CHƯƠNG MƯỜI MỘT
Hôm nay chủ nhật, sáng sớm hai bạn đồng nghiệp chung nhà của Cẩm Hương trọ về quê thăm gia đình. Họ bảo rằng, chiều tối, theo chuyến xe cuối họ mới trở lại, hoặc là sáng sớm ngày mai trước giờ vào lớp. Lúc sáng đi chợ về bà Tư Hiền ghé qua lấy tiền nhà của họ gởi, và cho nàng mấy trái bắp Buôn-Mê-Thuột còn nóng hổi. Bắp nầy có hột màu tím ngã nâu, ăn dẻo, bùi và ngọt. Ở miền đồng bằng chưa nhiều người trồng nên ít có thứ bắp hột tím như vậy. Bà Tư vui vẻ bảo:
– Chút nữa về, bác bảo Thiện Tố rước cháu qua ăn trưa. Không biết ai bán mà hôm qua Thiện Tố mua về mấy con tôm càng xanh vỏ ngon quá. Bác có mua giá và bún, trưa nay sẽ làm món bún tôm nướng. Cháu qua ăn nghen.
Nàng cười buồn, từ chối khéo bằng cách viện lẽ hôm nay phải ở nhà giặt và ủi áo quần, soạn bài vở chuẩn bị cho tuần tới… Nàng không bận lắm, nhưng không muốn gặp mặt Thiện Tố. Nỗi hờn ghen còn vương vấn trong lòng cô gái trẻ mới yêu và được yêu. Bà Tư Hiền ra về, cũng không vui. Cẩm Hương đưa bà ra tới đường, rồi trở vào nhà đóng cửa rào lại còn đang săm soi mấy bụi hoa hồng, mấy khóm cúc vàng nghệ, bông nở ngày tím, hoa huệ trắng thanh khiết theo làn gió thoảng đưa hương dìu dịu…
– Chị Cẩm Hương! Chị Cẩm Hương…
Nàng quay đầu nhin ra hướng người gọi. Một nam, một nữ cười tươi đứng ngoài cổng. Cô gái có vẻ ẻo lả đứng khép nép bên người con trai. Người con trai mặc áo thun cổ lật tay cụt màu trắng, trên miệng túi có thêu nhánh cúc bằng chỉ xanh. Quần sọt (short) màu cà-phê sữa bằng loại hàng xi-mi-li dầy và ngang tới nửa dùi, bày cặp giò khoẻ mạnh vạm vỡ. Trông cậu tươi như cây xoài, cây mận thấm hơi sương mát lạnh vào trời hừng đông. Còn cô thiếu nữ mặc quần lụa đen, áo bà ba bằng lụa màu hồng. Đầu đội chiếc nón lá Gò Găng. Nón nầy sản xuất ở Qui Nhơn, mặt trong ghép bằng những cọng tre nhỏ mức như cọng nhang có thêu chỉ ngũ sắc chằng chịt. Cô xinh xắn, tươi trẻ, gọn gàng trong y phục nửa Âu, nửa Á. Cẩm Hương thoáng ngạc nhiên, rồi vui mừng hiện rõ trên nét mặt, nhưng hơi e dè nhìn người thanh niên như dò hỏi:
– Ơ Thành, sao em đến đây?
– Em xuống thăm chị. Đây là Nguyệt Cúc bạn gái của em. Nguyệt Cúc, còn đây là chị Cẩm Hương một kiện tướng của gia đình, mà nhiều lần anh đã nhắc đến.
Nguyệt Cúc miệng cười tươi như hoa, lễ phép chào:
– Dạ chào chị, hôm nay em mới được gặp chị. Anh Thành cứ hay nhắc đến chị luôn.
Cẩm Hương cũng cười vui:
– Vậy sao? Thành nói xấu hay nói tốt về chị của cậu ta đây?
Đúng như trong thư Thành viết gởi cho nàng mấy tháng qua. Ba của Nguyệt Cúc dạy học ở trường Pétrus Ký, còn má cô ta dạy ở Huỳnh Khương Ninh. Cô là đứa con gái thứ hai của gia đình có 2 anh em. Anh cô đang học trường Đại học Dược khoa ở Pháp.
Nguyệt Cúc là một cô gái trẻ đẹp có thân mình cân đối, cô thường đánh quần vợt là thứ giải trí làm cường thân kiện thể. Nước da cô trắng hồng, miệng nhỏ mũm mĩm dễ thương. Mái tóc đen huyền của cô cắt ngắn. Cô nhí nhảnh, có nếp sống tự lập và cách nhìn đời tự nhiên, vô tư, nên trông cô yêu đời và như luôn mang niềm vui đến cho những người chung quanh. Cô không rụt rè, nhút nhát hoặc quá khiêm cung, thận trọng như Cẩm Hương, hoặc như những người con gái Á Đông cha mẹ còn vướng mắc ít nhiều nền gia giáo phong kiến. Bởi ngay từ nhỏ cô đã hấp thụ nền văn minh Tây phương của cha mẹ, và học trường đầm từ thuở bé. Sau khi lấy xong bằng trung học Pháp, cô chuyển qua học chương trình Anh ngữ ở Hội Truyền Giáo Tin Lành. Vì cô muốn con đường tiến thân của mình sau nay là du học ở Mỹ chớ không ở Pháp như ý định của cha mẹ. Nguyệt Cúc liếc qua người yêu:
– Dĩ nhiên là anh Thành luôn khen chị. Anh khen nhiều lắm, đôi lúc em thấy ghen tương nữa đó.
Cẩm Hương bật cười thành tiếng về lời chân thật và hết sức tự nhiên của cô gái. Cẩm Hương mời cả hai vào nhà. Ba người hàn huyên nói cười rộn rã … rất là tâm đầu ý hiệp.
Thấy Cẩm Hương cứ nhìn chiếc nón Gò Găng chăm chú, Nguyệt Cúc cười thẹn:
– Chắc chị ngạc nhiên tại sao em đội chiếc nón dành cho mấy bà sồn sồn nầy? Ở Sài Gòn em quen mặc áo đầm, xách bóp đầm che dù reng. Nhưng khi đi chơi với anh Thành, em mặc quốc phục, nên em mượn chiếc nón của bà vú em. Tuy nó nặng, thô ở mặt ngoài, diêm dúa ở mặt trong nhưng che mát đầu lắm.
Cẩm Hương dịu dàng:
– Dù sao đi nữa, khuôn mặt của Nguyệt Cúc vẫn trẻ măng, vẫn trong sáng.
Thành vui vẻ nhìn chị:
– Chị nói vậy, Nguyệt Cúc sẽ mừng hết lớn và em cảm thấy mát lòng không uổng chuyến đi nầy.
Cẩm Hương nhớ lại mẹ mình càm ràm: “Thằng Thành về nhà đòi lấy con nhỏ làm ở hãng Denis Frère nên má giận hờn không thèm nói đên tên nó nữa…”. Bà còn rủa xả: “Nó là thằng bất hiếu. Sanh nó để má sanh trứng gà, trứng vịt luộc ăn còn sướng miệng hơn…”. Má nàng không biết cô nầy thuộc gia đình gia giáo. Nhờ vào sự quen biết của ba má cô mà Thành được làm việc tại Sài Gòn. Có lẽ tại Thành không nói rõ với mẹ, nên bà cứ tưởng con mình bị mấy con me Tây trá hình dụ dỗ. Chớ bà đâu có ngờ thật ra con dâu tương lai rất tương xứng với con trai bà. Theo Cẩm Hương nhận xét, có lẽ sau nầy cô ta còn trội hơn Thành là khác, Cẩm Hương bảo Thành:
– Em có đưa Nguyệt Cúc về thăm ba má chưa?
Thay vì Thành trả lời chị, nhưng Nguyệt Cúc cười lớn nhanh miệng:
– Anh Thành có rủ em đi thăm ba má ảnh mấy lần, nhưng em ngại không dám đi.
Cẩm Hương cười chúm chím:
– Tại sao em ngại?
Nguyệt Cúc phụng phịu:
– Tại em làm việc chi ảnh cũng rầy. Ảnh bảo phải làm như vầy, phải làm thế kia, nếu không làm như vậy thì sai rồi… Và sau cùng lúc nào ảnh cũng nói: “Má anh khó tánh lắm, còn ba anh thì dữ nữa. Em mà là anh thì em sẽ bị đòn nứt mông rồi”.
Cẩm Hương mắc tức cười, đánh vào vai Thành:
– Cái thằng nầy, sao em hù cổ chi vậy? Nguyệt Cúc đã bị nó gạt rồi. Đừng có nghe nó nói bậy. Nếu bà già gặp em sẽ thương mến em liền. Hãy sắp xếp, hôm nào em theo Thành cùng chị về thăm ông bà già nghen. Đừng ngại, có chị mà, Thành không dám ăn hiếp em đâu.
