← Quay lại trang sách

7. Bước đầu

Rời trại Fort Chaffee, Arkansas, chúng tôi chỉ biết một điều là nguyên gia đình sẽ về xứ lạnh, xứ có hoa anh đào, để định cư. Hai vợ chồng tôi, bốn đứa con – ba trai một gái, năm tuổi, bốn tuổi, ba tuổi, và mười bảy tháng. Thêm một cô em vợ, Huỳnh, mười bảy. Về xứ lạnh, phải, tại vì vợ chồng tôi muốn vậy. Hai đứa đã từ chối mối sponsorship đi Amarilo, Texas, viện cớ là muốn biết, muốn thưởng thức cái khí hậu ôn đới, có bốn mùa xuân hạ thu đông rõ rệt. Việt Nam mình, miền Nam mình mưa nắng hai mùa ai lại không biết. Texas thì chỉ có một mùa, nóng, như đã khắc ghi trong đầu. Còn một lý do nữa là vì chúng tôi không muốn vô sống trong nông trại. Tôi cũng không muốn tôi và đám con tôi sẽ sớm trở thành đám cao bồi, nhưng không dám thố lộ cùng phỏng vấn viên thuộc cơ quan LIRS (Lutheran Immigration and Refugee Services). Đi đâu chớ đi về miền bắc, về xứ lạnh, thì dễ rồi. Chỗ trống thiếu gì. Mình cũng khó lòng từ chối sponsorship lần thứ hai. Bởi vậy chúng tôi ở Fort Chaffee vỏn vẹn chưa đầy tháng. Không còn phải xếp hàng lãnh đồ ăn, khu B, mỗi ngày. Cơm Mỹ ăn chưa đủ tháng đã lên tới cổ họng, nuốt hết vô. Khỏi phải đi lãnh, đi lựa, đi đổi giày vớ và áo quần mùa đông. Khỏi phải lang thang ngoài Hitching Post. Và cũng khỏi bị vợ con cằn nhằn:

– Trăm thứ chuyện quan trọng không lo, lo chuyện gì đâu!

– Chuyện gì nữa mà lo, Mỹ nó lo hết rồi.

Phi cơ đáp xuống phi trường Sioux Falls, South Dakota, sponsor ra tiếp đón niềm nở. Đông quá, đứng chật cả hành lang. Máy hình chớp lia lịa. Đâu ngờ đám mình trở thành những nhân vật quan trọng như vậy. Ba nhà thờ bảo trợ, Lutheran, United Methodist, và United Church of Christ. Giới thiệu tùm lum rồi cũng không biết ai là ai. Bây giờ phải nói bằng tiếng Mỹ, đâu phải chuyện dễ, mà không nói coi cũng không được. Trật trúng gì cũng phải nói, yes hay no gì cũng phải có một tiếng lấy lòng. Thây kệ nó, who care. Mấy đứa nhỏ thì ngây thơ vui đùa với mấy món đồ chơi mới.

Từ Sioux Falls về Vermillion, thành phố sẽ là home-town của chúng tôi trên đất Mỹ, cũng mất khoảng hai giờ lái xe. Xa lộ I-29 đi xuyên qua vùng ruộng đồng bao la, cò bay thẳng cánh. Đồi, đồi, lại đồi, tiếp nối trùng trùng điệp điệp. Nắng chiều chan hòa trên những cánh đồng lúa mì vàng chín tháng mười, những cánh đồng đậu nành, bắp mới gặt… làm tôi tưởng như mình đang trên quốc lộ 4, từ Sài gòn về Hậu Giang. Chỉ khác là nơi đây quá rộng, rộng như sa mạc, rộng như biển khơi, không thấy lùm cây không thấy xóm giềng nhà cửa.

