← Quay lại trang sách

CHƯƠNG MƯỜI HAI

Sáng chủ nhật, Thục An đãi bạn bè món cháo đậu đỏ trước khi ai về nhà nấy. Nhỏ ta không dùng gạo nhum để nấu cháo đậu mà dùng gạo huyết rồng. Tuy cứng, nhưng khi qua tay nhỏ ta thì mềm mụp. Không biết nhỏ có để vào chút thuốc tiêu mặn (bicarbonate de soude) hay không? Nước dừa để chan lên cháo, nhỏ dùng nước cốt chớ không thèm dùng nước nhứt, thì đừng nói chi nước giảo.

Các món để ăn với cháo đậu đỏ có: Cá bống trứng kho tiêu, tép trứng chấy mặn, bắp chuối luộc bóp giấm được trộn với đậu phộng và rau răm, dưa mắm, củ cải phơi khô ngâm nước tương.

Cẩm Hương nhận thấy mâm cháo đậu đỏ của nhỏ Thục An sang hơn mâm cháo đậu ở nhà bà Tư Hiền. Nhỏ Ánh Nguyệt vừa ăn, vừa xuýt xoa:

– Mèn ơi, con Thục An nấu cháo huyết rồng ngon độc nhứt vô nhị. Ai mà chê thì cụt lưỡi đó. Con Ánh Nguyệt nầy phải cho cháo nhập cảng vào bụng ít nhứt cũng hai tô. Con Thục An cà riềng cà tỏi nhưng giỏi nấu ăn. Nó lựa dưa mắm dòn khưu khứu. Nó kho cá bống như vầy, chắc tui phải tôn nó làm đại sư phụ.

Nguyệt Mi háy dài:

– Bộ mầy muốn nó khen vần công cái tài thêu thùa, làm bánh trái của mầy hay sao?

Thụy Châu vừa múc chén cháo thứ hai cho mình, vừa nói:

– Tao không được khéo léo về nữ công như bọn bây. Tao nấu nướng theo kiểu chém to kho mặn. Vậy mà phu quân tao ăn ngon lành. Tình nghĩa vợ chồng càng ngày càng đầm ấm hạnh phúc thêm.

Thục An khoe:

– Thằng hôn phu Chà Và lai của tao không theo đạo Hồi nên không có cử thịt heo. Nó cũng không theo đạo Bà-La-Môn nên không cử thịt bò. Nó vô… đạo nên thịt con gì nó cũng ăn, kể cả thịt chuột, thịt chó cũng chẳng chừa nữa tụi bây ơi!

Ánh Nguyệt pha trò:

– “Trời mưa xực chó trắng/ Trời nắng xực chó vàng/ Mưa nắng rộn ràng/ Trắng vàng xực ráo” có phải không Thục An?

Cả bọn cười rổn rổn thiếu điều lủng nóc nhà. Ăn uống xong, Nguyệt Mi và Ánh Nguyệt kiếu từ ra về. Vì nể lời khẩn khoản của cô khổ chủ Thục An, cho nên Cẩm Hương ở lại sáng thứ hai trở về chuyến xe sớm nhứt. Để đến nơi, xuống xe trước cửa trường là nàng đi thẳng vào lớp dạy luôn. Thục An khi đưa Cẩm Hương ra lộ, trong lúc đứng chờ xe, nàng nói:

– Cẩm Hương à, chuyện gì cũng vậy, mầy đừng coi nặng quá, phải nói ra, đừng ôm ấp trong lòng mà khổ. Trốn tránh Thiện Tố không phải là một cách ổn thỏa. Hãy gặp anh ta để cùng nhau giải quyết vấn đề. Mầy đừng có việc gì cũng ôm hết vào mình, người tổn thương nặng nhứt sẽ là mầy đó. Phải chấp nhận chuyện gì xảy đến cho mình.

Cẩm Hương nuốt uất nghẹn, run giọng:

– Tao đã tập hết khả năng rồi! Bởi làm người thì phải đương đầu đó mà!

Rồi Cẩm Hương ngã đầu vào vai bạn để lệ tuôn rơi. Thục An chép miệng:

– Tao biết mầy đã dùng hết khả năng để tự lừa dối mình. Cái điều quan trọng là mầy phải hiểu rằng tại sao mầy đem tất cả những chuyện của mầy cho vào dĩ vãng. Tao mong rằng tụi mầy mau đem nó ra mổ xẻ để chữa lành vết trầy nhẹ đó đi. Hãy để quá khứ trở thành hồi tưởng thì mọi việc sẽ tốt đẹp. Cố gắng lên nghen. Mỹ ý và thiện ý của đời người là tha thứ...Tao chờ tin vui của mầy. Nhớ viết thư cho tao.

Cẩm Hương dùng xe thổ mộ đi từ Bến Tranh đến Ngã Ba Trung Lương. Ở Trung Lương nàng đón xe Mỹ Tho đi Mỹ Thuận, sẽ qua Cai Lậy và ghé ngay trước cửa trường dễ dàng hơn.

Nàng vừa xuống xe ngựa, còn đứng lớ ngớ bỗng nghe có ai gọi tên. Thì ra vợ chồng Thiện Cảm. Lúc nào chàng công tử miệt vườn nầy mà không ăn mặc chải chuốt? Cậu mặc bộ đồ lớn bằng hàng xi-mi-li màu vỏ lúa chín, cổ cao, ủi thẳng nếp. Tóc cậu chải láng mướt, giầy đánh xi-ra bóng ngời. Cậu xức dầu thơm tỏa ra ngào ngạt. Cô vợ Hồng Ánh ăn mặc tươm tất nhưng không lòe loẹt như hai mụ chị chồng. Tóc cô không chải ổ ong, ổ én, mà chải rẽ bảy ba và bới bí bo sau ót. Tuỵ nhiên cô có vẻ đẹp thùy mị đoan trang.

Thây Cẩm Hương, họ đon đả mời nàng vào quán ăn sáng, uống cà-phê. Cẩm Hương chưa kịp mở miệng thì Thiện Cảm chỉ chiếc xe hơi bảo:

– Vợ chồng tôi đi Tân Hiệp ăn đám hỏi người em bà con bên vợ, chiều mới trở về. Tiếc quá, cô giáo về Cai Lậy. Hai đàng đi ngược chiều. Nếu không thì chúng tôi sẽ mời cô quá giang về Cai Lậy để khỏi chờ đợi xe mắc công.

