CHƯƠNG MƯỜI
Trong những thửa ruộng loang loáng nước, ngăn cách nhau bởi bờ mẫu ngoằn ngoèo chia ruộng ra có miếng hình vuông, hình chữ nhật, hình xéo… còn rộng hay hẹp là tùy theo diện tích của mỗi miếng ruộng. Những bụi lúa mập, tua tủa lá vươn cao rậm rạp và xanh lặt lìa như đỡ nâng bông lúa đòng đòng ngậm sữa quằn nặng hột. Những bụi lúa trồng san sát nhau thành những hàng ngang hàng dọc thẳng tắp chạy dài đến tận chân vườn xa lắc xa lơ. Là đà trên ngọn lúa, bầy chuồn chuồn xanh, đỏ, tím, vàng, cam, hồng… đủ màu đủ sắc, bay qua lượn lại tìm bắt muỗi. Thỉnh thoảng cây lúa rung rinh, hay quặn lên làm chao động mặt nước do lũ cá rô, cá sặc, cá lóc… hám ăn nhào lộn, rượt đuổi nhau, hoặc tranh giành đớp mồi. Những chú cào cào, sâu, bọ vô tình bị rơi xuống. Những con ốc bươu đen huyền, sùi bọt trắng đeo từng chùm, từng đám trên cọng lác, cọng đưng mọc ngầm dưới nước. Nước ruộng trong veo, nhìn thấy rõ những bầy cá bãi trầu, cá lòng tong mương, cá bạc đầu lội nhỡn nhơ… Gió sáng mát rượi. Trên gò nổng, xa xa đám vịt trời, le le, chằn nghịch… đang rỉa lông. Bầy chim áo dà, chích chóe gọi nhau bên chòm bông cỏ, bông gạo. Ven ao, có hàng cây điên điển nở từng chùm hoa vàng phơi phới, nghiêng nghiêng in bóng dưới lòng ao, mặt bằng phẳng nước.
Nền trời xanh ngát, điểm những cụm mây mỏng do phản chiếu màu sắc rực rỡ của vầng hồng vừa ló dạng, tạo thành một bức tranh có nhiều hình dáng khác nhau tùy theo cặp mắt mỹ thuật của mỗi người dưới trần thế ngắm nhìn.
Mặt trời ngạo nghễ dần dần lên cao. Ánh hồng tươi chan hòa lên vạn vật, làm những giọt sương mai còn sót trên cành cây kẽ lá, trên hoa lấp lánh. Và theo làn gió còn ngậm sương, hòa với mùi đất, cỏ, cây, trái, lá, hoa… và mùi khói rơm, mùi cỏ cháy quyện vào nhau thành một thứ hương của đồng nội thanh thanh, ngan ngát. Tiếng chim kêu, tiếng gà gáy văng vẳng từ côi vườn bên kia… Cảnh vật, âm thanh của buổi bình minh ở đồng quê len vào tâm hồn người một cảm giác nhẹ nhàng, êm ả.
Trước cảnh thiên nhiên êm đềm thanh khiết nơi ruộng vườn bao la bát ngát nầy đã vào lòng Cẩm Hương, làm nàng cảm thấy lâng lâng dễ chịu vô cùng. Nàng phóng tầm mắt nhìn bên kia bờ mẫu có lác đác những nhà nông ra đồng sớm. Họ đang khum lưng nhổ cỏ lúa, vét bờ. Gần đó những người đang đứng câu rê. Bắc ngang qua dòng kinh đào là cây cầu tre già cong cong, mà có nơi còn gọi là cầu khỉ. Mặc dù cầu có tay gượng, nhưng cây cầu lắc lẻo, chồng chềnh khó qua. Bên kia ruộng có vài mục tử rượt bắt đùa giỡn chạy qua cầu lanh lẹ như chạy trên đất liền. Có mục tử ngồi trên lưng trâu để cho chúng ăn quanh đám cỏ non xanh dờn…
Buổi sáng ở thôn quê là một bức tranh. Mà nàng nghĩ rằng, cho dù một họa sĩ tài ba xuất chúng đến đâu, cũng không làm sao dùng cọ, màu… để vẽ thành một bức họa thiên nhiên sống động và diễm tuyệt như thế.
Cẩm Hương đã bị ngoại cảnh thu hút, tâm hồn ngẩn ngơ, bâng khuâng trước cảnh ruộng đồng bao la xanh biếc chạy dài, mà quên rằng gần nàng còn có bà Tư Hiền và Thiện Tố. Họ đang chỉ trỏ, nói về thửa đất ruộng mà cha và bà má lớn của Thiện Tố vừa chia cho chàng. Và trên lộ đá thỉnh thoảng có những chiếc xe đò, xe đạp, xe thổ mộ, xe bò di chuyển để lại vùng bụi xám ở phía sau.
Bà Tư Hiền có vẻ không vui, càm ràm với Thiện Tố:
– Ổng chỉ có 4 đứa con thôi, con nào cũng là con. Trong gia đình, từ bà lớn đến mấy con của bả luôn lánh nặng tìm nhẹ. Chuyện gì cực khổ vất vả thì đùn qua cho mẹ con mình làm… Cái gì sung sướng tốt lành thì mẹ con họ hưởng. Ba con cũng biết điều đó chớ. Vậy mà khi chia ruộng đất cho các con cũng bên trọng, bên khinh, chia cho đám con bà lớn ruộng vườn quá nhiều hơn con. Thổ ngơi của tụi nó còn ở vị trí tốt, sát mé sông, tàu ghe đi lại dập dìu, nhà cửa san sát. Vườn thì đã có thu hoạch huê lợi mấy năm rồi, còn ruộng màu mỡ lúa nếp luôn trúng mùa… Má cũng đã cực khổ cả đời cùng gầy dựng của cải cho ổng bả chớ phải ăn không ngồi rồi đâu? Mà hôm nay ổng bả bố thí cho con mảnh đất không ai thèm ngó tới, nơi khỉ ho cò gáy, chó ăn đá, gà ăn muối. Lại còn có mấy cái mả đá hoang kia chiếm cũng hết một góc rồi. Ổng bả thật là bất công và tham lam quá độ mà!
Nói đến đây, bà Tư Hiền mủi lòng kéo chéo khăn vắt trên vai lên lau nước mắt. Thiện Tố vuốt vuốt lưng mẹ, khuyên:
– Đời vốn là bất công mà! Thôi má đừng buồn nữa, nhà mình ít người, ba chia như vậy cũng được rồi. Giờ đây mẹ con mình cũng có mười mẫu ruộng. Mình sẽ lấy mấy công ruộng cho lên vườn và cất nhà, còn hơn những người khác có gì đâu? “Tiền tài như phấn thổ, nhân nghĩa tợ thiên kim”, tranh chấp làm gì má ơi! Hôm chia đất, ba và má lớn nói là đã cho người mướn ruộng biết rồi, sau mùa lúa nầy là họ sẽ trả lại cho mình. Muốn cho mướn nữa hay lấy lại tự canh tác thì tùy ý của con.
Vào thời Pháp thuộc ở xứ Nam Kỳ Lục Tỉnh, các bậc điền chủ thượng lưu có 3 trăm, 4 trăm mẫu ruộng là thường. Ai có chừng 5, 6 mẫu vườn là thâu huê lợi bộn bàng rồi. Ông Hai Cung giờ còn được 80 mẫu ruộng, và vườn, sau khi truất hữu bán cho chánh phủ gần 50 mẫu, và sang nhượng cho người ta thêm mười mấy mẫu nữa để xây nhà và mua máy chà lúa Phú Long.
Số ruộng đất còn lại ông bà chia cho 3 đứa con dòng lớn và đứa con dòng nhỏ như sau: Hai cô Kiều mỗi người vừa ruộng vừa vườn 15 mẫu. Thiện Cảm 30 mẫu ruộng, 5 mẫu vườn (vì cậu là con trai!). Thiện Tố được chia 10 mẫu ruộng. Có 1 mẫu 7 công, ở trước mặt Cẩm Hương và mẹ con bà Tư Hiền, còn 8 mẫu 3 công ruộng nữa ở tuốt trong Kinh Mười Hai. Theo di chúc thì ngôi nhà ông bà Hai Cung đang ở nằm trên 10 mẫu đất dính liền vừa ruộng vừa vườn, và cái nhà máy chà lúa sanh lợi hàng tháng về phần hương hỏa. Trong 2 người con trai, Thiện Cảm và Thiện Tố, sau khi ông bà qua đời ai lãnh phần hương hỏa thì được giữ của đó.
