← Quay lại trang sách

2. Học trò quê bên ngưỡng cửa tình yêu

Ai cũng biết miền Nam mưa nắng hai mùa. Đã vậy mưa nghỉ, nắng ngủ, ui ui làm lai rai. Đúng là cái miền làm chơi ăn thiệt. Khác với miền Bắc khô cằn, khác với miền Trung sỏi đá, đời sống miền Nam ôn hòa, thịnh vượng. Dân miền Nam dư ăn dư để … Mà có thật được như vậy hay không? Coi vậy chớ không phải vậy, mà đôi khi còn tệ hơn vậy, câu nói không văn chương này lâu lâu cũng có chỗ xài. Không dư ăn dư để gì cả. Đó là trường hợp của Hùng trong những năm Hùng mới học lên ban trung học…

– Cho tụi nó đi học đi, để rồi tụi nó về vác giạ vay chữ hay là vác giạ vay lúa cho biết. Hứ, nghèo mà làm sang.

Bà con làng xóm sao hay chịu khó xì xào bàn tán về những việc làm của thiên hạ quá … Dẹp được cái quan niệm cổ hủ của dân làm ruộng đâu phải dễ, mà không hiểu vì lý do nào, ba má Hùng quyết tình cho đám con đi học. Nói là đi học cho sang chứ thật ra đám Hùng chẳng thua gì đám con bị “đem bỏ chợ”. Ba má Hùng vì bận kế sinh nhai, đầu tắt mặt tối, đâu con thì giờ để ý đến chuyện bài vở học hành của đám Hùng. Trời sanh trời nuôi, thậm chí đến việc chị em Hùng đang ở đậu nhà này hay ở trọ căn gác kia chưa chắc ba má Hùng đã biết.

Hùng nối gót chị Kim, chị Cúc, và anh Tấn làm bổn phận “nhà quê lên tỉnh” để đi học. Lần đầu tiên quá giang xe đò lên Mỹ Tho, Hùng thấy lo lo mặc dù có chị, có anh đó. Không biết rồi sẽ làm cái gì, ăn đâu, ngủ đâu, học trường nào. Suốt từ nhỏ đến giờ, Hùng chưa bao giờ rời làng, khỏi quận, chưa biết từ giã bạn bè. Tự nhiên Hùng thấy trách nhiệm bổn phận cho chính bản thân mình quá lớn.

Chuyện gì đến, sẽ đến. Hùng thi đậu vào lớp tiếp liên trường Nam Tiểu học, chị Kim, chị Cúc, và anh Tấn vẫn phải học trường tư. Mỗi ngày học một buổi, buổi sáng, còn buổi chiều dư thì giờ rong chơi. Sơ mi trắng, xà lỏn đen, dép nhật. Quần xà lỏn mà cũng bắt bỏ áo vô quần… Trường lớn lắm, tường vôi, vách gạch, mái ngói hẳn hòi chứ đâu có vụ nền đất, vách ván, mái lá xập xệ như trường cũ của Hùng. Lối ra vào có hai hàng phượng vĩ trồng lâu năm tàn che giáp mí. Hai đường biên đổ xi-măng mô lên cao như hai con rồng dài thườn thượt. Cái gì trông cũng khang trang, sạch sẽ. Bởi vậy Hùng nghĩ mình muốn học dở cũng không được.

Căn nhà trọ đầu tiên của chị em Hùng là nhà của ông Bảy, chỉ biết ổng thứ bảy mà không rõ ổng tên gì. Nói là nhà thì cũng hơi quá, thật ra đó chỉ là một cái chòi trong hẻm cụt, cất sát hàng rào kẽm gai của Ty Canh nông. Có Ty Canh nông đó mà xóm này không được gọi là xóm Ty Canh Nông mà bị gọi là xóm Lò Heo mới xui. Tại vì trước cổng vô Ty Canh nông là lò heo, một Chánh Hưng của tỉnh Mỹ Tho. Sau này ít ai kêu xóm Lò Heo tại vì bạn hàng tự động nhóm chợ, bắt đầu từ Cây Xăng đổ vô, trước ít sau đông, rồi đông quá nên chính quyền mới cất luôn chợ, thành chợ Thạnh Trị, xóm trở thành xóm Chợ Thạnh Trị. Ông Bảy già hưu trí rồi mà không chịu về quê dưỡng già, còn luyến tiếc cái lò heo. Nghề nghiệp của ông mà. Thỉnh thoảng ông đi thăm lò heo xách về một đùm ruột, không hẳn là ruột già mà cũng không hẳn là ruột non. Thứ ruột gì chỉ để chặt khúc thắng lấy mỡ mà thôi. Mấy khúc ruột chặt khúc đó teo lại thành tép mỡ, lớn nhỏ, ngoằn ngoèo, đủ hình đủ dạng. Coi ghê vậy nhưng mà mấy lúc không có gì ăn cơm, đem ra nhai cũng đỡ khổ lắm. Hùng nghĩ ông Bảy về quê cũng không được, sức mấy mà ông có được miếng đất cặm dùi. Mà con cháu của ông đâu sao chẳng thấy người nào tới thuốc men, thăm nom?

