← Quay lại trang sách

4. Vào lính

Mười ba tuổi, miệng còn hôi sữa, mà Hùng đã dám đi Sàigòn một mình. Mới nghe tưởng như con nít đi “bụi đời”. Mà đi được hay không là ăn thua ở thằng Điệp và thằng Quyền, hai thằng bạn học ngồi chung một bàn với Hùng. Hai đứa nó có nhiệm vụ lo tiền. Chỉ cần mười đồng thôi, tám đồng cho cái vé xe lửa một chiều hạng cá kèo dành cho trẻ em, và hai đồng để đi xe buýt với lại phòng thân. Chỉ lo bận đi, khỏi lo bận về. Chẳng những khỏi lo bận về, mà lúc về có thể Hùng có tiền thiệt nhiều là đằng khác. Dĩ nhiên Điệp và Quyền sẽ không mất phần ăn chia, ăn lời. Mà phải có tiền ngay chiều nay, bằng không Hùng cũng dám đổi ý lắm. Chuyện xảy ra trong lúc mình bốc đồng, làm liều mới có hứng thú. Nói được là phải làm được, nhưng tụi thằng Điệp và thằng Quyền đâu biết là Hùng đã có kế hoạch hằn hòi. Vì có lần chị Kim, chị thứ hai của Hùng, có nói:

– Em muốn lên chị dễ lắm. Xuống nhà ga Sàigòn em đi ra cổng chánh là bùng binh. Bến xe buýt nằm bên tay phải. Em lên xe buýt đi Phú Nhuận. Xe nào cũng có đề bến đậu, viết bên trên tấm kiếng trước. Em dặn ông bán vé cho em xuống ở rạp chớp bóng Văn Cầm. Đối điện với rạp Văn Cầm là một cái hẻm lớn, em đi mút cái hẻm đó, rồi hỏi nhà cô Sáu Sương ở đâu thì ai cũng biết. Nhà cô là nhà cuối ngõ ngó ra đường.

Lộ trình rõ như ban ngày làm sao mà lạc được.

Vả lại nếu có lạc thì “đường đi cũng nằm trong miệng”, ai mà làm hiểm làm chi với trẻ con. Cũng hên là vào thời đó “mẹ mìn” chưa ra đời.

Ba giờ khuya Hùng có mặt ở nhà ga, chỗ mà bây giờ là Vườn Hoa Lạc Hồng. Vách tường vôi màu vàng cam cũ kỹ với hai cái cổng sắt lớn. Một bên là lối ra vào của hành khách và một bên là lối ra vào của xích-lô, xe kéo chở đồ ba-ga lúc nào cũng tấp nập nhộn nhịp. Vào bên trong mới có phòng bán vé, phòng chờ đợi cho hành khách, phòng kiểm soát hành lý … v.v.

Đi chuyến sớm tưởng là đông, ai dè có mấy ngoe. Mấy ông bự có máu mặt, mặc “vét” thắt cà-vạt từ dãy phong ngủ đối diện với nhà ga cũng lèo tèo băng qua đường. Hôm đó Hùng sửa soạn trông chỉnh tề lắm. Áo sơ mi trắng dài tay bằng vải tét-tơ-ron mỏng, quần ga-bạt-đin xanh đậm hai li ủi thằng như dao, giày béc-ca-na da thiệt đen bóng, đôi vớ đỏ a-la-đinh mới tinh. Bạn bè đâu nỡ để Hùng bệ rạc vác mặt về thành đô lần đầu tiên, cho nên mỗi đứa đưa một món, cái nào vừa cái nào đẹp cứ mặc tình mà chọn. Chỉ có cái nón nỉ lát-sê chính cống là của Hùng mới mua, nhờ lãnh tiền học bổng.

