8. Chiếc đũa thần
Tôi đang làm một unofficial leaderman ở khu ráp small parts, thì bị đẩy qua khu 4, khu sand blast và hàn dặm. Hóa ra làm việc cho một hãng tư của Mỹ cũng giống như mình đi lính ở Việt Nam, không được ở yên một chỗ. Có cái lợi là nhân viên trong hãng được huấn luyện đủ thứ nghề mà khỏi phải đưa ai vào trường. Nghề dạy nghề, mặc dù không rành bằng đám thợ chuyên môn, nhưng mấy lúc kẹt… không chó bắt mèo ăn cứt, cũng được. Coi bộ Mỹ không hạp với câu nhất nghệ tinh nhất thân vinh, hễ thấy mình vừa xong công việc này thì lập tức sai đi làm việc khác. Lao động làm ăn giờ, đúng là sức nào tiền nấy.
Trailer vừa chuyển qua khu 4 thì được đưa ngay vô phòng sand blast, phòng xịt cát, thổi cát. Chiếc xe mới đưa vô sần sùi như con heo sống, mà trở ra trắng nõn như con heo đã được làm lông. Sẵn sàng để sơn.
Phil, thằng foreman khu 4, định đẩy tôi vào xử dụng cái máy xịt cát đó mới khổ. Kỳ thị chủng tộc? Chắc nó mang bịnh này nặng lắm nên mới dám làm như vậy. Tôi cự thẳng vào mặt nó:
– Mày phải biết tao là thợ hàn, và thợ hàn không làm việc đó.
Tôi tưởng nó sẽ hùng hổ với mình, ai dè nó chỉ cười trừ rồi lơn tơn đi tìm người khác. Làm tôi cụt hứng, nhưng tôi cũng có lý do của tôi, lý do thật chính đáng. Vài ngày sau tôi mới biết đây là công việc xây tua, tới phiên mình thì mình phải làm. Sau thằng Jim là đến phiên tôi, bắt đầu lại như bắt đầu một con giáp. Cái phút giây chờ đợi coi tôi có làm nổi hay không như được xì ra, tụi Mỹ làm chung khoái chí lắm, cười ngặt nghẽo. Một thằng nói:
– Tao thấy mày ôm cái họng súng đó cũng giống như một đứa nhỏ ôm cái vòi voi. Mày phải rán mà đứng cho vững không thôi cái vòi voi nhân tạo này dám dở bổng mày lên trời lắm đó.
– Coi đây này. Ki-ma … sô-gi, hịch hịch.
Tụi Mỹ lại cười to hơn khi thấy tôi biểu diễn một màn thái cực đạo. Jim kéo tôi vào phòng sand blast, chỉ cho tôi cái ống bố giống như vòi nưóc chữa lửa thứ bự:
– Đấy, liệu mà karaté cái thứ này.
Jim có nhiệm vụ chỉ cho tôi việc sand blast.
Trước hết là tròng vô bộ đồ giáp thứ thiệt, bộ đồ có những lá thép mong che khắp ngực bụng tay chân. Kế, trùm lên đầu một nón sắt thiệt lớn cũng có những lá thép lòng thòng phủ xuống vai. Bây giờ hai đứa trở thành hai phi hành gia không gian, hai R2D2, chỉ thấy nhau qua khung kính trước mặt. Phải la lớn mới nghe. Tôi bợ cái vòi chữa lửa lên và lắp mối nối vào bộ đồ giáp. Một làn gió thổi vào mặt mát rượi, thì ra trong hệ thống vòi voi này có một ống tiếp hơi.
Jim xòe tay chụm ngón trỏ vào ngón cái ra hiệu sẵn sàng, tôi dang hai chân đứng theo kiểu đứng trên tàu và từ từ đẩy cần công tắc gắn ở đầu vòi về phía trước. Tiếng động cơ rú lên và một luồng ám khí phóng ra. Cái vòi tự động chĩa lên trời mặc dù tôi cố ghìm nó xuống. Đã vậy nó còn đẩy tôi thụt lùi lần lần về phía sau, đến khi đụng vách phòng tôi mới đủ sức kiềm chế được cái con rắn quái đản này. Thằng Jim nhảy lại tiếp tay tôi ấn nó xuống, quạt qua quạt lại trên thành xe. Quạt tới đâu sáng tới đó như mình đánh vảy cá, không dám để lâu một chỗ sợ lủng luôn vô thịt.