Nguyệt Cúc liếc Thành như hỏi ý, cậu ta cười nheo mắt với người yêu. Nàng trả lời Cẩm Hương bằng cái gật đầu và khẽ “dạ”.
Hôm đó Cẩm Hương dắt đãi em và bạn gái em mình chầu cơm trưa ở quán ăn nơi cầu đúc bắc qua đường đi vào chợ dù biết rằng đàn bà con gái con nhà đàng hoàng ít ai ăn chợ, ăn quán như vậy. Tuy nhiên Nguyệt Cúc có cách sống tự do, và Cẩm Hương cũng là người cởi mở. Họ không nghĩ nhiều đến những chuyện ràng buộc bởi tiểu tiết thường tình đó. Vả lại, nàng cũng không phải đi một mình mà còn có em trai và Nguyệt Cúc nữa mà.
Thật ra, Nguyệt Cúc có cái tên trong khai sanh là Marguerite Lý Hoàng. Lý Hoàng là tên của cha cô. Khi vào dân Tây, ông thêm vào tên Henri vào tên mình. Anh của cô tên là Marcel Lý Hoàng.
Từ khi yêu Thành, Marguerite liền lấy tên Nguyệt Cúc cho vừa lòng chàng. Hoa marguerite là loại hoa cúc xòe cánh hình tròn như mặt trăng rằm. Nguyệt Cúc là tên dịch từ tên hoa marguerite. Cô ta bảo với người yêu “Nếu được qua Huê Kỳ du học, em sẽ đổi tên là Daisy. Đó là tên mà người Mỹ dịch từ tên hoa marguerite vậy”.
Quán Phú Hưng chứa khoảng 8 cái bàn vuông, mỗi bàn có 4 cái ghế đẩu, chia mỗi bên 2 cái. Trên bàn ở góc trong có chai nước tương nhỏ, keo ớt ngâm giấm, hũ tiêu cà, hũ muối và ống sành đựng chừng mười đôi đũa. Bên trong là quầy tính tiền và nào là thùng đựng thuốc gói, thuốc lá, hộp quẹt diêm để bán cho khách hàng khi họ cần. Quán trưa nay ít người, ông chủ quán đang ngồi nhổ râu, suy gẫm chuyện đời. Thấy khách vào, ông xăng xái đi ra, lanh lợi, niềm nở chào mời:
– Chào cô giáo! Chào thầy, chào cô.
Họ chào lại. Cẩm Hương hỏi:
– Dạ chào chú, em Hưng dạo nầy học hành thế nào, có thường về không chú?
Ông chủ quán vui vẻ trả lời:
– Dạ, Hưng học cũng được hạng trung bình. Chiều thứ sáu nào nó cũng về và sáng sớm thứ hai thì trở xuống dưới. Tội nghiệp, từ nhỏ đến lớn nó không có xa nhà. Bây giờ đi học xa nên nó nhớ nhà và nhớ em út lắm. Hôm nay, cô giáo và quý thầy cô muốn dùng món chi?
Cẩm Hương quay lại bảo với em mình:
– Ở đây nổi tiếng nem ngon. Người ta thường nói đến Cai Lậy mà chưa ăn nem thì coi như chưa đến Cai Lậy. Vậy hai em thử món ngon vùng nầy nghen. Sao Nguyệt Cúc, có thích ăn nem không?
Cô gái nhoẻn miệng cười như hoa hàm tiếu:
– Anh Thành ăn món gì thì em ăn món đó.
Cẩm Hương có vẻ hài lòng về cô em dâu tương lai nầy. Thành cười ha hả, cười chảy nước mắt. Nguyệt Cúc háy và lòn tay xuống bàn nhéo Thành có ý bảo chàng im. Thành vừa cười vừa nói:
– Nguyệt Cúc, em biết ngoan ngoãn từ hồi nào vậy? Đi chơi với anh có lúc nào em chiều ý anh đâu? Nhứt là về ăn uống, bao giờ em cũng kén chọn kỹ và khó khăn lắm. Sao hôm nay bỗng dưng em ngoan hiền quá vậy?
Nguyệt Cúc liếc xéo Thành, tự nhiên nói:
– Tại đi với anh, chỉ có hai đứa mình nên em phải bắt anh chiều cho vui! Còn bây giờ có chị Cẩm Hương. Em nể chị nên không dám sách nhiễu đó chớ bộ!
Cẩm Hương cười, gọi một dĩa nem chua và một dĩa nem nướng. Nàng hỏi hai em:
– Hai dĩa nem nầy ăn khai vị. Hai đứa muốn ăn gì thì gọi thêm? Bún nem chua, hay bún nem nướng? Ngoài ra tiệm nầy còn có hủ tíu bột-mút nấu với sườn heo non có tôm và mực, bún nước lèo, bánh xèo, cơm tấm với bì, sườn nướng, tôm, chả… Món nào cũng ngon lắm.
Người chạy bàn vừa bưng lên những thức ăn đặt xuống. Không ai bảo ai, cả ba chị em mở mắt thao láo nhìn dĩa nem đã lột hết lớp lá chuối gói. Từng miếng nem mỏng trong vắt, lớn bằng ngón chân cái đều đặn nằm trong những chiếc lá vông non gói nem heo héo, xanh mướt. Màu nem hường tái của màu thịt nạc tươi đã trở chua, có vân trắng của bì heo lẫn lộn. Trên mỗi chiếc nem có một miếng tỏi chua trắng ngà kèm theo miếng ớt sừng trâu đỏ ngâm giấm. Dĩa kia, ghim trong những cây tre non nhọn đầu, mỗi cây chừng năm viên nem vò tròn lớn hơn viên đạn bắn cu-li của trẻ con đã nướng vàng óng. Mùi thơm theo hơi khói nghi ngút bốc lên. Đó là món nem nướng. Cả hai dĩa nem nằm cạnh chén nước mắm chua ngọt đỏ màu tương ớt, điểm dưa kiệu xắt mỏng, cùng củ cải đỏ, củ cái trắng, dưa gừng xắt chỉ. Một dĩa rau sống vun chùn, lẫn lộn nhiều loại như là húng cây, húng nhủi, rau răm, dấp cá, lá quế, ngò om, ngò gai, ngò rí tươi xanh, cùng những lá cải xà-lách lớn bản, màu xanh non nhẫn nằm hơn hớn.
Cả ba, ăn uống no nê, nói chuyện tự nhiên vui vẻ cởi mở. Trong khi đó ở bàn bên trong của quán có cặp vợ chông trẻ cùng ba đứa con nhỏ đang ngồi ăn hủ tíu. Nhưng đôi mắt người của người đàn bà luôn hướng về bàn của Cẩm Hương và chốc chốc lại ngước nhìn nàng như theo dõi.
Thành nhanh chân lại quầy hàng trả tiền, Cẩm Hương miệng còn đang ăn ngồm ngoàm không kịp cản em, đưa tay khoát khoát ra dấu để nàng trả. Nguyệt Cúc cười khúc khích:
– Để anh Thành trả tiền. Ảnh vừa mới lãnh lương hôm qua đó chị. Ảnh không bao chị em mình thì ảnh cũng tiêu vào các chuyện khác hoặc là đãi bạn bè hết.
Cẩm Hương cười:
– Trong hai người em trai của chị, Thành là đứa hào phóng nhứt. Em phải kềm chế nó mới được. Hứa với chị, lần sau chúng ta về thăm ông bà già chị nghen. Má ba chị có thành kiến trong việc đàn bà con gái đi làm sở của ngoại quốc, nhứt là sở của Tây. Nghe Thành nói em làm cho hãng Denis Frères, má ba chị cứ tưởng em như phần đông những cô gái phóng túng đi làm hãng ngoại quốc khác. Nhưng chị chắc chắn rằng, khi ổng bả gặp được em họ sẽ có cách nhìn khác và họ sẽ thương mến em…
Thành nhìn người yêu cười có vẻ tinh ranh. Chàng chẫm rãi nói:
– Ba má có thành kiến cũng không sai. Hãng ngoại quốc có người vầy, người khác. Những người làm việc giấy tờ, những người coi về dọn dẹp. Có cô nhí nhảnh, hết cặp bồ thì đú đỡn với nhân viên người Pháp, người Chà và xuất thân từ tỉnh Pondicherry bên Ấn Độ. Còn Nguyệt Cúc giữ chức phụ tá quản lý của hãng, có văn phòng riêng biệt. Bạn gái thân của cổ là con ông phụ tá Giám đốc, nên ban Giám đốc coi cổ như con cháu trong nhà.
Cẩm Hương bảo:
– Nguyệt Cúc có cốt cách tao nhã, có phong độ trí thức, có dáng dấp cao sang. Trông người thì biết nguồn gốc, tánh tình của Nguyệt Cúc rồi.
Nguyệt Cúc xúc động nhìn Cẩm Hương biết ơn. Thành vừa bỏ tiền thối vào túi quần, trở về chỗ mình ngồi xuống ghế, lấy cây tăm, che miệng xỉa răng. Chàng cười hỏi.