Xe lửa huýt còi báo động ba lần thì từ từ chuyển bánh. Xịt-xạc, xịt-xạc, xịt-xạc chui vào phố, khuấy động màn sương khuya. Qua Cầu Tàu, qua cổng số một trên đường Gia Long, qua cổng số hai trên đường Trần Quốc Toản mà sau này đổi là đường Ông Bà Nguyễn Trung Long. Tàu chạy nhanh hơn qua Giếng Nước, qua Hàng Còng, rồi qua mấy đám ruộng hai bên đường Vòng Nhỏ. Trong bóng đêm mặt ruộng đen ngòm như một mặt hồ mênh mông. Tiếng cọ sát rập rình của đường sắt và bánh xe đều đều như một điệu nhạc buồn. Những bụi than hồng tủa ra từ ống khói nhô cao trên nồi súp-de, bay bay trong không gian mờ tối. Thỉnh thoảng một hồi còi rung động màn đêm. Hùng rời cửa sổ trở về ngồi trên băng dài. Nguyên toa xe chỉ có vài người, nằm ngủ cũng còn chỗ trống. Sự khởi hành của một đoàn xe lửa cũng chỉ có vậy, Hùng nghĩ.

Không mấy chốc đoàn xe ngừng lại ở ga Trung Lương. Mấy toa hạng sang không biết như thế nào, nhưng toa của Hùng đúng là đang bị mấy bà “lái mận” xâm lăng. Cà-ròn nào cà-ròn nấy đầy ấp mận, mận hồng đào sọc, mận hồng đào đá, mận da người, mận xanh, mận trắng, mận đỏ … được phủ sơ sài bằng mấy tấm lá chuối, và lớp dây bố ràng rịt theo kiểu mạng nhện. Cà-ròn này chồng lên cà-ròn kia mà không sợ dập. Nhưng, phải làm vậy mới đủ chỗ. Và phải làm cho nhanh, cho kịp giờ xe lửa chạy. Tiếng người nói chuyện bây giờ át luôn tiếng hơi nước xì xì ở đầu máy.

Hùng giao khoán toa đó cho mấy bà bạn hàng, trốn lên toa kế trống trơn như không người, vừa thoải mái vừa khỏi phải lo cho bộ đồ vía. Rồi cũng không mấy chốc đoàn tàu ghé lại ga Tân Hương, may là ga này ít người đi nên tàu ngừng không lâu. Kế, đến ga Tân Hiệp. Mới là khốn khổ, không thua gì ga Trung Lương, nhưng lần nay không phải mận mà là cần tàu, cải tàu-xại, đậu ô-que. Cần tàu bay mùi thơm bát ngát, thấy thèm món thịt bò xào.

Đoàn tàu qua ga Thủ Thừa, qua ga Tân An. Hùng lần lên toa trên nữa cho đỡ chật. Hùng ngạc nhiên thấy toa này không giống mấy toa kia, ở khoảng giữa có cái quầy nhỏ bán nước ngọt và đồ ăn vặt. Hùng không dám mua món gì hết, sợ thiếu tiền lúc tới Sàigòn. Rồi Hùng lấy chỗ ngồi ngay của sổ, gió thổi vào phần phật. Chỗ này rất lý tưởng để nhìn ra ngoài nhưng cũng dễ bị cháy quần cháy áo vì những bụi than hồng nóng đỏ, bởi vậy hình như lúc nào cũng trống. Hèn chi, mấy toa sau đuôi là mấy toa hạng bét. Lãnh đủ, không phải chỉ lửa thôi mà còn khói nữa. Càng về phía đầu máy hình như toa càng sang, chỗ ngồi cũng lần lần đổi khác, từ băng cây qua ghế cây, rồi chắc từ ghế cây qua ghế nệm.

Ngay lúc xe lửa dừng lại ở điểm hẹn hò, chỗ tránh nhau cho chuyến đi và chuyến về, thì ông xét vé xuất hiện, mặc đồng phục ka-ki xanh đội mũ cát-kết như lính. Hùng mò túi quần lấy cái vé cầm sẵn nơi tay. Cái vé màu đỏ, hình chữ nhật, làm bằng giấy cạc-tông dày, lớn bằng cái nắp viết. Ông xét vé bấm trên vé của Hùng một lỗ tròn bằng mút đũa nhưng ngần ngừ không chịu trả lại:

– Mày đi với ai?

– Một mình.

– Mày mua vé hạng ba mà ngồi toa hạng nhứt thì sang quá rồi.

