← Quay lại trang sách

3. Trong miền quá khứ

Con đường Lý Thường Kiệt nối dài, hóa thân của đường xe lửa cũ, mùa nào cũng trở ngại. Lý do thật đơn giản là vì bác Tám lục lộ có nhiệm vụ phải bảo vệ con đường. Cách duy nhất mà bác đã học được ở trường Công Chánh là xách ki đi xuống ruộng đào lớp nhựa đường “made in Việt Nam” lên, đập nhỏ ra rồi rải tứ giăng trên mặt đá. Vào mùa nắng, bụi bay mù mịt mỗi lần có xe chạy qua hay chỉ cần một cơn gió lớn. Lội bộ suốt con đường, lỗ mũi có khoen. Vào mùa mưa, con đường trở thành nhão nhẹt. Đi bộ còn không muốn vững vì đôi giày hàm ếch càng lúc càng to, càng nặng, nói gì tới đi xe đạp xe gắn máy. Sình quấn vào căm, vào bánh xe, vào gạt-đờ-bu không mấy chốc là phải vác, phải dẫn, hoặc phải gởi. Tội nghiệp cho mấy cô học trò trung học, không biết phải đi kiểu sao cho vừa lòng cái áo dài trắng thướt tha, lượt thượt của mình.

Tuy trắc trở vậy nhưng nhờ chỗ ở lâu cho nên con đường này, mặc dù không phải là “con đường mang tên em”, đối với Hùng cũng có nhiều cái tình. Thời đó là thời bình, hoặc giả tạm gọi là thời bình đi, vì chiến tranh chưa lan tràn vào thành thị. Ban đêm cũng chưa có giới nghiêm. Bọn Hùng lúc đó đang mới tập đàn tập hát cho nên nguyên ban thường hay mải mê trình diễn nghêu ngao ngoài đường cho đến hai ba giờ khuya. Cho khỏi phiền làng xóm đang cần sự yên lặng nghỉ ngơi. Ánh trăng sáng ngà, có cây đa to, có thằng cuội già, ôm một mối mơ. Nhờ những bài hát và những đêm trăng như vậy mà ban nhạc một ngày một tiến. Ôm một mối mơ? Mơ gì? Hùng mơ rằng con đường mãi mãi là của riêng mình và lũ bạn, không phải là của chính phủ, của công ty gì cả.

Đây là vùng ngoại ô thành phố cho nên không có cảnh nhà cửa cất san sát, khít vách với nhau, không có cảnh đâu mặt, đụng đít. Mà một bên đường là ruộng, trải dài tuốt ra đường Ngô Tùng Châu, đường đi Bình Đức, đi căn cứ Đồng Tâm. Và một bên là vườn, ăn luồn ra đường Nguyễn Tri Phương, đường đi Trung Lương, Bến Chùa. Một mặt nối tiếp xuống vườn ông Khánh có nuôi đủ thứ thập vật, trĩ trích, công ngỗng, rùa rắn, trăn lươn, như là một cái sở thú tư.

Con đường đã mang đến cho Hùng hai niềm vui khác biệt. Vì ở ruộng có cái vui của ruộng. Mùa nước nổi đi soi ếch, chém cá, mùa gieo mạ đi bắt cá trê lét, cua đồng, mùa cấy lúa đi câu cá rô, và mùa đập lúa đi bắt cá cạn, cá chạch. Và ở vườn thì có cái vui của vườn, mùa mận có mận, mùa xoài có xoài, mùa mít có mít, mùa vú sữa có vú sữa …, mùa nào mình cũng ăn trái cây đi … hái trộm được hết. Của nhà luôn luôn thua xa của thiên hạ. Cây thấp khỏi trèo chẳng nói làm gì, cây cao cũng khỏi trèo luôn. Trèo làm chi cho mệt trong khi trên tay mình có cái ná giàn thung. Như xoài tượng chẳng hạn, trái nào trái nấy to bằng bắp chuối mà tòng ten chỉ bởi cái cuống nhỏ xíu, dài thòng. Chỉ mành treo chuông. Một thằng bắn một thằng hứng, và phải bắn ngay cuống cho thật ngọt. Kỵ nhứt là bắn trúng trái xoài, bắn trúng trái xoài là bị mất phiên, không được phép bắn nữa mà phải chịu khó giữ “gôn”.