Vừa dứt lời, Thiện Cảm rút điếu thuốc thom trong hộp mạ vàng ra hút. Cậu chỉ quyển “Bùn Lầy Nước Đọng” của Hoàng Đạo đang đặt trên bàn, buồn bã nhìn Cẩm Hương:

– Tôi mới vừa xem xong quyển nầy, cảm thấy lòng mình bào xào quá. Nhóm Tự Lực Văn Đoàn cổ võ nếp sống mới của dân quê, biến thôn quê thành một khung cảnh mới, biến dân quê thành kẻ có ý thức về cuộc sống tân tiến, ăn ở hạp vệ sinh. Nhóm Tự Lực Văn Đoàn chẳng những dùng văn chương đánh thức dân mình biết tìm lẽ sống có lý tưởng mà còn chủ trương canh tân xã hội. Tại sao một kẻ đã từng học trung học như tôi bấy lâu nay lại không cần biết, không thèm làm bổn phận người dân tân tiến!

Cẩm Hương không nói không rằng, bợ ngợ nhìn Hồng Ánh. Cô vợ rót nước vào tách Cẩm Hương, bảo:

– Anh Thiện Cảm từ lâu được ba má chồng tôi nuông chiều, nên ăn sung mặc sướng và chơi bời quen thói rồi. Bây giờ ảnh đâu có thiện chí, đâu có can đảm cầm cuốc xẻng dọn đất cho dân quê? Đâu thể đốn tre, chẻ lạt làm nhà làm vách cho dân quê? Ai nếu không ra công thì xuất của. Nhưng tiền bạc ba má chồng tôi cũng cho ảnh có chừng mực thôi. Cái chí của ảnh tôi cũng thông cảm, nhưng tôi thấy ảnh không thực hiện nổi đâu. Chỉ có anh Thiện Tố thì may ra làm được.

Cẩm Hương an ủi:

– Hễ có chí thì làm gì cũng được hết. Cậu không thể xốc vác nổi chuyện nặng nhọc, thì cậu có thể mở lớp Bình Dân Học Vụ dạy cho dân quê mù chữ biết đọc, biết viết. Cậu dạy họ ăn ở đúng phép vệ sinh. Vậy là cậu thực hiện được cái chí cải cách nếp sống dân quê của cậu rồi.

Hồng Ánh cười:

– Ảnh dễ xúc động và dễ khích động lắm chị ơi. Giờ đây cuốn sách của Hoàng Đạo làm ảnh nổi hứng. Rồi sau đó vài ngày ảnh sẽ quên, sẽ tiếp tục làm con ông điền chủ như cũ.

Nghe vợ nói, Thiện Cảm nổi nóng đấm tay xuống bàn cái rầm, trợn mắt:

– Em có câm họng không? Anh đâu phải là thứ người em tưởng. Anh cũng có thiện chí riêng, nhưng vì lỡ sanh ra trong gia đình quá thực tế, quá coi thường lý tưởng, cho nên anh phải làm công tử bột như vầy.

Hồng Ánh bị chồng làm giựt mình. Nhưng nàng dịu giọng:

– Bởi hồi nhỏ, anh không được rèn luyện tánh siêng năng, cần cù. Bây giờ anh muốn đổi tánh, đổi nếp sống coi bộ cũng khó lắm. Anh thích viết văn, đọc sách, sao anh không rèn luyện ý tưởng, câu văn để viết những cuốn tiểu thuyết có ý hướng giáo dục thanh niên, để đóng góp vào cuộc canh tân xứ sở.

Cẩm Hương tán thành:

– Hồng Ánh nói đúng lắm. Mỗi người có một khả năng riêng. Cậu thử làm theo đề nghị của vợ cậu đi. Ngòi bút vẫn mạnh hơn gươm giáo, mạnh hơn lưỡi cuốc lưỡi cày.

Khi vợ chồng Thiện Cảm từ giã, lên xe để đi Tân Hiệp, Cẩm Hương cũng đón được xe để về Cai Lậy. Nàng thẩn thờ suy nghĩ. Thiện Cảm không phải là kẻ ác đức, xấu xa. Cậu cũng có lối suy nghĩ riêng về cuộc đời đáng sống. Nó ví như một đốm lửa nhỏ. Nếu khéo nhen nhúm, khéo giữ lửa đừng tắt, khéo quạt cho lửa cháy phừng thành lửa thiêng thì cậu là một người hữu dụng, hữu ích cho nhân quần xã hội. Nhưng nếu cuộc sống trưởng giả, các cuộc ăn chơi tái diễn, cứ để cho lửa tắt hoài thì cậu sẽ không làm gì ra trò cả!

Từ Thiện Cảm, Cẩm Hương liên tưởng tới Hồng Ánh. Có phải cô say mê cái mã đẹp trai của cậu ta không? Mà sao chịu làm vợ một kẻ ăn bám vào cha mẹ, không chịu coi sóc gia việc, gia viên, điền sản? Quanh năm cậu cắm cho vợ không biết bao nhiêu là cặp sừng, rồi nào là hốt me, đá gà, ăn nhậu hà rầm. Vậy mà cô săn sóc chồng, gây cảnh lứa đôi êm ấm cho chồng. Cậu ưa mèo chuột, nhưng không cặp với cô nào lâu lăc, dài hạn. Cậu yêu vợ theo cái cách của cậu. Giữa vợ chồng cậu, phải có những điểm gì ý hợp tâm đầu để gắn bó với nhau.

Cẩm Hương giựt mình lấy làm lạ, sao mình lại ở đây? Đây là đâu? Nàng còn đang bàng hoàng tự hỏi mình thì bỗng người đàn ông lạ đẩy cửa phòng bước vào:

– Cô đã tỉnh rồi? Tạ ơn Trời Phật.

Cẩm Hương hoảng hồn, định ngồi dậy, nhưng toàn thân ê ẩm, như có mấy trăm tấn đá đè lên người nặng chình chịch làm nàng ngột ngạt, khó thở… Nàng yếu ớt:

– Tai sao tôi ở đây? Đây là đâu?

Người đàn ông ôn tồn trả lời:

– Cô đang ở nhà thương Tân An. Chúng ta đi cùng chuyến xe bị tai nạn. Tôi chỉ bị xây xát nhẹ thôi, còn cô thì bất tỉnh, không thấy ai bên cô nên tôi ở lại chăm sóc cô, khi xe cứu thương chở chúng ta vào đây.

Cẩm Hương châu mày nghĩ ngợi, cố nhớ lại lúc Thục An đưa mình lên xe… Nàng vội hỏi:

– Thưa, mấy giờ rồi? Tôi đã bị hôn mê bao lâu vậy ông?

Người đàn ông trả lời:

– Bây giờ gần 6 giờ chiêu. Cô ngủ vì thuốc.

Cẩm Hương lo sợ, hỏi dồn:

– Tại sao phải ngủ vì thuốc? Tôi bị thương ở đâu? Trời ơi, bộ vết thương nặng lắm phải không?