Bà Cả Cần (má ông Hai Cung) trước khi nhắm mắt qua đời có trao cho cô Tư Hiền một chiếc hộp lớn cỡ hộp bánh bích quy, dặn dò:
– Con à, phận hai mẹ con của con bị thiệt thòi nhiều lắm. Mai sau gia tài nầy được chia chác cho lũ cháu nội của má, thì thằng Thiện Tố chẳng được bao nhiêu đâu. Vậy mấy món nữ trang cùng 10 lượng vàng lá, má cho con hết, để khi thằng Tố lớn lên có vốn làm ăn và cưới vợ cho nó. Các món nữ trang gồm có bông tai, dây chuyền, cà rá, vòng đeo tay là của bà nội thằng Cung lúc đi cưới má cho, lớp má mua sắm thêm sau nầy. Trong những nữ trang đặc sắc nhứt là miếng ngọc bội bằng cẩm thạch, chạm hình chữ Cát Tường có kết tua chỉ đỏ và thắt nơ bướm. Miếng ngọc bội nầy là do bà nội chồng của con vốn là xẩm lai để lại, coi như món bùa hộ mạng. Má không giao cho Thiện Cảm, sợ nó thua bài bán mất. Con nhớ dặn Thiện Tố giữ kỹ món nầy, coi như bửu vật truyền tử lưu tôn.
Bà Tư Hiền nhớ đến lòng tốt của mẹ chồng, và nghĩ đến hiện tại vẫn còn tủi thân thút thít khóc. Thiện Tố nãy giờ lo cho mẹ, quên đi Cẩm Hương đang đứng gần đấy, chàng quay sang, hỏi:
– Em nghĩ gì mà thất thần vậy? Hãy nhìn xem miếng đất ở đồng chó ngáp trước mặt em mà ba anh đã chia cho anh, em nghĩ xem mình sẽ hoạch định như thế nào? Hãy cho anh biết ý kiến của em?
Thiện Tố vừa nói, tay vừa chỉ cho Cẩm Hương thấy vị trí miếng đất bắt đầu dài, ngang từ đâu, tới đâu… Nàng lấy ngón tay đẩy mặt chàng ra, vì không biết vô tình hay cố ý mà mặt chàng kề sát má nàng. Bà Tư Hiền chợt thấy, bật cười. Thiện Tố cũng cười trừ. Cẩm Hương háy chàng, nói:
– Đừng có lợi dụng nghen! Đất của anh, chớ phải đất của tui đâu mà hoạch định? Cho anh ý kiến thì miễn cưỡng còn nghe được!
Thiện Tố cười cầu tài.
– Thì cứ cho biết ý kiến đi cô giáo?
Cẩm Hương nghiêm giọng hỏi Thiện Tố:
– Miếng đất từ lộ đá vào giáp mí với đất anh có lẽ từ lâu bị bỏ hoang không trồng gì hết, nên các loại đế, đưng, lác… mọc mất trật tự. Có phải của hai chị Kiều không?
Bà Tư Hiền chăm chú nghe, vì bà rất tin tưởng những gì Cẩm Hương sắp nói ra. Bởi trong thâm tâm bà đã mến thương nàng. Bà còn nghĩ: Cẩm Hương tuy nhỏ tuổi nhưng thuộc con nhà đàng hoàng, có trình độ học vấn, có kiến thức, tánh tình nhã nhặn, mực thước, không phân biệt sang hèn, chuyện to nhỏ gì trước khi nói, trước khi làm nàng đều đắn đo tính toán kỹ lưỡng nên ít khi sai chạy, hoặc làm mất lòng người khác. Nàng đến dạy học ở đây chưa đầy 2 năm mà các bạn đồng nghiệp của nàng và phụ huynh học sinh đều thương mến. Mấy tháng trước, sau khi nàng đi dự tiệc cưới với con trai bà thì có tin đồn bất lợi cho nàng: “Cô giáo Cẩm Hương và con trai bà vợ nhỏ của ông Hai Cung lẹo tẹo với nhau, xuống Mỹ Tho mướn phòng ngủ ở. Xui xẻo, cổ mắc mưa rồi vướng bịnh cảm mạo phong hàn phải nghỉ dạy cả tháng…”. Phụ huynh học sinh lên tiếng, tưởng đâu nàng bị chuyển đi nơi khác. Nhưng rồi nhờ chú của nhỏ Ánh Nguyệt, vốn là phó thanh tra Tiểu học can thiệp, nên chuyện dữ hóa lành.
Ở thôn quê là thế đó, người dân quê hiền lành chất phác, họ luôn tương trợ và giúp đỡ lẫn nhau khi trong thôn xóm có người gặp tai ương hoạn nạn. Nhưng họ rất khắt khe với vấn đề nam, nữ, trai, gái làm những việc mà họ cho là bất chánh như là lẹo tẹo, bồ bịch với nhau, cho dù cả hai còn độc thân cũng vậy. Nhứt là các thầy cô giáo dạy dỗ hướng dẫn con em của họ… là phải tỏ ra những tấm gương sáng theo đạo lý của thánh hiền.
Đứng trước buổi họp của phụ huynh và giáo chức, Cẩm Hương rất tự nhiên nói:
– Quý vị nghĩ thế nào về tôi cũng được. Nhưng tôi xin thưa rằng tôi chưa làm điều gì sai trái với cá nhân và gia đình. Tôi chưa làm gì có lỗi với các vị ở đây, và tôi cũng chưa chễnh mảng trong việc dạy dỗ hướng dẫn học sinh của tôi.. Tôi muốn dạy các học sinh của tôi hết năm học, bởi còn 3 tháng nữa thôi, các em sẽ thi tuyển vào lớp đệ nhứt niên trung học. Tôi không muốn chúng bị chi phối bởi những hành động và lời nói của một số người thiếu suy nghĩ gán ghép chuyện xấu xa cho tôi. Các em thi xong rồi, có mời ở lại tôi cũng không ở lại..
Năm đó học sinh lớp Cẩm Hương thi tuyển vào trung học đậu hơn 30%, kéo trường tiểu học của cô dạy lên tỷ lệ đứng đầu các tỉnh về học sinh tiểu học (lớp nhứt) đậu vào lớp đệ thất trường trung học tỉnh. Ty tiểu học cấp bằng khen thưởng nàng.
Thiện Tố nói:
– Miếng đất nầy của chú Hoàng, chủ một bầy trâu cho mướn kéo trục ở Vĩnh Kim. Bởi miếng đất nhỏ có mấy sào, lại nằm phía trũng, năm nào cũng bị nước ngập, thu hoạch huê lợi không bao nhiêu so với vốn, nên chú bỏ hoang không khai thác. Tháng trước đây gặp chú, chú nói với anh về hỏi ông già coi có muốn mở cho ruộng rộng thêm, chú sẽ sang rẻ chỗ đó lại cho.
Cẩm Hương bảo với bà Tư Hiền thay vì nói với Thiện Tố:
– Đừng buồn nữa bác, miếng đất ruộng bác trai chia cho ở nhằm vị trí không tốt thật. Bởi nó nằm giữa đất của người ta. Mỗi lần đi thăm ruộng phải đi nhờ trong đất những người kế cận. Nếu bác lên thành vườn cất nhà ở thì càng không tiện cho lắm, vì lúc nào cũng đi nhờ vào ruộng đất của người khác mới đến mé kinh mà ra sông, ra đất liền được. Lâu lâu bác đi nhờ một lần không nói gì, chớ đi hàng ngày thì khó khăn và phiền phức lắm. Nhưng ngay thửa ruộng của bác, sát lộ đá đây, lại có miếng đất nhỏ của ông Hoàng nào đó muốn bán, bác mua lại đi thì đất của bác sẽ giáp với lộ đá. Vậy bác đâu cần mở con đường đi về phía kinh làm chi cho xa xôi. Bác lên vườn hết miếng đất ruộng nầy, vì dù sao bác cũng cần có đất để cất nhà và vườn để trồng trọt. Bác trai chỉ cho có 10 mẫu ruộng chớ không có vườn. Vậy thửa ruộng nầy lên vườn đi bác.
Cẩm Hương bỗng nhiên dừng lại, hít vào buồng phổi làn gió mát tinh khiết buổi sáng. Rồi nàng cao hứng, hăng hái, bảo:
– Ở giữa miếng đất chồm lên phía trước, bác cất một căn nhà. Hai bên hông, và phía sau rộng thênh thang để bác tha hồ trồng cây ăn trái, nuôi gà, nuôi vịt, nuôi heo, đào mương nuôi cá… Rồi đây ở chốn nầy, bác sẽ có một ngôi nhà thật là lý tưởng đó bác.
Bà Tư Hiền tươi ngay nét mặt khen:
– Cô giáo giỏi quá! Nhận xét và sắp xếp về cuộc đất nầy thật rành rẽ.
Cẩm Hương mỉm cười, tay chỉ trỏ, vui vẻ nói tiếp:
– Từ mé lộ, bác đào cái mương bề ngang chừng 2 thước song song lộ đá. Bác bắc cây cầu hình bán nguyệt từ lộ đá qua mương để vào nhà. Miếng đất trước kia không ở vị trí tốt, mua được miếng đất của ông Hoàng thì thật tiện lợi vô cùng bác à. Đi đâu về, xe ghé lại, bác vào nhà không phải cuốc bộ xa xôi.