– Hai kẻ hạ thần không chán sống kia, thì thầm nói lén trẫm gì đó? Bộ không sợ đao phủ quân sao?
Nguyệt Cúc cười hí hí, rồi giả nghiêm mặt nói:
– Tâu bệ hạ, thần thiếp nói bệ hạ là ông vua xạo!
Cẩm Hương chêm vào;
– Như bổn Quận Chúa đây, được sự thương mến của Thượng hoàng và Thái hậu, khuyên ngài nên chừa cái tánh xạo khó thương dễ ghét đó đi. Nếu không thì sẽ bị giáng chức, và làm kiếp lưu đày ngoài biên ải đó bệ hạ…
Cả ba cười như vỡ chợ! Cẩm Hương sực nhớ giựt mình, len lén liếc chung quanh xem có ai nhìn không? Vì nàng quên đi ở đây là Cai Lậy Quốc! Đàn bà con gái ngồi ăn hàng ăn quán đã một việc khó coi rồi, lại còn nói rôn rổn, cười inh ỏi nữa. Lạng quạng có người xấu miệng tiếng ra tiếng vào, đồn đãi sai sự thật cũng phiền lắm! Nhưng rồi, nàng tự trấn an. Thây kệ, tới đâu thì tới!
Lúc tiễn hai cô cậu lên xe trở về Sài Gòn, Cẩm Hương đưa cho em mình một giỏ xách hơi nặng. Nàng gởi về tặng cho ba má Nguyệt Cúc ba chục nem chua, một chục xoài cát đen đầu mùa.
Nguyệt Cúc siết chặt tay Cẩm Hương:
– Đáng lẽ em tìm gặp chị sớm hơn. Chị biết không? Anh Thành cứ khoe với em chị đẹp, hiền hậu, dễ cảm thông. Ảnh còn khoe chị Ánh Nguyệt, bạn thân của chị đang gây xao xuyến trong tim anh Tuấn. Em ước mong cả 3 sẽ có ngày gặp nhau.
Cẩm Hương ngạc nhiên:
– Tuấn và Ánh Nguyệt chưa đi tới đâu. Tuấn nhút nhát chưa dám tỏ tình với Ánh Nguyệt.
Nguyệt Cúc bảo:
– Nhưng ảnh cứ nhắc chị Ánh Nguyệt với tụi em luôn. Hổm rày ảnh còn coi sách báo để có thể viết bức thư tỏ tình cho chị Ánh Nguyệt thiệt mùi nữa đó.
Lớp Cẩm Hương dạy đầu năm được 20 học trò nữ, và 30 nam. Nam nữ học trò nàng có đứa đã 15, 16 tuổi rồi. Lâu lâu mấy đứa học trò gái vừa tới tuổi dậy thì được cha, hay mẹ đến xin phép nghỉ học để sửa soạn việc hỏi cưới. Có đứa vắng mặt lâu ngày, sau đó hỏi ra mới biết nó đã có chồng hay có vợ rồi. Đa số phụ huynh học sinh ở đây cốt cho con đi học để biết đọc, biết viết rồi về làm ruộng rẫy hoặc buôn bán hơn là quyết tâm cho con ăn học đến nới đến chốn….
Học trò của Cẩm Hương gần cuối năm chỉ còn 2/3. Ngày hôm qua thứ hai, đi học được 30 trò, hôm nay còn có 18 trò. Nàng lấy làm lạ hỏi, nhưng không đứa nào biết tại sao? Đến giờ ra chơi vào, chú Bảy cai trường xuống chuyển lời bà Đương dạy nữ công cũng là coi về đời sống nhân viên mời nàng lên văn phòng.
Cẩm Hương viết đề bài “Ăn trái nhớ kẻ trồng cây, uống nước nhớ người đào giếng” cho học sinh làm luận văn, rồi đi lên văn phòng.
Bà Đương có vóc người mập mạp khoảng ngoài 40 tuổi, tóc hoa râm. Chồng bà là thầy Tán dạy lớp ba cũng ở trường nầy. Bà có 8 đứa con lăn măn. Đứa con trai lớn của bà đang học năm thứ hai trường Le Myre de Vilers dưới Mỹ Tho. Trong trường bà nổi tiếng khó khăn. Học trò thấy bóng dáng bà ở xa, là chúng quẹo nẻo khác để né. Vì gặp bà nếu nam sinh thì bả sẽ bảo: “Tóc em dài cần đi hớt. Sao quần áo lem luốc, dơ bẩn vậy? Móng tay em quá dài cần phải đi cắt…” Nếu gặp nữ sinh thì bả luôn chì chiết: “Con gái phải đằm thắm, nết na, làm gì mà la hét om sòm? Tóc em nên kẹp vén vang lên, đừng để xù xụ như tóc con ma đội mồ. Em giỡn hớt cách chi mà tóc tai bù xù, quần áo xốc xếch như mụ điên?…”.
Cẩm Hương vừa bước vô văn phòng chào bà. Bà vui vẻ chào lại mời nàng ngồi ghế đối diện với bà. Bà hỏi Cẩm Hương vài ba câu chuyện xã giao bâng quơ rồi kéo học tủ lấy bức thơ đưa cho Cẩm Hương, nghiêm khắc bảo:
– Cai Lậy tuy là chợ quận nhưng nhỏ lắm. Người lạ mặt mới đến đầu chợ thì 15 phút sau, là cuối chợ biết hết … Đây, thư của phụ huynh học sinh gởi cho trường. Cô hãy đem về xem rồi mai cho chúng tôi biết ý kiến.
Cẩm Hương chưng hửng, nhưng cầm lấy thơ chào bà, rồi bước ra đi về lớp. Lớp học vẫn yên lặng, chỉ nghe tiếng rào rào của ngòi viết trên giấy. Vì học trò đang làm bài, nàng ngồi vào bàn, lấy thư ra xem. Trong thư có những câu rào trước đón sau, và tỏ ý là mình đại diện cho một số phụ huynh học sinh trong quận lên tiếng:
“Cai Lậy, ngày… tháng… năm
Kính thưa ông Đốc học,
Gần đây một số nữ giáo chức trẻ, theo thói Tây Đầm có những hành vi không tốt như uống rượu, ăn hàng ăn quán, cười nói giỡn hớt lả lơi với đàn ông… Những sự kiện nầy chúng tôi nghĩ rằng sẽ gây ảnh hưởng không tốt cho các con em vô tư, hiền lành của chúng ta trong quận lỵ… “
Cẩm Hương tức muốn rêm cả ngực. Rõ ràng là đặt điều, thêm thắt câu chuyện để nói xấu nàng. Không dằn được, nàng xách lá thơ trở lên văn phòng. Nếu để đến ngày mai, thì đêm nay nàng sẽ thức trắng năm canh!
Lần trở lại nầy có cả ông Đốc học Tý đi họp mới về. Ông Tý ngồi giữa, bà Đương và Cẩm Hương ngồi đối diện nhau. Nàng trình bày hết mọi việc về cậu em trai và bạn đến thăm nàng hôm chủ nhật. Không dằn được, nàng tức tối:
– Thưa ông Đốc học, tôi thiết nghĩ, những lúc dạy, tôi không làm gì phạm nội qui của trường, còn ngoài giờ dạy và ở bên ngoài đó là đời tư cá nhân của tôi. Sao ở đây lại có những người ăn không ngồi rồi thò vò vào chuyện người khác vô duyên như vậy? Còn thêm bớt để đặt điều nữa. Thật là xấu miệng độc mồm không sợ mắc khẩu nghiệp!
Ồng Đốc Tý cười hiền lành, khuyên:
– Thôi bỏ đi cô, chuyện cũng không có gì nghiêm trọng. Hôm nào họp phụ huynh học sinh tôi sẽ nói khéo với họ. Nhưng cô cũng phải để ý, người dân ở đây rất nghiêm khắc về vấn đề nam nữ… Chuyện vừa xảy đến cho cô đó, có nhằm gì đâu, nhưng nó cũng làm cho cô bực mình lắm. Cho nên tốt nhứt tránh là hơn, “Nhập giang tùv khúc, nhập gia tùy tục “ mà cô.
Cẩm Hương cảm ơn ông rồi trở về lớp. Cả buổi đó, nàng chẳng còn tâm trí nào mà dạy học. Và nàng cảm thấy ghét cay ghét đắng tất cả những ai ở quanh nàng!
