Chương 1
Bạn chẳng đời nào nghe nói đến một vận động viên bị mất khứu giác trong một tai nạn giao thông thảm khốc, và theo lẽ thường tình; để vũ trụ dạy những bài học xương máu mà chúng ta không thể áp dụng vào cuộc sống sau này, vận động viên phải mất chân, triết gia mất trí, họa sĩ mất mắt, nhạc sĩ mất tai, đầu bếp mất lưỡi. Bài học của tôi? Tôi đã mất tự do, và nhận ra mình ở trong cái nhà tù xa lạ này, nơi mà sự thích nghi khó chịu nhất, ngoài chuyện làm quen với việc nhẵn túi và bị đối xử như một con chó đái bậy vào ngôi đền thiêng, chính là sự nhàm chán. Tôi thừa sức đối phó với thói thô bạo thái quá của đám quản ngục, những lần cương dương uổng phí, kể cả cái nóng ngột ngạt. (Rõ ràng máy điều hòa nhiệt độ xúc phạm đến khái niệm của xã hội về sự trừng phạt - như thể mát mẻ một tí là chúng tôi thoát được tội giết người vậy.) Nhưng tôi làm được gì ở đây để giết thời gian chứ? Yêu đương chăng? Có một nữ quản ngục mà ánh mắt dửng dưng của ả mới hớp hồn làm sao, nhưng tôi không có khiếu tán gái - tôi luôn chọn cách thoái thác. Ngủ suốt ngày chăng? Khi nhắm mắt, tôi lại thấy khuôn mặt đe dọa đã ám ảnh tôi suốt cuộc đời. Thiền định chăng? Sau tất cả những gì đã xảy ra, tôi biết não mình chẳng đáng hưởng điều đó. Ở đây chẳng có việc gì gây rối trí - dù gì cũng chưa đủ rối trí - để có thể lảng tránh một cuộc tự vấn lương tâm nghiêm khắc. Tôi cũng không thể dùng gậy đập lại kí ức của mình.
Tất cả những gì còn lại để làm là phát rồ; diễn lại cảnh tận thế hai tuần một lần trong nhà hát là chuyện dễ như không ấy mà. Tối qua là một sô đặc biệt đình đám. Tôi đang thiu thiu ngủ thì tòa nhà bắt đầu rung chuyển và một trăm giọng nói giận dữ đồng loạt thét lên. Tôi co cứng. Một vụ bạo động, nhưng lại là một cuộc cách mạng yếu-kém-từ-trong-trứng-nước khác. Chỉ chưa đầy hai phút sau, cửa phòng tôi bị đá tung và một hình nhân cao lớn bước vào, mang trên mặt nụ cười kiểu cách.
“Đệm của mày. Tao cần,” hắn nói.
“Để làm gì?” tôi hỏi.
“Bọn tao đốt hết đệm,” hắn huênh hoang, giơ ngón tay cái lên, như thể cử chỉ ấy là viên đá quý trên vương miện của thành tựu nhân loại.
“Vậy tao phải ngủ trên cái gì? Sàn nhà ư?”
Hắn nhún vai rồi nói bằng ngôn ngữ mà tôi chả hiểu nổi. Có những cục u mang hình thù kì dị trên cổ hắn; rõ ràng có thứ gì đấy kinh khủng đang diễn ra dưới da hắn. Những người ở đây thảy đều chẳng ra làm sao và vận đen dai dẳng đã làm cơ thể bọn họ trở nên dị dạng. Cơ thể tôi cũng thế; mặt tôi trông giống quả nho héo, còn mình mẩy thì giống thân cây nho.
Tôi phẩy tay xua gã tù nhân đi và tiếp tục lắng nghe sự hỗn loạn quen thuộc của đám đông. Đó là khi tôi nảy ra ý tưởng có thể giết thời gian bằng cách viết câu chuyện của mình. Dĩ nhiên, tôi phải viết lén lút, nấp sau cánh cửa, và chỉ về đêm, rồi sau đó giấu nó ở cái chỗ ẩm thấp giữa bồn cầu và bức tường và hi vọng đám cai ngục không phải loại người thích bò toài ra đất. Tôi vừa vạch xong kế hoạch thì vụ bạo động rốt cuộc cũng làm đèn điện tắt ngóm. Tôi ngồi trên giường và đâm ra mê mẩn trước ánh sáng chói lòa từ những chiếc đệm bốc cháy soi sáng hành lang, chợt bị hai gã tù nhân sừng sộ, râu tóc lởm chởm xen ngang. Chúng bước vào phòng giam của tôi và nghệt mặt ra nhìn như thể tôi là phong cảnh núi non.
“Mày là thằng không chịu giao đệm phải không?” gã cao hơn gầm ghè, trông như mới tỉnh rượu sau cơn váng vất đều đặn suốt ba năm qua.
Tôi nói phải.
“Tránh ra nào.”
“Chẳng qua là khi nãy tao sắp đi nằm,” tôi phản kháng. Cả hai gã tù nhân phát ra tiếng cười bí hiểm đáng sợ, nghe như tiếng xé vải jeans. Gã cao hơn đẩy tôi sang một bên rồi giật mạnh tấm đệm khỏi giường tôi trong khi gã còn lại đứng như bị đóng băng và đang chờ rã đông. Có những thứ mà tôi sẽ liều mình giành lại, nhưng một tấm đệm cồng kềnh thì không. Hai tên tù nhân khiêng tấm đệm giữa chúng, dừng lại tại cửa.
“Đi không?” gã thấp hơn hỏi tôi.
“Để làm gì?”
“Cái này là đệm của mày,” gã đáp rạch ròi. “Mày có quyền làm người đốt nó.”
Tôi rên lên. Phép với chả tắc! Ngay cả trong chốn địa ngục hỗn mang, con người ta vẫn phải cho mình chút danh dự, tuyệt vọng rứt mình ra khỏi bầy thú vật.
“Thôi khỏi.”
“Tùy mày,” gã đáp, hơi thất vọng. Gã càu nhàu gì đấy bằng tiếng nước ngoài với đồng bọn, tên này cười to khi chúng bỏ đi.