Không hiểu ai giới thiệu chị Kim với ông Bảy, mà tiền thuê nhà rất phải giá, gần như cho ở không. Ông ở đằng trước có kê một cái giường và một cái bàn. Còn phần sau và nhà bếp ông giao hết cho đám Hùng. Ban đêm banh ghế bố cho bốn chị em đã không còn chỗ trống, vậy mà chị Cúc còn lôi thêm chị Sen, bạn cùng lớp quê bên Tân Thạch, về ở chung. Ông Bảy có lần nói:

– Thấy mấy đứa bây là tao vui rồi. Cuối tuần tụi bây về nhà hết tao buồn quá xá. Tao lang thang ra Cây Xăng ngồi uống cà phê cả buổi mà cũng chưa hết buồn.

Ngày thứ hai là ngày bận rộn nhất, mà cũng là ngày vui nhất. Bận rộn vì phải thức dậy sớm để đón xe đò từ quê lên Mỹ Tho. Qua được phà Chợ Gạo coi như đi được nửa đường, chưa qua được thì kể như chưa đi tới đâu hết. Xuống xe ở Mỹ Tho con phải đón xích-lô chở hành lý, quần áo, đồ đạc về nhà trọ rồi vội vã thay đồ chạy đi học. Bữa nào xui gặp ông xích lô đạp không nổi thì chỉ biết van vái cho trời đừng sáng vội. Ngày thứ hai là ngày vui nhất tại vì đồ ăn đem theo còn nguyên, còn nhiều món muốn ăn món nào thì ăn, thịt kho, dưa giá, tép rang, khổ qua hầm… chứa đầy trong mấy lon guigoz. Ăn nhín nhín cỡ nào rồi mấy ngày gần cuối tuần cũng không còn món gì để ăn.

Bởi vậy mấy chị phải trồng thêm đám rau dọc theo hàng rào, cạnh sàn nước rửa chén. Mồng tơi với mướp là hai thứ dễ trồng nhất. Mồng tơi ăn riết không còn một cái lá, chỉ còn mấy sợi giây tím tím lăn quăn trên hàng rào. Mướp, ban đầu ăn trái rồi đến ăn bông, xong ăn đọt, ăn luôn lá non… Mấy bữa có canh mồng tơi, canh mướp pha bột ngọt thì còn đỡ, mấy bữa chỉ có “canh nước cơm” và dĩa muối ớt thì cơm vừa dọn ra là Hùng đã thấy no ngang. Bởi vậy anh Tấn và Hùng thỉnh thoảng tìm đường “tẩu”. Anh Tấn xuống tụi thằng Ấu, thằng Chữ, còn Hùng chạy lên nhà thằng Kiên. Dấu diếm cách mấy rồi lần lần bạn bè cũng biết. Nói là đi thăm bạn bè cho có tình chứ thiệt ra là đi ăn chực, ăn ké.

Không hiểu thằng Kiên chơi thân với Hùng vì lý do gì, có lẽ tại Hùng học giỏi. Nhà nó giàu quá so với Hùng nghèo rớt mồng tơi. Nhà thằng Kiên tọa lạc ở đầu đường Vòng Nhỏ, cạnh Cầu Sắt. Bên ngoài nhìn vô chỉ thấy toàn cây ăn trái, mận hồng đào, xoài rép, ổi xá lị, vú sữa, … bao bọc bởi một hàng rào gạch có song sắt nhọn, và hai cánh cửa sắt thật to. Nghe nói nhà nó lúc trước có lần là trụ sở của lực lượng Cao Đài. Cổng là điểm rẽ của hai con đường đá đỏ dẫn đến hai bậc tam cấp bước lên nền nhà, nền đúc bằng đá xanh cao khỏi đầu. Qua một bao lơn nhỏ rồi mới đến cửa cái. Nhà ba gian, cột căm xe tròn thiệt bự đánh vẹc-ni đen bóng như thoa dầu hắc. Đồ đạc để chưng nhiều hơn để xài bày biện khắp nơi. Đồ cẩn xà cừ, đồ chạm trổ, đồ cổ … Rồi tới nhà cầu, nhà bếp, nhà ngang, nhà chứa bàn bi-da, banh-bong. Phía sau nữa là hồ cá tiếp giáp với một đồng cỏ bao la. Cỏ mắc cỡ, cỏ tranh lẫn lộn với những đám cỏ ống, cỏ chỉ. Đó là nơi Kiên và Hùng hay thả diều sau giờ cơm.