Căn nhà đầu tiên của chúng tôi trên quê hương thứ hai này là một căn nhà xưa cũ, tính ra có lẽ nó cũng gấp đôi tuổi của tôi. Nhà thờ Methodist mua căn nhà này với dự định phá đi để lấy miếng đất trống làm bãi đậu xe cho con chiên, nhưng không tìm được chỗ ở cho gia đình tôi nên đành phải lấy nó thế vào. Nhưng chúng tôi cũng phải trả tiền thuê, giá rẻ, chỉ hơn trăm đô mỗi tháng. Nhà có hai tầng và phân nửa basement. Tầng thứ nhất có phòng khách, phòng ăn, nhà bếp, toilet, và một phòng ngủ cho khách, làm phòng ngủ cho Huỳnh rất tiện. Tầng trên gồm ba phòng ngủ cho vợ chồng tôi và bốn nhóc. Basement trống trơn, chỉ có một lò sưởi loại xưa nằm ngay giữa với những ống dẫn hơi ấm tủa ra không theo một thứ tự nào trông như ông Phật có nhiều tay. Đồ đạc trong nhà cũng đầy đủ, không thấy thiếu món gì. Của cho được như vậy là quí hóa lắm rồi, ở Việt Nam mình cũng phải là hạng nhà giàu mới sắm sửa được như vậy. Đúng rồi, bây giờ mới thấy thiếu nhiều món. Gạo, nước mắm, rau sống … thực phẩm Á Đông.

– Blizzard, ngay trong đêm nay, một trăm phần trăm.

Bà Mỹ gọi điện thoại cho vợ tôi biết là the weatherman nói như vậy. Tôi tra tự điển để biết blizzard là gì, bão tuyết, sao mà sớm như vậy, mình mới tới có mấy ngày.

– Phải chuẩn bị.

– Chuẩn bị cái gì? Thực phẩm hả? Khỏi phải lo, ai mua để đầy trong tủ lạnh rồi.

Bão lụt miền Trung của mình ra sao mình cũng chưa có nếm mùi thì biết gì mà chuẩn bị. Tới đâu lo tới đó … Quả thật, năm giờ chiều tuyết bắt đầu rơi, lưa thưa, lưa thưa, rồi càng lúc càng dày, mù mịt. Nhìn tuyết rơi lần đầu tiên thấy thích thú, thấy mãn nguyện làm sao. Thấy được cảnh tuyết rơi phủ con tàu, ga Lyon đèn vàng, cầm tay em muốn nói … Tôi ra đứng trước sân, xòe bàn tay trơn, đón lấy những mảnh tuyết bay bay cũng cảm thấy lòng lâng lâng. Tội cho dân Sàigòn suốt đời có biết cảnh tuyết rơi bao giờ. Tôi muốn có hết gia đình ba má anh chị em tôi ở đây, trong cảnh này, lúc này, nhưng tôi chỉ có tôi. Bơ vơ và buồn thật.

Sáng ngày hôm sau thức giấc nhìn ra của sổ thấy tuyết cao khỏi đầu gối, ngập cả đường phố, ngập cả thềm ba. Tuyết đóng dầy trên cành cây, tuyết phủ trùm ngọn cỏ. Còn nghe tiếng gió hú ngoài hiên, từng loạt thổi tốc những bụi tuyết trên mặt đường bay lướt qua những đụn tuyết cao, che khuất một khoảng trời, chỉ còn một vầng mây mù trước mặt. Bão tuyết đẹp, bão tuyết chắc không giống bão lụt miền Trung.

Vermillion là một thành phố nhỏ, chưa hẳn là nhỏ so với nhiều thành phố khác trong tiểu bang này, nhưng có trường đại học lớn, University of South Dakota. Dân chúng khoảng mười hai ngàn, cộng với khoảng tám ngàn sinh viên, vị chi là hai chục ngàn người. Vậy mà đã có hai gia đình Việt Nam đã được bảo trợ đến đây trước chúng tôi, bác Đoàn và anh Mới. Gia đình bác Đoàn gồm hai vợ chồng già và bốn đứa con thuộc tuổi choai choai, còn độc thân. Con gái lớn của bác đã có gia đình, chồng con thì định cư riêng ở tiểu bang Missouri. Anh Mới, Mỹ sửa cái tên tốt của anh ta và cứ kêu là Mọi, thì có vợ và hai đứa con gái nhỏ. Họ không đi đón tụi tôi được vì ai cũng bận đi làm, vả lại tụi tôi đến không nhằm vào weekend.