Nói là sand blast, nhưng đâu phải sand mà là steel, steel blast mới đúng. Những hạt thép nhỏ li ti bắn ra với một vận tốc khá mạnh. Không mấy chốc cả phòng trở nên mù mịt vì những bụi phóng xạ của đám thép hạt này. Mấy cái vỏ xe may là được phủ bởi mấy thùng sắt không thôi thì dám đã nổ mất tiêu rồi. Chỉ có cách này mới trị nổi mấy chiếc trailer hạng nặng, trailer nhà binh. Hay thiệt. Nhưng, cái cực của sand blast đâu phải là ôm cái vòi xịt tới, xịt lui mà cực là ở chỗ clean-up, là cào cái mớ thép hạt đó đổ đôn xuống hầm cho cái máy lọc. Lọc lại, xài lại. Thép hạt nặng hơn cát nhiều, xúc một giá đầy, đi không muốn vững.
Xịt cát xong, trailer được di chuyển ra ngoài hành lang bằng xe fork-lift. Fork-lift ở đây cũng có hai loại: loại thường chạy bằng máy dầu cặn, và loại đặc biệt chạy bằng điện, bình ac-cu. Trailer được đặt nằm thăng bằng nhờ mấy bánh xe lắp sẵn phía sau, và hai cái stand như hai cái chân chịu, đặt ở phía trước dưới hai đà chính. Thằng leaderman có nhiệm vụ rọi đèn pin tìm những chỗ hàn cháy vì dư lửa, hàn bộng vì thiếu lửa, hàn như con rắn liu điu vì ngủ gục … v.v…, nói chung là mấy chỗ hàn xấu, và mấy chỗ quên hàn để khoanh một vòng tròn bằng phấn. Rồi đám thợ xử dụng chisel, máy dẫy, grinder, máy mài, phân tán mỏng nhào vô mấy chỗ làm dấu, làm thịt. Tiếng cọ sát giữa thép với thép nghe điếc con ráy. Kế, đến phiên đám thợ hàn trổ tài re-weld, hàn láng trở lại. Sau cùng là tốp thợ mộc, cưa đà gỗ loại dày phủ lên trên, bắt bù-loong vào đà ngang để đóng sàn trailer. Đó, công việc của khu 4 cũng chỉ vậy thôi, việc gì mà mình làm không trôi.
Nhưng, trôi hay không trôi đôi khi cũng còn phải tùy thời, tùy vận. Hôm đó đến phiên tôi sand blast. Vừa xong chiếc thứ hai, tôi lấy fork-lif loại chạy bằng điện, đội cái goose neck, cái thớt đằng trước, di chuyển nó ra ngoài. Nhích tới, nhích lui mấy bận tôi cũng cho chiếc trailer đậu parallel vào đúng vị trí. Vác hai cái stand về đặt dưới đà chính sẵn sàng hai bên. Bấm nút “down” từ từ hạ xuống. Không được, stand thấp quá. Stop. Đội lên. Vác thêm 4 miếng đà gỗ để mỗi bên hai miếng, chồng lên cái stand cho cao thêm. Đâu vào đấy thì bỗng nhiên từ phía sau lưng tôi vọng tới:
– Ê mạnh giỏi, Hùng, lâu quá không gặp mày. Tao tưởng mày nghỉ sở rồi chớ, ai dè mày đổi qua khu này. Bao lâu rồi mậy?
– Gần hai tháng.
– Hi, Hùng.
– Hi,hi…
– Hi, mày đang làm ở đây hả?
– Hê, tụi mày cả băng đi đâu đây?
– Xếp John sai tụi tao qua đây khiêng cái máy bơm hydraulic này về thử.
– Bộ tụi bây bỏ nghề làm thợ hàn hả? Làm thợ máy hả?