Luôn có chuyện ở đây - nếu không bạo động thì cũng là kẻ nào đấy tìm cách vượt ngục. Nỗ lực uổng phí ấy giúp tôi nhận ra những điểm tích cực của việc bị cầm tù. Khác với những kẻ vò đầu bứt tóc trong xã hội tử tế, ở đây chúng tôi không cần cảm thấy hổ thẹn về sự bất hạnh ngày qua ngày của mình. Ở đây chúng tôi có một kẻ nào đấy trong tầm mắt để trách cứ - kẻ nào đấy mang bốt bóng lộn. Thế cho nên, xét kĩ mà nói, tự do khiến tôi ớn lạnh. Bởi vì ngoài đấy trong thế giới thực, tự do có nghĩa là anh phải thừa nhận mình là tác giả, ngay cả khi chuyện của anh chướng tai gai mắt.
***
Bắt đầu câu chuyện của tôi từ đâu? Đàm phán với kí ức là việc không dễ: làm sao để chọn giữa những kí ức thiết tha được kể, những kí ức vẫn đang chín muồi, những kí ức đã quắt queo, và những kí ức sinh ra là để ngôn ngữ giày xéo cho đến lúc nát như tương? Chắc chắn một điều: không viết về bố tôi sẽ là việc đòi hỏi một nỗ lực tinh thần quá mức của tôi. Tất cả những ý nghĩ không-về-bố của tôi đều giống như cố tình tạo ra để tránh nghĩ về ông. Mà tại sao tôi phải tránh né điều đó cơ chứ? Bố trừng phạt tôi vì tôi đã tồn tại, và bây giờ đến lượt tôi trừng phạt ông vì ông đã tồn tại. Công bằng quá còn gì.
Nhưng khó khăn thực sự là, tôi cảm thấy mình trở nên nhỏ bé trước cuộc đời của chúng tôi. Chúng lù lù hiện ra lớn một cách phi cân xứng. Chúng tôi đã làm những chuyện ngoài tầm với, xuyên qua ba châu lục, từ vô danh tiểu tốt đến nổi đình nổi đám, từ thành phố đến rừng rú, từ nghèo mạt đến lên đời, bị tình nhân và cơ thể mình phản bội, và bị nhục mạ từ cấp quốc gia đến cấp toàn cầu, mà chẳng có nổi một sự ôm ấp nào để an ủi chúng tôi. Chúng tôi là những kẻ lười biếng trong một chuyến thám hiểm, tán tỉnh cuộc đời nhưng quá e dè không dám tiến tới. Vậy thì nên bắt đầu kể lại cuộc phiêu lưu ghê gớm của chúng tôi như thế nào đây? Hãy kể đơn giản, Jasper ạ. Nhớ đấy, người ta hài lòng - à không, sướng run - bởi việc đơn giản hóa những sự kiện phức tạp. Vả lại, chuyện của tôi là một câu chuyện hay hết xẩy và có thật. Tôi chả biết tại sao, nhưng hình như điều đó quan trọng với mọi người. Bản thân tôi nghĩ, nếu có người bảo tôi, “Tôi có chuyện này hay lắm muốn kể anh nghe, và từng câu từng chữ đều là láo toét!”, tôi sẽ nhổm khỏi ghế ngay.
Tôi nghĩ mình cứ thừa nhận thế này: chuyện này kể về tôi bao nhiêu thì cũng kể về bố tôi bấy nhiêu. Tôi ghét cái kiểu ai kể chuyện đời mình cũng lăng xê kẻ thù của mình lên, nhưng đời là vậy. Sự thật là, toàn thể nước Úc khinh miệt bố tôi có lẽ hơn bất kì người nào khác, cũng như họ thần tượng em trai ông ấy, chú tôi, có lẽ hơn bất kì người nào khác. Tôi cũng có thể đi thẳng vào chuyện bằng cách nói về cả hai người, dù tôi không định làm giảm tình yêu của bạn dành cho chú tôi hay đảo ngược sự căm ghét của bạn đối với bố tôi, nhất là khi đó là một sự căm ghét thấu tim gan. Tôi không muốn làm hỏng việc nếu bạn dùng sự thù ghét của mình để hiểu biết nhanh hơn về người bạn yêu mến.
Tôi cũng nên nói điều này để mọi chuyện đâu ra đó:
Xác bố tôi sẽ không bao giờ được tìm thấy.
***
Gần trọn cuộc đời tôi chưa bao giờ xác định được liệu nên thương hại, bỏ mặc, thần tượng, phán xét hay giết quách bố tôi. Hành vi khó hiểu của ông khiến tôi lưỡng lự đến phút chót. Ông có những ý tưởng mâu thuẫn nhau về đủ thứ chuyện, đặc biệt là chuyện học hành của tôi: sau tám tháng ở trường mẫu giáo, ông quyết định không muốn tôi đến đấy nữa vì hệ thống giáo dục thật “vô dụng, hủy hoại tâm hồn, cũ rích và chán phèo”. Tôi chả hiểu sao lại có người gọi môn vẽ bằng ngón tay là cũ rích và chán phèo. Bừa bãi, có. Hủy hoại tâm hồn, không. Ông đưa tôi ra khỏi trường với ý định tự mình dạy dỗ tôi, và thay vì để tôi vẽ bằng ngón tay, ông đọc cho tôi nghe những lá thư Vincent van Gogh viết cho em trai Theo ngay trước khi cắt tai mình, và cả những đoạn từ quyển Người, tất cả quá người[1] để cùng nhau chúng tôi có thể “giải cứu Nietzsche khỏi Đức quốc xã”. Rồi bố mất tập trung với một việc tốn thời gian là nhìn trân trối vào khoảng không, còn tôi ngồi lê lết khắp nhà, vờn hai ngón tay cái vào nhau, ước gì có sơn trên đấy. Sau sáu tuần ông ném tôi trở lại trường mẫu giáo, và ngay khi mọi sự trông có vẻ như cuối cùng tôi có thể sống một cuộc đời bình thường, đột nhiên, trong tuần thứ hai của lớp một, ông bước thẳng vào lớp học và lôi tôi ra lần nữa, vì bị khuất phục trước nỗi sợ rằng ông đã để bộ não nhạy cảm của tôi “trong nếp gấp quần lót quỷ Satan”.