Vì tuyết rơi bất thần nên tôi được một tuần nghỉ ngơi, không phải làm việc gì ngoài việc điền giấy tờ xin việc. Khỏi phải làm đơn nó cũng thâu, thằng chủ hãng là bạn thân của thằng Lyle thuộc nhà thờ Lutheran, địa chủ ở vùng này. Ở bên mình đi làm đơn, nói đến nghề nghiệp mà điền vô hai chữ “làm ruộng” thì biết là dân nghèo nhưng bên này lại khác, thằng Lyle cũng viết vô cái chữ làm ruộng, farmer, nhưng bà con lại nể sợ. Nghe nói đất của ông cố tổ của nó để lại nhiều lắm, khắp cả vùng, lớp làm lớp cho mướn… Phương tiện di chuyển cho tôi từ nhà đến sở làm, đi đi về về, thằng Lyle cũng đã lo rồi, bạn của nó, thằng George. Mỗi ngày trả một đồng, mười lăm mile mỗi bận, không cách nào hay hơn. Load King, tên của hãng. Một chi nhánh của CMI Corporation, Contract Machinery International, chuyên chế tạo xe trailer hạng nặng cho Army, Marine, Navy để chở xe tăng, thiết giáp, đại bác, hoặc súng đạn. Mới vứt bỏ súng đạn chạy qua đây, lại đút đầu vào nơi chế tạo vũ khí, hình như kiếp luân hồi của tôi chắc chưa dứt.

Xưởng chia làm năm khu, khu một đến khu năm.

Theo thứ tự là khu làm beam và parts, khu ráp, khu hàn, khu sand blast và hàn dặm, khu sơn và finishing. Tôi được chỉ định làm ở khu một, phụ cho thằng Kurt, chuyên viên phụ trách cái máy cắt sắt lớn, the big-shear. Cái máy cắt này dám cắt luôn cả thép dày cả inch. Lưỡi dao dài sáu bảy feet. Lẽ dĩ nhiên phải dùng cần trục để đưa sắt hoặc thép từ nhà kho lên dàn máy. Loại thép tấm phản lớn còn phải dùng thêm một thanh đòn có sáu cái móc mỗi bên ba cái như một cái gióng lớn và phải di chuyển từ từ vì miếng thép cũng dễ tuột theo chiều nghiêng. Mấy miếng nhỏ thì chỉ xài cái “kẹp nách”, trông như trái xoài tượng, có một kẽ hở và một hệ thống đòn bẩy built-in trong đó. Vừa nhanh vừa tiện, miếng thép càng nặng thì sức kẹp càng tăng, ai nghĩ ra cách này cũng tuyệt diệu. Tấm thép đặt được lên bàn xong là công việc cũng thấy nhẹ nhàng, chỉ theo giấy order đo chiều dài chiều rộng, làm dấu, kẻ phấn, rồi đẩy vào mà cắt. Ngoài vấn đề ni tấc, vấn đề số lượng cũng rất là quan trọng. Năm chục miếng băm ba băm bảy, một trăm miếng mười sáu bốn bốn, vậy mà thằng Kurt cứ đo một miếng cắt một miếng. Tôi lóe lên một sáng kiến, bèn ra phía sau máy hì hục làm một cái adjustable stop. Thằng Kurt cũng chẳng màng tôi đang làm cái gì. Xong, tôi lôi Kurt vô giải thích:

– Hê, mày chỉ cần đo khoảng cách từ cái stop này tới lưỡi dao một lần thôi. Khóa cái stop lại một chỗ, rồi cứ việc đẩy vô cắt bùm, bùm, bùm…

Kurt làm theo lời tôi nói, chịu lắm, nhưng lắc đầu trả lời:

– Ý kiến hay, nhưng rồi mày sẽ không còn việc gì để làm. Mày đâu có đứng xớ rớ được, tụi nó sẽ sai mày đi hốt rác, rủa cầu tiêu.

Uổng công cả buổi trời, nhưng thấy nó nói cũng có lý:

– Mày muốn xài thì xài, không thì thôi. Mày muốn tháo nó ra cũng được. Tùy mày.