Cẩm Hương thao thao phác họa miếng đất của bà Tư Hiền theo ý mình. Vì trong thâm tâm nàng từ lâu đã manh nha ý nghĩ là sau nầy nàng sẽ mua một thửa đất ở thôn quê để cất nhà, chăn nuôi, trồng trọt và tạo một cuộc đời bình dị, không phải hao tâm, tổn trí, ganh đua, chật chội như ở thị thành. Rồi nàng phì cười, với ý nghĩ chợt đến:
– Thưa bác, cháu nghĩ dại nghen, cho dù nếu có tại nạn xe cộ ở lộ đá trước nhà bác đi nữa, thì cũng không hề hấn gì cả. Bởi trước khi lủi vào sân, xe đã rơi tòm xuống mương rồi.
Bà Tư vui vẻ, khen:
– Cô giáo nghĩ thật chu đáo quá! Cảm ơn cô.
Thiện Tố thấy trên trán Cẩm Hương lấm tấm những giọt mồ hôi. Chàng lấy khăn tay màu dưa cải đưa cho nàng, Cẩm Hương tự nhiên lấy khăn chặm mồ hôi rồi trả lại chàng. Thiện Tố nói với mẹ và mời nàng ghé qua nhà má lớn của chàng cho biết. Chàng nghĩ, đã đến đây mà không ghé qua nhà từ đường, nếu cha chàng biết được sẽ buồn. Thiện Tố chỉ:
– Cẩm Hương hãy nhìn qua bên kia kìa. Nhà ba anh mái ngói đỏ ở trong chòm dừa đó, em có thấy không? Chỉ đi tắt qua bờ mẫu, quẹo phải là tới ngay. Má cũng ghé qua nghen má?
Bà Tư Hiền nghe nói đến nhà bà lớn, hờn giận trong lòng nổi lên ngay, nạt con:
– Nhiều chuyện quá, má đi về đây. Còn con có đi thì đi với cô giáo.
Thiện Tố cười như mếu:
– Má không đi thì cô giáo cũng sẽ không đi đó. Đi đi má, con năn nỉ mà.
Mấy mươi năm làm vợ bé người ta, có cái khổ nào mà bà Tư Hiền chưa nếm, chưa biết qua từ bà vợ lớn nham hiểm và hai cô con gái chanh chua của chồng. Nhưng vì thương con, thương chồng nên bà cắn răng chịu đựng. Từ khi rời khỏi cái địa ngục trần gian ấy đến nay, bà chưa bao giờ cảm thấy vui vẻ mỗi lần về chơi. Vì nó khác hẳn với tâm trạng đến viếng thăm như đến nhà bạn bè, hay nhà lối xóm… Về thăm bên đó, mỗi lần trở lại nhà riêng bà đều mang nỗi buồn! Nên bà đến khi nào nhà chồng có đám giỗ, Tết, hay có chuyện gì bà lớn nhờ bà đến giúp. Hoặc bà lớn gọi bà, chớ chưa bao giờ bà tự động về gặp bà lớn và hai cô Kiều.
Thiệt tình bà không muốn ghé nhà bà lớn, nhưng hôm nay cũng vì con, và vì cô giáo, và bà cũng muốn cho bà lớn biết mặt mũi của cô giáo. Sau nầy biết đâu cô là dâu bà! Bà sẽ rỡ mặt rỡ mày chứng minh cho bà lớn và đám con của bà ta biết rằng Thiện Tố của bà không vô dụng như mẹ con họ thường trề nhúng, khinh khi… Nghĩ đến đó, bà cảm thấy được trả thù, rửa hận nên vui vẻ trong lòng, mỉm cười đi theo Thiện Tố.
Chưa đến 11 giờ mà nắng chang chang. Bên chòm cây trâm bầu, nhà nông dụm ba dụm năm ngồi ăn cơm trưa, và sau đó nghỉ ngơi dưỡng sức trong chốc lát. Họ dùng nón lá phe phẩy quạt, có người cảm khái tình quê ca vang những câu Vọng cổ mùi mẫn, mà họ đã bắt chước các vở tuồng cải lương trong mấy dĩa hát.
Bỗng từ cây sắn trên gò, tiếng ai lanh lảnh chào lớn: “Chào bà Tư, chào cậu Năm, chào cô giáo”. Con bé chừng 13, 14 tuổi, nhưng vóc dáng đèo đẹt, và chai ngắt như con người ta 8, 9 tuổi từ trên cây tuột xuống tay còn cầm nhánh sắn chín đen nhiều hơn trái chín đỏ. Tóc nó xù lên vì cây kẹp tóc muốn tuột ra ngoài. Lá sắn khô dính trên tóc, và mấy con kiến vàng còn chạy lơn ton trên đầu, trên vai nó. Thiện Tố hỏi:
– Lén bà lớn ra đây hái sắn hả Hiền Từ?
Con nhỏ cười hềnh hệch, nhe hàm răng mọc ba xí ba tú và cái miệng đen thui vì nước cốt trái sắn. Nó bảo:
– Dạ không có. Ông qua bên ông Tám thầy thuốc đánh cờ. Bà lớn đọc truyện Tàu và sai con ra xem coi có trâu chạy lạc vào phá đám chuối không? Con thấy sắn chín nên leo lên hái ăn chơi. Bà Tư ăn cơm chưa? Để con đi về nấu nghen.
Bà Tư Hiền lắc đầu:
– Bà và cô cậu đây ăn sáng rồi, còn no lắm, chỉ ghé qua thăm bà lớn một chút rồi về ngay. Cháu khỏi nấu cơm. Lóng rày cháu còn leo lên cây mận sau hè đái nữa không?
Con Hiền Từ cười bẽn lẽn, lắc đầu rồi nhảy qua mương chạy mất vào vườn có mấy cây ổi cửu ngoạt rậm rạp. Bà Tư nói với Cẩm Hương;
– Nó tên là Nguyễn Thị Hiền Từ. Con của vợ chồng chú tá điền của ba thằng Tố. Tội nghiệp con nhỏ vô phước, vừa lọt lòng mẹ, thì mẹ qua đời vì chứng hậu sản. Ba năm sau ba nó đi ruộng bị rắn cắn chết. Không nội ngoại bà con, nhà làng nói để đem nó cho bà phước ở Mỹ Tho. Bác và bà lớn thấy vậy đem về nuôi. Thiệt là căn đày kiếp đọa. Càng lớn nó càng giống như đứa ngất ngơ, điên không điên, tỉnh không tỉnh, tội nghiệp hết sức! Nhưng nó giỏi lắm, sai gì làm nấy, sạch sẽ gọn gàng nhưng có tật hay quên. Không biết nghe lời ai, mà khi biết leo biết trèo nó hay leo lên cây ổi, cây mận sau nhà ngồi đái xuống mương rôn rổn…
Cẩm Hương mắc tức cười, nhưng mắc cỡ quay nhìn vào vườn tược. Hai bên đường đi, gia chủ trồng nhiều mận hồng đào trái sai quằn nhánh, trái chín đỏ cây và rụng nổi lềnh bềnh trên mặt nước mương. Cây xoài cát đen sát đường đi có từng chùm trái xanh nõn nà mà người đi qua phải tránh né kẻo bị đụng lịch bịch vào đầu.
Nhà hương hỏa nằm trên khu đất rộng trên hơn một mẫu đất vườn, sát bờ sông có trồng dừa lửa, dừa xiêm, dừa Tam Quan. Trong vườn trồng nhiều loại cây ăn trái khác như: mận da người, vú sữa, sa-bô-chê, măng cụt, nhãn, cam, quít, ổi, xoài, đu đủ, các loại chuối, nhứt là chuối cau vì dễ trồng và bán có giá hơn các loại chuối khác. Coi như nhà nầy mùa nào cũng có trái cây vườn để ăn, để bán.
Dưới mé sông có nhà thủy tạ, cột đúc bằng xi-măng. Đường đi từ đất liền được lót bằng ván chuốt bào bóng láng chạy dài ra tới nhà thủy tạ. Nóc nhà thủy tạ hình nón, lợp bằng ngói đỏ. Từ cây cột nầy đến cây cột kia được đóng lan can cao tới chừng một thước sơn đỏ như son tàu. Dưới sông nhìn lên nhà hương hỏa giống như một dinh thự hơn là nhà của thường dân. Cẩm Hương nhớ hình như có lần bà Tư Hiền nói rằng ông cố nội của Thiện Tố ngày xưa có thời làm Cai Tổng, và ông nội làm Hương Cả.