Người đàn ông có lẽ lớn hơn Thiện Tố đôi ba tuổi. Dáng người ông cao ráo, khỏe mạnh, tóc cắt ngắn. Ông có khuôn mặt điềm đạm, đôi mắt hơi thoáng buồn, nước da đen sạm vì nắng gió. Ông ta chớp hàng mi dài:

– Cô tên Cẩm Hương, dạy học như trong giấy tờ tùy thân của cô? Cô cứ gọi tên tôi là Khanh. Tôi là điền chủ, có ruộng vườn ở làng An Khánh thuộc tỉnh Bến Tre. Chuyến nầy tôi đi Sóc Trăng thăm ba má tôi.

Bác sĩ cho biết cô bị nứt xương chân, chờ sáng mai xem phim chụp mới biết kết quả rõ ràng hơn. Họ sợ cô đau nhức, lăn lộn động đến chỗ bị thương nên cho cô thuốc an thần. Cô cần gì tôi giúp cho, đừng có cựa quậy mạnh không nên…

Sáng hôm sau, Khanh đi tìm nhà Thục An báo tin và đánh điện tín về Ty Tiểu Học Mỹ Tho, về Thành em trai của Cẩm Hương ở Sài Gòn để anh ta báo tin cho cha mẹ nàng biết… Khi Khanh tìm được đến nhà Thục An thì ông quản gia cho biết cô đi thăm cha, bất ngờ lâm bịnh. Khanh ở lại chăm sóc Cẩm Hương, một người mới quen trong trường họp bất đắc dĩ nầy. Mãi đên hôm sau nữa ba má và em trai nàng xuống thì Khanh mới giao lại cho họ đi về Sóc Trăng thăm cha mẹ.

Ba má và em trai của Cẩm Hương rối rít cảm ơn Khanh. Và họ cũng cảm thấy áy náy, mang ơn sâu nặng với kẻ đồng hành giàu lòng giúp đỡ nầy. Đưa Khanh ra bến xe đò, Thành nói:

– Cảm ơn anh Khanh rất nhiều. Gia đình chúng tôi đã mắc nợ anh rồi, rất mong có dịp đền đáp lại. Lúc nào anh lên Sài Gòn, hãy đến nhà tôi nhé. Địa chỉ đây, chúng ta sẽ đi nhậu một bữa cho đã, nhớ nghen anh Khanh…

Khanh cười hiền:

– Cậu đừng để tâm đến chuyện đó nữa, nếu là người khác thì tôi vẫn làm như vậy thôi. Tôi về thăm ba má và gia đình chị, em tôi, nên không có gấp gáp gì, chừng nào đến cũng được mà. Cậu về thưa lại với hai bác và chị Cẩm Hương của cậu rằng, sự tương trợ là bổn phận của mọi người.

Thành nghĩ thầm, anh chàng nầy đã làm chàng có nhiêu tình cảm. Sự chân thật và bình dị của anh ta cũng đủ làm chàng học hỏi thêm. Người ta nói dân miền Nam chân thật hiền lành là đây, Thành đã thấy rõ, nó đã hiển hiện trong tâm hồn và dung mạo của anh Bùi Công Khanh nay. Hôm đi ăn chiều với anh ta, Thành gạn hỏi mấy lần mới biết. Chàng là nghiệp chủ ở Bến Tre, có ruộng cho người ta mướn canh tác, có lò thắng dầu dừa, vào thùng đem bán sỉ ở Sài Gòn để chế xà bông, và bán lẻ ở Mỹ Tho, Gò Công, Vĩnh Long… Cha mẹ và các em anh dời về gần gia đình bà chị ở Sóc Trăng đã 8, 9 năm rồi.

Khanh tìm tới Thành tại nhà trọ cùng một xóm bên Khánh Hội. Hai người đi thăm viếng một vài nơi trong thành phố mệnh danh là Hòn Ngọc Viễn Đông cả ngày. Sáng ăn cháo lòng ở Chợ Đũi. Trưa ăn mì vịt ở Chợ Lớn, mỗi người uống 2 chai la-ve. Họ không uống nhiều vì Thành phải đưa Khanh lên thăm Cẩm Hương còn đang dưỡng bịnh ở nhà cha mẹ trên Lái Thiêu, trước khi Khanh trở về Bến Tre. Đó cũng chính là ý của cha mẹ chàng muốn đãi Khanh một bữa cơm để tạ ơn.

Ông bà Ký Tân tiếp đón Khanh như một thượng khách. Mặc dù anh chàng nay lù khù, điềm đạm, ít nói, nhưng ông bà có cảm tình chan chứa với người ơn đã cứu giúp con gái mình.

Cẩm Hương hôm nay hồng hào nhờ sự chăm sóc của mẹ. Nàng mặc chiếc áo bà ba màu hồng, cổ bà lai, tay rộng, quần lãnh đen mang dép da màu nâu. Mái tóc đen huyền được cắt ngắn hơn kẹp gọn trong cây kẹp đồi mồi có giát mấy hột sa-phia tím. Nàng cặp dưới nách hai cây tó, để khi di chuyển không động đến cái chân bên trái dưới bị gãy ở ống quyển.

Bà Ký Tân biết qua Thành, khoảng 7 ngày trước, Khanh từ ở Sóc Trăng về, tiện đường sẽ đi luôn Sài Gòn và sẽ ghé qua thăm chàng nên bà đã chuân bị cả tuần nay mâm cơm đãi khách hết sức tươm tất. Có xúp măng cua, có tôm ram mặn, có sườn non xào chuạ ngọt, có đậu Hòa Lan non xào thịt bò, có món bò nướng ống tre và còn có món gỏi bưởi… Bánh bông lan và trái cây là 2 món tráng miệng sau khi dùng cơm. Món gỏi bưởi thì Thành đã ăn nhiều lần do mẹ chàng làm, vậy mà lúc nào chàng cũng ăn hết dĩa hết tô. Còn đối với Khanh thì chưa ăn bao giờ. Chàng cố nhớ lại, nhà mình chưa ăn món nầy và cũng chưa có dịp ăn qua ở đâu. Dù chàng đã đi theo ông dượng rể vài nơi ở miền Bắc (trước năm 54), cũng như miền Trung sau nầy.