Lần này ông làm thật, và từ chiếc bàn ăn xiêu vẹo của chúng tôi, trong lúc gạt tàn thuốc lá vào một đống đĩa chưa rửa, ông dạy tôi văn học, triết học, địa lý, lịch sử, cùng những môn học không tên cần đến việc đọc những tờ nhật báo, quát tháo với tôi rằng truyền thông làm cái việc mà ông gọi là “quất vào sự bấn loạn tinh thần”, và yêu cầu tôi nói với ông tại sao người ta cho phép tinh thần mình bị đánh đến nỗi bấn loạn lên như thế. Những lúc khác ông dạy học từ phòng ngủ của ông, giữa hàng trăm quyển sách cũ, di ảnh những nhà thơ quá cố nghiêm trang, những cổ chai bia rỗng dài, những tập báo cắt ra, những tấm bản đồ cũ, những vỏ chuối đen cứng, những hộp xì gà chưa hút, và những gạt tàn đầy những đầu mẩu thuốc lá đã hút.
Đây là một bài học điển hình:
“Được rồi, Jasper. Là thế này: thế giới chẳng còn sụp đổ một cách lặng lẽ nữa, thời nay nó gây ra một tiếng nghiền nát đinh tai! Ở mỗi thành phố trên thế giới, mùi bánh hamburger dung dăng dung dẻ xuống phố tìm kiếm bạn cũ! Trong các câu chuyện cổ tích truyền thống, mụ phù thủy là kẻ xấu xí; trong truyện cổ tích hiện đại, mụ ta có xương gò má cao và ngực bơm silicone! Con người không còn bí ẩn vì họ chẳng bao giờ câm miệng! Lòng tin soi sáng theo kiểu của mảnh vải bịt mắt! Con có nghe không đấy, Jasper? Đôi khi con đi bộ trong thành phố vào đêm hôm khuya khoắt, và một cô nàng đi trước mặt con sẽ ngoái đầu ngó nghiêng rồi sau đó băng qua đường chỉ đơn giản vì vài kẻ thuộc giới tính của con cưỡng hiếp phụ nữ và làm trò đồi bại với trẻ con!”
Mỗi giờ lên lớp đều có mức độ gây hoang mang như nhau, bao gồm một loạt chủ đề đa dạng. Ông cố lôi kéo tôi tham gia vào các cuộc đối thoại Socrate, nhưng lần nào kết cục cũng là mình ông kiêm cả hai vai. Khi nhà bị cúp điện do bão, bố lại cầm nến đưa tới phía dưới cằm để cho tôi thấy với góc độ ánh sáng thích hợp, khuôn mặt con người có thể biến thành mặt nạ quỷ ra sao. Ông dạy tôi nếu có hẹn với ai, phải từ chối tuân theo “thói quen ngớ ngẩn của con người” trong việc nhất định chọn giờ dựa trên những khoảng cách mười lăm phút. “Đừng bao giờ gặp người ta lúc 7:45 hay 6:30, Jasper ạ, mà hãy chọn những giờ như 7:12 và 8:03!” Nếu điện thoại reo, ông thường nhấc máy rồi im thin thít - sau đó, khi người bên kia nói xin chào, ông lại cất tiếng run run léo nhéo nói, “Bố không có nhà.” Ngay từ khi còn bé tôi đã biết một người lớn giả giọng đứa con trai sáu tuổi của mình để lẩn trốn thế gian là việc làm hết sức lố bịch, nhưng nhiều năm sau tôi thấy mình cũng làm điều tương tự, chỉ có điều là tôi giả làm ông ấy. “Con trai tôi không có nhà. Có việc gì không?” tôi thường nói oang oang như thế. Bố hay gật đầu tán thành. Ông tán thành việc lẩn trốn hơn bất cứ điều gì.
Những bài học này cũng tiếp diễn ra đến thế giới bên ngoài, nơi bố cố gắng dạy tôi nghệ thuật đổi chác, mặc dù chúng tôi không sống trong xã hội kiểu đó. Tôi nhớ ông nắm tay dẫn tôi đi mua báo, rồi quát vào mặt người bán báo bị ông làm cho mất vía, “Không chiến tranh! Không thị trường sụp đổ! Không sát nhân lẩn trốn! Tính tiền đắt thế vì cái gì? Cóc có gì xảy ra cả!”
Tôi cũng nhớ ông đặt tôi ngồi lên chiếc ghế nhựa màu vàng rồi cắt tóc cho tôi; với ông, đấy là một trong những việc quá đơn giản, chứ không như phẫu thuật não, đến nỗi ông không chịu tin rằng nếu một người có đôi tay và cây kéo lại không thể cắt tóc được. “Bố sẽ không phí tiền cho những tay thợ cắt tóc, Jasper ạ. Cần phải biết gì nào? Rõ ràng, con phải dừng tay khi chạm đến da đầu.” Bố tôi là kẻ ưa lý sự - ông thậm chí không thể đơn giản chỉ cắt tóc mà không nghĩ ngợi đến ý nghĩa của nó. “Tóc, biểu tượng của dũng khí và sức sống, dù vài kẻ rất chi ẻo lả lại có tóc dài và nhiều kẻ đầu trọc oai vệ vẫn sống sờ sờ ra đấy. Mà tại sao ta phải cắt nó chứ? Ta có ác cảm gì với nó?” ông thường nói thế, rồi thả cho tóc bay đi với những cú vẩy mạnh tay. Bố cũng tự cắt tóc mình, thường không cần dùng đến gương. “Chả cần đoạt giải gì cả,” ông thường bảo vậy, “chỉ cần ngắn hơn thôi.” Chúng tôi là hai bố con với mái tóc tưng tửng lởm chởm như thế - biểu tượng của một trong những ý tưởng bố tâm đắc nhất mà tôi chỉ thực sự nghiệm ra mãi rất lâu sau này: tự do nằm trong chính bộ dạng điên khùng.