Rồi ổng cũng đưa lại, Hùng ngang nhiên bỏ cái vé vào túi không thèm nói tiếng nào. Có lẽ tại thấy Hùng còn nhỏ nên ổng không muốn làm khó dễ. Hơn nữa ổng bận quá chừng, còn biết bao nhiêu người phải bấm. Cạch, cạch, cạch, lẹ làng như một cái máy. Hùng ngẫm nghĩ xét vé kiểu này cũng như không, giả sử nếu như Hùng xuống ở ga Tân An thì vé của Hùng làm gì có bấm lỗ. Cứ vậy mà xài hoài sao, … a, còn màu sắc của vé nữa chớ! Rồi đến ga Bến Lức, với mùi thơm chua chua của thơm, của khóm. Xong đến ga Bình Điền, Bình Chánh, Phú Lâm, ga nào cũng ngừng nên chậm như rùa và mình ngồi lâu cũng thấy chán.

Lúc vào Chợ Lớn thì mặt trời đã lố dạng, mấy bà bạn hàng khuya hi vọng còn kịp thì giờ đi nhóm chợ. Hùng ra đứng ở cửa sổ nhìn mặt Sàigòn, Sàigòn muôn mặt. Trước mắt Hùng là mặt xấu với những xóm nhà lợp tôn lợp lá, vách giấy vách cây lộn xộn không một thứ tự nào, cái thụt vô sâu như mất hút, cái ló ra ngoài như muốn đụng mấy toa xe. Vậy mà cũng có người sống, có trẻ con chạy chơi. Rồi đến mặt đẹp là những con đường thênh thang, xe cộ dập dìu, với những nhà lầu ngăn nắp, những công viên tươi mát dọc theo đường Hùng Vương, bịnh viện Hồng Bàng. Còn mặt tình cảm yêu thương, mặt ăn chơi đàng điếm, mặt cao bồi du đãng, … mặt gì gì nữa làm sao mà nhìn thấu được.

Cứ theo lời chỉ dẫn của chị Kim, Hùng nhảy lên xe buýt đi Phú Nhuận. Và tìm được cái hẻm ngó qua rạp hát Văn Cầm. Tới cuối hẻm, Hùng khỏi cần hỏi thăm ai cũng biết nhà nào là nhà của cô Sáu Sương, bèn gõ cửa đứng đợi:

– Trời ơi, Hùng, sao em lên mà không cho chị hay, chị đi đón. Cô Sáu ơi, có em của con lên chơi nè. Sao nó đi hay ghê.

Chị Kim ngạc nhiên thì ít mà Hùng ngạc nhiên thì nhiều. Hùng ngạc nhiên vì hình như chị Kim có bầu. Hèn chi lâu rồi không thấy chị về Mỹ Tho…

***

Bây giờ Hùng cũng lên chị Kim, nhưng không phải đi thăm mà là ở luôn với chị để đi học. Đại học. Bảy năm Nguyễn Đình Chiểu biết bao nhiêu tình, tình thầy, tình bạn, tình yêu. Mà rồi phải chia tay. Nhớ ngày nào Hùng mới rời quê lên tỉnh, mà bây giờ rời tỉnh về thành đô. Có điểm giống là mình sẽ học một trường mới, làm một đoạn đời mới của người học trò, nhưng có điểm khác là ngày xưa mình còn nhỏ con khờ, bây giờ mình lớn, mình hiểu đời đôi chút. Bảy năm trôi qua, chị Kim bây giờ cũng đã có bốn nhóc, không còn ở Phú Nhuận mà dời về Bàn Cờ. Một ngõ hẻm chạy ra đường Nguyễn Thiện Thuật, gần quán cà phê Năm Dưỡng, gần trường tiểu học Phan Đình Phùng.

Đường xe lửa không còn, bây giờ văn minh hơn muốn đi Sàigòn chỉ cần nhảy lên xe đò Á Đông của ông Thầy Hài hoặc chui vô mấy chiếc xe lô. Xe đò rẻ hơn đôi chút nhưng phải chờ lâu, đông khách mới chịu chạy, đã vậy rước khách dọc đường giống như xe lửa nên chậm như rùa. Xe lô mặc dù đủ khách mới chạy nhưng nhanh hơn vì ít chỗ, đến khi chạy thì chạy một mạch như chuyến tàu suốt, không ghé đâu hết, cho nên nhiều bận chỉ hơn tiếng đồng hồ là đã đến nơi. Rồi bến xe cũ dời ra Xa Cảng Miền Tây, nói là đi Sàigòn nhưng chỉ tới Phú Lâm thôi. Từ Phú Lâm vô Sàigòn là chuyện khác, honda ôm, xích lô máy, taxi, xe lam …, lấy làm chân.