Muốn vào nhà phải qua cái hàng rào bằng đá cao cả thước từ mặt đất lên, bên trên nối liền với những khuôn bông uốn bằng sắt cao khỏi đầu. Cửa rào lớn bằng song sắt có bông xen kẻ. Đường đi vào nhà lót gạch tàu. Trước sân có những chậu kiểng được uốn hình tứ điểu, ngũ long… Có hòn non bộ và những chậu tùng La Hán xanh biếc… Nhà nền đúc cao gần tới ngực, vách tường, mái ngói âm dương màu đỏ đã ngã nâu vì thời gian rêu úa, bụi bám, mốc giăng. Muốn vào nhà phải lên mấy bậc tam cấp lót bằng đá hoa cương tráng men bóng.
Cả ba đi vào nhà bằng cửa hậu. Thiện Tố nói nhà ít khi mở cửa trước, trừ những ngày Tết, hoặc có tiệc tùng trong dịp gả, cưới.
Má lớn của Thiện Tố mặc áo túi bằng lụa có in bông hột dền màu ngà voi, quần lãnh mỹ a đen. Tóc bà bới cao khỏi ót, quấn qua, quấn lại mấy vòng như kiểu tóc của bà phủ, bà huyện. Dáng bà cao, ốm, nước da hơi ngăm, mắt to, mũi cao nhưng hai lỗ trống phộc. Ông bà ta thường nói, người nào có mũi nầy không tốt vì không giữ được tiền. Trán bà rộng, miệng nhỏ nhưng môi thâm. Bà mang kính lão trắng gọng vàng được chùi bóng, trễ xuống gần đến gò má. Thoạt nhìn người ta có thể đoán được bà là một người đàn bà nhà giàu, có quyền uy, khó tánh, khó chịu, ưa bươi móc lỗi lầm của kẻ dưới tay.
Phòng khách chưng dọn theo xưa. Có từng cặp liễn mun và liễn sơn chữ mạ vàng treo ở từng cặp cột. Căn giữa rộng đặt cái bàn dài và cặp trường kỷ chạm trổ tinh xảo có cẩn xa cừ nổi vân bóng ngời. Sau bộ trường kỷ là bàn thờ Phật A Di-Đà. Hai bên cặp trường kỷ qua lối đi ở giữa là hai bộ đi-văn chưn quỳ bằng cẩm lai. Sau hai bộ đi-văn là hai tủ lớn bằng gỗ mun cũng được cẩn xa cừ để thờ ông bà. Trên đầu tủ thờ nào cũng có bộ lư đồng gồm có hai chưn đèn, cái lư hương, bình cắm nhang được chùi lau sáng ngòi. Áp hai bên vách tường là tủ kiếng đựng đồ cổ ngoạn quý báo: Dĩa Càn Long lớn gần bằng cái sàng để sàng tấm, cám. Dĩa Mai Hạc, dĩa Như Ngọc, dĩa Ngọc Ngoạn, chén tráng men trắng bóng ngời vẽ hình Tiêu Tương Bát Cảnh, ly pha lê, bộ bình trà Thế Đức màu gan gà… Hai bên hông ngoài tủ, trên 2 cái chưn quỳ là hai cái lộc bình da rạn cao gần tới ngực.
Tủ thờ bên trái thờ ông bà Cai Tổng, tức là ông bà nội của ông Hai Cung. Tủ thờ bên phải thờ ông bà Cả Cần. Hình truyền thần của họ lớn theo khổ 36X48 đã ngã màu ngà.
Chắc là có con Hiền Từ chạy tắt ngã vườn vô báo trước rồi, cho nên ba người vừa bước vào chào, thì bà lớn tự nhiên đứng dậy chào lại để trả lễ. Bà hỏi bà Tư và Thiện Tố qua loa vài ba câu chuyện, nhưng ánh mắt sắc bén của bà không rời Cẩm Hương. Lúc đầu, nàng cũng thấy ớn đôi mắt có thần đó, nhưng tánh lì đổ ra làm nàng tỉnh queo, thộn mặt chẳng nói chẳng rằng. Bà lớn dù chưa gặp mặt nàng nhưng đã biết ít nhiều về nàng do hai cô Kiều chỉ trích và tâu rỗi sao đó. Bà chăm chú nhìn nàng từ đầu đến chân rồi hỏi:
– Cô nầy là ai vậy?
Thiện Tố vọt miệng trả lời:
– Thưa má lớn, đây là cô Cẩm Hương dạy ở trường tiểu học Cai Lậy, đang ở trọ bên nhà má con. Ba đâu rồi má? Chú Sáu không có ở nhà sao?
Bà lớn tằng hắng, tiếp:
– Vậy à? Ba mầy đi qua nhà anh Hương giáo Lợi, hay anh Tám thầy thuốc đánh cờ, còn chú Sáu đi chợ hốt thuốc rồi. Nhưng má muốn hỏi cổ chớ không phải hỏi con. Cô ở đâu đến đây dạy học vậy cô giáo?
Cẩm Hương thấy bực! Thì ra tánh tình hai nàng Kiều được sao y bổn chánh từ bà mẹ! “Ở đời mà, hơi sức nào giận người dưng cho mệt! Bà ta là má lớn của Thiện Tố, chớ có phải má của mình đâu mà sợ sệt bả, mà không dám trả treo với bả. Nhưng nếu nàng làm như vậy thì tốt cho bả quá, để bả ngừa, mai mốt gặp người khác mặt bả cởi mở vui vẻ, chớ không lạnh lùng và cứng như tảng nước đá”. Nghĩ như vậy, nên nàng đổi thái độ, lễ phép trả lời:
– Dạ thưa bác, cháu ở Lái Thiêu.
Bà hé miệng cười. Nàng nhớ ngay là má mình thường nói “Con người, nhứt là đàn bà con gái dù không đẹp, nhưng khi họ cười là mất đi cái xấu xí của họ liền…”. Thật thế, má lớn của Thiện Tố cười trông cũng không đến nỗi nào, cũng dễ thương lắm. Nhưng hai hàm răng bà ta khít rịt. Những người cười như vầy thì có đẹp thiệt, nhưng đó chỉ tướng kẻ nham hiểm, khó chịu.
Bà má lớn của Thiện Tố, khen:
– Người ta nói ở Thủ Dầu Một có nhiều người đàn bà con gái xinh đẹp như tiên nga! Chẳng sai, cô đẹp lắm. Cô có thích vùng vườn đất quê mùa Cai Lậy nầy không? À mà cô còn độc thân hả? Người ta nói Cai Lậy đến dễ khó về đó cô!
Cẩm Hường mỉm cười trả lời những câu hỏi của bà, chớ không góp ý và cũng không hỏi lại. Nói chuyện một hồi, bà bảo Thiện Tố:
– Con dẫn cổ ra vườn hái trái cây đi.
Bà Tư Hiền chưng hửng, còn Thiện Tố thì ngạc nhiên tường mình nghe lộn. Bởi má lớn chàng là một kẻ bảo thủ gắt gao. Bà luôn công kích đả phá kịch liệt về thanh niên nam nữ chưa thành hôn mà đã gần gũi, cặp kè với nhau… Bà chê bai mạt sát những người đàn bà góa đi lấy chồng khác… Bởi trong óc tồn cổ của bà còn có thêm bịnh phong kiến trầm trọng nữa. Tại sao hôm nay bà lại dễ dãi bảo Thiện Tố dắt Cẩm Hương ra vườn hái trái cây? Không phải bà đã một lần gọi chàng về nhà từ đường mắng nhiếc rồi sao? Thiện Tố tư lự không phải là vô lý! Và má lớn chàng làm như vậy cũng không phải không có lý do. Thật ra bà đã nghe mấy đứa con gái cưng của mình nhỏ to đàm tiếu với bà về việc Thiện Tố và Cẩm Hương đang cặp bồ với nhau, nhưng chưa ra mặt. Bà ghét lắm, không bao giờ muốn nghe, không bao giờ muốn biết muốn thấy những gì mẹ con Thiện Tố hơn mẹ con bà. Nhưng chỉ có trời mới biết bà đang nghĩ ra sao và tính toán gì ở trong bụng?
Cẩm Hương tự nhiên đứng lên xin phép hai bà rồi theo Thiện Tố ra ngoài. Nàng mừng thầm như vừa thoát được sự ngột ngạt khi nói chuyện với bà má lớn của Thiện Tố. Nàng theo chàng đến hông nhà chứa củi, lấy cây lồng máng trên vách để ra vườn hái trái cây. Vừa đi, Thiện Tố vừa hỏi:
– Cô thấy má lớn tôi thế nào? Cô cũng biết chiến tranh khi lạnh khi nóng của hai bà má nầy từ khi tôi còn bé tí tẹo lận. Bổn phận làm con khiến tôi rất khó xử. Tôi luôn luôn tìm cách giải hòa, nhưng hai chị gái tôi thì cứ đổ dầu vào lửa. Nhưng hai má của tôi đều yêu thương, và nghe lời ông chồng, nên mọi việc rắc rối tới đâu rồi cũng êm xuôi cho đến hôm nay. Nhưng họ vẫn luôn ở trong chiến tranh ngầm.
