoản tiền phạt 20.000 đô la với 1 năm thử thách, sau khi đã buộc tội đối với 4 viên phụ trách bị cáo giác phạm tội tàng trữ thông tin. Ngày 6 tháng 7 năm 1989 sau bản án ly kỳ của tòa án Washington, Oliver North bị kết án phạt 150.000 đô la, và phải hoàn thành tổng số 1.200 giờ dịch vụ vì lợi ích dân sự. Ngày 4 tháng 5 một hội thẩm đã công bố tội phạm của 3 trong số 12 viên chỉ huy bị cáo giác. North cũng bị kết án 3 năm tù treo cùng với 2 năm thử thách.
Tầm quan trọng về bản báo cáo của North cho Poindexter làm nổi bật vai trò của Nir. “Amiram Nir- North viết: Cố vấn đặc biệt của Thủ tướng Shimon Perés trong cuộc đấu tranh chống khủng bố, đã cho biết rõ, suốt trong mười lăm phút trao đổi riêng với Tổng thống Reagan, Perés đã không quên gợi lên nhiều vấn đề tế nhị”.
Việc ba con tin Mỹ khi được giải thoát, có quan hệ với những việc bán vũ khí. Họ là Jenco, Weir và David Jacobsen.
Trong chương “Các con tin” bản báo cáo nói: “Đã có nhiều tuần lễ Perés bày tỏ mong muốn Hoa Kỳ xem xét khả năng đặt một thời hạn cho cuộc xung đột với Iran. “Người Israel xem xét vấn đề con tin như một rào chắn phải vượt qua nhằm mở rộng các mối quan hệ chiến lược với Chính phủ Iran”.
“Không có bất kỳ nghi hoặc nào, Perés đã tìm kiếm để đạt được bảo đảm rằng Hoa Kỳ sẽ theo đuổi công việc kinh doanh chung mà không có việc kinh doanh này thì có lẽ đã không có việc giải thoát Weir, cũng như Jenco…. mong rằng Tổng thống cảm ơn Perés vì sự giúp đỡ bí mật do người Iran đem đến”.
Hình như là Reagan đã thực hiện. Và thêm vào đó là có thể Perés đáp lại phép lịch sự bằng việc thu xếp “cái chết” của Nir sao cho thuận tiện, và vì thế đã ngăn chặn Nir là một nhân chứng.
Người ta sẽ không bao giờ biết chắc chắn được điểu đó, nhưng với những hoàn cảnh đáng ngờ vực được đưa ra về sự mất tích của Nir, cộng thêm với sự việc là những người buôn lậu vũ khí Israel đang cung cấp cho các chúa tể ma túy Colombie qua trung chuyển bởi những người Caraibes, sẽ tạo ra sự bất ngờ rằng Nir đã chết.
Chúng tôi sẽ chẳng bao giờ biết được điều ấy, nhưng cái mà chúng tôi biết đó là nếu Mossad đã thông báo những thông tin của mình về vấn đề con tin Mỹ và con tin phương Tây nói chung, nếu không do dự chần chừ, thì vụ Iran - Contra có lẽ không bao giờ có.