Nghĩ lại đời người ai cũng có số, muốn cải cái số của mình cũng không được. Sau khi đậu phần hai, theo thứ tự ưu tiên Hùng quyết tâm, thứ nhất tranh mấy cái học bổng đi ngoại quốc, thứ hai là thi vào Phú Thọ, thứ ba Quốc Gia Hành Chánh, thứ tư Đại Học Sư Phạm. Còn mấy phân khoa khác thì khỏi phải thi, coi như là bước đường cùng. Giấc mơ này cũng đâu có gì quá lớn đối với một học trò giỏi như Hùng, một học trò mà không năm nào không có ít lắm sáu lần xướng danh, không năm nào không lãnh phần thưởng, không năm nào không lãnh học bổng. Vậy mà trợt võ chuối sạch bách, vì hình như ngoài cái tài mình còn phải có cái “con ông cháu cha”, có cái “chi địa” kèm theo nữa mới chắc ăn.

Mấy đúa bạn thân dính ngay vòng đầu, thằng Lâm Trí Minh đi Pháp, thằng Quách Tinh Văn đi Úc, thằng Nguyễn Thành Châu đi Nhựt … rốt cuộc cái số của Hùng như dính liền với những con số của ban B cho nên Hùng phải vô Khoa Học Đại Học. Bạn bè xỉ vả:

– Xong “oral” mày biết tao làm thêm bao nhiêu bài tập hôn? Ba ngàn hơn. Mày cứ lo đàn địch ca hát với mấy em hoài làm sao mà đậu được.

Hùng phân trần:

– Tụi mày vừa phải thôi. Cái vụ học bổng đi du học thì kể như tao dở đi, nhưng ở trường Điện, cái bài toán Điện mười lăm câu chạy dài từ đập Đa Nhim về Sàigòn, rồi vô nhà, xuống bếp.., tao không có dở à. Tao còn cho cái thằng kế bên tao cọp-dê mà nó đậu rồi sao?

Cái không khí đại học nó làm cho sinh viên năm dự bị rơi vào cảnh bơ vơ lạc lõng, nhất là những sinh viên ở tỉnh mới lên, Hùng cảm thấy như vậy. Lạ thầy, lạ bạn, lạ lớp, lạ giảng đường. Mấy ngày đầu Hùng cứ như lúc nào cũng trong tư thế chạy vòng vòng, không biết đâu là đâu. Giáo sư, giảng viên, giảng nghiệm viên thấy đó mà chưa chắc đã biết mặt. Hóa học, Chu Phạm Ngọc Sơn. Điện, Lê Công Cẩn. Sinh hóa học, Phạm Hoàng Hộ … những tên tuổi của một thời.

Tình thầy trò khô khan như sa mạc. Tình bạn bè xa xôi như cách sông cách biển. Đại giảng đường rộng như rạp chớp bóng, thầy giảng bài cho năm sáu trăm sinh viên không biết ai là ai, cũng không khác gì một diễn viên văn nghệ văn gừng trưóc đám đông khán thính giả hơn phân nửa đang ngủ gà ngủ gật. Hết giờ, thầy ném cục phấn còn thừa vô bảng leo lên “xế hộp” vọt đi, học trò túa ra như vãn hát. Bạn bè cùng quê cùng lớp với Hùng bây giờ vỏn vẹn có hai đứa, thằng Tô Kim Tiền và thằng Dương Văn Út. Một số xuất ngoại, một số ở các phân khoa khác, và một số lớn rớt học lại đệ nhất ở dưới tỉnh. Chỉ còn bộ ba hết thời, trưa nào cũng chui xuống cái quán dưới cầu thang phía sau đại giảng đường ăn đu đủ ướp nước đá lạnh. Mấy dĩa đu đủ màu tím, màu hồng, màu vàng như đã trở thành món ăn thuần túy của trường Khoa Học.