Sau khi về thăm ba má, Cẩm Hương trở xuống nhà trọ. Xe đến Ngã Ba Trung Lương thường thì dừng lại không lâu, chừng 30 đến 40 phút thôi, để cho hành khách lên xuống cùng đưa hàng hóa lên xe. Người ta gọi là Ngã Ba Trung Lương, có lẽ là ở đây có 3 ngã. Đó là ngã đi vô Mỹ Tho, ngã đi Sài Gòn, và ngã về Mỹ Thuận. Nơi nầy có nhiều hàng quán bán thức ăn cho hành khách lỡ đường trễ bữa. Nhiều sạp bán các loại chuối ép phơi khô, các loại kẹo chuối, bánh tráng ngọt trộn sữa, bánh phồng khoai nước cốt dừa. Có nhiều người bán dạo theo xe rao hàng lanh lảnh, người mua gọi ơi ới… hợp thành âm thanh đặc biệt, trong một cảnh sinh động náo nhiệt. Thường trong những chuyến đi hoặc về nầy, Cẩm Hương hay mua kẹo chuối. Loại chuối ép phơi khô xắt ra ngào với đường thẻ, hoặc đường tán cho keo lại, rồi trộn với đậu phộng và dừa rám xắt mỏng. Họ trải bằng mặt để nguội cắt ra từng cục vuông vừa miếng ăn, gói lại bằng giấy kiếng trong suốt, vào từng bịch nhỏ bán cho hành khách. Ba má nàng rất thích ăn kẹo chuối, uống với nước trà. Nàng cũng thích kẹo nầy, mỗi lần nhai kẹo thì lẫn lộn mùi chuối hòa với đường. Kẹo chuối vừa ngọt, vừa dẻo, đậu phộng vừa dòn vừa béo như dừa. Uống với nước trà Xiểu Chủng nóng, thật là tuyệt.
Một thiếu nữ vừa bước lên xe, có lẽ cô ta hơn nàng đôi ba tuổi. Dáng vóc coi khỏe mạnh, nước da trắng, tóc dài được kẹp gọn, miệng cười má lúm đồng tiền rất xinh. Cô ta mặc áo dài the bông nhung ép màu lá mạ, quần xá xị đen, cổ quấn khăn the trong suốt màu hồng thắm. Cô ta không son phấn, chỉ tỉa gọn cặp chân mày. Về nữ trang cô đeo bông vàng, giây chuyền mặt ông Phật cũng bằng vàng, và chiếc vòng tay mã não màu nâu đỏ. Cô không đẹp, nhưng mặn mòi, coi thiệt dễ mến, nhứt là khi cô cười ngỏn ngoẻn phơi chiếc răng khểnh bên mép trái, và đôi lúm đồng tiền xoáy sâu dưới gò má gần mép miệng.
Thấy cô nhìn dáo dác tìm chỗ ngồi, Cẩm Hương xích vào gần cửa sổ xe. Cô gái ngồi xuống tỏ lời cảm on bằng giọng trong ấm. Cẩm Hương lí nhí trong miệng “Không có chi”, rồi nhắm mắt lại giả bộ ngủ. Cô gái không ngồi yên, nhích qua, nhích lại, chồm tới, thụt lui. Xe bắt đầu lăn bánh. Cô ta biết Cẩm Hương còn thức nên gợi chuyện:
– Cô đi về đâu vậy?
– Dạ, tôi về Cai Lậy.
Cô ta cười cởi mở:
– Vậy là mình đi chung đường và xuống cùng bến. Tôi cũng về Cai Lậy. Hình như cô không phải người ở đó? Vì tôi ở Cai Lậy từ nhỏ mà chưa bao giờ gặp cô? Cô ở nơi khác, đến làm việc ở Cai Lậy hả?
Có người đồng hành nói chuyện cũng đỡ buồn, nên Cẩm Hương vui vẻ trả lời:
– Dạ, tôi cũng chỉ mới về làm việc ở đó thôi, và cũng ít hay đi đâu.
Cô ta cởi mở kể chuyện Cai Lậy, kể chuyện làm ăn...Và cô ta thành thật:
– Tôi ở gần máy chà lúa. Cô biết máy chà đó chớ? Nhà tôi mái ngói vách gạch, có hàng rào đá lớn trước nhà.
Cẩm Hương gật đầu, nhớ là mình có lần đi cúng miễu với bà Tư Hiền, trên đường về ghé qua đó và được Thiện Tố đãi nước mía. Cô gái tự nhiên mở giỏ, lấy chiếc bánh ú ra ăn. Ăn xong, cô ta lấy khăn tay chùi miệng, rồi mở bóp đầm lấy ra tấm kiếng tròn để trong lòng bàn tay săm soi cái mặt. Xong, cô mò lấy bịch nhỏ kẹo dừa mở ra mời Cẩm Hương, Cẩm Hương nhã nhặn từ chối. Cô gái lấy một cục, giở giấy gói, để vào miệng nhai ngon lành. Cục kẹo vừa hết thì cô lôi ra bao xí muội lấy một trái ngậm rồi, bảo Cẩm Hương:
– Cô biết không? Dượng rể tôi là ông bang Phước Kiếng có cái chành lúa gần máy chà gạo của ông Hai Cung. Dì tôi muốn làm mai tôi cho anh tài phú người Tàu lai coi trẻ trung và cũng lành trai lắm. Tuy tôi cũng biết lấy chồng Chệt khỏi phải làm dâu, được ăn thịt hà rầm. Nhưng lấy chồng Tàu tối ngày cứ nghe nó làm chuyện làm ăn buôn bán xí xô xí xào hoài thì chán eo chán óc! Tôi thích lấy chồng Việt hơn để còn được nghe nói những câu mặn mòi tình tứ, mà dễ cảm thông với nhau hơn. Mặc dù tôi ưa ăn hầm dĩ hơn mắm, nhưng lấy chồng Chệt thì không được đâu.
Cẩm Hương cảm thấy mình mến cô bạn đồng hành trên chuyến xe nay. Cô cởi mở, hồn nhiên. Gần cái miệng, bên mép trái bờ môi cô có nốt ruồi tròn. Thứ gái nay ăn hàng xàm xạp tối ngày, ăn hàng không để cái miệng kéo da non, ăn hoài không ngán, ăn suốt tháng tròn năm… Cô ta tiếp:
– Cô đi qua nhà máy chừng một đổi thì nhà ông nội tôi, tôi sống với ông bà từ lúc nhỏ. Còn ba má và các em tôi ở gần trong Vườn Đào. Hôm nào mời cô vô nhà tôi chơi. Tôi tên là Ngọc Huệ. Còn cô tên gì? Cô làm gì ở quận nhỏ bé nầy vậy?
Ngọc Huệ nói đến đó thì xe đến bến. Mọi người nhanh chân xuống xe, cô ta cũng vậy. Cẩm Hương không gấp gáp gì, đợi mọi người xuống xe hết rồi nàng mới thủng thỉnh đi xuống. Trước khi được xe kéo đi, Ngọc Huệ còn nói lớn: “Nhớ hôm nào vô nhà tôi chơi nghen, đến máy chà cô hỏi nhà ông Cả Bảy thì ai cũng biết…”, Cẩm Hương đưa tay chào cô ta. Nàng quãy túi nãi trên vai, vừa đi vừa lẩm bẩm: “Người dân ở miền quê chân thành và hiếu khách”.
Chiều nay, trên đường dạy học về, Cẩm Hương lơn tơn đi với ba đứa học trò. Thu Lan và Ngọc Hà tranh nhau kể cho nàng nghe về mùa nước nổi bắt tôm trứng. Còn Vĩnh Hà là người gốc Huế thuộc dòng dõi vua chúa có cái tước hiệu quý tộc Nguyễn Phúc, thuộc thế hệ Công tằng Tôn nữ. Em điềm đạm, ít nói là trưởng nữ của ông bà Nguyễn Phúc Ưng Bằng về làm ở quận nầy trước nàng mấy tháng. Em lắng tai, chăm chú nghe hai bạn và mỉm cười nhiều hơn nói.
Mỗi tuần, cứ vào ngày thứ sáu, trước 45 phút tan trường, học trò lớp Cẩm Hương dạy phải ra sân cho huấn luyện viên môn thể dục hướng dẫn. Nên hôm nay các em về hơi trễ.
Khi Cẩm Hương cùng lũ học trò ra về thì mặt trời đã ngã khỏi rặng cây bên kia sông. Ánh sáng túa nhiều màu: xanh, đỏ, tím, vàng… phản chiếu nhau làm cả một vùng trời màu sắc thắm tươi rực rỡ. Gió chiều mát rượi lùa các cành lá cây ăn trái trồng hai bên đường va chạm nhau rào rào. Trên không trung, lác đác đám cò, vạc lẫn chim én chập chờn đôi cánh. Và trên nóc nhà nhà đã quyện tỏa làn khói nấu cơm chiều. Dưới dòng rạch, cặp ngỗng trắng đuổi rược nhau kêu cò két, cò két…
– Cô ơi! Cô ơi… Mừng quá hôm nay được gặp lại cô!
Cẩm Hương quay lại. Thì ra Ngọc Huệ, cô thiếu nữ nàng gặp và quen trên chuyến xe đò mấy tuần trước. Và còn có bà chị thân mến của Thiện Tố đi chung với cô nữa.
Cẩm Hương cũng vui vẻ:
– Chào chị Ngọc Huệ. Chị vẫn khỏe chớ? Chị đi chợ hả?