Ăn cơm ở nhà Kiên cũng giống như đi ăn tiệm. Có kẻ hầu người hạ, có khai vị, có lai-sét, có chén đựng nưóc chấm riêng, có khăn lau riêng. Bởi vậy khô lân chả phụng mà ăn không thấy ngon. Hùng thấy mất tự nhiên trong bầu không khí trang trọng này. Mặc dù tuổi còn nhỏ, nhưng Hùng cũng biết nhục vì miếng ăn, nên nhiều khi thà ăn cơm trắng với nước cơm còn khoái hơn là đi ăn cơm chực với cá thịt.

Cho đến lúc Kiên tặng cho Hùng những đôi giày ba-ta nửa sạt, những đôi vớ sờn gót thì tình bạn bắt đầu xa. Hùng không còn chịu đựng nổi sự cách biệt giữa hai đứa nữa. Cũng may dạo đó vào mùa hè, mùa chia tay xảy ra đúng lúc. Cả năm trời chơi với nhau mà Kiên không biết Hùng ở đâu, không có dịp nào bước chân đến xóm Lò Heo của Hùng. Dấu diếm với bạn được như vậy cũng là khéo lắm rồi, Hùng nghĩ.

Mùa thi năm đó Kiên và Hùng đều đậu vô trường công, nhưng không học chung lớp vì chọn sinh ngữ chính khác nhau. Trường Nguyễn Đình Chiểu lúc đó chưa mở rộng ra tới đại lộ Hùng Vương, cổng sau còn ngó ra đường Huỳnh Tịnh Của nhỏ xíu. Ba dãy lầu hai từng, lợp ngói Tây đỏ au, hình chữ U, dành cho lớp học và một dãy trệt song song với dãy giữa làm phòng thí nghiệm, phòng hiệu trưởng, phòng giáo sư. Nhà của ông hiệu trưởng nằm xa trong góc trái. Cái gì của Tây để lại coi cũng có vẻ xa xưa, cũ kỹ.

Qua năm sau chị Kim đi Sàigòn học và xin được chân bán vé trường đua hai ngày thứ bảy, chúa nhật. Thỉnh thoảng chị gửi tiền về phụ giúp chị em Hùng còn lại dưới tỉnh vì chị em Hùng không còn ở nhà ông Bảy nữa, mà phải mướn nhà khác. Ông Bảy chết, nhà sang cho người lạ. Hùng thấy thương ông Bảy và nhớ ngày nào ông dẫn Hùng đi thăm lò heo. Phải nói là lò bò heo thì mới đúng, vì đây là chỗ giết bỏ lẫn heo. Bò bị đập đầu bằng búa tạ, nhiều con xán một búa thì rồi đời, mà nhiều con năm ba búa chưa chịu xiểng niểng. Heo thì bị thọc huyết lũ khủ trên sàn xi măng, xây cao hơn mặt đất khoảng vài tấc, có đường rãnh dẫn huyết vào thùng. Chỗ ghê gớm như vậy mà không hiểu ông Bảy dẫn Hùng vào đó làm chi. Đêm nào ngủ Hùng cũng giựt mình nghe văng vẳng bên tai tiếng heo kêu bị thọc huyết. Nhưng, người ta nói đó không phải là tiếng heo kêu mà là tiếng của thằng cha thọc huyết bị heo hành.

