Chương 1
Hồi ấy, chúng tôi học năm thứ ba trường Đồng Khánh Hà nội. Ngoài những giờ học, chúng tôi tụm năm, tụm ba lại nói chuyện, vì lúc này, làm gì đã có những cuộc giải trí như “Khúc côn cầu”, đánh quần, đi xe đạp như bây giờ, và trong những câu chuyện bè bạn chưa hề trôi vào một tiếng lóng khó chịu nào hết. Vài tờ báo hàng ngày chứa toàn những tin tức nhỏ nhặt, là đầu đề cho cuộc đàm luận về văn chương của chúng tôi.
Cuộc sống thật bình tĩnh, êm ái, dễ chịu như mặt sân nhà trường những buổi chiều thứ bẩy. Chúng bạn đã không nguy hiểm, các cô giáo hồi ấy cũng tận tâm với nghề.
Các chị Lương, Khánh, Hồng và tôi, tuy đã “cất cánh” bay về những chiếc tổ đầm ấm, nhưng kỷ niệm của những năm học đã qua vẫn còn đượm đầy trong lòng sự đẹp đẽ không bao giờ hết.
Cái người sống ngang nhất, bướng nhất, hồi ấy là Nguyện, cô gái suốt đời mặc áo trắng.
Thấy hắn lập dị, chúng tôi thường chế:
- Thưa bà trời rét, mầu áo ấy không hợp ạ!
Thì hắn cười lạnh nhạt:
- Tâm là lòng, ý là lòng, áo trắng là dấu hiệu sự sạch sẽ. Tôi thích mặc mầu trắng vì nếu có vết mực nào vào thì nó sẽ đọng ở đấy mãi.
Tính Nguyện rất nhũn nhặn, ít nói, ít cười. Mới quen nhau, tôi đã nhận ngay thấy cái hiền lành ấy là đáo để, vẻ nhã nhặn ấy là manh áo khoác ngoài một tấm lòng kiêu ngạo tầy trời. Hình như Nguyện thiếu thông minh, vì không bao giờ một bài phải đọc trong tuần lễ mà hắn không học trước mấy ngày. Bạn bè Nguyện rất ít. Hắn thường bảo tình cảm giao đi cần phải có hạn, nghĩa là chỉ thương nhau vừa vừa. Nguyện thân với tôi không ai bằng, vì lẽ tôi khéo chiều hắn, biết lựa những chỗ yếu của hắn mà đón rào.
Hắn thường bảo tôi:
- Cả trường chắc không ai ưa Nguyện.
- Vì Nguyện không ưa ai.
- Dễ quá thì ngườì ta khinh đi. Trái lại cao lắm cũng tội. Ác nữa là ít người đứng được giữa hai nết ấy.
Tối tối, Nguyện thường đến nhà tôi học chung. Có nhiều lần đãng trí, tôi lấy bút vẽ chim cò, trong khi Nguyện vẫn ngồi im như pho tượng để lẩm nhẩm học. Tôi dần dần quen đi với sự lạnh lùng, âm thầm như đá ấy, nên cũng không thấy khó chịu mấy và lâu lâu, tôi thấy sống giữ gìn từng lời nói, từng chút cảm tình như Nguyện cũng là một sự hay.
Có lần tôi đã bênh Nguyện trước những lời chế giễu của các bạn:
- Con Nguyện rồi chúng mày xem, lại không tâm ngẩm đá ngầm chết voi hay sao chứ!
- Các chị hãy được như nó. Còn mấy thang mới kịp.
Dẫu sao tôi cũng bắt đầu ghê Nguyện, vì cách sống gần như tu của hắn. Một hôm tôi hỏi Nguyện:
- Nguyện có muốn đi tu không?
- Không. Tại sao lại đi tu? Tu thì ích gì kia chứ? Miện không nhớ câu này à: Le cloitre ne convient pas à toutes les âmes? (Tu hành không phải hợp với mọi người được).
- Nhưng Nguyện lạnh lùng quá. Chắc Nguyện không “yêu” ai?
Chữ Yêu, tôi cố dằn mạnh để làm nẩy một sự ngạc nhiên bất thần trên mặt người bạn sắt đá. Quả nhiên, cách này có hiệu quả, vì tôi thấy Nguyện sửng sốt rọi vào tôi hai làn mắt kinh ngạc:
- Yêu! Ô hay! Yêu ai mới được chứ?
Đoạn hắn trở nên buồn bã, nhưng mà chỉ trong giây lát thôi, vẻ lạnh lùng ngăn ngắt lại đến chiếm đoạt lấy khuôn mặt người con gái kỳ lạ này.
Từ đấy, Nguyện rất dè dặt chơi với tôi hơn xưa. Và cũng từ đấy, tôi để ý đến những tình cảm chắc là phải nung nấu trong tâm hồn kín đáo. Nhưng mỗi lúc tôi muốn gần Nguyện, để gần luôn những tình cảm khó hiểu ấy thì Nguyện lại tìm hết cách xa tôi, xem tôi như một người nguy hiểm rình mò phá tan hạnh phúc.
Một tối học xong, đợi khi Nguyện đứng lên, tôi giấu một mảnh giấy vào sách, trên đấy đề mấy chữ và ký một cái tên bịa đặt ra:
“Sự khó hiểu đến đâu cũng có người hiểu được. Đừng ai nghĩ là vì ta không muốn người ta thương yêu phải đau khổ. Hãy can đảm mà thú thật: sự giúp đỡ thành thực biết đâu lại không phải là phương sách cứu người”
Sáng hôm sau, tôi ở đâu chạy đến vỗ vai Nguyện:
- Lộ rồi, Nguyện ạ! Sao cô giáo lại biết tường tận thế?