Khi đêm xuống, những bài học trong ngày được đúc kết bằng một chuyện kể trước giờ đi ngủ do ông tự sáng tác. Khiếp! Chúng toàn là những câu chuyện tối tăm và khiến người nghe sởn tóc gáy, mỗi chuyện lại có một nhân vật chính rõ ràng là đại diện cho tôi. Đây là một chuyện tiêu biểu: Ngày xửa ngày xưa có một cậu bé tên là Kasper. Bạn bè của Kasper đều có cùng suy nghĩ về một đứa bé mũm mĩm sống ở cuối phố. Chúng ghét nó. Kasper muốn được tiếp tục chơi với đám bạn, thế là nó cũng đâm ra ghét đứa bé. Rồi một sáng nọ Kasper tỉnh giấc và phát hiện não của nó bắt đầu thối rữa cho đến khi chảy ra khỏi mông nó qua sự bài tiết hậu môn đau đớn. Tội nghiệp Kasper! Nó đã phải chịu nhiều đau khổ. Trong loạt truyện đêm khuya này, nó bị bắn, bị đâm, bị nện dùi cui, bị nhúng vào nước biển sôi sùng sục, bị lôi xềnh xệch trên bãi kính vỡ, bị rút móng tay, nội tạng bị thú dữ ăn; nó biến mất, nổ banh xác, nổ thủng ruột, thường bỏ mạng vì những cơn co giật dữ dội và mất thính giác. Bài học lúc nào cũng thế: nếu nghe theo ý kiến đám đông mà không nghĩ cho bản thân, ta sẽ đón lấy cái chết bất đắc kì tử và rùng rợn. Suốt nhiều năm trời, tôi đã khiếp sợ không dám đồng ý với ai về bất kì điều gì, kể cả về giờ giấc.
Kasper chưa bao giờ chiến thắng vẻ vang. Dĩ nhiên, nó thắng vài ba trận lẻ tẻ và được thưởng (hai đồng tiền vàng, một nụ hôn, sự tán thành của bố nó), nhưng chưa bao giờ, dù chỉ một lần, nó thắng cuộc chiến. Bây giờ thì tôi nhận ra đó là vì triết lý của bố đã chẳng đem lại cho ông thắng lợi nào trong cuộc sống: không tình yêu, không bình yên, không thành công, không hạnh phúc. Đầu óc của bố không thể hình dung ra một sự bình yên dài lâu hoặc một chiến thắng ý nghĩa; nó không có trong kinh nghiệm sống của ông. Đó là lý do vì sao Kasper từ đầu đã phải chịu số phận bi thảm. Nó chẳng có lấy một cơ hội, tội nghiệp thằng bé.
***
Một trong những giờ lên lớp đáng nhớ nhất bắt đầu khi bố bước vào phòng ngủ của tôi với một chiếc hộp đựng giày màu xanh ô liu cặp dưới cánh tay, và nói, “Bài học hôm nay là về con.”
Ông đưa tôi đến công viên đối diện tòa nhà chung cư của chúng tôi, một công viên buồn bã hoang phế của thành phố mà thoạt trông như bãi chiến trường giữa lũ trẻ con với đám nghiện ngập và kết quả là lũ trẻ bị đá đít đi. Cỏ chết héo, cầu tuột gãy, vài ba chiếc bánh xe cao su làm xích đu đong đưa trong gió trên những sợi xích gỉ sét, quấn vào nhau.
“Nghe đây, Jasper,” bố nói khi chúng tôi ngồi xuống một băng ghế. “Đã đến lúc con tìm hiểu xem ông bà mình đã thảm bại thế nào, để con biết mình đã làm gì với những thất bại của các bậc tiền bối: con đã chạy cùng họ hay là nẩy bật ra khỏi những sai lầm của họ, thay vào đó tự tạo ra những sai lầm to lớn cho mình trong một quỹ đạo trái ngược? Tất cả chúng ta đều bò yếu ớt ra khỏi những nấm mồ của ông bà, trong tai văng vẳng âm thanh về cái chết buồn bã của họ, còn trong miệng ta là dư vị của sự xúc phạm đáng tởm nhất đối với chính họ: nỗi ô nhục về cuộc đời chưa được sống. Chỉ có sự tích lũy những hối tiếc, thất bại, sự hổ thẹn của ta hoặc cuộc đời chưa được sống của ta mới có thể mở ra cánh cửa thấu hiểu họ. Nếu nhờ sự run rủi của số phận mà ta sống một cuộc đời may mắn, hăng hái tiến từ thành công vang dội này đến thắng lợi vẻ vang khác, thì ta sẽ không bao giờ hiểu được họ! Không bao giờ!”
Ông mở hộp giày ra. “Bố muốn con xem cái này,” bố nói, lôi ra một xấp ảnh rời. “Đây là ông nội con,” ông nói tiếp, cầm lên một tấm ảnh trắng đen của một thanh niên có râu quai nón đứng dựa vào cột đèn đường. Người đàn ông không cười; trông như ông đang dựa vào cột đèn vì sợ ngã.
Bố chuyển sang ảnh của một phụ nữ với khuôn mặt trái xoan giản dị và nụ cười yếu ớt. “Đây là bà của con,” ông nói, trước khi lật những tấm ảnh như thể đang bị tính giờ. Những cái nhìn lướt qua về quá khứ đơn sắc mà tôi bắt gặp thật là kì lạ. Biểu hiện của họ trước sau như một; ông thì mang một vẻ ưu buồn cáu kỉnh thường trực, còn nụ cười của bà thì trông còn phiền muộn hơn cả cái nhíu mày buồn bã nhất.
Bố lôi ra một tấm ảnh khác. “Đây là bố số hai của bố. Bố thật sự của bố. Người ta cứ nghĩ người bố sinh học thì “ruột rà” hơn người thực sự nuôi lớn mình, nhưng một giọt tinh dịch khỏe mạnh đâu có nuôi con lớn khôn, phải không nào?”
Ông chìa tấm ảnh trước mắt tôi. Tôi không biết những khuôn mặt có thể đối lập nhau như hai địa cực không, nhưng trái với khuôn mặt nghiêm trang của người ông thứ nhất, người này cười toe toét như thể được chụp ảnh trong ngày vui nhất không phải của cuộc đời ông ấy mà của toàn thể cuộc đời trên thế gian. Ông ấy mặc một chiếc quần yếm lấm lem sơn trắng, mái tóc vàng hoe rối bời, và đang đổ mồ hôi như tắm.
“Thực tình mà nói, bố không thường xuyên xem những tấm ảnh này đâu, vì tất cả những gì bố thấy khi xem ảnh người chết là họ đã chết cả rồi,” bố nói. “Bất kể là Napoleon hay mẹ ruột của bố, họ chỉ đơn giản là Người chết.”