Kurt vẫn giữ cái adjustable stop của tôi phòng khi khẩn cấp, còn thì cứ bổn cũ soạn lại làm hoài. Đo hai biên, làm hai dấu, kẻ một đường phấn tổ bố, đưa vào máy, quỳ xuống ngắm nghía xê dịch một hồi rồi mới chịu cắt. À đúng rồi, phải làm kiểu này mình mới được quỳ gối. Làm việc bên này lâu lâu được quỳ gối là sung sướng rồi. Đứng tám giờ mỗi ngày, máu dồn xuống chân, bắp chân tê cứng, mỗi lần quỳ gối bắp thịt như dãn ra chịu cử động trở lại. Quỳ gối là sung sướng! Cắt sắt rồi cũng dễ thôi, chỉ cái việc bưng mấy tấm sắt mới cắt đó để vào rack cho thứ tự mới là đáng sợ. Tính ra mỗi ngày tôi bưng đến cả chục tấn. Chẳng lẽ cuộc đời mình rồi phải dính liền với cái máy cắt này sao? Mới ngày nào mình cũng đường đường là một sĩ quan hải quân mà. Không được. Tôi phải tìm cách thay đổi chỗ đứng của tôi. Tôi phải phân trần, tôi phải nói với sponsor, tôi nói với thằng Lyle:

– Mày làm ơn tìm cho tao một việc gì khác đi. Mày thấy không, tao nhỏ con, không thích hợp với công việc tao đang làm.

– Không dễ gì tìm được việc nào tốt hơn đâu. Minimum wage là hai đồng mười xu, nó trả cho mày ba đồng một giờ là khá lắm rồi. Mày có thấy điều này không?

– Tao không cần biết nó trả tao mấy đồng. Nó trả tao hai đồng cũng được miễn sao công việc nó nhẹ nhàng một chút.

– À, hay là như thế này. Mày thích làm cái công việc gì ở dưới Load King? Mày cho tao biết rồi tao sẽ nói với tụi nó. Không nên đi hãng khác.

– Thợ hàn.

Tôi trả lời ngay không cần phải suy nghĩ. Phải, đúng là thợ hàn, một nghề có giá trong đám thợ nửa chuyên nghiệp nửa lao động này. Thợ hàn, tối ngày cầm cái mỏ hàn, thì cũng không gì nặng nhọc lắm. Còn được ngồi, được quỳ gối, được nằm, được leo trèo thỏa thích.

Qua tuần sau tôi được xếp vào lớp học hàn. Tôi mua áo da, nón hàn, còn bao tay thì có sẵn cho dân làm sắt. Mỗi ngày ở lại trễ hai giờ để học. Hàn đũa, đủ cỡ lớn nhỏ. Hàn đủ kiểu, flat, angle, bevel … Lấp vấp lúc đầu rồi cũng smooth dần dần. Sau hai tuần, sau hai mươi giờ tập dợt, tôi thi. Đậu. Ngày tôi rời khỏi khu một, rời khỏi cái máy cắt sắt, qua khu hai tập tễnh làm thợ hàn, tôi thấy vui mừng hết sức. Không phải vui mừng cho tôi, mà phần lớn là cho cặp giò của tôi, đỡ phải bóp bóp mỗi đêm, đỡ phải xoa dầu nóng. Tuy nhiên nỗi vui mừng nay không mấy chốc cũng tan biến ngay. Đứng núi này trông núi nọ, tránh võ dưa cũng gặp vỏ dừa. Hàn. Hàn. Hàn hoài. Hàn miết. Hàn hai mươi bốn trên hai mươi bốn. Hàn đũa, hàn dây, hàn điện. Hàn không phải là hàn, mà hàn là nhiệt. Là nóng, là cháy, là phỏng, là khét, là khói. Mù mịt tăm hơi … Tụi thợ hàn chính tông còn dọa tôi rằng:

– Mày hàn lâu lắm cũng khoảng hai chục năm thì phải về hưu. Phổi của mày không cho phép mày làm thêm.

– Thiệt vậy sao?