Tay xách mấy gói thuốc Bắc lủng lẳng đưa lên, Huệ nói:
– Không, tôi đi hốt thuốc cho ông nội tôi. Hổm rày ông bị ể mình. Còn đây là chị Kiều Lan con ông chủ nhà máy Phú Hưng ở bên kia sông đối diện nhà tôi. Chị Kiều Lan, còn đây là chị bạn tôi mới quen trên chuyến xe đò hôm tháng trước. À chị tên gì cà? Đến nay tôi vẫn chưa biết tên?
Ba đứa học trò cúi đầu chào khách rồi rù rì với nhau, sau đó đến gần Cẩm Hương “Thưa cô em vê, chào cô em về...chào cô em về”.
Ngọc Huệ cười để lộ hàm răng trắng đều. Nàng lanh miệng:
– Thì ra cô là cô giáo? Cô giáo tên gì đây?
Cẩm Hương nhỏ nhẹ:
– Thưa chị, tôi tên Cẩm Hương. Chị gọi tôi là Cẩm Hương được rồi.
Kiều Lan mở to đôi mắt xếch ngược, ngời sáng nhìn nàng. Chị ta làm mặt lạ làm mặt lạ cho Ngọc Huệ biết như chưa bao giờ gặp Cẩm Hương. Chị hỏi:
– Phải cô ở nhà trọ bên nhà dì Tư Hiền không?
Cẩm Hương nghĩ không biết mụ ta sắp dở trò gì đây? Nàng bảo:
– Dạ thưa phải.
Kiều Lan cười khẩy, hất mặt lên nhả nọc:
– Huệ à, em coi cô giáo đây đẹp khuynh quốc khuynh thành không? Đã vậy cổ theo cách Tây đầm giao thiệp với bạn trai rất là… hào sảng. Thuở Cai Lậy Quốc chưa có cô giáo nầy thì em là hoa khôi. Bây giờ em phải chịu làm á hậu rồi. Em có tức cho tới á khẩu không?
Ngọc Huệ vẫn hồn nhiên:
– Cô giáo tuy không đẹp theo kiểu hoa hậu, nhưng lại đẹp thùy mị đoan trang. Vậy cũng đủ làm cho mấy bà già trầu trong vùng mình hăng hái cầm trầu cau đi cưới cho con cháu họ rồi.
Kiều Lan nói:
– Hèn nào dì Tư Hiền, vợ bé của ba chị muốn đi hỏi cổ cho thằng em trai khác mẹ của chị đó đa.
Bỗng Kiều Lan hất hàm quay qua hỏi:
– Nè cô giáo, thằng em tui có cho cô biết lòi hứa hôn của ông Cả Bảy với ông nội tui chưa?
Cẩm Hương làm sao quên được Kiều Liên xon xỏn chửi, và còn hăm he Thiện Tố nữa. Người đời thường nói: “Khôn cho người ta vái, dại cho người ta thương. Đừng dở dở ương ương chúng ghét” Bà chị nầy và cô em đó, xem bộ tánh tình không khác nhau chi mấy! Cô Kiều Lan nếu mặt không cau có, đôi mắt cô nếu không có cái nhìn nung nấu dữ tợn, nếu cặp môi quạu quọ của cô nở nụ cười thoải mái thì nhan sắc cô cũng trên trung bình. Cũng như cô em Kiều Liên tánh tình giống chị. Cô chị Kiều Lan nầy đã dữ tợn lồ lộ mà còn có vẻ ác ngầm nữa.
Cẩm Hương ấp úng trong miệng chưa biết nói gì, chỉ gật đầu. Kiều Lan đanh đá, bồi tiếp:
– Thằng em một cha khác mẹ với tôi vô phước có bà má đi giựt chồng người ta. Còn nó bây giờ lại học thói bỏ mồi bắt bóng, phụ khó tham giàu, làm trò lường gạt phản bội. Thật là mẹ nào con nấy, cả một phường không ra gì, cá mè cùng lứa mà!
Cẩm Hương vô cùng khó chịu trước thái độ trịch thượng, bất lịch sự của Kiều Lan. Nàng nghiêm giọng:
– Xin lỗi chị, chúng ta chỉ quen thôi, tôi chưa biết gì về chị và chị cũng không biết gì về tôi. Cho nên tôi nghĩ rằng chúng ta không nên nói đến người vắng mặt!
Nếu là một người khác, nghe Cẩm Hương nói câu đó sẽ mắc cỡ đỏ mặt tía tai. Nhưng Kiều Lan không chút nao núng, mặt không đổi sắc, còn tỏ vẻ thân thiện giả nhân giả nghĩa, làm bộ từ bi mèo khóc chuột chết. Chị ta tha thiết:
– Cô mới đến đây, tôi thấy cô không biết nên nói dùm, kẻo bị những người xấu gạt gẫm. Chớ thật ra chẳng có lợi lộc gì cho tôi cả. Vả lại họ cũng là người sống chung với chúng tôi mấy chục năm nay rồi. Tôi chỉ không muốn gia đình mình sau nầy mang tai tiếng xấu thôi. Mong cô hiểu, chứ tôi cũng không ác ý hay oán thù chi họ…
Cẩm Hương hết nhịn nỗi, nói thẳng:
– Cảm ơn chị, nhưng tôi chẳng dính líu gì với những người chị vừa nói cả. Nên chuyện của họ tôi thật sự không muốn nghe và cũng không muôn biết. Xin chị cảm phiền đừng nhắc đến nữa.
Kiều Lan chẳng có chút liêm sĩ, còn cười gằn và giọng nói càng đắng chát hơn. Cô ta nhấn mạnh từng chữ, từng câu một. Cẩm Hương ngẫm nghĩ “Thế gian nầy không có loạn chắc mụ không vui”. Kiều Lan hằn học:
– Cô không muốn nghe chuyện của người khiếm diện? Vậy thì tôi nói về người hiện có mặt ở đây! Tôi muốn nói đến Ngọc Huệ, chắc cô không phản đối chớ?
Cẩm Hương chưng hửng, giờ mụ muốn giở trò gì mà kéo Ngọc Huệ vào nữa đây? Nãy giờ Ngọc Huệ để Kiều Lan nói chuyện với cô giáo. Vì nàng vừa gặp người quen là vợ ông lái xoài đi ngang qua. Hàng năm vợ chồng ông lái, đều đến mua sát hết cả vườn xoài nhà cô để đếm bán lại cho bạn hàng ở Sài Gòn. Hai người vui vẻ hỏi thăm về chuyện vườn xoài và giá cả, cho nên Ngọc Huệ không để ý Kiều Lan và Cẩm Hương đang nói gì với nhau. Giờ bị Kiều Lan gọi giựt ngược, nàng chào bà lái xoài, bảo:
– Hôm nào thím cứ đến gặp ông nội tôi, ổng sẽ bớt cho, chỗ quen biết mấy năm nay mà, đừng có ngại…
Bà lái xoài chào chị rồi thoăn thoắt đi. Ngọc Huệ đi trở lại, tươi cười hỏi:
– Chuyện gì vậy chị Kiều Lan?
Kiều Lan không trả lời, kéo tay chị Ngọc Huệ lại trước mặt Cẩm Hương nói như hét:
– Cô Cẩm Hương, cô có biết Ngọc Huệ đây là ai không?
Cẩm Hương chưa kịp mở miệng thì người đàn bà độc địa nay giáng xuống một câu, làm nàng á khẩu luôn:
– Ngọc Huệ là hôn thê của thằng con ngoại hôn cùa ba tôi đó cô à!
Ngoài trời còn sáng trưng mà trong lòng của Cẩm Hương đã sụp tối! Ngọc Huệ không biết Kiều Lan đã châm ngòi chiến tranh với Cẩm Hương, cô ta cười, ánh mắt rạng rỡ và ướt rượt, Cẩm Hương choáng váng! Chỉ có nhắc đến người mình đang yêu nên Ngọc Huệ mới có cử chỉ như vậy! Chị ta đỏ mặt, bảo:
– Chị Kiều Lan nói bậỵ không hà. Em chưa phải là hôn thê của anh Thiện Tố. Chị nói vậy coi chừng mất duyên con gái của em đó. Thôi, mình về đi. Trời cũng sắp tối rồi. Chào cô giáo nghen, hôm khác gặp lại, có dịp nào mời cô đến nhà tôi chơi.
Kiều Lan vùng vằng chưa chịu bỏ đi. Ngọc Huệ dịu dàng bảo Cẩm Hương:
– Tui đâu có quan tâm đến sự sắp đặt của ông bà hai bên. Ba má tui nhờ thầy bói khoa Tam Nguơn Đồ Hình coi tuổi của tui và tuổi ảnh khắc nhau. Ba má tui cưng, không muốn tui khổ nên có ý không bằng lòng. Nhưng ông nội tui thì cương quyết gả. Còn đối với tui, tiến tới hay rút lui cũng không quan tâm lắm. Ảnh cũng bảnh trai, có học hành, vui vẻ, đàng hoàng. Nhưng tui chưa có cảm tình với ảnh nhiều, cho nên sao cũng được. Tính vô cũng cá vồ cá tra. Tính ra cũng cá tra cá vồ.