***
Ngày hôm đó tôi biết được rằng bà nội tôi chào đời ở Ba Lan đúng vào thời khắc đen đủi khi Hitler tiêu diệt ảo tưởng quyền lực của mình bằng cách biến nó thành hiện thực - y nổi lên như một nhà lãnh đạo uy quyền có thiên tài làm tiếp thị. Khi quân Đức tràn đến, bố mẹ của bà nội tôi trốn khỏi Warsaw, kéo bà băng qua Đông Âu, và sau mấy tháng nằm gai nếm mật, cuối cùng đặt chân đến Trung Quốc. Đó là nơi bà nội lớn lên - trong Khu người Do Thái Thượng Hải suốt thời gian chiến sự xảy ra. Bà được dạy nói tiếng Ba Lan, tiếng Đức cổ của người Do Thái, và tiếng Quan thoại, chịu đựng những chứng bệnh ẩm ướt khó chịu của mùa mưa, khẩu phần ăn khắc nghiệt, và các cuộc không kích của Mỹ, nhưng vẫn sống sót.
Sau khi binh lính Mỹ vào đến Thượng Hải đem theo tin dữ về nạn diệt chủng, và nhiều người trong cộng đồng Do Thái bỏ Trung Quốc tản đi khắp các ngóc ngách của thế giới, ông bà cụ cố tôi quyết định ở lại, bởi lúc này họ đã làm ông bà chủ một hộp đêm đa ngôn ngữ phát đạt và một tiệm bán thịt cho người ăn kiêng[2]. Việc này hoàn toàn hợp ý bà nội tôi, vì bà đã đem lòng yêu ông nội, một diễn viên trong đoàn nghệ thuật hộp đêm của ông bà cụ cố. Sau đó, năm 1956, khi mới mười bảy tuổi, bà nội tôi có mang, buộc bà và gia đình ông nội tôi phải cấp tốc chuẩn bị lễ cưới như người ta vẫn phải làm trong thời phong kiến nếu không muốn thiên hạ xì xầm tính tháng đếm ngày. Tuần lễ tiếp theo sau lễ cưới, gia đình quyết định trở về Ba Lan, để nuôi dưỡng đứa bé sắp chào đời, chùm tế bào sẽ trở thành bố tôi, ở quê nhà của họ.
Họ không được nhiệt liệt chào đón ở quê nhà, nói nhẹ nhất là thế. Ai mà biết đấy là cảm giác tội lỗi hay nỗi sợ bị trả thù hoặc đơn thuần là sự ngạc nhiên không mong đợi từ một gia đình nhấn chuông cửa rồi nói, “Ông bà đang ở trong nhà của tôi,” chỉ biết rằng chưa đầy mười phút sau khi họ về nhà, ngay trước mặt bà nội tôi, ông bà cụ cố bị đánh chết bằng ống sắt. Bà nội tôi bỏ chạy nhưng ông nội ở lại, và ông đã bị bắn vì cầu nguyện bằng tiếng Hebrew trên thi thể họ, dù ông chưa kịp nói “Amen”, vì thế thông điệp vẫn chưa được truyền đi. (“Amen” giống như nút Gửi trong email.)
Đột nhiên trở thành góa phụ và con mồ côi, bà trốn khỏi Ba Lan lần thứ hai trong cuộc đời niên thiếu của mình, lần này trên một chiếc tàu nhổ neo đến Úc, và sau hai tháng nhìn trân trối vào đường chu vi mờ mịt của chân trời, bà lâm bồn đúng vào lúc một ai đó thét lên, “Nó kia rồi!” Mọi người chạy dồn về mạn tàu và chồm khỏi lan can. Những vách đá thẳng đứng đội vương miện cây xanh um tùm nằm ven bờ biển. Nước Úc! Những hành khách trẻ tuổi phát ra tiếng kêu mừng rỡ. Những hành khách già hơn thì biết rằng chiếc chìa khóa hạnh phúc nằm ở việc không kì vọng quá cao. Họ kêu “boo”.
***
“Nãy giờ con có theo kịp bố không?” Bố hỏi, tự ngắt lời mình. “Đây là những thành phần đúc nên bản sắc của con. Ba Lan. Do Thái. Kẻ bị ngược đãi. Người tị nạn. Đây chỉ là một vài loại rau để làm thành món súp Jasper. Hiểu chưa?”
Tôi gật đầu. Con hiểu rồi. Bố tiếp tục.
***
Dù một chữ tiếng Anh cũng không nói nổi, nhưng bà nội vẫn cưa đổ ông nội số hai của tôi chỉ sau sáu tháng. Liệu đây là nguồn gốc của niềm tự hào hay nỗi hổ thẹn vẫn là điều đáng tranh cãi, nhưng ông là người mà gốc gác gia đình có thể truy đến chuyến tàu cuối cùng chở những người Anh bị kết án tù đem bỏ lên đất Úc. Dù đúng là một số tội phạm bị chuyển xuống đây vì những tội danh nhỏ nhặt như ăn cắp một ổ bánh mì, nhưng tổ tiên bố tôi lại không phải một người trong số đó - hoặc giả ông cũng là một trong số đó, nhưng ông còn cưỡng hiếp ba phụ nữ, và liệu sau khi cưỡng hiếp những người phụ nữ này, ông có khoắng ổ bánh mì nào trên đường về nhà không thì không ai biết.
Thời gian tìm hiểu của họ rất chóng vánh. Dường như chẳng bận tâm đến việc có một đứa con không phải do mình sinh ra, trong vòng một tháng, trang bị cho mình một quyển từ điển tiếng Ba Lan và một quyển sách văn phạm tiếng Anh, ông hỏi cưới bà nội tôi. “Anh chỉ là một thằng giỏi đấm đá, điều đó nghĩa là chúng ta sẽ chống chọi với cuộc đời, và cuộc đời có thể sẽ lần nào cũng thắng, nhưng chúng ta sẽ không bao giờ bỏ cuộc, bất kể ra sao, em thấy thế nào?” Bà không trả lời. “Thôi nào. Chỉ cần nói, ‘Em đồng ý’,” ông van nài. “Nhắc đến từ động từ “đồng ý”. Bây giờ em chỉ cần biết thế. Sau đó chúng ta sẽ học tiếp đến ‘Em đã đồng ý’.”