Liệng đại cái máy xuống đất cái bịch rồi cả bọn, mấy thằng Mỹ con làm chung với tôi lúc trưóc, móc thuốc ra hút và bắt đầu tán dóc. Chẳng có chuyện gì khác hơn là chuyện thằng xếp mới của tụi nó, thằng John đầu sói. Một điều, hai điều cứ bảo thằng John là thằng ngu. Ngu? Ngu mà sai tụi nó chạy có cờ. Oh men, men, nghe tùm lum, rồi oh men, oh shit, và four letter word văng ra tứ phía. Bắt sang qua chuyện gái …, tụi nó kể rất là tự nhiên làm tôi cảm thấy mình lạc hậu, lạc loài. Lạc hậu thì cũng chẳng màng, xưa nay nước mình có bao giờ thoát khỏi vòng chậm tiến đâu. Nhưng, cái ý nghĩ lạc loài mới thấy thấm thía làm sao. Cái loài của mình tự cổ chí kim đâu bao giờ làm tổ ̉ vùng này, phương trời này.
– Ê, tụi tao phải đi nghen. Sẽ gặp lại mày.
– Bye.
– Bye…, bye.
Tôi vẫy vẫy tay tiễn đám nhóc cứ tưởng mình còn trẻ như tụi nó, rồi trở lại với công việc. Ngón tay trỏ đè lên nút “down” mà cặp mắt vẫn trông chừng theo lũ bạn, hồn thả tận đâu đâu… cho đến khi nghe “cạch”, một tiếng kêu nhỏ. Tôi quay lại, hốt hoảng thấy ngón tay của mình bị kẹt giữa chiếc trailer và cái cần điều khiển của chiếc fork-lift. Cái nút “up” sát bên nút “down” cũng bị vô hiệu hóa luôn, còn chỗ đâu mà bấm. Trailer cứ tiếp tục hạ xuống, và cái cần điều khiển từ từ sụm. Như chợt nhớ một điều, tôi nhìn lại hai cái stand, ôi thôi rồi, bốn miếng đà gỗ chêm thêm bên trên đã bị thằng nào lấy đi đâu mất. Sự kinh hoàng đến với tôi như một luồng điện, tôi hãi hùng la:
– Cái tay của tao, Flil. Cái tay của tao, lẹ lên, Phil, cứu tao với…
Thằng Phil sáng mắt thật, thấy tôi giằng co với con rùa loại snap turtle, cắn một cái trời gầm không nhả, là nó hiểu ngay vội vàng nhảy lên chiếc fork-lift, lập tức rồ máy lượn một vòng, lụi hai cây chĩa vào cái goose neck, nâng lên. Tôi mừng rỡ gỡ được cánh tay ra. Phil chạy lại:
– Tháo bao tay ra coi.
Tôi rút từ từ, nhè nhẹ. Ngón tay trỏ dẹp lép như tờ giấy, xương gân lòi ra trắng xát. Hên là tôi dùng có một ngón, tôi vọt miệng:
– Oh shit. It’s flat, men.
Phil trợn mắt, nhăn mặt. Rồi như sợ mấy đứa làm xung quanh nhìn thấy, sợ tinh thần nhân công dao động vì cái ngón tay bầm dập này, Phil tiếp:
– Tròng bao tay vô. Đi theo tao, đi.
Tôi điếng hồn chỉ làm theo những gì Phil nói. Rồi tưởng mình mạnh sức, nhằm nhò gì với vết thương nhẹ này so với những người bị thương ngoài chiến trận ở Việt Nam, ai dè chưa được nửa đường lên phòng y tá, tôi hoa mắt không thấy đường đi. Tôi tháo bao tay ra coi lại ngón tay lần nữa. Máu bắt đầu rịn ra, bây giờ mới biết đau, nhức nhối buốt xương. Tôi bủn rủn quỵ xuống tại chỗ, mắt nhắm lại cho bớt xây xẩm. Vài phút sau, biết có ai đỡ mình lên băng ca, biết trên tay mình có cây kim vô nước biển … Rồi nghe tiếng xe Hồng thập tự hụ còi, thấy mình được đưa lên xe, thấy xe chạy xốc tới xốc lui. Văng vẳng bên tai còn nghe tiếng của mấy cô y tá:
– Từ đây xuống Sioux City bao lâu?
– Khoảng hai mươi phút.
– Nhanh lên, mặt mày nó xanh ngắt rồi.