Ngày lại ngày cứ thấy mấy chiếc trailer mới chấm tack dính sơ sơ nằm lù lù đó, tiếp tục hàn, hàn hoài không thấy hết. Mùa lạnh này hàn còn thấy nóng, đến mùa hè thì sống làm sao nổi. Chắc phải chịu “thân bại danh liệt” thôi, lần này đâu có than phiền gì với sponsor được nữa. Tôi đã được cái gì tôi đòi hỏi rồi.

Trong đám thợ hàn hai mươi bốn trên hai mươi bốn của tôi có bốn năm đứa đàn bà, con gái. Lúc đội nón hàn thì gái cũng như trai, đến hồi dở nón ra thấy cặp mắt bồ câu, thấy làn da mịn màng và mái tóc lơ thơ mình mới giựt mình. Đàn bà con gái ai lại đi làm thợ hàn, thiếu gì nghề để làm, cái nghề này nó làm mất hết cái vẻ thẩm mỹ của người đẹp. Thiệt là uổng, tôi nghĩ như vậy.

Đến giờ nghỉ, giờ ăn trưa, tất cả nhân viên trong hãng mặc dù ăn chung một chỗ, nhưng cũng chia ra từng nhóm, từng phe ngồi riêng từng bàn, từng góc. Thường thường phải làm cùng nghề hay ít ra cũng cùng khu. Đám thợ hàn đông nhất, náo động nhất. Tuy nhiên đám thợ hàn đàn bà còn kỳ thị trống mái, thích ngồi riêng không nhập vào đám đàn ông. Trong đám đó, ngồi xa trong góc lại là con Maria, con thợ hàn gốc Indian. Hình như không đứa nào chơi với nó, cũng không thấy nó nói chuyện gì với ai. Ăn xong lại lấy sách ra đọc, không biết sách gì, chắc tiểu thuyết. Cũng có chút lập dị, làm chuyện không giống thiên hạ. Tôi không muốn mình rơi vào cảnh bơ vơ đó nên kết bè với đám thằng George, George làm ở đây lâu năm, có thớ lắm. Mình có dịp học thêm tiếng Mỹ, nói tiếng Mỹ. Lẽ dĩ nhiên tôi cũng phải gặm sandwich đều đều như tụi nó thôi. Một lần tôi đem theo mấy con tôm khô của thằng bạn bên California gửi qua định khoe món Á Đông của mình, nhưng đứa ăn đứa không ăn thì biết là bị chê. Không ngờ tụi này cổ hủ quá, không những kỳ thị chủng tộc mà còn kỳ thị thực phẩm nữa.

– Mầy từ đâu đến?

Hôm đó bỗng nhiên con Maria hỏi chuyện tôi trong lúc hai đứa hàn gần nhau. Giọng nó nghe cũng lờ lợ, không giống như Mỹ, tuy nhiên cũng là giọng con gái. Có cái khác. Tôi thấy nó giống như một người đàn bà Việt Nam tại vì tóc nó đen. Tôi trả lời:

– Tao là người Việt Nam, tao tới từ Việt Nam.

– Bao lâu rồi?

Con nhỏ này coi bộ rành mình quá mà còn làm bộ hỏi, tôi tiếp:

– Vài tháng. Mày làm ở đây lâu chưa?

– Gần một năm nhưng tao cũng sắp nghỉ …

– Tại sao vậy?

– Tháng tới chồng tao ra trường. Tụi tao sẽ về reservation của tao ở. Chồng tao sẽ làm hiệu trưởng trường trung học ở đó.

– Ngon quá hả. Reservation của mày ở Sioux Falls hay Sioux City?

– Cách đây xa lắm, mấy trăm mile, mày không biết đâu. Tụi tao thuộc bộ lạc Crow Creek.

– Vậy hả. Tao cũng không rành khu này lắm.