Căn nhà trọ thứ hai của chị em Hùng là nhà chú Hai Bộ. Có hai điểm khác với nhà ông Bảy, một là không phải ở nhà sau mà ở bên chái, và hai là phải đóng tiền, năm chục một tháng. Nhà chú Hai Bộ nằm trong xóm nổi tiếng hơn xóm Lò Heo nhiều, xóm Hàng Còng. Kêu là xóm Hàng Còng vì từ xa nhìn tới đã thấy một dãy cây còng, cây me tây, cao lớn tàn rộng không thua gì những cây đa lâu đời. Xóm Hàng Còng nổi tiếng tại vì đây là xóm làng chơi. Nhưng muốn mướn nhà với giá rẻ cho nên đám Hùng phải tự đề cao: gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Thật ra xóm chia làm hai khu, một bên từ Hàng Còng trở ra Hàng Xáng thì ong bướm nhởn nhơ, còn một bên từ hàng trứng cá trở vào đất Thánh Tây thì là dân làm ăn lương thiện, có am Cô Sáu, có rẫy trồng bông huệ ….

Con đường dẫn vô xóm Hàng Còng là hai đường mòn dọc hai bên đường rầy xe lửa chạy giữa hai giếng nước. Hai đường mòn này cũng chỉ được xài vào mùa nắng mà thôi, vào mùa mưa thiên hạ đi luôn trên đường rầy cho khỏi dính sình. Cỏ hai bên bờ giếng không ai cắt cao đến ngực.

Dạo đó chiều nào Hùng và thằng Đức, bạn cùng lớp quê bên Lộc Thuận, và mấy đứa bạn cùng xóm cũng đi nhảy xe lửa, xe lửa trở đầu chuẩn bị cho chuyến sáng. Một trò chơi lý thú không tốn tiền nhưng cũng không kém phần nguy hiểm. Từ nhà ga xe lửa chạy thụt lùi trở lên Hàng Còng, vòng vô miệt Bàu Súng, xong vòng ra và chạy tới trở lên miệt Xóm Tre, Năm Nôi rồi mới chạy thụt lùi trở về. Xe lửa lên mình nhảy lên, xe lửa về mình nhảy xuống, không thua gì phim cao bồi đánh với mọi da đỏ. Xe lửa trở đầu thường chạy chậm nhưng đôi lúc dở chứng chạy xả ga, xịt khói làm bọn Hùng té lăn vòng vòng mấy vòng mỗi lần bậm gan phi thân xuống đất. Bầm mình, sả đầu gối nên bọn Hùng biết tởn, biết học khôn, cứ đeo theo xe lửa đi xuống phố chờ cho nó chạy chậm lại mới nhảy xuống lội bộ trở về. Nhưng cỡ nào cũng phải nhảy trước khi xe lửa vô nhà ga, vì mấy ông xếp ga bắt được hạch hỏi, hăm dọa đủ điều thì còn phiền hơn nữa.

Đâu ai ngờ sau này đường rầy xe lửa trở thành đường Lý Thường Kiệt nối dài, chạy từ nhà bà già vợ ông Thiệu, qua giếng nước, qua chùa Một Mắt tức thánh thất Cao Đài, xuyên qua đường Vòng Nhỏ có trường bán công Trương Công Định rồi lên tịnh xá Ngọc Tường, trung tâm Quân Tiếp Vụ, sân bay Bình Đức và tiếp giáp với đường đi Sàigòn tại chủng viện Chân Phúc Minh. Mấy cây còng bị triệt hạ để mở đường, xóm làng chơi Hàng Còng ít còn nghe ai nói tới và đã trở thành xóm Bờ Giếng Trên.

Không hiểu có phải vì ảnh hưởng của xóm Hàng Còng hay không mà cả hai vợ chồng chú Hai Bộ đều làm nghề y tá. Ngoài những phiên trực chính ở dưới nhà thương lớn, hai vợ chồng thay phiên nhau đi chích dạo, tiền vô cũng khẳm. Vậy mà hai thằng con trai của chú thiếm nuôi hoài không thấy lớn, thuốc men đủ thứ mà tụi nó vẫn ốm tong teo như bị sanh thiếu tháng.