Bà tôi cân nhắc tình hình. Bà không có ai giúp trông đứa trẻ nếu bà phải ra ngoài làm lụng, mà bà cũng chẳng muốn con mình lớn lên không cha và nghèo khổ. Bà nghĩ, “Mình có đủ bỉ ổi để cưới một người mà mình không thực sự yêu vì lợi ích của con trai mình? Có, mình có.” Rồi, nhìn vào khuôn mặt vô phước của ông, bà nghĩ, “Mình còn làm được những việc tồi tệ hơn ấy chứ,” một câu nói nghe có vẻ hiền hòa song lại gây ớn lạnh nhất trong bất kì ngôn ngữ nào.
Lúc họ kết hôn, ông đang thất nghiệp, và khi bà dọn vào căn hộ của ông, bà đã phát nản khi phát hiện nó chứa tả pín lù các món đồ chơi đàn ông đáng sợ: súng trường, súng lục giả, mô hình máy bay chiến đấu, những quả cân và quả tạ. Khi mải mê tập thể hình, luyện võ, hoặc lau chùi súng, ông thường huýt sáo vui vẻ. Trong những khoảnh khắc lặng lẽ khi nỗi bực dọc vì thất nghiệp xâm chiếm và ông chìm đắm trong giận dữ và trầm uất, ông lại huýt những giai điệu buồn rầu.
Rồi sau đó ông tìm được một việc làm tại Cơ quan quản lý trại giam New South Wales cạnh một thị trấn nhỏ ở cách đấy bốn giờ. Ông không làm việc trong nhà tù - ông sẽ giúp xây dựng nó.
Vì một nhà tù sẽ sớm xuất hiện lừng lững ở ngoại ô thị trấn, một tờ báo thiếu tử tế ở Sydney đã gọi khu định cư này (nơi mà bố tôi sẽ lớn lên) là nơi chán sống nhất ở New South Wales.
Đường vào thị trấn nằm trên một con dốc đi xuống, và khi ông bà tôi lái xe đến, họ trông thấy phần nền của trại cải tạo trên đỉnh một ngọn đồi. Nằm giữa những cái cây khổng lồ câm nín, trong mắt bà nội tôi, nhà tù đang xây dang dở đó giống như đang bị phá dở dang, và ý nghĩ ấy khiến bà giật mình cho là điềm gở. Nó cũng khiến tôi giật mình, nghĩ đến việc ông tôi dọn đến thị trấn này để xây nhà tù còn tôi bây giờ đang viết từ một trại giam. Quá khứ quả thực là một cái u nhọt không thể cắt bỏ và lây lan đến hiện tại.
Họ dọn đến một căn nhà hình hộp bằng ván lá sách, và ngày hôm sau, khi bà đang thăm thú thị trấn, vô tình làm cư dân ở đó hoảng vía với hơi hướm của một kẻ sống sót qua nạn diệt chủng, thì ông nội tôi bắt đầu công việc mới. Tôi không rõ ông có vai trò gì, nhưng rõ ràng trong nhiều tháng sau đó ông không ngừng nói về những cánh cửa khóa, những gian phòng lạnh lẽo, số đo phòng giam, và những cửa sổ bọc lưới. Khi tòa nhà sắp xây xong, ông trở nên bị ám ảnh với mọi thứ liên quan đến nhà tù, thậm chí còn mượn sách từ một thư viện mới mở trong vùng để đọc về quá trình xây dựng và lịch sử của chúng. Trong khi đó, bà tôi dồn hết sức lực cho chuyện học tiếng Anh, và đây là khởi đầu cho một tai họa mới. Khi khả năng hiểu tiếng Anh của bà tăng lên, bà bắt đầu hiểu chồng mình.
Những câu nói đùa của ông trở nên ngớ ngẩn và đậm tính kì thị chủng tộc. Hơn nữa nhiều chuyện chẳng phải đùa mà chỉ là những câu chuyện dài lê thê vô nghĩa kết thúc bằng một câu nói của ông đại loại như “Thế là anh nói, ‘Ô vậy ư?’” Bà nhận ra ông luôn mồm bốc phét về chuyện đời mình, và khi không khó chịu, ông lại là một kẻ sáo rỗng; khi không hoang tưởng, ông lại chán bỏ xừ. Chẳng bao lâu sau, những cuộc nói chuyện khiến khuôn mặt điển trai của ông trở nên xấu xí; vẻ mặt ông nhuốm nét ác độc; cái miệng ông, nửa há ra, trở thành biểu hiện của sự ngu dốt. Kể từ đó, mỗi ngày trở nên tồi tệ hơn bởi rào cản ngôn ngữ mới mọc lên giữa họ - rào cản của việc nói cùng một thứ tiếng.
***
Bố đặt những tấm ảnh trở lại hộp với vẻ mặt ủ dột, tựa như ông muốn đi một chuyến vào con ngõ kí ức nhưng khi đến nơi mới nhớ ra đó là con đường mà ông ít muốn đi nhất.
“Được rồi, đấy là ông bà con. Những gì con cần biết về ông bà là họ cũng từng có một thời tuổi trẻ. Con phải biết họ không cố ý trở thành hiện thân của sự mục ruỗng hoặc là muốn ôm khư khư những suy nghĩ của mình cho đến ngày cuối đời. Con phải biết họ không muốn bị tận số. Con phải biết họ chết rồi và người chết thì hay mơ bậy bạ. Họ mơ thấy chúng ta.”
Ông nhìn tôi trân trối một lúc, chờ tôi nói gì đấy. Bây giờ, dĩ nhiên, tôi biết mọi chuyện ông kể cho tôi nghe chỉ đơn giản là một lời mở đầu. Lúc đó tôi không hiểu rằng sau một màn độc thoại hùng hồn trôi chảy, bố không mong gì hơn là tôi khích ông nói sang một đề tài khác. Tôi chỉ chĩa tay vào chiếc xích đu và nhờ ông đẩy tôi.
“Con biết gì không?” ông bảo. “Có lẽ bố sẽ thảy con vào vòng đấu cho một trận nữa.”
Ông sẽ đưa tôi trở lại trường học. Có lẽ ông biết chỉ ở đó tôi mới biết được phần thứ hai của câu chuyện, rằng tôi không chóng thì chầy sẽ phát hiện ra một nguyên liệu khác, một nguyên liệu quan trọng cho món súp bản sắc độc đáo của mình.
***
Một tháng sau ngày đi học ở trường mới, tôi vẫn đang tìm cách thích nghi lần nữa với bọn trẻ con, và tự nhủ mình sẽ không bao giờ hiểu được vì sao bố lại chuyển từ ra lệnh cho tôi khinh bỉ những đứa này sang hòa nhập với chúng.