Maria thỉnh thoảng nói chuyện với tôi, nhưng tôi không dám tỏ ra thân thiện với nó. Bọn Mỹ không ưa nó, mình thân với nó sẽ bị họa lây. Tôi nhiều lần muốn tìm hiểu tại sao Mỹ không ưa Indian? Tụi nó bảo rằng Indian làm biếng, tối ngày say sưa không chịu làm việc, ở không ăn welfare. Nhưng lần lần tôi mới hiểu là trong reservation thì không có việc gì làm, ra ngoài thị tứ thì bị hất hủi, không bao lâu cũng bỏ job mà về reservation, nhậu cho quên đời. Cũng may vùng này ít thấy da đen, không thôi cũng coi được màn kỳ thị da đen nữa. Nhưng tại sao tụi Mỹ thích dân Á Đông? Chắc chưa tới lúc nó kỳ thị cũng chưa biết chừng. Trước khi rời khỏi Vermillion, Maria và chồng nó, thằng Tom lại là thằng Mỹ mà không phải là Indian, có đến nhà thăm tụi tôi, cho địa chỉ và hẹn có ngày gặp lại.

Tôi làm ở khu hàn được hai tháng, thì bỗng nhiên được gửi trả về khu một, nhưng không phải phụ trách cái máy cắt sắt nữa mà thuộc nhóm làm small parts. Chỗ này thấy dễ thở hơn nhiều, bớt hít khói. Thỉnh thoảng mới hàn, phần lớn chỉ chấm tack cho dính, mình là builder chứ không còn là welder nữa. Nào là pedestal, out-rigger, tail gate, loading ramp … thậm chí cho đến suspension block, goose neck pin. Công việc cũng có lý hơn nhiều, cứ theo blue-print mà build, còn học hỏi thêm đôi chút. Tôi lẩn quẩn theo thằng leaderman để học đọc mấy cái ký hiệu đặc biệt. Không gì khó. Vài tuần sau tôi thấy mình cũng có khả năng để làm một leaderman, nhưng còn phải hội đủ điều kiện, phải thi lên thợ hàn hạng hai. Được. Tôi bắt đầu tập lén. Hàn over head, hàn vertical down, hàn vertical up. Phải canh lửa nguội một chút, nóng quá sắt chảy hết. Tập nhiều lần thì cũng phải được, nhưng còn phải chờ đúng kỳ hạn nữa. Tối thiểu, phải có ba tháng thợ hàn căn bản. Chờ. Đúng ngày. Thi. Đậu nữa. Dễ quá. Nhưng chức vụ leaderman chờ hoài không thấy, hình như hãng có policy riêng cho đám da vàng. Thôi cũng được, unofficial leaderman cũng khỏe hơn nhiều. Tôi được biệt phái năm tên lon ton mỗi ngày, phân công cho tụi nó làm việc còn phần tôi giữ nhiệm vụ cung cấp raw-material. Vì phải order raw-material nên tôi phải tiếp xúc và làm thân với mấy đứa chạy máy cưa, máy cắt, máy tiện, máy khoan. Nhiều lúc mình order gấp mà đám thợ chuyên nghiệp này lại bận lang thang tán dóc khắp nơi. Thợ chuyên nghiệp thường thường có nhiều thì giờ để bàn chuyện đời, chuyện car racing, horse racing, foot ball, base ball, hơn là chuyện phân tấc, foot inch ở đây. Cũng nhờ vậy nên tôi có cơ hội học cưa, học tiện, học khoan, học làm mũi … Nhưng rốt rồi “bá nghệ trần thân”! Mình lãnh lương cũng ngần ấy thôi tội gì làm công việc của người khác. Tôi lần lần cũng tập được cái tánh của tụi Mỹ, thật là Mỹ, cái tánh mà lần đầu tiên tôi thấy tôi chê, tôi khó chịu. Do your own job. Phải, cái job của tôi có đánh bóng cho mấy cũng là thợ hàn thôi, không hơn không kém.