Hùng ở Sàigòn không được bao lâu thì anh Khai, chồng chị Kim, chuyên viên sửa máy bay của Air Việt Nam đăng đi không quân. Không đăng đi không quân thì bộ binh sẽ hốt, phải biết đường mà chạy trước kẻo không kịp. Chị Kim và mấy nhóc ca bài “đường về quê ngoại”, và Hùng phải đi tìm nhà trọ khác. Cũng may là có nhà của chị Kim Sa, chị bà con của Hùng, gần đó nên Hùng khỏi phải đi xa. Vẫn còn tiếp tục cuốc bộ đến trường như mọi ngày, vì nhà trọ mới cũng còn nằm trong khu Bàn Cờ. Hùng nhớ mang máng hai chị Kim Sa, Kim Phụng là bà con gì gì của trung tướng Nguyễn Văn Mạnh. Ba Hùng có lần nói cả dòng họ chỉ có cánh đó là phát. Nhưng, ở nhà chị ruột thì ở không, còn ở nhà chị bà con thì vẫn phải trả tiền. Chính vì bận bịu cái vụ tiền đó mà việc học hành của Hùng mới dở dang.

Ở dưới tỉnh học trò đệ nhị cấp muốn kiếm tiền thêm cũng dễ, đi dạy kèm. Chòm xóm quen biết nhau cũng có, bạn bè giới thiệu cũng có. Năm bảy đứa cấp dưới gom lại thành một lớp nhỏ, vừa tiện cho người dạy vừa lợi cho đám học trò. Còn ở Sàigòn, kiếm một mối kèm tư gia đã khó mà vấn đề di chuyển còn khó gấp mấy lần nếu không có được một chiếc xe gắn máy làm chân. Bởi vậy Hùng mới đi kiếm tiền bằng cách trổ tài … đi thi mướn. Thi bằng tú tài tráng niên. Trước hết thi cho anh Hường – bạn anh Khai cũng đang làm Air Việt Nam. Chỉ cần có bằng tú tài một là được hoãn dịch, mà lương Air Việt Nam thì ngon hơn lương lính không quân nhiều. Mười ngàn tiền công. Chưa thi mà anh Hường đã đưa chiếc Vélo Solex, sáu ngàn, cho Hùng chạy trước. Chi “xộp” như vậy thì mình không làm coi cũng không được.

– Ngày mai Hùng nhớ đưa cho anh một tấm hình nha, loại nhỏ bỏ túi, đặng làm thẻ.

– Ừa, để Hùng về lục ngăn kéo coi có còn tấm nào không. Mà làm thẻ gì?

– Ậy, cái thẻ này không phải dễ làm đâu. Cách này ăn chắc, bảo đảm không ai nghi ngờ gì hết.

Vài ngày sau lúc đi nhậu tiết canh vịt Hồng Thập Tự, anh Hường mới lòi ra cái thẻ nhân viên Air Việt Nam của Hùng, cho Hùng. Không cần nấu chè cúng mà bỗng dưng đổi tên đổi họ, đổi ngày sinh tháng đẻ, đổi luôn cả nghề nghiệp địa chỉ. Thi tú tài một ban B đối với Hùng cũng dễ thôi, chỉ làm trúng hai bài toán, bài vật lý, bài hóa học là đủ đậu rồi. Việt văn thì làm nghị luận luân lý kiếm thêm điểm, chớ thơ văn quên hết rồi đâu làm nghị luận văn chương được. Không cần dò bài, còn bao nhiêu thi bấy nhiêu, mà Hùng cũng lấy “bình thứ” cho anh Hường. Quả thật, vào phòng thi với cái thẻ Air Việt Nam không ai dám hạch hỏi Hùng một tiếng.

Lúc đó Vélo Solex và Mobylette vẫn con thịnh hành, mặc dù xe Sachs, Goebel của Đức đã bắt đầu nhập cảng mạnh. Hùng lấy làm hài lòng với “món đồ làm của” mới có của mình. Nhưng, có chiếc xe rồi mà thiếu bạn bè cũng mất vui, thành thử Hùng bỏ học về Mỹ Tho chơi. Chị em bạn gái ở tỉnh cũng dễ mến dễ thương hơn nhiều. Ở trên này con gái học lên dự bị Khoa Học, chứng chỉ Toán Lý Hóa hay chứng chỉ Toán Đại Cương gì cũng vậy, đứa nào đứa nấy cằn cỗi, thấy mà tội. Cái gương mặt học trò như đã mất, thay vào đó những ưu tư ray rứt của cuộc sống hằng ngày, những băn khoăn phiền muộn ở tương lai. Hùng không muốn mình sớm trở thành ông cụ non cho nên về tỉnh hưởng nhàn. Bồ bịch, bạn bè, cà kê dê ngỗng vậy mà vui hơn.