Và giọng người tài xế:
– Bảo nó rán lên… hang on…
Cứ nghĩ là mình sắp đi theo ông bà, tôi chỉ buồn tại sao mình phải rơi vào cái cảnh chôn thây nơi xứ lạ quê người. Đánh giặc với Việt Cộng cả chục năm không chết, mới tới Mỹ chưa hai năm mà phải bỏ mạng sa trường. Để lại vợ con bơ vơ không ai đùm bọc, không ai nương tựa. Tức thiệt. Chỉ có việc di chuyển mấy cái trailer mà làm cũng không trôi. Mà thằng lỏi nào cũng ác, dám lấy mấy miếng gỗ của mình mà không thèm hỏi một tiếng. Tôi đang nghĩ miên man thì xe Hồng thập tự cũng chạy ào tới bịnh viện.
– Mày phải ký vô đây đặng bác sĩ giải phẫu ngón tay cho mày.
Một giọng nói sát bên lỗ tai, và có người cầm tay tôi đặt lên tờ giấy. Thu hết tàn hơi, ký, một chữ ký đọc không được mà thấy cũng không được. Rồi tôi làm theo lời dặn của cô y tá chụp thuốc mê. Đếm. Một, hai, ba … và tất cả chìm vào bóng đêm.
Lúc tỉnh dậy, đầu tôi nặng như đá. Bỗng nghe được tiếng bốn đứa con tôi chạy giỡn lăng quăng bên giường, và tiếng vợ tôi mừng rỡ:
– Ba tỉnh rồi kia… Anh thấy trong người anh ra sao?
Mình đang nằm nhà thương? Tôi cố moi trí nhớ xem chuyện gì đã xảy ra. Thôi, chết rồi, tôi quờ quạng đưa cánh tay phải mân mê cánh tay trái. Băng bột? Hai lóng tay dập nát, dẹp lép không biết có còn không? Tôi giơ cánh tay trái từ từ lên ngực, muốn cử động ngón trỏ nhưng không còn cảm giác gì hết. Chắc bị cưa mẹ nó rồi.
– Mấy giờ rồi em?
Tôi gượng ngồi dậy, vợ tôi đỡ lưng tôi.
– Ba bốn giờ chiều. Anh cứ nằm nghỉ cho khỏe, ngồi lên làm chi …
Tôi thấy choáng váng rồi buông người ngã xuống nệm. Lỗ tai lùng bùng, thái dương nhức bưng bưng. Vậy là hơn một ngày, tôi thở một hơi dài lấy sức.
– Ba, … ha ha … ba chưa chết má à.
– Nói tầm bậy. Đi chơi với mấy em đi, để ba nghỉ.
Vợ tôi cầm tay tôi mân mê, bóp bóp. Và cơn buồn ngủ bỗng như trở về, kéo mi mắt tôi xệ xuống …
Tôi được nhận vào học năm thứ nhất tại Western Iowa Tech Community College, (Sioux City- Iowa), sau khi bản sao bằng cấp tú tài hai và bằng sĩ quan hải quân của tôi được trưởng gửi đi Washington D. C. khán nghiệm. Sáu giờ học, bảy giờ sáng hai giờ trưa kể luôn giờ ăn trưa, sáu giờ làm thợ hàn part time ca đêm ở Load King, bốn giờ chiều đến mười giờ tối, lái xe đi đi về về hai giờ nữa, vị chi mười bốn tiếng một ngày. Mười giờ còn lại dành cho tắm rửa, ăn ngủ, bài vở … Nhà cửa, con cái, chợ búa, nấu nướng giao hết cho vợ. Ban đầu chỉ sợ mình không đủ sức, nhưng rồi quen đi, mình như được programmed thành robot, tới giờ chạy thì chạy tới giờ ngưng thì ngưng.
Vào lớp mấy tháng đầu thật tình mà nói, thầy giảng thầy hiểu tôi nói tôi nghe. Về nhà, tôi phải rán lấy sách ra đọc và chịu khó tra tự điển. Nhưng, tự nhiên rồi nghe được hiểu được, chẳng biết sao. Cái khó sau đó không phải là nghe mà là nói. Rồi lần lần cái khó không phải nghe và nói mà là đọc và viết. Nghe, nói, đọc, viết và gì gì đi nữa, tiếng Mỹ đối với tôi suốt đời như vẫn là sinh ngữ hai, thứ sinh ngữ phụ mà tôi đã chọn hồi nào tôi học lên ban trung học. Chán thiệt. Chung một lớp với tôi còn có hai anh bạn độc thân, cũng chịu khó đi làm đi học như tôi nhưng chỉ được một tháng thì bỏ cuộc. Không hiểu bị trở ngại vì sinh ngữ hay vì hãng thịt bò IBP (Iowa Beef Processing), trả lương cao.