Nhớ hồi ra Trung chơi một tháng. Hai tuần lễ đầu chàng đã sụt cân vì những món ăn chưa quen. Và có lần nghỉ lễ đôi ngày, lúc còn học ở trường Chasseloup Laubat ở Sài Gòn. Khanh không về thăm gia đình, trong ngày lễ cùng 2 ngày cuối tuần đó. Chàng được người bạn gốc miền ngoài có nhã ý mời đến chơi. Chàng được chị hắn làm bánh bèo đãi khách. Nhìn dĩa bánh bèo Khanh ngờ ngợ, nhưng thấy bạn ăn ngon lành, anh không nói gì cũng chan nước mắm lên bánh bèo và ăn theo…

Khanh là đàn ông, chàng ít khi để ý về chuyện nấu nướng, ăn uống. Nhưng chàng còn nhớ má chàng, chị hay mấy cô em gái, mỗi lần làm bánh bèo đều làm 2 thứ: Bánh bèo ngọt, trong bột có pha đường cát mỡ gà hay đường tán, màu bánh sẽ giống như màu của đường pha bột. Nhưn bánh bằng đậu xanh và mỗi khi ăn chan nước cốt dừa. Còn bánh bèo mặn thì bột được dằn chút muối, nhưn bánh bằng tôm, thịt trộn với đậu xanh nấu bỏ vỏ. Nếu thích thì trên mặt dĩa bánh bèo mặn còn trải thêm lớp bì nữa. Lúc ăn thì chan bánh bèo với nước cốt dừa và nước mắm chua ngọt. Sau đó Khanh mới biết thức ăn được biến chế theo khẩu vị và ý thích của từng vùng

Bà Ký Tân nấu ăn đậm đà, vừa miệng. Khi làm món gỏi, bà Ký Tân lựa hai trái bưởi vừa ráo, có nhiều nước, không đắng, cũng không chua áy, hoặc ngọt và khô như bưởi Biên Hòa. Bà gở từng tép bưởi, bỏ hột, nhẹ tay bóp nhẹ cho bưởi bời rời không còn dính với nhau. Bà trộn bưởi với tôm luộc lột vỏ xắt mỏng, thịt ba chỉ luộc cũng xắt mỏng, dừa rám nạo. Bà trút mọi thứ vào hết trong thau nhôm, lấy đũa trộn đều với gia vị muối đường… Khi đơm lên dĩa bà rắc thêm rau răm và đậu phộng cà nhuyễn trên mặt. Đó là món gỏi bưởi Khanh mới ăn lần đầu mà cảm thấy thích quá, dù nó tầm thường, dễ làm nhưng ăn bắt miệng vô cùng. Chàng nghĩ, món nầy mà làm mồi nhậu thì khỏi phải chê vào đâu được.

Khanh ở chơi nhà bà Ký Tân sáng hôm sau về sớm để trước khi Thành đi làm đưa chàng ra bến xe đò.

Ngày đầu trở về nhà, Khanh ngủ như chết, ngủ bù những ngày đi thăm cha mẹ, gia đình anh, chị, em… Trở lại nếp sống hàng ngày của mình, chàng làm việc bận rộn không ngừng nghỉ. Bây giờ, Khanh đã mang trong tâm hồn mình hình ảnh Cẩm Hương. Một người con gái gặp trên chuyến xe đò bất ngờ bị tai nạn và họ được quen nhau. Chàng nghĩ không lẽ chỉ gặp và nói chuyện mấy ngày ngắn ngủi mà mình đã rơi vào lưới tình rồi sao? Chắc không phải chớ? Mình chỉ xem Cẩm Hương như Cẩm Châu, cô em gái út có chồng năm rồi, giờ đã sanh được bé gái 8 tháng.

Chàng nhớ mấy ngày về thăm ba má và các chị, em, vợ chồng Cẩm Châu ẵm con đến nhà cha mẹ thăm anh. Con bé đó đã có chồng con rồi mà vẫn còn rắn mắc như ngày xưa. Nó cứ bảo để nó làm mai cho các bạn cùng nghề gỏ đầu trẻ, nào là cô Hoa, cô Lài, cô Thoa… Khanh muốn bịt miệng em gái lại, nói:

– Tụi bây sắp có chị dâu rồi, đừng mắc công làm bà mai để kiếm chác đầu heo.

Trên bàn ăn hôm đó có đủ mặt chị, anh rể và các em của Khanh. Họ đều quay lại nhìn chàng rồi nhao nháo mỗi người hỏi một câu trặc trẹo như đánh giặc chòm, thiệt là rối ren làm chàng bí lối, nên nói bừa:

– Cổ tên Cẩm Hương, đang dạy học. Thôi bật mí cho tụi bây bao nhiêu đó đủ rồi. Đừng có hỏi lộn xộn nữa nghen.

Ba má chàng nhìn nhau cười vui, hỏi:

– Ba má cổ ở đâu? Họ làm nghề gì? Cổ có anh chị em nhiều không?

Chàng cười trả lời mẹ:

– Có cưới thì con cưới cổ chớ bộ cưới gia đình cổ sao má hỏi dữ vậy?

Má chàng cười hiền:

– Bậy nà, “Mua heo chọn nái, cưới gái chọn dòng” chớ. Con là người đàn ông có đầy đủ phẩm hạnh để cưới các cô thuộc con nhà giáo dục, biết lễ nghĩa. Nếu con cưới nhằm người vợ không ra gì thì con sẽ khổ lắm…

Chu mẻ mẹt ơi, giữa đường thiên lý, gặp ý trung nhân đó chăng? Giờ đây đầu óc chàng đã bị hình ảnh Cẩm Hương choán rộng. Chàng say sưa với nhiều dự định, với bao mộng đẹp từ đâu kéo về nườm nượp. Chàng hát bài Santa Lucia lời Việt, đây cũng là bản cô Ái Lan hát trong dĩa Béka. “Lòng nầy ấp gối mơ ai? Ngọt bùi sẻ sớt chia nhau. Cùng ngắm say bóng trăng thanh. Nhắn em về với anh.”

Khanh và Thành đi từ sáng sớm, thì khoảng 3 giờ chiều Thiện Tố lên thăm. Sau bữa cơm trưa, ông bà Ký Tân kiếm chuyện ra ngoài, họ cố tình để con gái mình và Thiện Tố ở nhà tự nhiên nói chuyện. Thấy mặt Thiện Tố, Cẩm Hương tức tối lắm rồi. Những cảm nghĩ bị lừa dối, khinh thường sục sôi trong lòng nàng. Nhưng có mặt cha mẹ ở đó, nên nàng đành câm miệng.

Suốt mấy tuần, Cẩm Hương không sang nhà, Thiện Tố tưởng nàng bận rộn chấm thi lục cá nguyệt cho học trò nên không tìm thăm, sợ làm mất thì giờ của nàng. Cho đến cách nay mấy hôm, Kiều Lan đi đâu đó về ghé qua thăm mẹ con chàng. Thật sự nàng Kiều không tốt lành gì mà đi thăm bà vợ bé của cha và đứa em tạp chủng nầy. Bởi hôm trước cô ta đã nói với Cẩm Hương rằng Ngọc Huệ là hôn thê của Thiện Tố, đê phá đám hai người chơi. Giờ đây Kiều Lan chắc mẻm mình đã thành công rồi, nên khoái chí lắm. Cô ta làm bộ ghé thăm, để dò la tin tức cùng phản ứng của mẹ con Thiện Tố, và luôn dịp để chọc tức cho bõ ghét.