Mùa xuân đến, mùa ai cũng đợi mong, mùa được đi ra ngoài, thoải mái. Bông hoa vui vẻ, cây cối đâm chồi, cái gì trông cũng đẹp cũng tràn đầy nhựa sống. Nhưng hoa nào là hoa anh đào? Đâu phải ở xứ lạnh là có hoa anh đào, muốn xem hoa anh đào thì phải đi Hoa Thịnh Đốn, mấy người bạn Mỹ nói như vậy. Trật đường rồi, Hoa Thịnh Đốn ở tận miền đông. Xa lắm, không thể đi được với một hai ngày nghỉ phụ vào cuối tuần, tụi tôi quyết định đi thăm vùng Black Hill, đi thăm Rushmore Mountain, chỗ có mấy cái mặt của mấy ông tổng thống Mỹ bị dán vào vách núi, một thắng cảnh quan trọng của tiểu bang nhà. Rốt cuộc tụi tôi đi thăm đủ thứ, thăm Rushmore Cave, thăm Cathedral Needle, thăm Crazy Horse, thấy đất Mỹ cái gì cũng to lớn, cũng vĩ đại. Tiếc là không phải xứ sở của mình. Trên đường về dọc theo xa lộ I-90 tụi tôi còn ghé vùng Bad Land, vùng đất sụp như một Grand Canyon cỡ nhỏ. Được làm quen với mấy con chipmunk. Chụp hình mấy con prairie dog làm kỷ niệm. Sau cùng, chúng tôi ngược dòng Missouri về phía bắc đến thăm Maria và Tom. Gặp lúc hai đứa nó đang bắt một bầy chồn con, chồn hôi, baby skunk, vừa về tới nhà. Maria và Tom ngạc nhiên khi nhìn thấy tụi tôi vì tụi tôi đến mà không báo trước. Kể ra tôi đọc bản đồ Mỹ cũng không tệ lắm. Tôi vào đề ngay:

– Cái giống này hôi quá mà mày bắt làm chi.

Tom cười ha hả, rồi giải thích một mạch:

– Mày chưa biết nuôi giống này hả. Cái giống này bắt về, cắt bỏ hai cái hạch hôi đi rồi nuôi trong nhà như nuôi pet; chó, mèo chuột gì thấy nó cũng sợ hết. Hôi vậy chớ mà khôn lắm, nhất là cái giống có hai sọc trắng trên lưng này. Mắc lắm chứ chẳng có rẻ đâu, năm sáu chục một con. Sẵn đây mầy theo tao, tao chỉ cho mầy cái này …

Không hiểu thằng này định dỡ trò gì, tôi nhắc chừng vợ tôi và Huỳnh trông coi mấy đứa nhỏ trong lúc nói chuyện với Maria, còn tôi theo Tom xuống basement.

– Tao chỉ mày cái nghề này mày đừng có chỉ lại ai hết nghe, tao học của một ông già ở Tennessee. Tụi bác sĩ giải phẫu một con charge năm chục đồng, không rẻ đâu. Cách này chỉ mất năm phút. Một mùa cũng kiếm được vài ngàn dễ như chơi, chỉ làm trong ba tháng, tháng tư tháng năm và tháng sáu.

– Chỉ có ba tháng?

– Ừ, sau tháng sáu, baby skunk lớn rồi, khó train lắm.

– Làm sao biết nó ở đâu mà bắt?

– Đăng báo. Thưởng năm mười đồng cho ai chỉ mình hang skunk. Thường thường người ta chỉ cho mày mấy cái xác skunk chết dọc đường thôi. Mày phải quần khu đó mà tìm hang … Nè, đeo kiếng vô kẻo nó spray vô mắt mày thì nguy.

Tôi lại học thêm một nghề mới, nghề giải phẫu skunk, dễ như trở bàn tay. Nhưng mà con Maria có vẻ không được vui khi thấy Tom sốt sắng với tôi như vậy và lại truyền thêm cái nghề bí mật đặc biệt này. Thằng Tom bây giờ cũng đổi tánh thấy rõ, nói nhiều hơn cả con Maria. Nó bảo tôi rằng từ ngày di chuyển về đây chưa bao giờ thấy bạn bè của nó tới thăm, tôi là người đầu tiên cho nên nó khoái chí lắm. Ngoài nghề làm hiệu trưởng nó còn làm thêm một nghề nữa, cầm đồ lậu. Đồ của Indian chất đầy nhà. Lẽ dĩ nhiên tụi nó làm gì có tiền chuộc, nhậu hết rồi, nên thỉnh thoảng Tom phải đem xuống phố bán một lần lấy lại vốn, thêm một mớ tiền lời. Tom còn collect súng nữa, đủ loại, mới có, cũ có, cowboys có, indian có … treo đầy tường, gác đầy giá. Nhưng chưa có M 16 và AK 47, tôi châm biếm nó như vậy. Thấy tôi có vẻ cũng ưa chơi súng, Tom lấy khẩu Marlin 22, cầm đưa cho tôi:

– Tặng mày đó. Để kỷ niệm với tao.