Học xong quarter đầu thì trời đã sang đông, tuyết phủ trắng đồng. Thêm một trở ngại nữa là xe cộ đường xá. Xe, mới qua thì làm gì có xe mới, tôi được chiếc Toyota đời 69 làm chân. Sáng nào nhiệt độ dưới không độ, trừ trừ, thì đề máy chưa chắc đã nổ. Đề máy không nổ thì còn mệt dài dài, phải câu bình, phải đẩy, phải ủi.., phải làm sao cho nó chạy mới thôi. Không thể mất một buổi học mà cũng không thể mất một ngày làm, cái nào cũng là xương máu, không thể hy sinh. Đường xá thì kinh nghiệm đã có dẫy đầy của mùa đông năm rồi, mùa đông đầu đời. Lọt xuống ruộng, cúi đầu làm dấu thánh giá rồi bò lên chạy tiếp. Quay vòng vòng, nhắm mắt niệm nam mô a di đà rồi quay đầu chạy tới. Chỉ cần vài lần thì tôi biết lướt trên tuyết, biết lạng trên nước đá.
Nhưng lần này xui hơn, bạc đạn bánh xe trước bị bể trên đường tôi đi học về. Tôi chạy ẩu, rán được một khúc đường rồi cũng phải ngưng, vì bánh xe bắt đầu xệu xạo. Chỉ còn cách đón xe dọc đường. Ở vùng Mid-west này được một điểm là thiên hạ hay có lòng từ bi, sẵn sàng cho người lỡ đường quá giang. Nhứt là mùa đông, không cho quá giang như mang tội giết người. Lạnh quá cũng đủ chết. Bởi vậy tôi vừa chui ra khỏi xe, thumb-up một cái là bác tài Mỹ vớt tôi ngay. Đặc biệt hơn, bác tài này là tài xế xe semi-truck hạng nặng, mình từ chối không đi coi cũng không được. Tiếng máy dầu cặn loại lớn, lộc cộc, lộc cộc …, như một điệu nhạc buồn, ru ngủ. Tôi trèo lên ba nấc thang ở ba vị trí khác nhau mới vói tay mở được cửa:
– Cho tao về Vermillion.
Bác tài chẳng nói chẳng rằng, vô số rồ ga chạy tiếp, hình như hắn chẳng cần biết Vermillion là đâu. Bây giờ tôi mới thấy ngồi trên xe truck loại xe be này như ngồi cao trên máy bay, thấy mình như đang trên runway chạy dài xa tít, tuyết hai bên phủ trắng ngút ngàn. Nhưng, xe truck không làm sao êm như máy bay được, mà giống như xe đò Việt Nam chạy trên lộ bị Việt Cộng đào hố, đấp mô. Tôi bị nhồi lên, hụp xuống như tàu đi trên biển, vậy mà hắn ta tỉnh bơ. Nhìn kỹ mới biết hắn ngồi trên chiếc ghế riêng, không dính liền với cái băng tôi đang ngồi. Chiếc ghế có hệ thống lò xo rất đặc biệt, nhún lên nhún xuống nhịp nhàng hóa giải những cơn xốc nẩy người một cách êm đẹp, đến nỗi làm tôi tưởng chừng hắn như đang tham thiền nhập định, ngồi yên một chỗ, không di động. Hắn mở lời để phá bỏ bầu không khí im lặng:
– Xe của mày loại gì?
– Toyota.
– Mày được cái mày muốn rồi.