Thật là ác đức thay cho người đàn bà ăn không ngồi rồi không có việc gì để làm nầy! Vừa gặp mặt Thiện Tố thì Kiều Lan ong óng cái miệng:

– Tao tưởng mầy đi tìm người đẹp rồi chớ. Không dè mầy còn ở nhà? Bọn bây như bóng với hình. Bộ hờn giận gì rồi sao mà mầy ngồi cú rũ đó?

Kiều Lan chuẩn bị để chọc quê thêm, trong khi Thiện Tố không biết gì hết, ôn tồn hỏi:

– Chị đi đâu về vậy? Không có ảnh đi sao? Cẩm Hương dạo nầy rất bận rộn chấm thi cho học trò, nên em không có gặp cổ.

Kiều Lan trề môi nguýt háy! Té ra thằng trời đánh nầy chưa biết gì hết. Cô ta làm bộ ngạc nhiên, chuẩn bị mồi lửa và đổ thêm dầu:

– Thật mầy không biết gì sao? Tuần trước đây, bà nội của mấy đứa nhỏ bịnh nằm ở bịnh viện Tân An, tao với anh rể mầy đi thăm. Tao thấy cô giáo Cẩm Hương chân đi tó và có người đàn ông theo dìu đỡ cổ nữa. Hai người coi bộ khắng khít lắm. Tao còn nghe nói ông ta là người yêu của cô, hay là hôn phu chi đó. Tao thấy cô giáo nầy không vừa đâu vì tao và Kiều Liên hôm trước gặp cổ ăn uống ở quán nước bên chợ với hai ba cô gái khác nữa. Đàn bà con gái gì mà giữa chỗ đông người nói cười ha hả, chẳng ra thể thống gì hết.

Kiều Lan lại khay trầu của bà Tư Hiền, chọn cái xác cau khô để vừa chà răng cho sạch bóng vừa ngâm nga: “Bà ơi tôi vốn ở xa/ Đâu có dè bà bắt cá hai tay/ Bởi tui chẳng biết chẳng hay/ Bà nỡ làm kẻ đổi thay mận đào”

Thiện Tố bán tính bán nghi. Vì chàng cũng thừa biết cái tánh của bà chị mình, nên nói suông:

– Vậy sao? Em không biết chuyện đó!

Kiều Lan moi óc tiếp tục đặt điều nhứt định phá cho tan cuộc chung thân của hai đứa nầy:

– Ôi cái ngữ không ra gì đó, bắt cá hai tay chưa đã, còn bắt cá hai chưn nữa. Một lượt quen hai ba người đàn ông thì có ra gì đâu? Tao nghe Kiều Liên nói có gặp cổ mấy lần, mà lần nào cổ cũng ngồi lê đôi mách ở hàng ở quán… Thật là cái thứ lười biếng chỉ có biết ăn cơm hàng cháo chợ…

Thiện Tố đầu óc tê mê, cặp mắt muốn nổ đom đóm. Nhưng chàng cố dằn xuống, nói với Kiều Lan:

– Thôi chị về đi. Má em không có ở nhà. Hôm khác hẳn đến chơi. Bây giờ em phải qua bên chợ lấy thuốc không thì một hồi nữa tiệm người ta sẽ đóng cửa…

Kiều Lan định nói nữa, nhưng nghe Thiện Tố đuổi khéo tức lắm, liền đứng lên ngần ngừ định nói gì thêm. Nhưng thấy Thiện Tố vào dắt xe đạp đi ra hàng ba, nên cô ta ngoe nguẩy bỏ ra về, mà miệng còn rủa sả lầm bầm.

Thiện Tố đi qua chợ, nhưng không phải lấy thuốc, mà chàng đến nhà cũ của mình để hỏi thăm coi có phải Cẩm Hương nằm nhà thương ở Tân An như chị Kiều Lan chàng vừa nói không?

Thiện Tố dắt xe đạp ra cửa đi về, lòng buồn rười rượi. Quả thật là như vậy! Bao nhiêu câu hỏi đặt ra trong đầu óc chàng. Tại sao Cẩm Hương nằm nhà thương mà chàng không hay biết? Nàng bịnh gì? Hai người đã hứa hẹn tìm hiểu lẫn nhau, tại sao có chuyện mà nàng không cho chàng hay? Tại sao lại có người đàn ông nuôi bịnh? Chẳng lẽ một trong hai đứa em trai nàng? Vô lý, hai người đó làm việc ở xa, có nuôi thì phải là má nàng mới đúng chớ? Tại sao lại có người đàn ông dìu đỡ?

Bà Tư Hiền thấy con mặt mày ủ rủ. Lúc ra bờ mương cho cá ăn, chàng hết nhìn trời lại nhìn nước, rồi nhìn ruộng lúa bao la… Dáng điệu uể oải, gương mặt bơ phờ, chàng không nói năng gì cả. Bà Tư biết con mình đang có chuyện buồn nên đốt đèn, thắp nhang bàn thờ Phật, bàn thờ ông bà.

Bên ngoài trời, bóng đen buông phủ màn đêm. Ở gần ruộng, gần bưng, cóc nhái, côn trùng kêu râm ran từng chập buồn não nuột. Nồi cơm đã chín, bà Tư khơi ngọn lửa, hâm lại ơ canh khoai mỡ, và om cá bống cát kho, chuẩn bị dọn cơm. Lúc ăn cơm, bà hỏi con mới biết tự sự. Bà băn khoăn:

– Ai nói với con chuyện nầy?

Chàng buồn rầu:

– Chị Kiều Lan ghé qua hồi chiều chớ ai. Con không biết tại sao Cẩm Hương đi đâu mà không cho con hay gì hết? Lúc trước cổ đâu có như vậy. Có xảy ra chuyện gì thì cổ phải nói chớ. Sao lại lặng lẽ đi một mình?

Bà Tư Hiền ngắt ngang lời con:

– Sự việc biết có phải đúng như mụ chị mây nói không? Hai con chị đó “bán trời không mời thiên lôi”. Đừng có nghe lời bọn nó. Bọn nó nói mà con tin được sao? Nếu con muốn biết rõ mọi chuyện, thì hãy thu dọn công việc, đi thăm cổ một chuyên coi thể nào? Chớ con buồn bực như vậy ở nhà cũng không làm được việc gì…

Sáng hôm sau, hai anh làm vườn đến móc mương bồi thêm mấy liếp đất bên trái vì chàng nhờ họ từ tháng trước, nên không hẹn lại được.