Cẩm Hương ngầm thở dài. Rõ ràng đây là lời nói nước đôi, nửa xôi nửa chè, nửa cá he nửa cá chẻm. Ngọc Huệ hối:
– Thôi tụi mình về, chị Kiều Lan.
Nãy giờ tuy làm thinh, nhưng lòng ganh ghét của Kiều Lan vẫn còn sôi sục. Nàng chưa chịu buông tha Cẩm Hương:
– Ủa, Huệ quên đi thử áo mới đê hôm ra mắt họ nhà trai sao?
Ngọc Huệ chưng hửng:
– Nhà trai nào?
– Thì bên chàng trai oai phuông lẫm lẫm đó!
Ngọc Huệ nhéo Kiều Lan:
– Giỡn hoài! Cái thứ ăn hàng hà rầm như em ai mà thèm đi coi mắt chị ơi?
Kiều Lan liếc xéo qua Cẩm Hương:
– Huệ giỡn thì có, hôm chị gặp má Huệ trong chợ, bà đã cho chị biết hết rồi.
Cẩm Hương nghe đối đáp: “Vậy hả? Với em thì sao cũng được…”.
Họ đã đi rồi! Cẩm Hương như cái xác không hồn, lửng thửng về nhà trọ. Mọi sự vật chung quanh nàng không còn ý nghĩa gì nữa cả. Bao nhiêu mộng đẹp đã vỗ cánh bay đi. Cõi lòng nàng tan nát. Từ nhỏ đến bây giờ nàng mới yêu được một người, và được hai bên cha mẹ hài lòng, và ngấm ngầm khuyến khích. Nàng không đòi hỏi cao xa, mơ mộng viễn vông. Nàng đặt hết niềm hy vọng vào người ấy, mong rằng sau nầy hai người sẽ có một mái gia đình ấm êm và hạnh phúc. Nàng luôn tự nói với lòng sẽ phụng dưỡng kính yêu mẹ chàng như mẹ mình và hiếu thảo với bà để cho bà được hạnh phúc ở tuổi xế chiều. Nàng thừa biết rằng từ thuở thiếu thời bà luôn gặp cảnh bất hạnh, trái ngang.
Cẩm Hương thở dài ngao ngán! Một ước muốn bình thường như vậy mà thật sự sao quá khó khăn! Nàng không biết làm gì để khuây khỏa đây? Nàng dã dượi lười biếng không muốn ăn, không muốn ngủ, không muốn làm bất cứ việc gì… và chán nản vô cùng.
Gió chuyển mùa, các lá cây trước nhà trở màu xanh già, rồi vàng và rụng bay tua tủa nhứt là lá so đũa, và lá me nhà hàng xóm. Mặt nước kinh sau hè phẳng lặng, chỉ gợn vài làn sóng lăn tăn khi nhánh cây khô nhỏ rơi xuống hay chiếc lá lìa cành lảo đảo rớt trên mặt nước đậm phù sa của con kinh đào nầy.
“Hò ơ…chèo ghe bán cả lòng tong
Em xa người nghĩa khóc ròng như mưa
Hò ơ… tay em hái trái bí đao mà mắt em trào lệ thảm
Xa vắng anh rồi thiên ảm địa hôn…”
Giọng hát của bà hàng xóm nghe buồn não nuột và hợp với hoàn cảnh của Cẩm Hương làm nàng rướm nước mắt.
Suốt mấy cái cuối tuần rồi, cứ mỗi chiều thứ sáu tan trường là nàng đi qua lộ đón xe đò đi Sài Gòn rồi từ Sài Gòn đi xe về Lái Thiêu. Đến sáng sớm thứ hai nàng xuống xe đò trước cửa trường, đi thẳng vào lớp dạy ngay. Nàng cố tình tránh né không muốn gặp bà Tư Hiền và nhứt là Thiện Tố. Bà Tư Hiền là một người chất phác thật thà. Con bà đã có hứa hôn, bà sắp có dâu, mà tại sao còn hùa với con để cố tình gạt gẫm nàng? Lòng người thật khó hiểu! Thật không ai có thể biết trước được họ muốn gì?
Sáng sớm Cẩm Hương ngồi sau hè nhà, trầm ngâm nhìn làn khói tỏa bay từ những thư từ đang đốt trong chậu sành. Biết tâm sự của con, bà Ký Tân khuyên lơn:
– Con đừng tự gạt mình nữa! Bộ đốt hết thư từ rồi, là quên hết được sao? Nhớ thương vẫn là nhớ thương, không dễ dàng quên được đâu. Má chỉ mong con đừng vì ai mà đau khổ mãi, đừng khựng lại ở những gì đã qua.
Cẩm Hương hết sức ngạc nhiên, nàng không ngờ mẹ mình có những ý tưởng thâm trầm và cao đẹp như vậy. Nàng mỉm cười, ánh mắt kính yêu và tự tin nói với mẹ:
– Cảm ơn má, má cứ để mặc con đau buồn, rôi chuyện đâu cũng sẽ vào đấy.
Bà Ký Tân trìu mến nhìn đứa con gái độc nhứt của mình. Bà xuống bếp bớt lửa, đậy nấp um nồi đậu đen cho mau mềm để nấu chè với táo khô. Và trước khi múc ra chén, ra tô, bà còn cho thêm vào dừa rám, khổ tai xắt mỏng để cả nhà bà giải lao.
Chiều thứ sáu hôm nay, khi hết giờ dạy học là Cẩm Hương xách túi nải ra lộ đón xe đi đến chỗ của Thục An ở Bến Tranh. Con nhỏ đó còn nhắc mấy đứa bạn ngày xưa về họp mặt như đã hẹn trước, để đập bồn đập bát một bữa cho vui, vì lâu quá bọn nàng chưa gặp lại nhau sau gần cả năm rồi.
Bến Tranh là một quận trù phú, nằm sát Quốc Lộ Bốn và liên tỉnh lộ 29 là những đường giao thông quan trọng nối tỉnh Định Tường với các tỉnh lân cận. Quận Bến Tranh không nhiều vườn tược sản xuất cây ăn trái sầm uất như quận Cái Bè, hay như các huyện khác trong tỉnh. Tuy nhiên, Bến Tranh có nhiều ruộng cung cấp gạo quý như nàng hương, gié vàng, nanh chồn. Có nghề nuôi tằm, dệt vải, cùng các tiểu công nghệ khác như đương đệm, làm túi xách đệm, làm đệm trải, làm nóp đệm để ngủ thay mùng, đương thúng rổ tre Những sản phẩm ở đây nổi tiếng đương khéo, đương dầy dặc, lâu bền. Nên rất được chiếu cố.
Cẩm Hương đến nhà Thục An sớm nhưng vẫn sau cô bạn Thụy Châu. Con nhỏ Thục An, đang ở với mẹ trong ngôi nhà thờ ông bà của cha mẹ nó từ nhiều năm nay, sau khi cha nó là chú Hương Hào Trạch theo vợ bé ở Cầu Dầu gần chợ Vòng Nhỏ (Mỹ Tho). Nhà của Thục An như là cái biệt thự, rộng rãi, có nhiều phòng và cách xa những nhà lân cận bởi hàng rào bằng đa cao quá đâu, nên cho dù bọn họ có đông người, gây ồn ào cũng không làm phiền đến hàng xóm.
Cái sân nhà của Thục An được lót gạch tàu, giữa có bày hòn non bộ, hai chậu cau kiểng, hai chậu mai chiếu thủy, bốn chậu lan đất, mấy chậu bông lài, mai tứ quí… Bông huệ, cây kiểng tầm thường được chăm sóc chu đáo nên trổ bông ê hề, trổ lá rậm rạp. Ba của Thục An tuy mê vợ bé nhưng cũng thường về thăm viếng vợ lớn, các con và chu cấp tiền bạc nuôi con rất đầy đủ.
Nguyên do chú Hương Hào Trạch sống một kiểng hai quê là cũng do ý muốn của thím! Số là thím đẻ cho chú một trưởng nam, ba đứa con gái, mà Thục An là cô gái út. Khi Thục An được tám tuổi, thím lại có thai. Thai nhi bị chết trong bụng mẹ khi được sáu bảy tháng gì đó. Thím phải đẻ non. Lần đẻ đó tưởng thím qua đời, và thím bịnh kéo dài cả năm. Từ đó thím không thích gần gũi chồng, và khuyên chú nên kiếm vợ bé.