Hắn vừa nói vừa mỉm cười. Rõ tư bản Mỹ chê tư bản Nhật. Nhưng, tư bản nào cũng hay hơn, cũng đỡ hơn cộng sản, nhứt là cộng sản Việt Nam. Tôi đáp lời:
– Không. Tao chẳng được cái tao muốn, tao chỉ được cái tao cần, tao đủ sức trả tiền…
Rồi tôi xuống ở ngã tư xa lộ 50, thumb-up thêm một lần nữa mới về tới home-town. Gọi điện thoại cho vợ tôi ra đón, rồi hai đứa đi luôn xuống tiệm bán đồ phụ tùng để mua cái bạc đạn. Cỡ nào cũng phải sửa xe trong ngày để ngày mai còn tiếp tục đi học, đi cày. Trở về nhà, cơm nước ăn qua loa rồi vợ chồng con cái mới bồng bế nhau đi. Vợ tôi không muốn tôi đi một mình mà bỏ tụi nhóc ở nhà cũng không ai babysit.
Vừa ra khỏi nhà thì khổ một nỗi tuyết ở đâu bỗng dưng rơi tầm tã. Tuyết rơi chẳng biết lựa giờ, rủa thầm một câu. Khoảng hơn một tiếng đường xa lộ, giữa ruộng đồng mênh mông, tôi gặp lại chiếc Toyota của tôi đang nằm co ro, cô đơn, lạnh lẽo trong lớp tuyết sương phủ kín. Quay đầu trở lại và tấp vô lề, chiếc Mazda Wagon của vợ tôi vẫn để máy chạy đều đều để giữ hơi ấm cho tụi nhỏ. Tôi đem đồ nghề ra để giải phẫu con bạn vàng bệnh hoạn của tôi. Phủi tuyết rồi hì hục tháo được cái bánh xe, tháo được cái thắng xe… ôi hỡi ôi cho cái bạc đạn, nó bị mòn lẳn một phía và dính khắn vô đùm xe, tôi không tài nào nhúc nhích nó được. Phải có cái cào, cào nó ra thì mặc may. Nhưng, giữa trời làm gì có cào. Mượn, chạy vô xóm nhà lá đằng kia để mượn. Đi không mà lại trở về không, đâu có được, đi một phải trở về hai. Phải sửa cho bằng được.
Rẽ vô exit mới biết nơi đây vòn vẹn chỉ có một cây xăng và một cái bar. Ghé vô cây xăng là chỗ dễ mượn đồ nghề thì nghiệt thay chẳng ai biết cái cào là cái gì, thứ đồ nghề đặc biệt có khác. Tấp vô bar thì gặp ngay một đám cao bồi. Nón đội đầu, bia cầm tay, thỉnh thoảng đưa lên miệng tu ngất ngưởng. Thấy ngại thiệt, nhưng tôi cũng làm liều hỏi đại một tên:
– Ê, tao cần một cái bearing puller để tháo cái bạc đạn bể. Mày biết có ai có không?
– Puller hả? Được rồi, để tao lo cho. Làm một chai đi.
Chẳng đợi tôi trả lời trả vốn, hắn đã kêu tên chủ bar khui cho tôi chai bia làm tôi chới với. Tôi định nói tôi không biết uống, nhưng lỡ khui rồi từ chối cũng bất lợi:
– Cám ơn. Nhưng tao không có thì giờ, tao ở tuốt trên Vermillion lận, tao cần sửa xe để đi về.
– Uống hết đi rồi đi.
Vợ tôi ở ngoài xe chắc cũng sốt ruột dữ lắm, sao lâu quá mà không thấy tôi trở ra, chớ vợ tôi có biết đâu tôi cũng đang chờ đợi, điêu đứng với tụi này. Nhâm nhi tán gẫu một lúc rồi cũng cạn chai, và tôi lấy làm lạ thấy thằng Mỹ tôi mới làm quen dám bỏ ngang đám bạn bè của nó để lo đi sửa xe với tôi. Cũng không ngờ nó lại là tài xế cái đầu máy xe truck hạng nặng, không kéo thùng, đang đậu ngoài sân. Nhưng nó lại ngạc nhiên chuyện khác, trách tôi:
– Trời, tại sao mày không nói với tao là có vợ con của mày đang chờ ở ngoài này. Nè, bây giờ chạy theo tao.