Nhưng hưởng nhàn cũng đâu có dễ. Không bao lâu ông bà già phát giác, bị chửi như chửi giặc, bị đuổi như đuổi tà, cho nên Hùng một phen nữa phải trồi đầu trở về thành đô. Đang lúc mình chán học mà còn phải nhai lại bài cũ thì đúng như là cơm nếp mắc mưa, nuốt hết vô. Sức người có hạn, Hùng biết mình có giỏi cách mấy đi nữa sớm muộn gì rồi cũng phải đi lính. Một năm đã không xong, bốn năm làm gì không trục trặc. Ví dụ mình học sang năm thứ ba, thi rớt, phải đi Thủ Đức thì còn gì ân hận hơn. Thà là tốc chiến tốc thắng, đi lính trước mặc may con đủ thì giờ lên tướng.

Nhưng trưóc khi đi lính Hùng nghĩ mình phải thi mướn một keo nữa. Kiếm tiền cách này dễ quá không làm cũng uổng. Mười lăm ngàn, một là thi cho thằng cháu của ông Tổng Trưởng Giáo Dục do anh Hường giới thiệu, hai là thi cho thằng Ngôn, bạn Hùng, bỏ học đi lính thủy từ hồi rớt trung học đệ nhất cấp … bây giờ đang trốn quân dịch. Hùng chẳng nỡ bỏ bạn bè. Việc tiền bạc thì khỏi phải lo, vì con Bé Ba bồ thằng Ngôn đang làm vũ nữ chuyên nghiệp. Hai đứa nó dám ăn cơm nhà hàng mỗi ngày thì chuyện bỏ tiền ra mua cái bằng cấp cũng là chuyện lẻ tẻ. Chỉ lo một điều hai đứa nó gây gổ liên miên không biết ngày nào giờ nào tan hàng rã đám. Mà hai đứa cùng một quê, xã Tân Hiệp, có đào bới tiên nhơn tổ đường của nhau cũng không sao.

– Mày đừng tưởng lúc này mày làm ra tiền nuôi tao là mày làm lên. Mày phải nhớ hồi mày bỏ nhà đi theo tao, tao lo cho mày không thiếu một món gì. Tao mà lấy được bằng tú tài rồi thì mày sẽ thấy, mười cái mặt của mày cũng vứt sọt rác hết mà thôi.

– Thôi đi. Mặt mày sống bám chéo áo đàn bà mà còn lớn họng.

Tụi này chửi nhau tàn khốc thiệt. Ba ngày thi, ba ngày Hùng mang cái thẻ không phải là nhân viên Air Con Rồng nữa mà là phóng viên nhà báo Tia Sáng do thằng Dũng cháu thằng Ngôn làm giùm. Ba ngày lên Đa Kao ở chơi với tụi nó, đủ ba ngày thằng Ngôn càng tàn tệ hơn, bị con Bé Ba xách dao rượt chạy cùng nhà. Trốn quân dịch mà rốt cuộc cũng phải chạy băng ra đường thoát mạng. Chém giết nhau coi dữ tợn vậy rồi làm hòa với nhau cũng lẹ. Mới mầy tao đó rồi anh anh, em em cũng liền theo đó. Hùng không sao hiểu nổi cái tình yêu có ướp chất bụi đời này. Hợp rồi tan, tan rồi hợp từng giờ từng phút. Cấu xé nhau rồi cũng phải bám víu lấy nhau. Để sống, để cộng sinh cộng hưởng, không tách nhau rời ra được.

Rốt cuộc rồi thằng Ngôn cũng có bằng tú tài một hạng “bình thứ”, một cái giấy hoãn dịch kiểu mới, như nó mong muốn. Nhưng đối với Hùng hoãn dịch để làm cái gì, nếu mình không có chân làm cho một hãng thương mại của tư nhân hay làm cho một cơ sở hành chánh của chính phủ. Thời buổi này muốn kiếm được một sở làm, một là phải có người giới thiệu hai là phải bà con xa gần với mấy xếp lớn, mà Hùng thì không hội đủ điều kiện nào hết.

Không ngờ trong hai năm vác mặt về thành đô, Hùng không làm nên một trò trống gì coi được. Hùng nghĩ rằng bằng tú tài hai ưu hạng của mình chắc rồi cũng chỉ là cái pát-po để mở đường vào lính mà thôi. Vào lính!