Tôi chỉ có duy nhất một đứa bạn, nhưng tôi cũng cố tìm thêm đứa nữa, vì để sống sót anh cần ít nhất hai người bạn, trong trường hợp một đứa nghỉ ốm. Một ngày nọ vào giờ ăn trưa, tôi đang đứng sau căng-tin nhìn hai đứa con trai đánh nhau giành một cây súng nước màu đen.
Một trong hai đứa nói, “Cậu làm cảnh sát đi. Tớ muốn làm Terry Dean.”
Đứa kia đáp, “Không, cậu làm cảnh sát. Tớ làm Terry Dean.”
Tôi cũng muốn chơi. Tôi nói, “Hay là để tớ làm Terry Dean cho. Dù sao đấy cũng là họ của tớ mà.” Chúng nhìn tôi bằng ánh mắt ác cảm vênh váo mà những đứa bé tám tuổi thường có. “Tớ là Jasper Dean,” tôi nói thêm.
“Có bà con họ hàng gì không?”
“Tớ không nghĩ vậy.”
“Vậy thì cút đi.”
Thật đau lòng.
Tôi bảo, “Thôi, thế thì tớ sẽ làm cảnh sát.”
Câu nói lập tức khiến chúng chú ý. Mọi người đều biết rằng trong trò cảnh sát và ăn cướp, kẻ cướp lúc nào cũng là anh hùng còn cảnh sát là đồ bỏ đi. Không thể có quá nhiều đồ bỏ đi cùng một lúc.
Chúng tôi chơi suốt giờ ăn trưa và khi nghe tiếng chuông reo, tôi đã phản bội sự ngây thơ của mình bằng cách hỏi, “Ai là Terry Dean?” - một câu hỏi khiến các bạn chơi của tôi phát ốm.
“Mẹ kiếp! Mày còn không biết ông ta là ai!”
“Ông ta là người xấu xa nhất trần đời.”
“Ông ta là cướp nhà băng.”
“Và là kẻ giết người!” đứa kia nói, trước khi chúng bỏ chạy không lời từ biệt, giống như khi anh đi đến một hộp đêm với đám bạn và chúng gặp may.
Chiều hôm ấy tôi về nhà, thấy bố đang cầm một quả chuối đập vào cạnh tủ, tạo ra tiếng gõ mạnh.
“Bố đã làm đóng băng một quả chuối,” ông nói với vẻ phờ phạc. “Cắn một miếng đi... nếu con dám.”
“Con có họ hàng với kẻ cướp nhà băng khét tiếng Terry Dean không?” tôi hỏi.
Quả chuối rơi xuống như một khúc xi măng. Bố bặm môi, và từ nơi nào đó thẳm sâu bên trong, một giọng nói trống rỗng nhỏ xíu mà tôi phải căng tai để nghe cất lên, “Đấy là chú của con.”
“Ai của con? Chú của con? Con có chú á?” tôi ngờ vực hỏi. “Và chú ấy là một tay cướp nhà băng khét tiếng?”
“Đã từng. Nó chết rồi,” bố đáp, trước khi nói thêm, “nó là em trai bố.”
Đấy là lần đầu tiên tôi nghe về ông ấy. Terry Dean, kẻ giết cảnh sát, tên cướp nhà băng, anh hùng của quốc gia, niềm tự hào của kẻ chiến đấu - ông ấy là chú của tôi, em trai của bố tôi, và ông ấy sẽ phủ một cái bóng thuôn dài lên cuộc đời cả hai chúng tôi. Trong suốt một thời gian dài, cái bóng ấy đã khiến chúng tôi chẳng ai có được màu da rám nắng tử tế.
Nếu bạn là người Úc, bạn ít nhất sẽ từng nghe nói về Terry Dean. Nếu không, bạn sẽ chưa từng nghe, vì mặc dù Úc là một nơi đầy ắp sự kiện, nhưng chuyện gì xảy ra ở đây cũng đều có thể trở thành đề tài cho báo chí thế giới, chẳng hạn như “Ong chết ở New Guinea sau khi đâm nhầm một cái cây.” Đấy không phải lỗi của chúng tôi. Chúng tôi ở xa quá. Đó chính là điều mà một nhà sử học người Úc nổi tiếng từng gọi là “sự chuyên chế của khoảng cách.” Ý ông ta là, nước Úc giống như một bà già cô đơn chết mục trong căn hộ của mình; nếu mọi người sống trên mảnh đất này đột nhiên bị vỡ động mạch vào chính xác cùng một thời điểm và nếu sa mạc Simpson chết khô còn những rừng mưa chìm trong lũ lụt và rặng san hô chảy máu đến chết, thì phải mất nhiều ngày sau, mùi hương phảng phất băng qua đại dương đến các bạn láng giềng Thái Bình Dương của chúng tôi mới có thể buộc ai đó gọi điện báo cảnh sát. Bằng không chúng tôi sẽ phải chờ đợi đến khi Bắc bán cầu phàn nàn về việc thư gửi đi không có người nhận.
Bố không chịu nói gì với tôi về em trai ông. Mỗi khi tôi hỏi chi tiết, ông lại thở dài rũ rượi, tựa như đấy là một sự thất bại nữa mà ông không cần, vì thế tôi bắt tay vào tự tìm hiểu.
Đầu tiên tôi hỏi các bạn cùng lớp, nhưng tôi nhận được những câu trả lời khác nhau một trời một vực đến nỗi tôi đành phải bỏ lửng chúng. Sau đó tôi kiểm tra bộ ảnh tẻ nhạt của gia đình mà tôi chỉ mới kịp liếc sơ trước đây, những bức ảnh nằm trong hộp giày màu xanh nhét trong tủ quần áo. Lần này tôi nhận thấy có ba tấm ảnh đã bị hành quyết để bỏ đầu của một người nào đấy. Khó mà gọi đó là một vụ mổ xẻ tươm tất. Tôi vẫn thấy được cổ và vai trong hai tấm ảnh, còn tấm thứ ba chỉ là hai miếng băng dính màu nâu, loại dùng để đóng gói, dán cẩu thả vào nhau với những đường mép không ngay ngắn. Tôi kết luận rằng bố đã cố xóa bỏ mọi hình ảnh về em trai mình để có thể quên đi chú ấy. Nỗ lực này rõ ràng là vô ích; khi anh dành ra ngần ấy công sức để quên một ai đó, bản thân công sức ấy sẽ trở thành một kí ức. Sau đó anh phải quên việc cần quên, và điều đó cũng lưu vào bộ nhớ. May sao, bố không thể xóa những bài báo mà tôi tìm thấy ở thư viện bang, trong đó tường thuật các cuộc phiêu lưu của Terry, vụ thảm sát của chú ấy, cuộc săn lùng chú ấy, phi vụ bắt chú ấy, và cái chết của chú ấy. Tôi photocopy các bài báo và dán chúng lên tường phòng ngủ của mình, đến tối tôi tưởng tượng mình là chú, tên tội phạm táo tợn nhất từng giấu một thi thể trong đất và chờ cho nó mọc lên.