Chú Hương Hào Trạch buồn bã, than với dòng họ, bạn bè. Kỳ đưa thím đi viếng chùa Vĩnh Tràng ở miệt Chợ Cũ Mỹ Tho đi vô, để tạ ơn Đức Quan Âm Bồ Tát. Nơi đây, vợ chồng chú gặp cô gái tên là Sáu Cầm đến làm công quả cho chùa. Cô Sáu cầm lỡ thời, tánh tình hiền lành, vui vẻ… Thế là Chú Hương Hào Trạch và cô Sáu Cầm dính với nhau. Thím cũng chấp nhận. Cô Sáu Cầm biết điều lắm. Dù ở riêng nhưng thỉnh thoáng cô cũng tới lui thăm lom vợ lớn của chồng, quà cáp trong những ngày giỗ và Tết nhứt.
Hôm nay, thím Hương Hào Trạch đi Giáp Nước (ở vàm Hòa Khánh thuộc quận Cái Bè, đi đường tàu một đổi qua sông Cửu Long là địa phận của tỉnh Vĩnh Long) thăm hai bà chị. Nhà chỉ còn có chị bếp già. Trước khi đi, thím dặn con gái:
– Mấy thuở chị em bạn bè bây gặp gỡ nhau. Con phải tiếp đãi cho tử tế. Má có nấu nồi ca-ri vịt để ăn với bún. Nồi thịt bắp đùi, trứng và cá lóc, má đã kho xong trên bếp đó. Dưa cải chua đã xắt vừa miếng ăn ướp sẵn đựng trong thố, để ở tủ lưới ngăn trên, ngăn dưới còn có hột vịt muối, tôm khô trong keo, và gói lạp xưởng. Chị bếp cũng đã nấu nồi canh chua cá bông lau. Má có mua sẵn mấy trái dưa leo, cà chua, củ hành tây và trái su đựng trong rổ. Nếu cần thì con cứ lấy ra xào nấu cho bạn bè ăn. Trái cây sắp trong dĩa bàn cũng đã rửa sạch rồi…
Thụy Châu trong phòng tắm bước ra, trông sạch sẽ và mát rượi mặc dù nó ốm tong như cây tăm xỉa răng. Tội nghiệp con nhỏ, khi hay tin hôn phu của nó cưới vợ đầm, nó bịnh luôn cả tháng không ngồi dậy nổi. Cẩm Hương nhớ lúc nghe tin đau khổ của bạn, nàng không khỏi rủa lén: “Đồ cái thằng gặp đó bỏ đăng, thấy trăng quên đèn thế nào cũng gặp quả báo! Sẽ bị con đầm đó cho nó cặm sừng to như sừng bò hống vậy!”. Thấy Cẩm Hương, Thụy Châu mừng quýnh lên:
– Thành hoàng Thổ địa ơi, bấy lâu nay mầy trốn đâu mất biệt vậy con quỉ? Tao chẳng biết tin tức gì của mầy cả. May là tao gặp con Ánh Nguyệt trong chợ Ông Tạ (Sài Gòn) nói, tao mới biết mầy vẫn còn hiện hữu trên cõi phàm phu tục tử nầy…
Thục An cười ha hả:
– Thấy chưa Cẩm Hương, con Thụy Châu dạo nầy tiến bộ ngó thấy.
Thụy Châu cười:
– Tại nhờ anh mầy bỏ tao, nên tao mới khôn ra. Nếu lấy anh mầy chắc tao đã thành mụ già lú lẫn không chừng.
Nghe hai đứa vui vẻ nói cười, Cẩm Hương thầm phục nhỏ Thụy Châu và cũng thầm khen con Ánh Nguyệt. Đang khi Thụy Châu và anh Thịnh yêu nhau da diết thiết tha, và cũng đã đính hôn rồi, vậy mà nó dám tiên đoán là cuộc hôn nhân họ sẽ không thành!
– Ê, tao bận tay, đứa nào ra mở cửa xem ai đến nữa vậy bây?
Tiếng nhỏ Thục An eo éo dưới bếp vọng lên. Cẩm Hương và Thụy Châu cùng đi ra mở cửa. Người mới đến còn ở ngoài sân mà nghe cái giọng rổn rảng cùa nó thì biết ngay là ai rồi, Thục An làm bộ không nghe thấy, nhìn ra cửa sổ xem độ rày cô nàng xảnh xẹ nầy ra sao?
– Thục An đâu? Cô tiểu chủ của cái nhà lớn quá xá nầy đâu rồi? Sao không ra tiếp khách quý là người đẹp đất Định Tường ai thấy cũng thương đã đến rồi nè…
Đó là Ánh Nguyệt, cái con mắc toi, mà Ái Mỹ đã đặt cho biệt danh là Gia Cát Lượng. Đây là thứ gái có cái miệng tía lịa, tía lia, lanh lợi, lẹt chẹt đôi lúc làm bực mình kẻ khác đó. Nhưng tâm của nó lại hiền, tánh tình chân thật, dễ dãi, không độc ngầm, lúc nào cũng tận lòng giúp đỡ bạn bè. Mặc dù cũng có đứa lợi dụng tánh tình dễ dãi của nó, nhưng khi biết được, nó chăng một chút giận dữ, oán hờn hay thù ghét… Chưa ai thấy nó buồn được nửa ngày, chưa bao giờ nghe nó nói không ưa ai, và cũng chưa hề giữ lâu chuyện rắc rối được 3 ngày trong bụng… Có lẽ nhờ thế mà con nhỏ tròn trịa, tươi mát, trẻ mãi không già, càng ngày lại càng đẹp phơi phới hơn các bạn trong nhóm.
– Chu mẹt ơi! Sao dạo nầy mầy đẹp chi mà đẹp lạnh đẹp lùng như vậy hả Ánh Nguyệt? Tao bắt đầu ganh tị rồi đây! Ái Mỹ viết thư cho tao nói cùng đi với mầy đến đây hôm nay mà. Nó đâu rồi?
Được Thụy Châu khen tới tấp làm nhỏ Ánh Nguyệt cười ha hả có vẻ khoái chí tử lắm. Thay vì trả lời người khen mình, con nhỏ lại quay qua hỏi Cẩm Hương:
– Ê, làm gì chị thộn mặt nhìn trân, nhìn tráo mặt em vậy hả chị Cẩm Hương? Bộ trên mặt em có vẽ chữ cho chị đọc sao? À con Ái Mỹ chết bằm đó cuối tuần nầy được hôn phu nó về thăm. Nên không biết ả ta có đến không nữa? Thôi tụi mình hãy tha thứ cho nó, đừng chấp nhứt chi con yêu lồi đó vì nó đang yêu và được yêu mà.
Cẩm Hương nguýt bạn, trề môi nói:
– Xì, dạo nầy sao binh cho nhỏ Ái Mỹ quá vậy? Mầy nói đúng quá, trên mặt mầy đang hiện rõ chữ “cà chớn” để tao đọc đó!
Thục An, còn cầm cái khăn lông nhỏ lau tay, vừa đi ra vừa nói lớn:
– Mấy con kia sao không vào nhà mà đứng ở đó xí xô xí xào vậy? Con Ánh Nguyệt truyền nghề bói toán cho mầy hồi nào mà bây giờ mầy vượt qua, đọc được cả chữ vô hình trên mặt sư phụ vậy Cẩm Hương?
Cả bọn vừa đi vào nhà vừa cười rộ vui vẻ. Mãi đến gần 7 giờ tối con Nguyệt Mi mới lò mò tới. Nó phụng phịu càm ràm với các bạn:
– Mấy chị xem, con thần thừ Ái Mỹ hẹn 2 giờ chiều tới nhà tui để hai đứa cùng đi đến đây. Đợi mãi gần 4 giờ, tui sốt ruột sợ trễ xe, nhưng nó cũng chẳng đến. Tui định bỏ đi, nhưng ngặt nỗi là nó chưa bao giờ thất hẹn nên phải rán chờ thêm chút nữa. Đến 4 giờ hơn, thằng em trai nó chạy cót két xe đạp đến cho biết nó không đi được! Thật là đồ quỉ sứ báo hại mà. Tui lật đật bao xe thổ mộ đến đây liền.
Bạn bè làm bộ xuýt xoa ra vẻ cô là đứa thật đáng tội nghiệp lắm!
Nguyệt Mi là cháu gọi cô Sáu cầm bằng dì, học trường Collège de Mỹ Tho, chớ không phải bạn học của 5 cô áo tím. Tuy nhiên Nguyệt Mi rất mến Thục An và Ái Mỹ, Ánh Nguyệt nhưng không thân thiện lắm với 2 cô kia.
Ánh Nguyệt thường bảo lũ bạn bè:
– Con Nguyệt Mi hiền lành, nhút nhát, nay nhập bọn với mấy đứa chằn ăn trăn quấn như tụi mình. Nó sẽ cảm thấy lạc loài, rồi rút lui gấp, rút lui như gặp phải tà, ma, quỉ quái vậy.
Lần đó, Ái Mỹ cãi lại:
– Đừng có quả đoán mầy. Chị Cẩm Hương cũng hiền lành, chững chạc, ăn nói mực thước. Vậy mà sau khi nhập vào bọn mình, chỉ lại làm đầu thầy.