Bắn trái cây thì quá dễ, bắn gà bắn vịt mới khó. Vì gà vịt biết chạy, biết la. Đã vậy quanh quẩn không chịu đi xa nhà, bắn không khéo chủ nhà nghe tiếng, bể ổ, chạy chết không kịp trối. Phải ngay con mắt và không có viên thứ hai. Chết không kịp la, chết không kịp giãy, chỉ còn trân mình, hai cẳng đơ ra, oằn oại. Tàn nhẫn thiệt, nhưng phải có nó cho nồi cháo khuya, mới có đủ hứng thú để bàn chuyện chính chị, chính em. Vì thời cuộc đẩy đưa, học trò đệ nhất đệ nhị bấy giờ bắt buộc phải sớm tham gia các hoạt động chính trị hay ít ra cũng phải sớm có chút ít suy tư về vận mạng đất nước. Dầu sao cũng là lớp đàn anh, lớp lãnh đạo cho đám học trò. Mà nói cho cùng, cũng chỉ có ba con đường thôi, con đường quốc gia, con đường cộng sản, và con đường lưng chừng cầu an. Biết sớm muộn gì rồi thí sinh cũng phải chọn một trong ba để: đi lính, vô bưng, hay… làm thầy giáo.

Không có gà vịt thì phải đi đào trùn câu cá. Cá tra, cá dồ, cá cầu tiêu, cá gì cũng được, miễn là có cá cho nồi cháo khuya. Thời buổi này học trò lớn cũng đâu còn thì giờ để đi câu thời, câu vận ngoài sông trong rạch. Câu cá trộm còn phải cẩn thận hơn là bắn gà bắn vịt nhiều, vì hồ cá thường được đào sát bên hè chủ nhà. Phải biết mồi thả xuống là cá cắn câu liền tức khắc, và cá cắn câu thì phải giựt lên bờ liền tức khắc, không được chậm trễ một tích tắc nào hết. Con cá lên bờ rồi mà tiếng động chỉ như con cá ăn mống, mới đúng điệu. Yếu tay một chút, bị con cá lượn vài vòng dưới nước là trật đường rầy, chủ nhà dám sẽ bưng đèn ra đi thăm hồ cá. Lên trên bờ phải trùm cá vô bao bố ngay. Cá giãy bạch bạch không thua gì con chó con. Cũng biết sủa nữa chớ: kẹt-kẹt, kẹt-kẹt… kẹt-kẹt. Dây nhợ gì cứ để như vậy về nhà tính sau. Mấy bữa hên dính được một con mẹ là xong, còn mấy bữa xui gặp toàn những con mới dậy thì, làm đi làm lại cái màn “giựt, chụp” này hoài cũng không khá được. Lạng quạng, trái tim trong ngực nó nhảy luôn ra ngoài …

Những hoạt động về đêm của bọn Hùng dọc theo con đường heo hút này lần lần được du nhập qua miền Gò Cát, chùa Vĩnh Tràng. Tại vì bạn bè của Hùng sống ở miệt này đông, vả lại khu này “vườn rộng, rào thưa, dễ kiếm gà”. Chủ vườn ở đây mỗi người tệ lắm cũng có năm bảy mẫu. Vườn này nối tiếp vườn kia trùng trùng điệp điệp như rừng, nhiều chỗ âm u tĩnh mịch không thấy ánh sáng mặt trời không thấy dấu vết con người, mới bước vào cứ tưởng mình là Lỗ Bình Sơn trên hoang đảo, cứ tưởng mình bước thêm bước nữa là dám tìm được cái Đế Thiên Đế Thích thứ hai.

Đêm Noël năm đó chỉ có ba đứa trú đóng tại nhà Quyền. Hiệp, Hùng và khổ chủ. Vừa xong màn cháo cá, Quyền như chợt nhớ ra một điều lên tiếng:

– Ê, mấy chị Bất Tri, Bất Minh, Bất Thông dở thiệt, mình cũng nên dạy cho mấy bả bài học “câu cá” này mới được. Nghe đồn mấy bả chỉ biết câu cá thòi lòi ăn đi học thôi.

Hiệp phụ họa theo:

-Ừa, nhờ cá thòi lòi chắc không ăn cứt cho nên mấy bả mới học giỏi, nổi tiếng như vậy. Còn tụi mình ăn mấy con cá cầu này hoài chắc cứt nó dọng lên óc, đầu óc nó lú lẫn đi. A, mà gần nhà bác Ba cũng có mấy hồ cá ngon lành lắm nha, bữa nào mình vô đó câu đem cho ổng nhậu.