Nói đến đó, chàng bật cười thành tiếng, tiếp:
– Cô thấy có hai vợ khổ quá phải không? Người ta nói “Một vợ thì ngủ giường lèo. Hai vợ ngủ chèo queo. Ba vợ thì ra chuồng heo mà nằm” Cô nhận thấy thế nào? Tôi thấy má lớn tôi cũng tốt, và cũng thương tôi lắm.
Cẩm Hương phì cười:
– Tôi không biết, và cũng không muốn biết gì về chuyện của gia đình anh hết. Chuyện của người lớn phiền nhiễu và phức tạp lắm. Kẻ hậu bối không nên xen vào nhứt là một kẻ ở ngoài gia tộc anh như tôi đây. Nhưng tôi dư biết rằng trong mắt anh thì ai cũng là người tốt cả. Có đúng không?
Thiện Tố nheo mắt, cười tươi:
– Đang tìm hiểu về tôi, cô phải nên biết về hoàn cảnh gia đình tôi chớ. Nhưng dù sao tôi cũng xin đa tạ sự tin cậy của cô. Trong mắt cô tôi được như vậy sao? Vậy mà tôi không biết chớ.
Cẩm Hương trợn mắt, thẳng thắng:
– Trên cõi đời nầy, cái tốt thường đi liền với cái xấu. Tôi chỉ tìm hiểu về anh thôi, mà còn gặp lắm chuyện làm tôi điên đầu. Tìm hiểu về cả một gia đình to lớn của anh chắc tôi sẽ chết không kịp ngáp quá!
Nhưng tôi cũng không keo kiết mà cho anh biết rằng: Nếu sau nầy anh sanh lòng đổi dạ, tôi sẽ không là người vị tha như má lớn đối với ba anh. Và tôi cũng không phải người hiền lành có sức chịu đựng bền bĩ phi thường như má anh đâu nghen!
Thiện Tố trong lòng nở hoa, cười mỉm chi:
– Chưa chi mà em đã ló đuôi ghen dữ dội rồi há!
Cẩm Hương ghét lắm, ngoe ngoảy bỏ đi. Bồng thấy con Hiền Từ đang ngồi trên cháng ba cây ổi. Nàng hoảng hồn dội ngược lại vì sợ nó ngồi trên cây đái xuống. Nhưng lần nay thì không, tay nó cầm chùm ổi chua da trắng ngã vàng bóng lường. Hai chân nó đong đưa, miệng cười toe toét. Nó đưa tay ngoắc, và gọi:
– Cô đến đây, có nhiều ổi chín lắm nè…
Trước Tết năm đó, bà Tư Hiền và Thiện Tố dời về căn nhà mới cất bên kia cầu đúc Cai Lậy. Thiện Tố được ruộng cha chia cho, và cộng thêm phần đất trước nhà anh đã mua lại của người khác nên được hơn 10 mẫu (kể cả thửa ruộng ở Kinh Mười Hai). Căn nhà cũ thì bà Tư Hiền cho Cẩm Hương và bạn bè dạy chung với cô mướn. Còn phần ruộng cha anh chia cho vì xa xôi, và không có người để canh tác nên anh bán lại cho người khác được chút ít tiền, cộng với tiền mẹ con anh dành dụm bấy lâu nay. Họ xây được ngôi nhà khang trang trên khu đất ruộng mới lên vườn nay.
Bà Tư Hiền biết rõ chồng mình có ruộng và đất vườn ở rải rác các làng xóm trong quận không nói là “cò bay mỏi cánh, chó chạy cong đuôi” nhưng cũng có hàng mấy chục mẫu. Ông có cả thảy 3 đứa con dòng lớn và một đứa con dòng nhỏ. Nhưng khi chia của cho các con, ông chia cho Thiện Tố chỉ 10 mẫu ruộng, mà các con dòng lớn chê không đứa nào chịu lấy vì một nơi thì ruộng trũng và ở xa ít ai chịu mướn. Một chỗ thì sát đất gò, lại có chòm mả hoang đó từ đời nào không ai biết chiếm mất cả một góc. Bà Tư Hiền đã biết như vậy rồi, mà mỗi lần nhớ đến bà hết sức bực tức chồng, không khỏi giận và nguyền rủa bà vợ lớn. Bà nói với con:
– Ba con là một người cha bất công với con cái. Còn vợ lớn ổng thì tham lam, hiểm độc. Cho nên bị Trời phạt lúc nào bả cũng eng eng bịnh quanh năm suốt tháng. Má bị ổng hãm hại chớ đâu phải tự nguyện nhào vô làm bé. Và sau khi làm vợ bé của ổng, má chịu biết bao nhiêu là đau khổ, và phải làm lụng như kẻ ăn người ở chớ có khác chi đâu để xây dựng cho sản nghiệp ông. Bây giờ ổng bả lại đối xử với mẹ con mình như vậy.
Thiện Tố biết tánh mẹ, lấy khăn đưa bà lau nước mắt, và khuyên:
– Thôi bỏ đi má, mình chỉ có hai mẹ con thôi, ăn nhiều chớ ở bao nhiêu? Má nghĩ xem ba chỉ chia có chục mẫu ruộng thôi, mà mình còn bán lại cho người ta số ruộng ở Kinh Mười Hai, để có tiền đắp vô miếng ruộng lên vườn và cất cái nhà rồi. Chớ công sức đâu mà làm cho xuể? Mướn người làm thì phải trả công hơn 2/3 rồi. Gặp lúc lúa trúng mùa thì không nói làm gì, rủi thất mùa thì đổ nợ… Như vậy có ruộng đất nhiều làm chi? Xin má đừng có buồn! Ông Trời cho mình có đôi tay rắn chắc làm việc để tạo dựng sự nghiệp cho chính mình thì mới quý. Má là người chơn chất, hiền lương như vậy thì tương lai của con sẽ sáng sủa “Trời sanh cỏ nhỏ sương” mà má.
Với bản tánh thật thà, nhân hậu sẵn có cùa người dân quê, bà Tư Hiền nguôi cơn hờn giận dễ dàng sau những lời lẽ phân bày của con trai mình. Bà vui vẻ nói:
– Tuần nầy cô giáo có về thăm nhà không Thiện Tố? Nếu cổ không về thì con hãy mời cổ qua đây chơi. Tôi nghiệp, sống xa nhà chắc cổ cũng buồn lắm? Cổ dễ thương nết na. Mai sau con có được người vợ như cổ thì má mừng lắm.
Thiện Tố không trả lời mẹ ngay, chàng cười nói:
– Cổ dữ lắm đó má ơi! Nhưng nếu má muốn, thì để hôm nào gặp lúc cổ vui, con sẽ hỏi thử cố xem coi có chịu ưng con không?
Bà Tư Hiền nhìn con chưng hửng! Nhưng bà nghiêm giọng bảo con:
– Hôm mẹ con mình lên thăm cổ bị bịnh. Thấy bề thế nhà cửa của ba má cổ, má ngại không dám nuôi hy vọng lúc ban đầu là mong ước sau nay sẽ nhờ mai mối đi cưới hỏi cổ cho con. Má biết thân phận mình lắm “Gối rơm theo phận gối rơm, có đâu dưới thấp mà chồm lên cao “ đó con.
Thiện Tố dù sao cũng theo lớp trẻ cởi mở chớ không như mẹ. Cho nên chàng muốn mẹ mình hãy bỏ quan niệm xa xưa lỗi thời đó đi:
– Má nói vậy, câu “con vua thì nối dòng vua, con sãi ở chùa phải quét lá đa” là câu tầm bậy! Quan niệm đó bây giờ lỗi thời rồi má à. Ngày nay, người đàn ông cũng không nên hai vợ như ba … Và cũng không còn “chồng chúa vợ tôi” như những thế hệ trước nữa. Hôm nay con muốn cho má biết một chuyện, không biết má nên mừng hay nên lo? Nhưng má phải hứa với con một điều là không được nói cho ai nghe, kế cả ba. Thật sự con không muốn giấu ba. Nhưng sợ ba quên, nói với má lớn thì cả làng cả nước trong tích tắc sẽ biết hết. Rủi chuyện không đi đến đâu, thì má con mình có nước mà độn thổ chớ không sao sống nỗi với cái miệng chót chét của hai bà chị con.
Bà Tư Hiên nóng ruột, ngắt ngang:
– Muốn nói gì thì cứ nói đi, con cứ ậm a, ậm ừ làm má nóng ruột quá đây nè.