Ở nhà chú Hai Bộ không được thoải mái bằng nhà ông Bảy. Đi đứng phải có giờ giấc. Học bài cũng không được học khuya, sợ hai thằng nhỏ giật mình. Ngay cả miếng đất bằng bụm tay phía sau nhà cũng không được tự do trồng trọt. Chỉ được đám rau răm. Mặc dù bị mấy cây gòn che hết nắng mà đám rau răm cũng mọc xanh rì như đám cỏ. Chị em Hưng nhờ vào đám rau này rất nhiều. Mấy lúc kẹt tiền, chị Cúc ba bốn bữa liên tiếp cho anh Tấn với Hùng ăn cơm với mỗi một món độc nhất “rau răm xắt nhuyễn thả vô nước tương”. Gió đưa cây cải về trời, rau răm ở lại chịu mùi nước tương“, tụi Hùng ngâm như vậy. Dũng Thanh Lâm kia “cá hấp, cá hấp hoài phải ngứa”, thì mình “rau răm, rau răm hoài phải cay”. Bởi vậy chị Cúc một lần đó đổi món ăn mới mà mỗi lần nhớ lại Hùng thấy nhói trong tim.

– Bữa nay có gì ăn không chị Ba? Hay là bổn cũ soạn lại?

– Có nồi cá kho để trên bếp đó.

Anh Tấn và Hùng nghe nói có nồi cá kho trong bụng như mở cờ, hấp tấp dọn cơm. Đến chừng dở nồi cá ra mới thấy hỡi ôi:

– Cá kiểu gì kỳ vậy chị Ba? Sao toàn là đầu mà không thấy phần đuôi!

– Của thiếm Hai cắt cho đó. Chị kho cho mấy em ăn đỡ.

Hùng nghẹn ngào nhìn anh Tấn, nhẹ nhàng đậy nấp vung lại.

– Chị Ba à, sao chị làm vậy? Tụi em thà chết đói

– Chị thấy hai em ăn với nưóc tương hoài, chị không nỡ.

Rồi ba chị em nhìn nhau rơm rớm nước mắt.

Qua năm sau chị em Hùng bái bai chú Hai Bộ chạy về chú Hai Hậu, chú lao công quét dọn cho trường Nguyễn Công Trứ, trường chị Cúc và anh Tấn đang học. Chú Hai Hậu được ông bác là ông Lê Văn Chẩn cho giữ miếng vườn trên đường Vòng Nhỏ, xéo xéo với lối vào chùa Phổ Đức. Đối diện là nhà của ông Đốc Học, cái nhà gạch sơn nước vôi màu tím mới nhìn vô tưởng là nhà thờ vì cất theo kiểu đưa đầu song ra đường. Căn nhà độc nhất vô nhị, không giống nhà nào của cả thành phố Mỹ Tho. Đám con gái của ông Đốc kênh kiệu dữ lắm không thèm chơi với đám Hùng. Hai bên đường Vòng Nhỏ khoảng đó là hai con rạch cho nên nhà nào cũng có cầu. Cầu vô nhà ông Đốc là cầu đúc bằng xi măng cho xe chạy còn cầu vô nhà chú Hai Hậu là cầu dừa, thấy lép vế hơn người ta quá cỡ.

Chú Hai Hậu cũng như ông Bảy, cho ở không.

Nhưng việc đầu tiên là phải cất thêm một cái chái tiếp theo tấm vách ván dừa của nhà chú. Cất ra đến gốc vú sữa là vừa, và phải vào rừng đốn cây. Miếng đất rộng mênh mông, chỉ mặt tiền trông ra lộ còn được khai khẩn, trồng trọt, chứ phần sau không ai chăm sóc cây cối mọc như rừng. Qua mấy gò mả đá xanh, qua cái ao có cây mận da người là đến bìa rừng. Len lỏi vào trong tìm những cây thẳng mà đốn. Mấy cây lớn làm cột và kèo, mấy cây nhỏ làm đòn tay. Anh Tấn mới xán một búa đầu… bỗng nhiên rùng mình, tay chân uể oải, không làm ăn gì được nữa. Xách búa trở vô nhà lên giường nằm mà lên cơn sốt. Kỳ thiệt. Thiếm Hai phải xôi chè cúng mới hết.