Vợ con dẫn theo phải nói cho nó biết? Chạy theo nó đi đâu? Cái thằng Mỹ lỏi này có tin nó được hay không? Chỉ mượn có cái cào mà sao phải lòng vòng như vầy? Trong đầu tôi lung tung nhiều câu hỏi. Trời đã tối rồi và tuyết rơi càng lúc càng nặng cánh. Một liều năm bảy cũng liều, tôi chạy theo nó sâu vào cánh đồng phía trong. Ngừng lại tại một ngôi nhà cũ kỹ, đơn độc giữa bầu trời hoang vắng tha ma. Tôi bắt đầu biết sợ, chưa dám bước ra xe, quay của kiếng xuống chờ đợi động tĩnh. Có gì bất trắc thì mình vọt luôn cũng tiện. Tiếng máy dầu cặn, lộc cộc, lộc cộc …, từ đằng kia cũng là điệu nhạc buồn, ru ngủ. Hắn đến bên tôi:
– Ê, vô nhà chơi mậy. Xe của mày có thằng khác lo rồi.
Thôi rồi, nó đã dụ khị mình tới đây, sao mình không nghĩ tới. Bây giờ nếu nó ra tay thì làm sao đỡ cho nổi. Vợ tôi thì yếu ớ́t, còn tôi thì cũng chẳng mạnh mẽ gì. Thêm lũ nhỏ mệt mỏi nằm ngủ lăn lóc phía sau. Tôi bảo vợ tôi cứ ngồi yên trong xe để mình tôi nhảy ra đối phó. Bước vô phòng khách, tôi nghe được tiếng người đàn bà la thằng nhỏ phía sau nên cũng bớt phập phồng. Tôi muốn kéo nó trở về với vấn đề của tôi. Nhưng, mình nhờ người ta chớ có sai bảo ai đâu nên cũng phải khéo ăn khéo nói. Đang suy nghĩ lựa lời, thì nó lại phát biểu ý kiến trước:
– Vợ con mầy đâu, sao không vô.
– Tụi tao không dám làm phiền mày nhiều. Tao chỉ muốn mượn mày cái puller mà thôi.
Nó chạy trở ra ngoài nài nỉ vợ tôi:
– Vô nhà đi. Không có ai cắn mày đâu. Bộ mày muốn chết ngoài này với cơn mưa tuyết hả … Hê, mấy thằng nhóc này, dậy, dậy …, vô nhà đi cho ấm.
Đám con tôi giật mình ngơ ngác. Nãy giờ nằm phía sau bị ngộp thở vì chật hẹp, tù túng, nghe nói vô nhà tụi nó cũng mừng, mở cửa túa ra chạy vào trong. Tôi nghĩ nếu có lũ nhỏ chạy theo hỗ trợ thì thằng Mỹ này chắc không dám dở trò gì đâu. Đành phú cho hoàn cảnh đẩy đưa, tới đâu hay tới đó. Rồi tất cả dồn ra nhà bếp phía sau, bắt đầu màn giới thiệu:
– Tao là Mike Wagner. Vợ tao, Mary. Con trai của tụi tao, John.
Tôi bắt chước Mike giới thiệu vợ con từng người một, nhưng mỗi tên lại phải đánh vần. Tôi phát âm chữ Nguyễn không hiểu lỗ tai của nó nghe làm sao mà nó phiên âm thành chữ Win, win all times, nó thích cái họ như vậy.
– Tụi bây ăn gì chưa, chắc tụi bay đói bụng. Mary, lấy đồ ăn cho tụi nó ăn đi.
Vậy là nãy giờ mình nghi ngờ, hiểu lầm thằng Mike, tội cho nó. Dân làm ruộng, sống nơi thôn dã thì dù ở xứ nào chắc cũng vậy: hiền lành, chất phác. Tôi kết luận suông như thế và chờ đợi kết quả coi có trúng hay không. Mike chỉ biết lõm bõm về Việt Nam, chiến tranh Việt Nam, và bữa nay nó hân hạnh được gặp người Việt Nam. Cuộc chiến đã tàn, Việt Nam đến với nó bằng linh hồn, bây giờ cái gì liên hệ với Việt Nam là hình như nó đều ưa thích, nó nói như vậy. Gớm thật, thằng coi vậy mà cũng có … tâm hồn. Nó đãi ăn thì mình cứ ăn, tội gì phải làm khách. Thật ra, tôi chỉ sợ nó buồn chớ ham, chese, potato chip, snack thì cũng chẳng hạp gu gì cho lắm.