Hùng hỏi:

– Bác Ba nào?

Hiệp trả lời ngay:

– Thì bác Ba ở gần chùa Vĩnh Tràng mầy mới gặp hôm đó, mới đó mà quên rồi. Ồng là ông Bất Thành, ba của mấy chị Bất Bất mà thằng Quyền mới nhắc. Ồng con dám đặt cho con chó của ổng tên là Bất Tử nữa mậy. Để bữa nào chờ ổng đi vắng coi nó bất tử hay nó tử cho biết, cho ổng nhậu con chó của ổng thì ổng mới bớt cái tật “bất bất” của ổng.

Bác Ba với cây đờn vi-ô-lông thì quên sao được, Hùng xen vào:

– Ê, tụi mình đâu có thể làm chuyện bất nhơn, bất nghĩa, bất cần phải trái như vậy được. Nghe thằng Quyền nói bác Ba coi vậy chớ mà chịu chơi lắm mà. Phải hôn mậy? Ông biết đờn vi-ô-lông, vậy sao mình không kéo ông già bất cần đời vô ban của mình luôn cho nó xôm trò.

Hiệp cười cười:

– Ừa, ổng chịu chơi lắm. Ồng còn bất kể dư luận, dám lăm le tán tỉnh bà Sáu má thằng Quyền nữa đó.

Nghe không hợp lỗ tai, Quyền cắt ngang:

– Thôi dẹp tụi mày đi. Thằng nào muốn đi phố thì theo tao đi lựa đồ vía.

– Đi phố giờ này?

– Noël mà mậy!

– Đi thì đi.

Hiệp và Hùng theo Quyền đi hỏi thăm sức khỏe cái tủ áo của ông Sáu, ông già của thằng Quyền. Mỗi đứa lôi ra một cái, “vét” cũng được “măng-tô” cũng được, bận xùng xình như thám tử. Rồi cả ba tàng hình vào bóng đêm. Hiệp đề nghị đi tắt đường vườn, không chịu đi đường cái. Cuối đường, lúc sắp ra khỏi vườn thì nguy thay … lọt ngay ổ phục kích của đám lính đồn Cây Số Bốn.

– Ai đó, dơ tay lên.

– Giỡn hoài mấy cha… – Có tiếng thằng Quyền trả lời.

– Dơ tay lên. Không thôi tao bắn thấy mẹ bây giờ!

Có ánh đèn pin rọi vô mặt, có tiếng kéo cơ bẩm lên đạn lách cách, Hùng hết sức ngạc nhiên. Sao lại có vụ này. Chắc thằng Quyền đã gây lộn, hiềm khích với tụi nó rồi, thằng Quyền ẩu lắm. Biết nhau quá mà, tụi nó xưa nay vẫn nể mặt đám Hùng là đám đàn anh sao bữa nay dám làm chuyện quái gở động trời như vậy được. Con đường vườn đi đã mòn chân, triệu triệu lần không thằng nào dám hỏi. Bực thiệt. Nhưng phải đưa hai tay lên trời, tụi này nổi cơn cũng dám bắn ẩu lắm chớ chẳng phải chơi …

– Ai đó, đứng lại. “Tiền tuyến”.

– “Xung phong”. Đi năm về tám, hốt được ba con.

Lần đầu tiên vô chuồng cọp, lần đầu tiên cho muỗi ăn “rề-quay-dông”. Sáng ngày, thằng tư Năng dám làm mặt lạ hăm he đòi giải cả ba lên Ty Công An, rồi bảo vì nhân đạo nên mới chịu thả về. Kể từ đó, Hùng thấy thuở thanh bình như đã hết. Kể từ đó, những hoạt động về đêm của bọn Hùng coi như đã chết. Và kể từ đó, Hùng thấy tiếng nói không có súng đạn yểm trợ của mình không dằn mặt được ai.