Ở với chú Hai Hậu thì khỏi phải lo về mặt kinh tế. Rau cải thì đất trống thiếu gì, mặc sức mà trồng. Ăn cơm không có rau như nhà giàu chết không có nhạc, bởi vậy bầu, bí, mướp, dưa leo bò thả giàn, rau thơm, xà lách, cải trời, cải rổ lên xanh liếp. Còn cá tôm thì dễ thôi, tay làm hàm nhai. Làm siêng thì đắp đập tát mương, làm biếng thì đi câu cá bống dừa cá bống cát, còn trớt lớt luôn thì chỉ đi cắm mấy cây cần-câu-cắm dọc theo mương để bắt cá trê. Mặc dù xa nhưng nước sông Bảo Định cũng tràn tới đây, trong mương cũng có nước lớn nước ròng. Vào mùa mưa chú Hai hay trồng thêm vạt mì, để ăn thì ít nhưng để bắt chuột thì nhiều. Chuột cống con nào con nấy lớn bằng con heo con. Chuột cống xù kêu “rù rù rù …” mới ăn được, con chuột cống lang kêu “chét chét chét …” thì chỉ giết đem chôn. Trái cây cũng không thiếu thứ gì, ngoài dưa với chuối vườn nào cũng trồng, còn có mận, xoài, bưởi, ổi, chùm ruột, vú sữa… Cây vú sữa bên chái mới ác, nhiều đêm Hùng đang ngủ mà dám rụng xuống mùng đồm độp, coi mái lá chầm như không.

Bấy giờ Hùng mới nhớ ra là mình đang sống ở miền Nam, miền làm chơi ăn thiệt. Chị Cúc thêm một lần nữa kéo chị Sen về ở chung. Bạn bè Hùng đứa nào mà không thích đi vườn, không thích lên chơi với Hùng. Mấy bữa ăn cơm vườn, mỗi đứa một tô bưng ra gò mả đá xanh vừa ăn vừa trò chuyện cũng thần tiên. Trời chiều nhờ đó mà thêm ý nghĩa.

Mới sống với chú Hai Hậu chưa mục một lớp lá thì phải dọn đi nơi khác. Lần này không riêng gì chị em Hùng mà cả chú thiếm Hai. Đám con ông Chẩn đòi chia gia tài mặc dù ổng chưa chết. Chú Hai Nhì về Sàigòn coi rạp hát Văn Cầm ở Phú Nhuận thì không tính rồi, mấy bà cô giành nhau mấy đám ruộng trong xã Thanh Bình thì cũng yên, chỉ còn chú Năm Trứng, cậu út, là thầu đám ruộng vườn dọc theo đường Vòng Nhỏ. Chú Năm đòi bán miếng vườn chú thiếm Hai và đám Hùng đang ở để lấy tiền ủi ruộng lập cư xá Lê Văn Chẩn đối diện trường trung học bán công Trương Công Định. Lý do chính đáng để đuổi tá vườn. May là nhờ bà con nên chú Năm Trứng còn nghĩ tình, giao cho chú Hai Hậu trông coi miếng vườn khác tuốt trên ngã ba sân bay Bình Đức, ngó vào Xóm Tre.

Lại một lần nữa khăn gói gồng gánh di tản về vườn, chuyến này về vườn thật chứ không phải về vườn ngoại ô đèn vàng nữa. Chú thiếm Hai cất nhà mới, và chị em Hùng cũng cất nhà mới cách nhau một cái mương. Tại vì gia đình chú thiếm Hai tăng cường nhanh chóng, tính tới con bé Gái Nhỏ đã là đứa thứ sáu rồi. Đám Hùng cũng tăng cường thêm con bé Gấm sẽ vào học lớp tiếp liên. Em kế Hùng, con bé Đẹp, mất hồi còn nhỏ nên giữa Hùng với con bé Gấm có cách khoảng. Và lại đám Hùng cũng đã lớn chồng ngồng rồi nên thích ở riêng. Ở riêng bạn bè trai gái cũng dễ.

Dạo đó Hùng ít về quê thăm nhà vào cuối tuần mà ở lại với bạn bè. Bữa nào có tiền thì đi ăn phở Tàu Bay, đi ăn hủ tiếu Phánh Ký, hoặc đi thụt bi-da Châu Diều. Đứa này tưởng đứa kia có tiền mà mấy bận ngồi đồng mà chưa bao giờ biết tởn. Có cây viết Pa-ke hay cái kiếng Rầy-ban cầm đỡ cũng được vài trăm mà trả tiền nợ. Bữa nào không tiền thì đi tắm sông Cửu Long, Cầu Tàu, Cầu Bắc, Cầu Dầu của nhà máy Đỗ Quang. Một lần tại Cầu Tàu, gặp lúc nước ròng sát đến nỗi thấy lườn chiếc tàu chìm nằm lật úp ngoài khơi, đứng trên cầu nhìn xuống nước đã thấy ngộp mà dám nhảy. Hơn mười thước có, chỉ nhảy đứng thôi mà lúc trồi lên đã muốn hụt hơi. Lội ra chiếc tàu chìm, thấy nước cuốn xoáy mà sợ. Bao nhiêu đứa chết ở chỗ này mà sao vẫn còn ngu. Ngu thì có ngu nhưng tụi bạn làm được thì mình phải làm được … Rồi có bữa đi chơi xa hơn một chút, qua Cồn Rồng, Tân Thạch, Bến Tre, vô Gò Cát, Thanh Bình, Bến Tranh, lên Trung Lương, Bến Chùa, Tân Hiệp, xuống Cai Lậy, Cái Bè.