Đang ăn được nửa chừng thì tụi Mỹ chòm xóm, láng giềng của thằng Mike ở đâu kéo tới đông như đi chạy giặc. Thôi rồi, nó định đem đám mình ra để làm một cuộc triển lãm. Nhưng xem kìa, người nào cũng cầm một món nhạc khí trên tay violin, banjo, guitar, trumpet, saxo, accordion, và luôn cả mấy cái trống tom-tom. Chằng lẽ đây là một đại ban đồng quê của Mỹ? Tôi để thằng Mike giới thiệu, đánh vần hoài mỏi miệng. Rồi sợ ăn bữa giỗ lỗ bữa cày, tôi đến nhắc chừng thằng Mike về vụ chiếc xe:
– Như vậy rồi chừng nào mới đi sửa xe?
– Tao bảo mày là có thằng khác nó lo rồi, mày không tin tao sao. Tụi nó mới gọi máy CB về cho tao biết cái bạc đạn không tháo ra được bằng puller. Xe mày nhỏ, puller xe truck loại lớn không xài được. Tuị nó đang đem cái mỏ hàn gió đá ra đó đặng cắt. Tuyết rơi như bão ở ngoài đường, sửa xong chưa chắc mày sẽ đi về được. Cứ vui chơi ở đây trước đã.
Lại nghi ngờ, hiểu lầm thằng Mike một lần nữa.
Đã bảo tụi này chất phác hiền lành. Nhưng, vui chơi làm sao được khi đầu óc mình rối như tơ vò. Điệu này ngày mai vô lớp phải ngủ gục. Kệ, để xem đêm văn nghệ bỏ túi của đám Mỹ này đi tới đâu. Ban nhạc hòa tấu rất hay, nhịp điệu vững vàng, nhung toàn những bản country xa lạ mà tôi chưa từng nghe. Tụi nó giới thiệu đó là những bản nhạc mới, những bản nhạc thời trang đang thịnh hành. Tôi nói tôi thích những bản xưa. Tụi nó chơi liền những bản quen thuộc của ban The Venture mà tôi thích. Làm mình nổi hứng cũng muốn trổ tài:
– Cho tao mượn cây đàn coi.
– Hay quá. Mày biết chơi guitar nữa hả?
– Chơi xoàng thôi, lâu lắm rồi chẳng rờ tới cây đàn. Mà không biết có chơi được với ngón tay gãy này hay không.
– Gãy hồi nào vậy? Đâu, đưa tao coi.
Tôi giơ ngón tay gãy cho tụi Mỹ xem, ngón tay có giấy chứng nhận 35 phần trăm tật nguyền, và 1500 đồng tiền bồi thường bảo hiểm. Một ngón tay, một cảnh đời khác biệt, nhờ nó mà cuộc đời tôi mới có cơ may thay đổi. Bằng không, suốt cuộc đời còn lại chắc tôi cũng chỉ làm một tên thợ hàn lem luốc mà thôi. Mà cũng do số trời, ở bệnh viện St. Vincent ngày đó trong lúc đi tới đi lui cho dãn gân cốt, tự nhiên tôi thả lần ra phòng chờ đợi, và bao nhiêu tạp chí Time, News Week, Business Week, Sport Illustrated …, tôi lại không đọc mà cầm nhầm quyển catalog của trường đại học duy nhất tại Sioux City. Đi học đi chớ, làm cu li suốt đời sao. Sponsor của tôi, kẻ thì đốc xúi người lại cản ngăn. Nhưng, quyết định là của mình, cho cuộc đời của mình. Và tôi đã quyết định, một quyết định đổi đời.
– Để tao dạo một bản coi sao, tao chỉ sợ nó gãy thêm một lần nữa.
Dứt bản độc tấu, bản Domino, tiếng vỗ tay vang dội. Không ngờ ngón tay có tật cũng còn bấm được đàn. Trong nỗi mừng vui, tôi hôn ngón tay của tôi chùn chụt, quên bẳng chiếc xe hư đang nằm giữa trời, chờ đợi …
Tôi yêu ngón tay tôi
Từ khi đến nửa đời
Nửa đời? Phải, nửa đời tăm tối đã qua và nửa đời còn lại đang lên. Ngón tay gãy như chiếc đũa thần đã thật sự đưa tôi vào miền ánh sáng.