Thiện Tố tằng hắng, nói:
– Sau ngày Cẩm Hương bị bịnh trở xuống dạy lại, con có ngỏ lời bảo cổ tìm hiểu về con để sau nầy nếu hợp tánh nhau, chúng con sẽ đi đến hôn nhân. Nên chúng con đã thân thiện với nhau từ đó. Và chúng con cũng đã giao hẹn là bên ngoài ai nghĩ gì, nói gì thì kệ họ, hai đứa nhứt định không được gần gũi công khai cho đến khi nào hai bên đính hôn.
Bà Tư Hiền ngắt lời con:
– Thằng khỉ! Dám dấu cả mẹ nó. Bây giờ hai đứa ra sao? Chừng nào sửa soạn đám hỏi? Chừng nào mới làm đám cưới?…
Thiện Tố nhăn mặt, cười với mẹ:
– Đó, đó, thấy chưa? Chưa chi mà má muốn bẻ giao kèo, nếu con cho má biết trước là má sẽ nói với ba và má lớn nghe thì bể mánh hết rồi. Chúng con nghĩ là sẽ kết hôn vào năm tới. Còn lâu mà, má không phải lo, mọi việc để con lo hết
Bà Tư cười vui ra mặt. Niềm hạnh phúc trong lòng bà chắc chắn cũng không thua gì niềm vui của thằng con. Bà nói:
– Bậy nà, má chỉ có mình con. Ngày con cưới vợ là ngày trọng đại, má để mặc con lo một mình sao được? Má phải mua nhẫn trơn cho hai đứa, bông tai cho cô dâu. Phải mua bông gì đây cho xứng đáng với cổ? Đôi bông cưới rất quan trọng, vì đó là cái duyên con gái. Còn dây chuyền đeo cổ, lắc đeo tay cùng những món nữ trang khác cho cô dâu… Phải có đủ lễ theo phong cách người Việt mới được. Mới nghe qua thì nhẹ nhàng lắm… Nhưng không phải dễ đâu. Để má hỏi ông thầy Tám dạy chữ Nho, ông biết chuyện quan hôn tang tế. Má sẽ nhờ ông dạy mình phải làm sao về quà lễ trong việc hỏi cưới. Kẻo không thì mình sẽ thất lễ với họ nhà gái đó con à…
Bà Tư Hiền lo lắm, vì tiền bạc đã châm vào trong cái nhà hết rồi. Giờ đây lo cưới vợ cho con. Mặc dù còn hơn năm nữa, nhung ngày đám hỏi sẽ tới bên đít. Không biết làm sao đây? Điều duy nhứt nếu là có được tiền thì bà phải nói với chồng xin ổng phụ lo cho thằng con. Nó là con trai của ổng mà! Hai đứa con gái ổng lấy chồng ổng bả thầu hết, sau đó sợ hai cô Kiều về làm dâu cực khổ họ còn bỏ tiền mua nhà, mở tiệm cho hai cô nữa. Còn Thiện Tố của bà chăm sóc cai quản nhà máy chà lúa chỉ được trả lương như mọi công nhân khác. Tất cả tiền lời mỗi tháng tính sổ xong thì chàng giao hết cho cha. Bà hỏi con:
– Con định chừng nào mới cho ba con biết về việc nay?
Thiện Tố ngần ngừ, rồi nói:
– Má khoan cho ba biết, và cũng đừng nói với ai. Chừng nào nói được, con sẽ cho má biết.
Bà Tư vẻ mặt thành khẩn gật đầu, trong khi lòng bà nở rộ niềm vui.
Sau khi ướp niêu cá bống dừa, để lát nữa kho tiêu dọn bữa cơm chiều. Bà Tư ra sân lót gạch tàu để sang những chậu kiểng qua chậu mới mua bằng sứ Giang Tây tráng men xanh, men lục. Đây là những món quà của Thiện Cảm tặng bà vợ nhỏ của cha cậu hôm ăn mừng tân gia. Sở dĩ cậu tử tế với mẹ con bà là nhờ bà Tư giúp cậu làm quen với ông Cai Tổng Hiếu để cậu xin với ông cho làm chức Hương Hào trong ban Hội Tề. Cậu tặng 5 chậu sứ và 5 cây kiểng: Một cây là lài trâu, 2 cây cau kiểng, 1 cây kim quít, 1 cây bùm sụm.
Cẩm Hương hôm sau cũng sang mừng nhà mới đem tặng bà hai chậu sứ Thái Lan bông trắng ửng hồng ở cuốn. Thấy chậu lài trâu, Cẩm Hương nói:
– Bông lài trâu lớn hơn bông lài thường mà cũng thơm không kém. Người miền Bắc gọi nó là bông bạch ngọc. Cây gì lọt vào đất Bắc của họ thì cũng có cái tên đẹp.
Thiện Tố ghẹo:
– Nhưng họ gọi nguyệt bạch là cúc mốc, vì lá nó trắng như có ai rắc mốc trắng.
Bà Tư Hiền rầy:
– Mình là người Nam Kỳ, ông bà mình kêu sao thì mình kêu vậy, đừng gọi theo người Bắc mà có lỗi với ông bà của mình.
Thiện Tố không nói gì, nhìn Cẩm Hương nheo mắt cười. Bỗng từ ngoài ngọn rạch vọng vào giọng hò trong trẻo của cô gái thương hồ:
“Xa chàng thì thiếp bơ vơ.
Hỡi người quân tử bây giờ tính sao?”
Thiện Tố cười chúm chím, hò đáp:
“Anh về tìm cưới vợ giàu.
Còn nàng cứ việc cạo đầu đi tu… “
Cẩm Hương cười ngất. Bà Tư Hiền bảo:
– Đành rằng hò cho vui, nhưng con phải lựa câu hò có đạo lý, có tình nghĩa mà hò. Đừng có hò những câu vô nghì, đoản hậu rồi nhập tâm, mai sau sẽ nghĩ bậy sẽ làm việc quấy.
Cẩm Hương nhìn bà Tư Hiền, trong lòng cảm phục lắm. Đây là mẫu người trung hậu, chất phác biết giáo dục con. Hèn gì anh chàng Thiện Tố nầy vốn sẵn có tâm lành, tánh tốt lại được lời giáo huấn đạo đức nên chàng ta mới trở thành kẻ thuần hậu như vậy.
Mấy hôm trước, Thiện Tố đón ghe chở cây ương, cây chiết nhánh bán trên sông, mua mấy cây cam hồng mật, vài cây quít đường cao cỡ hai gang tay đem về trồng ngoài vườn. Ở hai liếp cuối vườn, chàng đã trồng đủ các loại chuối như: Chuối ngự, chuối xiêm, chuối cau, chuối già hương, chuối chà bôm vàng, chuối chà bôm lửa, chuối sáp… Chàng trồng mận xiêm màu xanh cẩm thạch, mận hồng đào có sọc đỏ, mận da người màu ngà voi, mận bánh bao màu trăng. Các cây được chàng trồng ngay hàng thẳng lối. Vạt đất trồng rau cũng có mỹ thuật, luống đất, vồng đất được nằm song song với nhau. Giàn mướp, giàn bầu che mát ụ ghe tam bản. Trong ao phía trước, xéo sân nhà, chàng thả sen, thả bông súng, trong đìa sau vườn chàng thả ấu. Các mương sát ranh đất người ta chàng thả rau muống trâu, thả bèo, rau mác có nhiều rễ để mùa nước lớn cá vào trú ẩn và các loại rau nầy vớt lên đem bầm nhỏ trộn với cám cho heo, cho vịt ăn thêm mau lớn.
Nhà cũ của bà Tư Hiền cho Cẩm Hương và cô giáo quê quán ở Mõ Cày thuộc tỉnh Bến Tre cùng với một cô giáo người Tân An mướn. Nhà một căn hai chái nên Thiện Tố định chia làm ba, ngăn vách bằng lá xé. Cẩm Hương cản, cứ để như vậy, mỗi phòng một người có khóa riêng còn mọi thứ như nhà bếp, nhà tắm, cửa lớn đều dùng chung cho tiện, và Cẩm Hương vẫn giữ phòng mình như từ hồi nào đến giờ. Cả ba đều xách cơm tháng nên ít khi nấu ăn ở nhà. Họ chỉ đốt rề-sô khi nào nấu nước châm trà, hoặc pha cà-phê.
Sáng hôm nay, Cẩm Hương dậy thật sớm, mở cửa sau bước ra ngoài vươn vai, lắc mình qua lại làm vài động tác thể dục cho giãn gân cốt và hít thở không khí trong lành của buổi hừng đông. Mặt trời chưa lên.
Sương mù quyện hơi nước của dòng kinh trắng như dải lụa. Nước lớn dâng đầy, những bầy cá lòng tong ăn mống lội lềnh trên mặt nước đục màu phù sa. Cá mang rỗ phóng nhanh rèn rẹt làm bầy cá lìm kìm hoảng sợ nhảy cỡn lên rồi trở lại bầy nhỡn nhơ bơi. Nhà nhà vẫn còn yên ngủ. Tuy nhiên, bến xe cách nhà nàng ở trọ chỉ có mấy căn nhà, ngày nào cũng như ngày nấy ồn ào, xe cộ ngược xuôi. Động cơ các loại xe, tiếng rao hàng, tiếng mời khách, tiếng cãi cọ, chửi thề tưng bừng … Lúc đâu nàng bực bội vô cùng, nhưng ở riết rồi cũng quen dần đi.