Vào giữa niên khóa năm đó, Hùng đi học ăn sáng khỏi tốn tiền. Mấy ông bán bánh mì thịt, sữa đậu nành, bò bía, đậu đỏ bánh lọt trước cổng trường không ông nào chịu lấy tiền của Hùng.

– Thôi, khỏi cần trả, có người trả cho chú mầy rồi. Ăn cả tháng chưa chắc đã hết.

Hùng làm tỉnh, bỏ tiền vô túi:

– Thiệt hả? Ai trả cho tui vậy?

– Không được tiết lộ bí mật à. Tiết lộ bí mật thì chú mày không có ăn mà tao cũng không có bán à.

– Nhưng tại sao ông biết tui là người tới ăn mà ông không lấy tiền.

– A, cái đó thì cũng là bí mật nữa!

Mấy ông Tàu kín miệng thật, Hùng không biết người gửi tiền cho mình ăn sáng là ai, già trẻ, trai gái. Nhưng Hùng biết chắc người đó không là bà con thân thuộc gì với Hùng vì ngoài mấy chị em ra đâu còn ai. Hùng suy nghĩ hoài mà không tìm ra câu trả lời … Nhưng hôm đó ông bán sữa đậu nành dám ngang nhiên đòi tiền, Hùng vừa móc túi vừa hỏi:

– Ủa, không ai trả trước cho tui à?

Rồi như ông sực nhớ điều gì, ông hỏi lại:

– Phải chú mày hay đi chung với thằng … có cái bớt đỏ bên má phải hôn?. Bữa nay nó đâu rồi? Nè, cất tiền đi.

Đúng là thằng Châu, có hỗn danh là Châu Búa vì cái bớt đỏ đó. Vậy là mật hiệu đã bị khám phá. Lần hồi rồi thằng Châu cũng biết, hăm he đòi ăn chia. Chỉ biết tới đó thôi, cả tháng trời không bật mí thêm cái bí mật nào hết. Hùng đổi chiến thuật với ông bán bánh mì:

– Tui thấy tui ăn như vầy hoài mang tội mút đầu. Ba bữa nữa mà ông không cho tui biết người đó là ai thì tui … thà nhịn đói đi học thôi.

– Ê, chú mày nói thiệt hay nói giỡn đây?

– Thiệt mà.

– Có người lo cho, sướng quá mà không chịu hả?

Chiến thuật hồi mã thương của Hùng coi vậy mà hiệu nghiệm. Qua ngày thứ ba đúng hạn kỳ, ông Tàu trao cho Hùng một bì thư không một chữ bên ngoài. Hùng xé thư xem lên một mình:

– Thôi, chết tao rồi Châu ơi.

– Gì mà chết mậy. Đưa tao coi …, nói tao nghe với.

Nói làm sao được. Trong bao thư vỏn vẹn có một tấm hình, phía sau viết mấy chữ ngoằn ngoèo: “Tặng anh yêu quí”. Con Cẩm, chết rồi, con Cẩm bạn bé Gấm ở phía vườn sau nhà. Phải ăn nói làm sao đây, chỉ thấy Cẩm tới nhà một hai lần.

– Dấu hả? Trước sau gì tao cũng biết.

Qua ngày sau Hùng trao cho ông Tàu một bức thư hẹn Cẩm ở con đường thật vắng mục đích không phải để dễ tâm tình mà chỉ sợ thiên hạ thấy. Cẩm còn nhỏ quá, ngực chưa chắc đã dậy trái tràm, tình yêu cũng nên để trong lòng mà thôi, trai gái dọc đường ai coi cho được. Hùng chỉ coi Cẩm như em gái, chờ thời gian để hiểu thật lòng mình. Hùng biết đêm đó Hùng làm Cẩm buồn vô hạn.