Thục An nhận xét:
– Cẩm Hương ngọt như đường cát, mát như đường phèn và lành như sương sa, sương sáo, sương sâm. Cô ả lại dễ cảm thông cho cái tật cà chớn của bọn mình. Ả thích nói bông đùa cho vui câu chuyện, chớ không hề nói tục, nói trây. Nhưng nghe bọn mình nói trây, ả chỉ cười ngất, rồi bỏ qua, không khó chịu hoặc chê bọn mình vô duyên mất nết…
Ái Mỹ cười rúc rích:
– Bọn mình có nết đâu mà mất?
Cẩm Hương trề môi liếc Ái Mỹ, rồi phản đối:
– Thôi Ái Mỹ ơi, đừng có nịnh bợ tao và hạ mình như vậy không nên. Tao chỉ cố gắng ở bầu thì tròn, ở hộp thì vuông cho cả bọn được thoải mái. Tụi bây đừng có tưng bốc tao quá. Tao mà bay cao sẽ té xuống nát thịt tan xương ngay.
Ánh Nguyệt cười hềnh hệch:
– Chị mà té xuống thì có em ra hứng, đỡ chị về Cai Lậy rồi giải giao cho anh Thiện Tố để ảnh an ủi và vỗ về chị.
Thụy Châu thiệt tình, lên tiếng.
– Thôi đi tắm đi rồi ra ăn tối. Hôm nay mầy vất vả nên khỏi làm công tác dọn cơm. Và sau bữa ăn khỏi rửa chén. Để bọn tao làm hết cho Nguyệt Mi.
Ánh Nguyệt tiếp lời Thụy Châu liếc liếc xuống bếp, nói lớn:
– Phải à, Nguyệt Mi đi tắm cho mát mẻ rồi ra ăn cà-ri dê và cơm nị của con Thục An nấu. Tụi bây có biết sao chúng ta sẽ được thưởng thức món ăn, và cơm lạ nấu theo kiểu Ấn Độ nay không?
Mấy đứa kia nhao nhao lên. Riêng Cẩm Hương thấy miệng Ánh Nguyệt cười chúm chím, cặp mắt có vẻ tinh nghịch, nghĩ thầm: “Không biết đến phiên ai sẽ là nạn nhân của con nầy đây?”. Ánh Nguyệt trợn mắt hỏi các bạn:
– Thật sự tụi bây không biết gì sao? Chu choa ơi, quả là chậm tiến! Có gì là lạ đâu, con Thục An sắp sửa lấy chồng, nên đi học nấu ăn đãi bọn mình trước, để rút kinh nghiệm khi về làm dâu cho gia tộc nhà chú Bảy Chà có tiệm bán hàng vải gần nhà hàng Chamer giàu nức trứng ở Sài gòn đó tụi bây ơi!
Cả bọn cười bò lăn! Con Thục An đang chụm lửa, chịu không nỗi xách cái nùi lau bếp rược chọi Ánh Nguyệt, cười chảy nước mắt và rủa xả om sòm…
Hôm nay có mặt 5 nàng ở đây, như đã hẹn với nhau từ năm ngoái, lúc họp mặt ở nhà Ánh Nguyệt. Theo lẽ thì phải 6 người kể từ dạo Nguyệt Mi nhập bọn thì là “Lục Nữ La Sát” chớ không còn là “Ngũ Nữ La Sát” nữa. Mai kia cả bọn có gia đình hết rồi thì muốn có hai, ba mống họp mặt chưa chắc đã được. Những buổi họp mặt hàng năm các cô kể lể cho nhau nghe, những chuyện vui, buồn… Rồi họ ăn uống, đi thăm di tích lịch sử, xem phim… Từ trước đến giờ cả bọn chỉ mới đi dự đám cưới của Thụy Châu tháng Giêng năm rồi thôi.
Tình trạng Thụy Châu đáng thương lắm! Sau ngày bị thằng anh ôn dịch của nhỏ Thục An bỏ, nó xất bất xang bang kéo dài gần hai năm trời nhỏ ta không bước ra khỏi nhà.
Nhưng sau cơn mưa, trời lại sáng chớ bộ! Có một hôm, em trai nó đi dọ giá lúa ngang qua ghé lại giây lát thăm chị mình. Thụy Châu lại lọt vào đôi mắt bù lạch ăn của bác thông ngôn quan Chánh Tham Biện, quen với em nó cũng có mặt hôm đó. Thế là thằng em làm Ô Thước bắc cầu. Vậy là năm rồi “Lục Nữ La Sát” gồm có: Thục An, Ái Mỹ, Cẩm Hương, Ánh Nguyệt, Thụy Châu, Nguyệt Mi. Cả bọn 5 cô kéo nhau về dự đám cưới của nhỏ Thụy Châu. Chủ rể lớn hơn cô dâu những 13 cái xuân già, vợ chết, nhưng không có con riêng. Anh chàng công chức bảnh trai đứng bên nàng Thụy Châu mảnh khảnh, nên trông đôi uyên ương nầy không chênh lệch về tuổi tác cho lắm. Phu quân nó cưng vợ, giỏi nịnh đầm nên nó không bận rộn hoặc bị ràng buộc như những người phụ nữ có chồng khác.
Nguyệt Mi chợt hỏi:
– Chị Cẩm Hương, sao chị có vẻ buồn quá vậy?
Cẩm Hương chưa trả lời, Thục An chợt thấy Thụy Châu vừa nhai ngồm ngoàm trái ổi chua chấm muối ớt, vừa hít hà vì cay, lên tiếng hỏi:
– Ủa, bộ mầỵ có bầu hả Thụy Châu? Tự nãy giờ tao thấy mầy chiếu cố nhiều về những trái chua đó nghen.
Thụy Châu cười hí hí:
– Vợ chồng tao đang mong đây! Chưa có mầy ơi. À mà nhỏ Nguyệt Mi nhận xét coi bộ đúng. Chuyện gì mà mầy có vẻ tâm sầu bạch phát quá vậy Cẩm Hương?
Ánh Nguyệt lại lên giọng thầy đời:
– Ở đây có Gia Cát Lượng, có trạng sư, có phụ thẩm, và tui cũng đã từng làm quan tòa xử tụi bây rồi. Cả bọn toàn là thứ tai to mặt bự có tầm vóc! Kể đi chị Cẩm Hương. Tụi em nghiên cứu tình hình, tìm cho chị một giải pháp ổn thỏa. Đừng có xạo, làm bộ ngây thơ vô số tội nói với bọn nay là chị không có gì hết đó nghen.
Mấy con khỉ đột có tài chí chóe nay đang dồn dập hỏi Cẩm Hương, cho dù không nói cũng không được với bọn chúng. Nàng chưa kịp mở miệng thì Thục An bỏ mỏ tới:
– Nè Cẩm Hương, mặc dù mầy được nhỏ Ánh Nguyệt truyền nghề bói toán, nhưng mầy có giỏi đến đâu cũng thua cái nhận xét thần thông quảng đại và đầy kinh nghiệm của sư phụ, có đúng không? Cho nên mầy hãy thành thật khai báo đi, đừng để nó lật tẩy thì ể mặt lắm đó…
Cẩm Hương đang buồn, nhưng cũng cố tạo cho mình miệng cười tươi. Tuy nhiên thật sự cái miệng nàng cười méo xẹo như miệng cô đào Năm Phỉ ca bản “Văn Thiên Tường”, cô nầy vừa ca vừa khóc nhểu nhão. Nàng dùng kế hoãn binh:
– Tụi bây chỉ giỏi tài đoán mò thôi! Bổn cô nương còn “khuya” mới buồn! Nhưng mà tụi bây nói cũng phải, trước sau gì tao cũng kể cho bọn bây biết nơi ăn chốn ở của kẻ hèn nầy. Nhưng không phải ngay bây giờ đâu. Khi nào thiên thời, địa lợi, nhân hòa thích hợp thì tao mới kể được. Thôi, khoan nói chuyện tao đã, tao thật sự rất mừng từ ngày con Thụy Châu giã từ đời độc thân bởi có bóng tùng để nương tựa. Con Ái Mỹ thì cũng có anh chàng bảnh trai đặt cọc rồi.
Thụy Châu chớp chớp bờ mi, làm vẻ hiu hiu thơ mộng như mấy người đẹp trong tranh của họa sĩ Tô Văn Vân ngoài Hà nội:
– Chồng tao tuy lớn tuổi hơn tao, tuy làm thầy thông ngôn cho quan Chánh Tham Biện, nhưng vẫn có tài băng bó vết thương lòng của tao còn giỏi hơn mấy ông thầy lang Tây hành nghề.
Thục An cũng lim dim đôi mắt, gật gù:
– Ừ hén, tao thấy mầy lóng rày lấy lại niềm vui sống. Tuy còn ốm nhom nhưng da dẻ mầy bắt đầu hồng hào. Tao nghe con ?