Lúc nãy đi ngang qua phòng hai chị bạn đồng nghiệp nàng còn nghe tiếng ngáy ngủ pho pho của họ.. Nàng rón rén múc nước đánh răng, rửa mặt rồi về phòng thay quần áo, đợi chút nữa đây Thiện Tố đi xe đạp qua rước nàng về bên nhà ăn sáng và ở chơi chắc là chiều lắm mới về. Bởi hôm chiều thứ năm, Thiện Tố ghé qua cho mấy trái dưa hoàng kim đầu mùa, và chuyển lời mời của má chàng.
Cẩm Hương mở tủ lấy bộ đồ ủi hôm chủ nhật, ra vẻ hài lòng. Nàng ngắm nghía chiếc áo bà ba màu dưa cải có thêu bông lan dây hai bên ngực, rô-đê ở trôn và tay áo. Quần sa-teng tuyết nhung đen mướt rượt. Mẹ nàng có lần bảo: “Bộ áo quần màu sắc hơi tối, nhưng đi với nước da trắng của con trở nên rất trang nhã, dễ nhìn”. Nàng chải lại mái tóc đen huyền của mình, rồi lấy cây kẹp ba lá kẹp hết về phía sau cho gọn, kẻo khi Thiện Tố chở nàng bằng xe đạp, gặp gió, tóc khỏi bung lên như tóc bà điên.
Cẩm Hương khe khẽ dùng chìa khóa mở cửa. Nàng giựt mình đánh thót, bởi chưa đẩy mà cánh cửa bật mở ra. Đứng trước nàng, Thiện Tố với khuôn mặt tươi tỉnh, sáng rỡ, hồng hào, nụ cười nửa miệng hồn nhiên. Hôm nay chàng mặc áo thun trắng, quần cụt bằng vải ka-ki, chơn mang giầy Bata bố màu xám lợt.
Chiếc áo thun bày những bắp thịt nổi cộm ở cánh tay, ở vai, ở ngực chàng. Cặp giò chàng rắn chắc như giò những cầu thủ đá banh, hoặc chạy bộ. Thân chàng gân guốc, vạm vỡ, ngập tràn sinh lực.
Cẩm Hương chợt nghĩ: Chắc là trong máu anh chàng nầy số lượng hồng huyết cầu lấn chiếm số bạch huyết cầu nên anh ta mới hồng hào khỏe mạnh như vậy. Nếu cho anh ta đóng vai “Vọi” trong phim phóng tác theo truyện “Trống Mái” của Khái Hưng chắc là hợp lắm. Nghĩ tới đây, nàng cảm thấy má, mũi và lỗ tai mình nóng bừng. Nàng cúi mặt mắc cỡ, hỏi trỏng:
– Sao sớm vậy?
– Anh vừa mới đến thôi. Chúng mình đi nghen.
Nàng gật đầu, đóng cửa và khóa lại đi theo sau chàng. Thiện Tố lấy xe đạp dựng dựa cổng rào. Bỗng chàng nói:
– Hồi hôm nầy anh không ngủ được.
Cẩm Hương hỏi dồn:
– Tại sao vậy? Bộ anh không được khỏe à?
Dắt xe ra tới lộ, Thiện Tố ngồi lên yên xe, một chân để lên bàn đạp, một chân chõi xuống lộ giữ cho xe thăng bằng. Chờ Cẩm Hương ngồi vững lên bọc-ba-ga, anh dùng cái chân chõi đó đẩy xe lấy trớn và đạp đi. Cẩm Hương lo lắng:
– Tại sao đêm qua anh không ngủ được? Coi chừng anh bị cảm. Anh có uống thuôc giải cảm rồi chưa?
Thiện Tố cười:
– Có bịnh hoạn gì đâu mà uống thuốc? Không ngủ được bởi cảm em đó! Em ngồi cho vững nghen. Hãy ôm chặt eo anh, bởi xe đang lên dốc câu.
Cẩm Hương nổi sùng vì bị gạt. Nàng nạt ngang:
– Vô duyên! Vịn yên được rồi. Bộ muốn lợi dụng sao bảo người ta ôm eo? Chắc chở cô nào anh cũng bảo họ ôm eo anh hết phải không?
Thiện Tố thả xe xuống dốc chạy bon bon. Cẩm Hương sợ quá quíu mấy ngón tay vào dưới yên xe có lò-so làm hai móng tay gãy ngang mà không dám kêu đau. Trong khi Thiện Tố đắc ý cười lớn:
– Ờ phải vậy chớ, vì mấy khi được chở người đẹp?
Cẩm Hương làm thinh không nói lời nào, nhưng trong lòng ứa gan cho cái người “vô duyên dễ tức, sứt bàn nạo, không có gạo mà nấu, không có trấu mà un” nầy. Thiện Tố dừng xe:
– Tới rồi cô giáo. Mời cô xuống xe.
Đau nhói, Cẩm Hương rút bàn tay ra khỏi yên xe giấu sau lưng rồi đi vào nhà. Thiện Tố một tay cầm yên xe, một tay nắm “ghi-đong” rồi giở chiếc xe lên cao khỏi hàng rào. Vòng rào nầy dùng để chặn ngang không cho gà vịt chạy ra ngoài bươi phá mấy bụi hoa chuối nước màu hồng và màu gạch mới trồng lấy giống từ Lái Thiêu do Cẩm Hương mang về tặng. Chàng cảm thấy mấy ngón tay nắm cái yên nghe ươn ướt. Nhìn mấy ngón tay, chàng giật mình, buông vội chiếc xe ngã xuống đất, chụp tay nàng, xót xa:
– Sao em không nói? Đau lắm hả? Đi chơi lần đầu bị bịnh, lần kế bị gai xương rồng đâm về làm độc… Lần nay bị lật móng tay chảy máu. Vô nhà đi. Để anh lấy thuốc đỏ và băng lại kẻo vết thương bị làm độc nữa…
Thiện Tố bảo Cẩm Hương ngồi trên ghế, anh lấy đồ cắt móng tay, cắt những chỗ bị gãy xây xát thừa ra bên ngoài. Nếu không làm như vậy, chỗ gãy dễ bị vướng khi thay áo quần, sẽ làm nàng đau. Chàng lấy bông gòn chặm hết máu đọng lại trên móng tay, lấy thuốc đỏ bôi lên, miệng chàng thổi pho pho cho đở rát, và dùng miếng the trắng băng lại. Bà Tư Hiền từ nhà sau nghe có tiếng lục đục đi lên. Thấy sự việc, bà càm ràm:
– Qủi thần ơi, mấy ngón tay sưng húp rồi kìa. Sao con bất cẩn quá vậy? Lại để cho cổ bị thương! Nè cháu, khi Thiện Tố băng bó xong rồi cháu xuống nhà dưới, để bác lấy dầu nóng xoa bóp mấy ngón tay cho bớt đau và bớt sưng.
Cẩm Hương vừa đau vừa cảm động trước sự săn sóc của bà Tư và Thiện Tố dành cho mình nên rướm nước mắt. Nàng lí nhí trong miệng:
– Thưa bác, lỗi ở cháu chớ không phải ở anh Thiện Tố.
Bà Tư Hiền nói:
– Đừng có binh nó nữa. Lỗi của nó chớ ở cháu sao được? Qua rước người ta đến nhà chơi thì người được mời không bị cái nầy cũng bị cái kia…
Thiện Tố cười như mếu:
– Má còn binh cổ rầy ép con nữa. Lúc ngồi vào xe, con đã bảo ôm eo con, cổ có nghe đâu, thọc tay vịn dưới yên bất cẩn thế nào cho lật móng tay. May mà không bị mấy cái lò-xo nghiền nát ra.
Bà Tư Hiền trợn mắt với con:
– Miệng ăn mắm ăn muối, đừng có nói bậy nà.
Rồi bà nhìn Cẩm Hương tỏ vẻ rất hài lòng. Từ lâu bà không thấy có gì đặc biệt ở cô. Nhưng sau khi nghe con nói hai người sẽ kết hôn thì lòng quý mến của bà đối với cô càng tăng gấp bội. Cô mặc áo quần nào trông cũng đẹp, cô nói năng gì nghe cũng hay, cũng đúng… Mồi lần gặp cô, bà không sao kềm được vui mừng nên nói cười vui vẻ và cởi mở… Cẩm Hương cũng biết điều đó nên càng giữ lễ độ hơn.