Sự việc này đặt Hùng vào ngưỡng của tình yêu mà chính Hùng cũng chưa dám nghĩ tới. Hùng tự hỏi ai thương mình và mình đã để ý ai chưa. Học trò đệ tứ cũng lớn rồi, mười lăm mười sáu rồi. Mới ngày nào chú Hai Hậu dẫn Hùng đi sơn trường Nguyễn Công Trứ, bên hông nhà ông Chẩn, cố tình cho Hùng thấy mặt con Phượng, cháu nội của ông Chẩn. Đám này học dở nhưng giàu, chuột sa hũ nếp, chú Hai Hậu nói mí mí như vậy. Rồi dạo nào chơi thân với thằng Quyền, em Vân của nó có món ngon vật lạ gì thì cứ như phải để dành cho Hùng, riêng cho anh Hùng. Lúc đưa cũng không lấy tay về liền, giữ đó hơi lâu, bốn mắt chạm nhau như bắn một niềm tin. Thêm con nhỏ bán mía ngoài Cầu Bắc, suýt chút nữa Hùng bị đập, may mà có thằng Châu Búa. Tại con nhỏ có cảm tình với Hùng, viết thư cho Hùng chứ ai mà thèm đi giành gái với lũ đầu trâu mặt ngựa đó. Phải biết nói nhỏ nhẹ thì người ta nhường cho, Hùng thấy mình lên mặt quá xá cỡ.

Cẩm, Phượng, Vân, và luôn cả con nhỏ bán mía cũng đều đang học tiếp liên, làm như ở Mỹ Tho lớp tiếp liên là lớp tìm yêu cho con gái. Đối với Hùng đặc biệt còn có thêm một con nhỏ học tiếp liên nữa, lớp tiếp liên tư thục của ông Phạm Công Bình. Hồng Lan. Đầu lòng hai ả tố nga, Hồng Hoa là chị em là Hồng Lan. Hồng Hoa cũng đẹp nhưng không bằng Hồng Lan. Con nhỏ vóc dáng mảnh mai, nước da trắng bóc môi đỏ như son. Hai thằng con ông Bình ngày nào không chận ở cầu thang lên lớp học. Thằng Lữ con chủ tiệm may Batou ngày nào không đạp xe đạp rề rề hết đại lộ Lê Lợi. Thằng Châu từ bên đất Thánh Tây cũng nhào qua… Còn dân Bến Tre thì vô số kể, thằng Hòa dân Giao Long, thằng Thiện dân Vang Quới, thằng Lạc dân Bình Đại … thằng nào cũng theo. Toàn là đám bạn trang lứa với Hùng.

Tụi nó đâu ngờ Hùng không theo mà Hùng được. Tại vì Hồng Lan học chung lớp với bé Gấm, em Hùng. Thỉnh thoảng bé Gấm dẫn Hồng Lan về nhà chơi, Hùng có dịp nịnh đầm, và sau đó mấy lần đi vườn, vô tuốt miệt Xóm Tre, thì tình yêu như có ai đưa đường dẫn lối. Một lần Hùng ghé nhà thăm Hồng Lan bất thình lình, chỉ có mình Hồng Lan ở nhà. Hồng Lan sợ và Hùng cũng sợ. Không hiểu Hồng Lan sợ gì, nhưng Hùng chỉ sợ mình cầm lòng không đậu, vô tình làm tổn thương cái thiêng liêng cao quý của tình yêu. May mà có cô Năm bên hè qua chơi lúc Hùng thả lưng nằm võng trên bộ ván mà Hồng Lan đang ủi đồ.

– Con nhỏ này ủi cái quần chưa thẳng, tới hồi lấy chồng rồi làm sao?

– Thôi đi bà. Thiếu điều cháy rồi mà còn thẳng với không thẳng …

Cuối năm đó chị Kim đậu phần một rồi lấy chồng ở Sàigòn, chị Cúc cũng đậu phần một rồi đi dạy tiểu học ở Cai Lậy, Hùng và anh Tấn đậu trung học đệ nhất cấp, bé Gấm đậu vào đệ thất trường công, Lê Ngọc Hân. Theo nhà người ta đáng lý ra phải mần heo ăn mừng, đằng này ba má Hùng cho mỗi đứa có năm chục bạc, không đủ tiền đi Mỹ Tho dẫn bồ ra quán Mỹ Duyên ăn kem …

Dù thế nào đi nữa, nếu thượng đế cho cuộc đời này lùi lại, Hùng cũng sẽ van xin cho mình được làm một người học trò quê, một lần nữa lên thành, lân la bên ngưỡng cửa tình yêu của thời mới lớn.