Bà Sáu, má thằng Quyền, chồng chưa chết nhưng bả phải ở góa, tại vì ông Sáu chỉ nghe những gì cộng sản nói mà không nhìn kỹ những gì cộng sản làm, cho nên ông mới bị bác dụ dỗ tập kết ra Bắc. Bà Sáu ở vậy với bà ngoại, kể từ ngày hai người chia tay và thằng Quyền đương nhiên làm con một. Nghe đâu ông Sáu ra ngoài đàng ngoài làm lớn lắm, hăm he cho người về đón thằng Quyền đi tập kết luôn. Nhưng, thằng con cưng của ông đã quen mùi “tư bản” mất rồi, đâu có chịu đi. Anh em bà con chú bác, bà con bạn dì của thằng Quyền lần lần ngược đường mòn Hồ Chí Minh trở ra Bắc ráo trọi. Con dì Bảy, thằng Công vừa mới đi năm rồi, rục rịch tới con Dân nữa là xong. Hùng mến con Dân, sau này đổi lại là Vân vì Dân là con gái nghe không hợp, cứ vái trời cho nó đừng đi.

– Em hãy suy nghĩ cho kỹ đi. Thân em là gái, em không chịu nổi sương gió của núi rừng Trường Sơn đâu.

– Cha ra Bắc, mẹ trong tù. Em bây giờ cũng chẳng biết nghe ai.

– Nghe ngoại. Ngoại đâu muốn em đi.

Đám ra Bắc hoạt động cho cộng sản không nói gì, đám còn lại ở trong Nam cũng nằm vùng, kinh tài cho cộng sản luôn. Dì Bảy của thằng Quyền, tức má con Vân, cũng đã bị bắt vào tù mấy năm qua, tù chính trị. Còn chú Ba của nó làm nghề cây, chủ thầu khai khẩn rừng ngoài miền Trung, tháng nào cũng chở tiền lên núi cho cộng sản hết bao bố này tới bao bố khác.

Tin cộng sản dám về chùa Vĩnh Tràng thảm sát anh Hòa, chủ tịch ban đại diện học sinh trường Nguyễn Đình Chiểu, làm chấn động khắp tỉnh Mỹ Tho. Không ai ngờ cộng sản lại nỡ giết một học sinh mồ côi cha mẹ, sống tạm trong nhà chùa để đi học, và học giỏi như anh. Đám tang của anh trở thành một đám biểu dương tinh thần chống cộng của toàn trường, toàn quân, toàn dân. Chưa bao giờ thấy tinh thần đoàn kết vượt cao như lúc này, một khúc quanh lịch sử quan trọng của trường như đã được đánh dấu. Và tiếp theo đó không bao lâu, đám con cháu cụ Đồ cũng đã tham gia công tác biểu tình, xuống đường tiếp tay với sinh viên học sinh Sàigòn, để lật đổ ông hiệu trưởng Phạm Văn Lược, một khởi điểm của phong trào lật đổ nhà Ngô vào năm 63.

Trước đó, anh em thường lui tới với anh Hòa, thường gặp anh quét lá sân chùa, thường chuyện vãn, thảo luận chuyện học hành với anh trong căn phòng ở mái hiên tây, căn phòng có vách ngăn bằng những cây song đứng, vuông cạnh. Bây giờ, không mấy ai dám bén mảng tới chùa vì sợ bị liên lụy, chỉ còn đám Hùng, quá quen thuộc với những tàn cây bóng mát, những ngôi mộ đền đài quanh chùa, không nỡ để linh hồn anh thêm cô đơn giá lạnh. Giọng nói chẫm rãi, trầm hùng của anh như cũng còn quanh quẩn đâu đây, như đã hòa lẫn trong tiếng chim quạ kêu thương.

Thằng Quyền bị bà già cộng sản của nó chỉnh lý liên tu bất tận, vì hình như điều gì bả lo cho nó thì nó không màng, mà điều gì nó muốn làm thì bả không đồng ý. Cảnh chung sống hòa bình lạnh này mặc dù kéo dài nhiều năm nhưng cũng có ngày chấm dứt. Từ lúc bà Sáu qua nhà xì-nẹc bà già con Hương, người tình có chân dung của nó, thì tình mẹ con bắt đầu xa. Vì thằng Quyền bắt đầu xa chạy cao bay.