Khi chàng đón xe đi Sài Gòn thì mặt trời đã lên cao. Đến Sài Gòn vào giờ ăn trưa, chàng ghé qua quán cơm bình dân gần bến xe, kêu một dĩa cơm sườn và ly nước trà. Nhưng khi nuốt cơm, Thiện Tố cảm thấy như nuốt sỏi sạn. Chàng bỏ mứa nửa dĩa com, uống cạn ly trà rồi đến bến xe Miền Đông, leo lên xe đò đưa về Lái Thiêu, Búng, Thủ Dầu Một.

Quả nhiên, Cẩm Hương còn dưỡng sức ở nhà. Nàng đang nằm trên võng đọc báo. Thiện Tố bước vào, cung kính chào hỏi ông bà Ký Tân. Họ chào hỏi lại chàng qua loa rồi rút êm để cho hai người nói chuyện. Thiện Tố, xót xa chưa kịp hỏi han Cẩm Hương thì nàng chẳng những không chào hỏi như thường lệ, mà còn gằn giọng khai chiến:

– Anh đến đây chi vậy? Tôi đã nói với anh rồi, bây giờ tôi lập lại: Xin anh để cho tôi yên. Giờ nầy còn sớm anh hãy ra xe về đi. Chúng ta còn gặp lại làm chi?

Vượt đường xa lên thăm, Thiện Tố không được niềm nở thì chớ mà còn bị người yêu nói mắc như tạt nước lạnh vào mặt! Chàng giận tím gan:

– Được! Tôi sẽ về ngay bây giờ! Em muốn chia tay phải không?Chia tay thì chia tay, tùy em. Nhưng tôi muốn biết nguyên nhân? Tôi đã làm lỗi gì với em?

Chợt thấy hai cây tó cạnh Cẩm Hương, Thiện Tố nghe lòng chùng xuống, nhưng thẳng giọng:

– Em làm gì mà chân cẳng bị nông nổi như vậy? Tại sao em lại nằm nhà thương ở Tân An mà không phải ở Mỹ Tho hay ở Thủ Dầu Một? Còn nữa, người đàn ông nào nuôi em, khi em nằm nhà thương?

Em đã có hôn phu rồi mà còn lừa dối tôi, rẻ rúng tình yêu của tôi… Em có phải là con người không? Thật uổng công cho tôi đã yêu thương và coi trọng em… Khỏi đuổi, tôi về đây. Từ rày tôi không dám làm phiền em nữa đâu.

Thiện Tố với lấy chiếc va-li nhỏ đựng đồ cá nhân để nằm trên đi-văn, dợm bước ra. Cẩm Hương đang ngồi trên ghế dựa, thuận tay, lấy vội cây tó bên cạnh phóng trước mặt Thiện Tố, run giọng:

– Được! Hôm nay chúng ta phải nói rõ để không còn dây dưa về sau. Anh muốn biết những câu mình hỏi thì dừng lại. Tôi sẽ trả lời thỏa đáng từng câu một, để anh không oán trách oan cho người khác. Anh nghe đây: Xe tôi đi bị lật. Nếu chân cẳng tôi bị gãy hay bị què thì mặc xác tôi chẳng liên can gì đến anh cả. Anh đừng làm bộ xót xa “mèo khóc chuột chết”. Tôi bị ngất xỉu, xe cứu thương chở đến nhà thương nào thì tôi nằm nhà thương đó. Người đàn ông nuôi tôi không phải người tôi yêu và cũng không phải hôn phu tôi. Ông ta cùng chung chuyến xe, cũng bị thương được chở đưa đến phòng cứu thương. Ông tốt bụng giúp đỡ tôi trong khi người nhà chưa hay biết tôi bị tai nạn. Nhưng tôi cho anh biết, tôi không bảo đảm là sau nay tôi có yêu ông ta hay không! Bây giờ tôi trả lời xong rồi, anh vừa ý chưa? Anh có thể đi đi…

Thiện Tố phang lại liền:

– Không, tôi chưa bằng lòng những câu trả lời của em! Tôi gạt gẫm em hồi nào? Gạt gẫm em chuyện gì? Em phải nói cho ra lẽ chớ đừng có vu khống tôi như vậy. Em đã có người yêu khác rồi trút hết tội lỗi cho tôi để nói chia tay.

Như bị đổ dầu vào lửa:

– Cô Ngọc Huệ, cháu ngoại ông Cả Bảy, ở gần nhà máy chà lúa không phải là hôn thê của anh sao? Tôi đã gặp cổ rồi, tôi có nói oan cho anh không? Vậy ai gạt gẫm ai?

Nói đến đây Cẩm Hương uất nghẹn lời, tức tưởi:

– Thú thật, là tôi đã từng yêu thương anh! Yêu anh tôi thật mệt đến điêu đứng! Yêu thương mà đau khổ như thế nay thì nên dứt khoát đi cho rồi, dậy dưa làm chi nữa cho phiền toái cả hai bên. Anh về đi, chúng ta chấm dứt kể từ đây.

Thiện Tố bàng hoàng, tức tối:

– Ai nói với em cô ấy là hôn thê của tôi? Chuyện không phải như vậy.

Cẩm Hương cũng không vừa, quơ cây tó còn lại chọi chàng. Nàng khóc rấm rức:

– Anh đi, đi… Anh là người trong cuộc, thì cần gì hỏi nữa? “Không có lửa làm sao có khói”, về hỏi bà chị Kiều Lan của anh thì sẽ biết. Tôi đã mệt vì chuyện của mấy người lắm rồi. Anh làm ơn đi khỏi chỗ nầy đi, đừng có làm phiền tôi nữa!

Mặt mày Thiện Tố đanh lại, thiểu não. Chàng cúi gằm mặt, lặng lẽ xách va-li bước ra khỏi nhà. Cẩm Hương càng tức tối hơn. Nàng không biết làm gì cho hả cơn giân. Chụp cái ly, quơ cái bình nước, mấy chai dầu nóng, dầu Nhị Thiên Đường, dầu cù là vô tội vạ đế gần đó chọi lung tung… Cái bể toang, cái sứt cọng, cái gảy que… miểng văng tung tóe, và nằm lăn lốc lổn ngổn trên mặt đất.

Nàng khổ sở, đớn đau chỏi tay, cà nhắc cái chân không đau qua chiếc giường ngủ gần đó rồi ngã vật xuống, vùi đầu úp mặt lên hai chiếc gối chồng lên mùng. Nàng khóc như mưa, như gió, khóc tức tưởi chẳng ngừng…

Bên ngoài trời còn nắng chang chang. Thỉnh thoảng con gió nhẹ thoáng qua làm cây lá khua động rào rào. Đôi chim chìa vôi lông đen điểm trắng nhảy sang cành nầy, nhảy qua cành kia, kêu gọi nhau chí chóe. Chúng ẩn hiện trong những cành cây mận rậm rạp lá xanh rì. Cạnh bên, hàng cây so đũa trổ đầy bông trắng, bầy chim trao trảo tíu tít réo gọi nhau tìm mật.