Vừa lúc bà Tư rửa cái xửng hấp bánh ướt, thì có con chim khách từ đâu xẹt ngang cửa sau nhà hót véo von. Bà vui vẻ nghĩ thầm: “Chắc có khách quý đến thăm nên có con chim khách bay qua báo trước. Nếu là hai con Kiều đến thì phải có con chim ục, chim cú hoặc con chim ác là báo tin”.
Đúng như vậy! Khách đến nhà là Hồng Ánh vợ của Thiện Cảm. Cô ta hôm nay diện quá! Cô đội nón Huế quai nhung màu đỏ cam, mặc áo bà ba màu vàng có thêu hoa cúc tím lá xanh, đeo dây chuyền vàng mặt vàng cẩn Phật Bà Quan Âm bàng cẩm thạch, cổ tay đeo chiếc cẩm thạch cẩn vàng kiểu mắc tre, bông tai cẩm thạch tròn mặt bánh men, cà rá cũng bằng cẩm thạch hình móng ngựa xanh màu vỏ đậu. Cô bải buôi:
– Dì Tư có mạnh không? Bấy lâu nay vì lu bu chuyện nhà, con chưa tới thăm dì. Hôm nay sẵn dịp về Cái Nứa đám giỗ bà nội ruột của con, nên con trước là ghé thăm dì, sau là nhờ dì giúp con một việc. Dì cũng biết, năm ngoái ông già chạy chức Hương Hào cho anh Thiện Cảm, giờ thì mọi việc đã xuôi chèo mát mái. Do ông già dạy, tuần sau đây tụi con phải làm tiệc đãi Hương Chức Hội Te trong làng. Má chồng con cậy dì Tư nấu dùm món vịt tiềm, món cà-ri gà ăn với bún. Bún con đặt ở ngoài lò rồi.
Cô mở bóp, lấy tờ giấy bạc hình con công (tức là tờ giấy 20$), bảo:
– Dì cầm lấy số tiền nầy để mua sắm vật liệu. Nếu có thiếu hụt con sẽ đưa thêm.
Thiện Tố cười:
– Vậy là chị sẽ làm thím Hương Hào Cảm rồi.
Hồng Ánh cười buồn:
– Chức Hương Hào có tiếng mà không có miếng, chỉ được ăn cỗ bàn vào lễ Kỳ Yên và lễ cúng đình mà thôi. Má chồng của tui không muốn để cho anh Thiện Cảm bị người ta gọi là cậu ấm, nên xúi ba mua chức cho con trai bả đó chớ. Thiệt tình, tui không hãnh diện chút nào đâu.
Bà Tư Hiền cầm tờ giấy bạc. Bà vốn có cảm tình với Hồng Ánh. Cô ta đằm thắm, vui vẻ, không nịnh nọt kẻ trên, khinh bạc kẻ dưới như hai cô Kiều.
Bà hỏi:
– Thiện Cảm không đi ăn giỗ với cháu sao?
Hồng Ánh bảo:
– Ảnh mắc đi đóng bách phần cho dây ruộng giúp đình làng. Nên cháu đi có một mình thôi.
Bà Tư Hiền mời:
– Nếu không gấp gáp, cháu ở lại đây ăn sáng với má con dì và cô giáo nghen.
Hồng Ánh bưng tách trà Thiện Tố vừa rót, uống từng ngụm. Cô từ chối:
– Cảm ơn dì, sáng sớm cháu thấy trong bụng bào xào, nên ăn một phần tư trái mãng cầu xiêm.
Bà Tư nhìn Ánh Hồng, vui miệng:
– Biết đâu cháu cấn thai.
Hồng Ánh cười:
– Cháu cũng mong như vậy.
Uống xong tách nước trà, Hồng Ánh ra lộ đón xe xuôi về Bắc Mỹ Thuận, ghé qua ngã Ba Cái Nứa rồi đi đò chèo về nhà cha mẹ mình.
Bà Tư Hiền chưa mời lần thứ hai là Cẩm Hương đã cầm đũa. Nàng đang ăn ngon trớn liền khựng lại, vì Thiện Tố cười tinh nghịch chọc quê:
– Tay đau em có ăn được không? Hay là để anh đút cho nghen?
Bà Tư Hiền cười ngất, còn Cẩm Hương nguýt anh ta con mắt có đuôi, rồi cắm đầu ăn tiếp. Hôm nay bà Tư làm bánh ướt Triều Châu nhưn tôm khô ăn cặp với giá trụng chín chan xì-dầu trộn giấm ớt. Món điểm tâm nay thanh đạm. Cẩm Hương khen:
– Món nầy ngon hơn món bánh đúc tôm khô, ăn hoài mà không ngán.
Căn nhà mới của bà Tư Hiền phải là tổ ấm của mẹ con bà và cô dâu tương lai với một bầy cháu. Đó là niềm mơ ước của một người đàn bà đã từng đau khổ quá nửa cuộc đời. Đất ruộng của chồng bà chia và Thiện Tố mua thêm 5 sào của người ta, được lên liếp thành vườn giữa những cánh đồng lân cận bao quanh. Mùa hè không nóng nhờ gió mát từ đồng ruộng thổi về. Mùa đông không lạnh nhờ hơi nước và ánh sáng mặt trời rọi thẳng xuông khuôn viên nhà bà. Mái nhà lợp ngói đỏ, vách ván bổ kho. Mặt trước có cửa chánh, gồm 2 cánh lớn đóng kiểu lá sách ở giữa nhà. Cửa sổ ở hai bên hình chữ nhựt dựng đứng. Vách hông mỗi bên có 3 cửa sổ, đó là phạm vi của nhà trước.
Trong nhà, sau hai cửa sổ hai vách ở mặt tiền được đặt hai bộ đi-văn chưn quỳ để dành khi khách khứa đến có chỗ ngủ và khi đãi tiệc, trên hai bộ đi-văn nầy cũng dọn ăn được. Ở nhà trước còn có bộ xa-lông bằng gõ với 4 chiếc ghế bành to và chiếc bàn hình bầu dục đặt giữa hai hàng ghế.
Sau hai bộ đi-văn là hai vách ván ngăn mỗi bên hai phòng ngủ ở trong. Mỗi bên có một cửa vào và đi thẳng ra cửa sau. Cửa buồng có treo màn dài phủ xuống tới ngạch, chiếc màn màu xanh da trời bằng lụa, và tấm rèm thêu nổi đôi chim đậu trên cành hoa.
Sau bộ xa-lông là phòng vuông không có cửa đóng bằng ván hình chữ U có tủ thờ chạm trổ đặt bên ngoài, bên trong tiếp sau có đặt mấy cái bàn có ảnh bán thân của ba má bà Tư Hiền và cậu em trai đi lính đánh giặc Đức Phát-Xít bên Tây tử trận chưa có gia đình, bà cũng thờ luôn.
Nhà cất trên nên cao gần bằng mặt lộ đá. Thiện Tố cố tình cho đắp nền nhà cao như vậy, vì đây là đất ruộng vào tháng tám tháng chín nước lên tràn bờ, lại là mưa mùa nên chỗ đất thấp dễ bị ngập lụt lắm.
Nền nhà được lót bàng gạch tàu khổ lớn. Xuống 3 bậc thang là nhà dưới, nền và mái nhà dưới thấp hơn nền và mái nhà trên. Từ mái nhà trên, cách mái nhà dưới khoảng hai thước, Cẩm Hương nhìn thấy được bầu trời có điểm mây bay và ánh sáng rọi vào.
Dọc theo thềm nhà trên xuống nhà dưới là 2 hàng lu mái đầm lớn, có máng xối với ống bằng nhôm để dẫn nước mưa vào các lu. Những lu chứa nầy đã giúp hai mẹ con bà Tư Hiền được uống nước mưa quanh năm không thiếu. Bà còn cho bí đao vào ba cái lu đậy kín, để dành mùa nóng uống cho mát và khỏe khoắn.
Nhà dưới ngắn hơn nhà trên, không vách ngăn, ở giữa nhà có bàn ăn với 6 cái ghế, có tủ để thức ăn 3 bề được đóng bằng lưới ngăn cho ruồi lằn không vào được, và dưới mỗi chưn tủ có chén sành cù lao đựng nước ngăn cách cho kiến không bò lên tủ lưới. Có 2 chiếc võng lác treo tòn teng hai bên cột nhà gần bàn ăn.
Cửa sau ngăn bởi hai tấm vách hai bên là mái nhà dài để giàn bếp cao có 4 cái cà ràng và 2 hỏa lò lớn. Nhà bếp rộng, có tủ, có kệ đựng các món gia vị và các món lương khô dùng hàng ngày hay để lâu như muối, đường, tiêu, tỏi, nước mắm, gạo, nếp, bột, tương, chao, tôm khô… Có bộ ván bằng gỗ tạp cùng mấy cái ghế đẩu để ngồi gọt bí, xắt thịt, lặt rau, cải…