Quyền và Hương dám dắt nhau lên Sàigòn sinh sống. Thằng Quyền tìm được một chân kế toán cho Mỹ Kim Địa Ốc công ty, ăn ngủ luôn ở chốn hậu liêu của văn phòng chi nhánh ở đường Lê Văn Duyệt. Con Hương mới khổ hơn, ban đầu ở đậu nhà người quen đi bán vé số Kiến Thiết, mãi nửa năm sau mới tìm được việc làm và chỗ ăn chỗ ở tại tiệm bán huy chương huân chương quân đội, hiệu An Thành, xéo xéo chợ Bến Thành trên đường Lê Thánh Tôn. Đã cùng nhau đi xa, đã cùng nhau đi thêm bước nữa …, mấy bận đi Vũng Tàu, mà thằng Quyền cứ thánh thiện chờ cái đám cưới. Đám cưới làm gì có một khi bà mẹ chiến sĩ đã thề với Bác và Đảng là không chấp nhận cho con Hương trở thành đảng viên của gia đình bà. Không hiểu vì nản lòng chiến sĩ hay vì ông chủ giàu tay ấn mà con Hương trở thành bà chủ không biết thứ mấy của tiệm An Thành.

– Tình nghĩa Hương-Quyền chỉ thế thôi!

Quyền có lần than với Hùng như vậy. Rồi không hiểu vì nặng lòng chiến sĩ hay vì hận tình đời đen bạc mà thằng Quyền tình nguyện đi Thủ Đức.

Chuyện tình cảm tay đôi của Hương và Quyền coi đau thương vậy nhưng mà không gay go bằng chuyện tình cảm tay ba của Vân, Hiệp và Hùng. Hùng biết Vân từ hồi còn nhỏ, tắm mương còn ở truồng, và Hùng không hiểu mình biết thương Vân vào lúc nào, có lẽ lúc ngực Vân vừa mới chớm. Vân thương Hùng là chuyện hiển nhiên vì ở cái xóm này đâu có ai là con trai cùng lứa, mà nếu có thì nhà này cách nhà kia cả mấy cây số, mấy khi được gặp. Hùng chơi thân với Quyên, về nhà Quyền ngủ đêm hà rầm. Thấy mặt nhau hoài, tự nhiên cái cảm tình không mời cũng đến.

Ban đêm học bài chung, hai đứa hay ngồi đối diện nhau, chân khều chân, chân gác chân, thằng Quyền ngồi kế bên làm gì biết được.

Một lần đó Hùng vô buồng, tối om chỉ chứa có mỗi một bồ lúa, để tìm mấy trái xoài dú mà bà ngoại thường hay dấu dưới tấm đệm phủ lên lúa, thì Vân cũng không hẹn mà gặp, dám nối đuôi theo kẻ lén lút. Hùng nép mình vào vách rồi nhè nhẹ bước ra phía sau lưng kê mồm vô tai:

– Hù.

– Ái.. Anh Hùng làm Vân hết hồn.

Hùng xì gió, gỡ hai tay Vân đang đè lên ngực, kéo vòng ra sau lưng mình, ôm Vân vào lòng. Bóng tối chịu tội đồng lõa với nụ hôn đầu. Nhịp tim của Vân, nhịp tim của Hùng nghe bình bình, không hiểu tại vì kẻ hết hồn hay tại vì người lén lút. Vân bỗng sợ, vùng khỏi tay Hùng bỏ chạy.

Hiệp lại đến với Vân trong một trường hợp rất khác thường, lúc Vân đã có chút ít ý niệm, cảm giác về trai gái. Hiệp ở trọ nhà người bà con đi học, chẳng may lại gần nhà Vân, và sau đó cũng chẳng may nhập bầy với đám Quyền, Hùng. Vì gần nhà dễ chạy qua chạy lại, Hiệp lại rành công việc vườn tược, cây trái, nên công việc lặt vặt phụ giúp bà ngoại không ít. Rơm gần lửa dễ cháy, vậy mà ông tơ bà nguyệt còn đổ thêm dầu. Chiều hôm đó Hiệp sang nhà chơi, thấy đống dừa khô mới giụt về cao như núi nên, mới xăn tay áo tính lột phụ. Hiệp nhờ Vân vô nhà lấy cây “đầm”. Vân đang nói chuyện vói con nhỏ bạn, bị nhờ ngang cũng ức, vùng vằng vô nhà lấy cây đầm trở ra đứng ngay của to tiếng:

– Nè. Rán mà chụp.