Trời cao vòi vọi, có những làn mây trắng mỏng gọn nhẹ lác đác in nền lam ngọc, tạo thành những bức tranh sơn thủy, những hình thù cổ quái, những con vật hiền lành, hung dữ… tùy theo sự giàu óc tưởng tượng của từng cá nhân một. Nhưng chỉ trong đôi ba phút thôi, mây sẽ trôi theo gió mờ dần, mờ dần… rồi biến tan trong thinh không bát ngát.

Cẩm Hương tỉnh giấc thì trời đã chạng vạng. Nhà nhà trong xóm đèn đã thắp sáng. Ngoài khung cửa sổ phía sau hè, trăng mười bốn đã ló dạng ở hướng đông. Gió mát rượi, Cẩm Hương vươn vai, những khớp xương kêu răng rắc, nhịp tuần hoàn chảy đều trong cơ thể. Nàng cảm thấy thoải mái dễ chịu vô cùng sau giấc ngủ. Nhưng nàng chợt thở dài, nỗi buồn hiu hắt lan khắp tâm tư, như đè nặng cả châu thân. Kìa cặp nạng hồi chiều nàng đã dùng nó chọi Thiện Tố, cùng những đồ vật lăn lóc trên mặt đất… giờ đã dọn sạch sẽ và cặp nạng dựng kế bên giường. Má, hoặc ba nàng đã thu dọn rồi chăng?

Đêm đã vào sâu. Có tiếng chó sủa ở xóm xa, tiếng đỗ quyên kêu khắc khỏai trong bụi rậm sau nhà. Bên kia bờ rào thưa của ranh đất, vẳng tiếng chị hàng xóm hát ru con: “Giận anh em giận làm chi/ Thoa son, giồi phấn rồi đi chụp hình/ Giận anh em giận sao đành? Ngồi xe anh chở chạy quanh phố phường”. Ồ, ca dao đó chăng? Ca dao gì mà kỳ cục? Ai mà đặt vô duyên quá vậy? Nhưng câu đầu và câu thứ ba lại hợp với hoàn cảnh hiện tại của mình.

Cẩm Hương uể oải lấy cặp nạng, cẩn thận đứng lên, cố không gây ra tiếng động, đi lần xuống nhà dưới. Nàng nghe tiếng của hai người đang nhỏ to nói chuyện, nhưng nàng không chú ý cho lắm, bởi nàng nghĩ là ba má mình đang nói với nhau về chuyện cây trái, mùa màng, chuyện hôn nhơn gả cưới trong xóm mà ông bà được mời, chuyện đình chùa trong thôn, chuyện nhà. Cũng có thể là chuyện hôn ước của Tuấn, hoặc Thành. Cẩm Hương mỉm cười một mình, chỉ ngần ấy bao nhiêu chuyện thôi, mà ba má mình nói hoài, nói bao nhiêu lâu rồi vẫn không chán.

Trong ánh đèn Huê kỳ chân cao, mà gia đình nàng thường gọi là đèn tây, có hai người ngồi trên hai chiếc ghế ngang nhau, cách cái bàn ăn cơm đặt ở giữa. Trên bàn có dĩa trái cây, có dĩa bánh ngọt, bình trà, và hai tách nước họ đang uống dở. Quay mặt hướng về phía nàng là bà Ký Tân, còn người quay lưng và có giọng nói đó không phải của ba nàng mà chính là Thiện Tố! Phải rồi, lưng và giọng nói của cái con người dối gian gạt gẫm đó, làm sao mà nàng không nhận ra ngay được? Nàng hậm hực đến cực độ, và tức muốn lói hông, rêm ngực! Nàng lầm bầm rủa sả: “Thật là cứng đầu. Đã bị đuổi đi mà còn trở lại. Chắc hắn muốn nghe mình xài xể nữa?”.

Thiện Tố dịu giọng:

– Thưa bác, cháu biết Cẩm Hương hiểu lầm cháu quá sâu đậm vì cổ tưởng cháu đã lừa dối và gạt gẫm cổ. Trong lúc cổ giận dữ, cháu có giải thích cách gì cổ cũng không nghe lọt tai, nên cháu định về, để cổ dịu lại thì sẽ tìm cách phân tỏ cho cổ biết. May mà gặp bác thông cảm. Cảm ơn bác cho cháu trở lại đây.

Bà Ký Tân bảo:

– Từ lúc bác rước nó từ nhà thương về đến giờ, bác thấy nó ít nói, và lúc nào cũng buồn dàu dàu. Bác có hỏi, nhưng nó cố tình giấu giếm, nói là tại vết thương làm nó khó chịu. Nhưng bác không dè là nó đau buồn vì cháu. Vậy cháu có việc gì không thể nói ra để nó hiểu lầm mà khổ sầu như vậy? Nói thiệt với cháu, bác chỉ có đứa con nầy là gái. Nó học rất giỏi, lại ngoan hiền, nghe lời cha mẹ, thương em. Hầu như từ nhỏ đến giờ, nó chưa bao giờ làm mất lòng ai, cho dù kẻ ăn người ở trong nhà cũng vậy… Khi có việc gì không vừa ý, hoặc không vui thì nó càng yên lặng rút lui, âm thầm ôm tâm sự lấy một mình… Nó lại được hai bác thương yêu chiều chuộng, còn được hai em kính nhường và nể phục. Có lẽ như vậy nên nó cứng đầu lắm, chuyện gì nó đã quyết định rồi thì khó lòng mà lay chuyển được.

Thiện Tố trầm giọng:

– Thưa bác, cháu không giấu gì bác. Má cháu là vợ thứ hai của ba cháu. Đại gia đình ba cháu gồm bà vợ lớn và 3 người con dòng lớn ở nhà hương hỏa của ông bà nội cháu để lại. Còn mẹ con cháu ở riêng. Thưa bác, dù mẹ con cháu đối xử tốt đến đâu đi nữa thì má lớn, và anh chị em con riêng của ba cháu cũng thấy gai mắt, khinh khi và thù ghét… Những chuyện gay go tranh chấp của dòng lớn, dòng nhỏ đã có từ ngàn xưa đến giờ. Sự việc đó trên thế gian nầy không mới mẻ gì. Ai cũng biết nhưng không ai phân xử, cũng không ai ngăn chặn nên những phức tạp, tranh chấp của hai dòng con trong gia đình trở thành chuyện xảy ra thường xuyên, nên không ai còn thắc mắc hay để ý đến. Cháu nghĩ rằng đó là chuyện của người lớn, cháu không có quyền can thiệp vào. Cháu thật khó xử, và cảm thấy hết sức là khó chịu với ba cháu. Thưa bác, cháu có hai bà chị một cha khác mẹ luôn được má lớn chống lưng, xúi giục làm những chuyện không nên làm. Hai chị cháu không phân phải trái bởi họ không bỏ thói tị hiềm, và thói cạnh tranh bất chánh với cháu. Má cháu nói ngày xưa, ông nội cháu và ông Cả Bảy trong lúc nhậu nhẹt hứng chí ráp hai cháu nội (là cháu và cô cháu nội của ông Cả Bảy) sau nầy lớn sẽ làm vợ chồng. Má cháu kịch liệt chống lại ý kiến nay. Vì bà đau khổ cả đời rồi, không muốn sau nầy con bà có cuộc hôn nhân không do tình yêu mà bị sự gò bó, ép buộc của cha mẹ hai bên.