Tôi ngạc nhiên hỏi lại:

– Thiệt hôn mậy?

Nó bảo tôi viết tên cho nó biết rồi chẳng nói chẳng rằng lấy tấm card visit lật phía sau viết mấy dòng xác định sỡ hữu chủ của cây súng:

– Tao nghĩ như vậy được rồi. Mày khỏi cần xin giấy phép.

Trước khi về nó còn gửi cho tôi một mớ trà Tenesee, trà rễ chứ không phải trà lá, gọi là củ cũng được vì giống như mấy củ mì. Ngửi cũng thơm mùi trà, lạ thật … Maria còn muốn giữ tụi tôi ở lại để đi thăm reservation của nó, có đài kỷ niệm và có viện bảo tàng cất giữ nhiều đồ xưa của bộ lạc, nhưng rất tiếc tụi tôi không còn thì giờ. Ông cố của nó ngày xưa là tù trưởng, con Maria nói như vậy. Đất đai vùng nầy hầu hết là của dòng họ nó, bây giờ thì thuộc về chính phủ rồi, chính phủ giựt không, không trả tiền, nhưng đền bù lại bằng cách xây cất nhà cửa làng mạc, trường học, công viên, và nhiều tiện nghi khác, cho toàn bộ lạc. Cái gì cũng mới toanh, sướng quá còn đòi hỏi gì nữa. Nhưng Maria cứ nghĩ là bất công, nó không còn xứ sở, không còn bộ lạc. Cũng như mình, những con người mất nước. Điều khác nhau là tụi nó là những kẻ mất nước đang sống trên đất nước của nó, còn mình là những kẻ mất nước đang sống lang thang trên xứ lạ quê người. Ai khổ hơn ai?

Về đến nhà trời cũng chạng vạng tối. Vợ tôi, mấy đứa nhỏ, và Huỳnh vào nhà trưóc. Tôi ghé qua thùng thư lấy thư và thu dọn lại đồ còn sót trong xe. Ngạc nhiên một điều, tôi lớn tiếng gọi:

– Má-my, làm sao em vô nhà được? Chìa khóa của anh ở đây, bóp của em cũng còn ở trong xe.

Vợ tôi nói vọng ra:

– Thôi rồi, hồi đi anh quên khóa cửa.

– Em quên chứ anh quên sao được. Em là người ra sau chót mà, anh lo xe cộ.

Cũng may đồ đạc trong nhà cũng còn y nguyên, dân ở đây cũng hiền, không đến nỗi. Tôi vừa cởi giày vừa coi mấy bì thư, hầu hết là bill. Nhưng có một cái thư trông lạ lạ Tôi mở ra xem. Ceta (Comprehensive Educational Training Agency). Ceta chứng nhận rằng tôi đã hoàn tất ba trăm hai chục giờ cho lớp huấn luyện thợ hàn. Tôi đọc lại lần nữa cho chắc. Sao lại có chuyện này. Tôi có đi học chương trình này bao giờ đâu! Tụi này láo thật. Chẳng lẽ mình ký giấy tờ gì bậy bạ, ký mà không biết không hay. Cũng có thể lắm. Thằng Load King cũng láo, ăn công ký với đám này. Chỉ tập có hai mươi giờ, bây giờ giấy ghi ba trăm hai chục giờ. Thôi cũng được, bề gì đương sự cũng đã được cấp giấy này để tiện dụng. Tôi nghĩ tôi đã học nhiều nghề lắm rồi mặc dù mới đặt chân lên đất Mỹ mới hơn sáu tháng. Tuy nhiên đây là nghề đầu tiên tôi có giấy tờ chứng minh. Mình đang ở bottom rồi thì chỉ còn go up chứ không còn go down được nữa. Đây là bước đầu tiên. Hãy cố gắng, hãy chịu đựng, hơn nữa, hơn nữa, rồi đời mình sẽ đi lên. Tôi khuyên tôi như vậy.