Con nhỏ dữ thiệt, Hiệp cứ tưởng là nó nói chơi ai dè nó thảy đại. Hiệp chỉ còn ú ớ, đưa hai tay đỡ lấy cây đầm theo cách làm sao mà để cây đầm cắm phập xuống bàn chân. Máu phọt ra có vòi, Hiệp điếng hồn không la được tiếng nào quy xuống ôm chân, Vân mặt biến sắc chạy vô réo ngoại vì chỉ có ngoại ở nhà. Rồi lính quính, Vân xé tẹt cái áo của mình để băng bó vết thương do chính mình gây ra. Sau đó, Vân còn phải thăm nuôi chăm sóc vết thương đã thành kỷ niệm đau đau trong tim của cả hai, cho nên mối tình anh chàng hiệp sĩ vườn mới có dịp nhen nhúm, lên hương.

Bắt cá hai tay, Vân thật quá quắt dám học sách Điêu Thuyền đùa giỡn với tình yêu. Cũng hên, không bao lâu thì cô nàng bị bại lộ. Một ánh mắt tình dù che đậy cách mấy cũng sáng như lân tinh. Một cử chỉ tình dù không tiếng động nhưng cũng nói lên ngàn tiếng nói. Hiệp và Hùng làm sao không thấy không nghe, cho nên một đêm trăng nọ hai đứa gặm mía lùi, tâm sự ngoài sương. Biết nhau hết rồi, đâu ai trách ai, chỉ cần một cách giải quyết êm đẹp, êm đẹp cho cả đôi bên, bên tình bên bạn. Thế thôi. Một lá thư hai đứa viết chung, ai được trả lời, người đó thắng. Hai đứa đồng ý như vậy, và một tuần sau Hiệp được thư hồi âm.

Hùng buồn dữ lắm. Không ngờ cái mối liên hệ mật thiết dai dẳng nhiều năm giữa Vân và Hùng trong hoàn cảnh như nửa anh em, nửa bồ bịch đó không đánh đổi được một thời gian ngắn của tuổi tròn trăng. Vì trọng bạn, trọng lời hứa Hùng bắt đầu tìm cách quên Vân, xa lánh Vân. Ác nghiệt thay, Hùng càng lơi thì Vân càng tới. Hiệp nào đâu có biết, nhưng Hùng cũng đâu làm sao trở lại được khi tâm tình mình như còn mang một vết thương chưa lành. Hùng đi Hải Quân. Hiệp thấy mình được chữ tình nhưng mất dần chữ bạn, buồn, cũng đăng đi Thủ Đức. Mới hay, đường vào tình yêu, có hai người yêu, có tội là mình…

Hai năm sau, Quyền hy sinh trong trận Sầm Giang. Qua năm kế bà ngoại mất, rồi không lâu má Quyền, sao cứ hay gọi là bà Sáu, cũng mất theo. Vân bán tiệm thuốc tây Chợ Cũ một thời gian, rồi cuối cùng cũng ngược đường mòn Hồ Chí Minh ra Bắc. Vân đã gặp Hùng lần chót tại bùng binh Sàigòn trước khi ra đi. Nhưng Vân không nói được tiếng nào, Vân xỉu tại chỗ vì thấy Hùng đang đi với một người bạn gái. Mợ Tám, người sau này về ở nhà của bà ngoại, kể lại cho Hùng nghe, Hùng đâu ngờ đâu biết, chợt thấy ngậm ngùi … Nghìn trùng xa cách, người đã đi rồi. Còn gì đâu nữa, mà khóc với cười … Phần Hiệp, Hiệp ra trường, đổi về tiểu khu Vĩnh Long, cưới vợ Vĩnh Long.

Sau 75, Hùng theo đoàn người chạy loạn, đem gia đình di tản sang Mỹ. Hiệp đi học tập, rồi sau đó ra tù về quê sống với vợ con trong xã Thanh Bình. Nghe đâu dì Bảy của Quyền đã chết trong tù. Nghe đâu chú Ba kinh tài của Quyền lên làm quận trưởng Quận Ba, rồi sau đó, làm suôi với Võ Nguyên Giáp thêm vây thêm cánh. Và nghe đâu ba của Quyền, ông Nguyễn Gia Quỳ, cũng còn được cái cơ hội chống gậy đi đốt nén hương tàn bên mồ vợ mả con. Chỉ có Vân, một hình bóng ngày xưa, đã không còn nghe ai nhắc đến.

Ôi, những hình bóng ngày xưa, tình bằng hữu ngày xưa, những dấu vết ngày xưa … nay đã thành mây khói. Nhưng, đối với Hùng, tất cả như sẽ không bao giờ chết, mà chỉ mãi mãi bồng bềnh, mãi mãi trôi lênh đênh trong miền quá khứ…