Bà Ký Tân rót thêm nước uống. Giọng nói của chàng như muốn nghẹn:

– Bên má lớn và hai chị con dòng lớn, gần đây biết cháu và Cẩm Hương thương nhau. Họ ức lòng ganh ghét nên muốn phá cho keo rã hồ tan thì họ mới chịu. Bởi trong mắt họ, cháu và má cháu phải luôn luôn thua kém họ, phải đứng phía sau họ… Họ là những người ăn trên ngồi trước, còn mẹ con cháu phải ngồi dưới và làm gì cũng phải nhìn sắc mặt của họ… Thưa bác, cháu nói vậy chắc bác hiểu ý cháu rồi?

Bà Ký Tân gật đầu. Thiện Tố tiếp:

– Thiện Cảm đàn ông con trai có gia đình rồi nên đương sự đỡ bị ảnh hưởng của mẹ. Còn hai bà chị Kiều Lan, Kiều Liên của cháu thì vặt mắc, khó chịu và độc địa lắm. Họ tìm đủ mọi cách để phá cho cháu và Cẩm Hương tách rời ra, như vậy họ mới khỏi ôm mặc cảm với Cẩm Hương! Nếu cháu và Cẩm Hương đi đến hôn nhân họ sẽ bị chạm tự ái và mang mặc cảm thua kém… Nên họ mới đặt ra chuyện cháu ngoại ông Cả Bảy là hôn thê cháu. Thật sự không phải vậy, cháu chưa bao giờ nói chuyện hay tỏ ý gì với Ngọc Huệ. Nếu cháu có tình ý gì, thì đã cưới cô ấy lâu rồi. Vì ba và má lớn cháu cùng mấy bà chị luôn đốc xúi cháu đi cưới cô ta. Xin bác nói với Cẩm Hương đừng ngờ vực cháu. Thật lòng cháu chỉ yêu mình cổ mà thôi.

Bà Ký Tân, chép miệng thở dài:

– Chuyện của bọn trẻ các cháu hay làm phiền đến người lớn. Chuyện nầy giữa cháu và nó, cháu hãy để nó nguội xuống rồi sẽ tìm cách giải bày. Con nầy mặc dù cứng đầu, chắc dạ, nhưng không phải là đứa không biết chuyện.

Có tiếng cây tó rớt lăn lóc trên mặt đất. Thiện Tố quay lại, đến lượm lên đưa cho nàng. Chàng đưa tay định dìu nàng:

– Em ngồi xuống đây, nói chuyện với bác và anh. Chỉ là sự hiểu lầm thôi, anh có làm gì đâu mà em giận và đuổi anh như đuổi tà vậy?

Cẩm Hương đẩy mạnh chàng ra, không cho đụng đến. Do đó nàng mất thăng bằng suýt té chúi nhủi. Bà Ký Tân lo lắng, chắc lưỡi lớn tiếng mắng con gái:

– May mà Thiện Tố đỡ kịp, nếu không thì con sẽ té gãy thêm mấy khúc xương nữa! Con đừng có bướng như vậy.

Cẩm Hương không trả lời mẹ, hất mặt như khiêu khích Thiện Tố:

– Anh chưa về sao? Anh đã nói anh không nhìn mặt tôi nữa mà! Anh dùng lời đường mật làm má tôi xiêu lòng tin anh. Còn tôi hả? Còn khuya tôi mới tin cái con người đã gạt gẫm tôi.

Bà Ký Tân thở dài, lắc đầu:

– Nó đi gần tới bến xe rồi, má bảo trở lại đó. Bữa nay sao con ngang ngược quá vậy? Con phải nghe nó giải bày chớ. Người mình hết lòng yêu thì không nghe, lại đi nghe người ngoài nói bá láp.

Cẩm Hương ngồi xuống ghế, vừa tức vừa tủi thân, nghẹn ngào:

– Phải lắm, vì tin lời kẻ gian dối nên con mới bị gạt. Người cho con hay tự sự là chị của ảnh đó, chớ không phải kẻ bá vơ như má nghĩ đâu. Chị ấy nói trước mặt hôn thê ảnh là Ngọc Huệ, cô ta có chối cãi chi đâu? Nếu gặp trường hợp khi không mà bị gán ghép như vậy, thì cô ta đã chối bay chối biến hoặc nổi giận đùng đùng, chớ cổ đâu có đôi má ửng hồng mắc cỡ.

Bà Ký Tân nhìn Thiện Tố, không biết nói sao cho phải. Chàng đau khổ, nói như khóc:

– Nãy giờ em đã nghe anh nói chuyện với bác rồi? Đó là sự thật, anh không có dối gạt em. Hãy tin anh đi Cẩm Hương. Anh không hề dối gạt em…

Cẩm Hương trợn mắt:

– Tại sao tôi phải tin anh? Sáng mai anh đi về đi. Tôi ghét anh, tôi thù anh…

Thiện Tố khổ sở:

– Anh phải làm thế nào để em tin là anh không gạt gẫm và lừa dối em?

Cẩm Hương nạt vội:

– Anh khỏi làm gì hết! Đừng nói lôi thôi nữa. Tôi và anh chấm dứt!

Bà Hương dắt con gái về phòng vỗ về, khuyên bảo. Cẩm Hương uống hai viên thuốc an thần trước khi lên giường nằm. Má nàng ra khỏi phòng. Nàng khóc rấm rức…

Bà Ký Tân mến tánh tình thành thật và tin lời Thiện Tố. Thấy Thiện Tố đứng tần ngần gần cửa, ngó mông ra ngoài sân tràn ngập bóng tối, dáng thiểu não trông thật tội nghiệp. Bà khuyên:

– Thôi cháu đừng buồn. Sáng mai hãy trở về nhà, nói với má cháu rằng bác sẽ tìm cách lung lạc nó. Con nầy cứng miệng nhưng mềm lòng. Bác biết nó thương cháu lắm mới nói với cháu như vậy, nhưng để rồi khi cơn giận nguôi ngoai, nó sẽ nhận định đâu là sự thật, đâu là quỉ kế của kẻ ác tâm.