Nguyện trố mắt nhìn tôi, vẻ đau khổ hiện ra mặt:
- Lộ? Mà chuyện gì, cô biết gì?
Thấy bạn cuống quýt, lo sợ, tôi ái ngại, nên không đành lòng, phải chối:
- Tôi cũng mới nghe phong phanh. Nhưng có lẽ không can thiệp gì đến mình. Thôi mặc!
Nguyện thở dài một cách kín đáo; tôi nghe rõ tiếng trống ngực đập mạnh của hắn. Cùng với màu da tái ngắt, chưa biến hết trên mặt, tôi nhận thấy sự run sợ ở hai bàn tay ngẫu nhiên nắm lấy áo tôi.
Tôi ân cần hỏi Nguyện:
- Hình như Nguyện độ này không được mạnh lắm phải không?
Nguyện lắc đầu:
- Cũng không thấy yếu quá, có lẽ không việc gì.
Hắn ngừng lại có vẻ tư lự, rồi tiếp:
- Nguyện chỉ sợ sau kỳ thi không được đi học nữa thôi, vì có sự bó buộc.
- Hai tiếng thôi học làm tôi rụng rời. Tự nhiên tôi thấy lòng muốn khóc, tay chân run lên, mắt tối lại. Tôi tưởng đến cái biệt tình đau xé, ném vào tháng ngày vô tư của tôi, những nỗi nhớ thương xa vắng.
Tôi hỏi lại Nguyện:
- Nguyện chỉ được cái hay đùa. Đang học tấn tới ai lại bỏ?
Nguyện cười một cách gay gắt, hai mắt ướt và sáng long lanh:
- Nhưng biết làm thế nào được, một khi ta bị bó buộc? Nguyện cũng buồn lắm chứ, buồn vì phải thôi học, xa Miện và các chị.
Tôi biết là Nguyện nói thật. Sự chán nản trên mặt bạn là dấu hiệu thất vọng ở một công việc gì, xui Nguyện bỏ trường.
Tôi nắm lấy tay Nguyện, ứa nước mắt:
- Nguyện có gì buồn thì nói với Miện. Tại sao lại chịu đựng một mình như thế?
Nguyện nhìn tôi, lộ vẻ cảm ơn:
- Chả có gì đâu. Miện ạ. Nguyện thôi học vì Nguyện phải thôi học. Sự ấy có làm thiệt gì đến đời Nguyện, đến tình chúng ta đâu? Chúng ta vẫn lại gặp nhau, và nếu cần, học tối với nhau nữa.
Lần đầu trong đời, tôi khóc biệt ly, rồi để sau này đoạn lòng trước bao nhiêu kiếp phù trầm khác.
Tôi với Nguyện cùng sóng bước trên con đường bé nhỏ sau trường, cùng yên lặng đếm những mảnh lá soan tây thưa nhặt trên cỏ, vì chúng tôi thấy cần phải sống gần nhau, trong lúc tâm hồn buồn rượi vì sự chia xẻ bất thần.
Tôi nhìn Nguyện hỏi:
- Sao Nguyện không thể khước sự bó buộc đi, mà lại phải thôi học? Hay để Miện lại nhà thưa với hai cụ, may ra…
Nguyện hoảng hốt ra mặt:
- Chớ! Chớ! Miện điên đấy à? Không được!
Chúng tôi đi hết một lượt chung quanh trường thì đến giờ vào học! Mọi hôm, tiếng trống không nói với lòng chúng tôi gì cả, nhưng hôm nay sao nó hoảng hốt, dọa nạt như thế này!
Tôi nắm chặt tay Nguyện kéo chạy và hôm ấy, chúng tôi sắp hàng cạnh nhau. Vào lớp, tôi ngồi bàn tròn, thỉnh thoảng lại quay lại nhìn Nguyện, trong khi hắn vơ vẩn đưa mắt ra xung quanh, như đếm từng đồ vật thân yêu một.
Giờ văn chương đến, cô giáo nói gì, chúng tôi không hiểu. Chúng tôi còn mải nghĩ vơ vẩn, chạnh lòng tưởng đến một cuộc thay đổi sẽ xảy ra.
Bỗng tôi giật mình vì nghe tiếng cô giáo quở Nguyện:
- Đó là chị không nghe, chứ không phải tôi không dạy đâu nhé! Chị có muốn đứng quay mặt vào tường không?
- Thưa cô, con hơi khó chịu. Xin phép cô cho về nghỉ một hôm.
Khi cô giáo biết rõ là Nguyện mệt thật, cô cho về.
Trước khi chào cô giáo và các bạn, Nguyện còn đưa mắt nhìn tôi, khiến tôi cảm động quá.
Khi tiếng dép dần xa, và hình bóng Nguyện xa mờ ở bên kia hàng dậu, tôi cúi mặt xuống nén tiếng khóc chỉ chực ồ vỡ ra ngoài.
Trông mảnh sân trường vốn lặng với mấy con chim chích rỉa lông cho nhau, tôi thấy bực bội vì sao cảnh vật và mọi người lại có thể bình tĩnh trước một sự ly biệt xảy ra giữa hai chúng tôi như thế?
Tự nhiên tôi nghĩ thầm một câu buồn bã quá:
“Hay … hay một người con trai nào vừa đi qua đời Nguyện?”
Rồi lâu lắm, cách đây mười mấy năm, tôi lại gặp Nguyện. Tôi thì có chồng, có con rồi, tâm hồn không biết đến lần thứ mấy mươi khóc than những đoạn đường đau khổ trong đời. Nguyện vẫn sống, lạnh lùng như cũ!
Chúng tôi gặp nhau, lúc buổi chiều đã xuống trên cuộc đời, và chúng tôi cầm tay nhau buồn như mười lăm năm về trước… Dưới đây là câu chuyện về đời Nguyện.