Trong một nỗ lực nhằm khuếch trương sự nổi tiếng của mình, tôi nói với mọi người ở trường về mối liên hệ của tôi với Terry Dean, làm mọi thứ để tin được truyền đi mà không cần thuê người phát ngôn. Nó trở thành tin chấn động trong một thời gian, và là một trong những sai lầm tệ hại nhất mà tôi từng phạm phải. Thoạt đầu, tôi đem đến cảm giác khiếp đảm trên khuôn mặt những đứa bạn trạc tuổi. Nhưng rồi lũ trẻ con mọi lứa tuổi ùn ùn kéo đến muốn đánh nhau với tôi. Vài đứa muốn được nổi tiếng vì đã đánh cháu trai của Terry Dean. Những đứa khác hăm hở xóa nụ cười kiêu hãnh khỏi mặt tôi; lòng kiêu hãnh hẳn đã phóng đại nét mặt tôi lên một cách xấu xí. Tôi lựa lời thoái thác được một số cuộc ẩu đả, nhưng một ngày nọ trước giờ lên lớp, những kẻ tấn công đã chơi khăm tôi bằng cách phá quy tắc giờ giấc cho các vụ đánh nhau: luôn xảy ra sau giờ học, không bao giờ vào buổi sáng, trước khi một đứa bé tám tuổi uống xong cà phê. Tóm lại là, có bốn đứa cả thảy, bốn võ sĩ nhà nghề mặt mũi bặm trợn, tay giơ nắm đấm. Tôi không có lấy cơ hội nào. Tôi bị dồn vào góc. Chính là nó đây: trận đánh nhau đầu đời của tôi.
Một đám đông đã tụ tập xung quanh để theo dõi. Bọn chúng gân cổ gào thét bằng giọng điệu man rợ nhất. Tôi tìm kiếm gương mặt đồng minh. Không may rồi. Tất cả bọn chúng đều muốn chứng kiến cảnh tôi kêu gào lúc bị hạ gục. Tôi không để bụng chuyện đó. Đã đến lượt tôi, thế thôi. Tôi nói bạn nghe, không thể nào mô tả được niềm vui của trẻ con khi xem một trận đánh nhau. Đấy là một cơn cực khoái mùa Giáng sinh làm đê mê một đứa trẻ. Và đây là bản chất của con người không bị đánh mất bởi tuổi tác và kinh nghiệm! Đây là nhân loại tinh khiết mới bóc tem! Người nào nói cuộc sống biến con người ta thành quái vật nên xem lại bản chất nguyên sơ của trẻ con, nhiều đứa chưa kịp nếm mùi thất bại, hối tiếc, thất vọng và phản bội, nhưng vẫn hành xử như những con chó hoang. Tôi không có ác cảm với trẻ con, tôi chỉ không tin là một đứa bé sẽ không bật cười nếu tôi vô tình giẫm phải mìn.
Kẻ thù của tôi áp sát. Trận đánh chỉ còn vài giây nữa là bắt đầu, và có lẽ còn nhiều giây nữa mới kết thúc. Tôi không còn nơi nào để đi. Chúng đến gần hơn. Tôi đưa ra một quyết định vĩ đại: Tôi sẽ không đánh đấm gì hết. Tôi sẽ không xử sự như nam nhi chi chí. Tôi sẽ không đánh nhau như một chiến binh. Nghe này, tôi biết người ta thích đọc về những kẻ bị thua thiệt về sức mạnh bù đắp điều ấy bằng tinh thần, như chú Terry của tôi. Những kẻ được kính trọng chính là những kẻ xông vào đánh nhau, đúng không? Nhưng những sinh vật cao quý ấy vẫn bị đánh cho tơi bời hoa lá, mà tôi gì thì gì không muốn bị nện cho te tua. Vả lại, tôi nhớ điều bố từng dạy tôi trong một lần lên lớp ở bàn ăn nhà bếp. Ông bảo, “Nghe đây, Jasper. Lòng kiêu hãnh là thứ đầu tiên con cần gạt bỏ trong cuộc sống. Nó sinh ra là để làm cho con cảm thấy tự mãn về bản thân. Giống như mặc đồ cho củ cà rốt quắt queo rồi dắt nó đi đến nhà hát, vờ như nó là một người quan trọng. Bước đầu tiên trong quá trình giải phóng bản thân là thoát khỏi lòng tự trọng. Bố hiểu vì sao nó có ích cho một số người. Khi người ta không có gì, họ vẫn có thể có lòng tự trọng. Bởi vậy mà người nghèo được gieo vào đầu chuyện thần thoại về tinh thần cao thượng, vì tủ thức ăn của họ trống rỗng. Con có đang nghe bố không đấy? Điều này rất quan trọng, Jasper ạ. Bố không muốn con can dự gì đến lòng cao thượng, kiêu hãnh, hay tự trọng cả. Chúng là công cụ để con đúc đồng cái đầu của mình.”
Tôi ngồi bệt xuống đất khoanh hai chân lại. Tôi thậm chí không thèm giữ thẳng lưng. Tôi thõng vai xuống. Chúng phải cúi xuống mới đấm được vào hàm tôi. Một đứa quỳ gối xuống để ra tay. Chúng thay phiên nhau. Chúng cố buộc tôi đứng dậy; tôi để cơ thể mình mềm rũ ra. Một đứa phải dựng tôi lên, nhưng tôi đã trở nên trơn chuồi chuội và trượt gọn qua kẽ tay chúng xuống dưới đất. Tôi vẫn đang hứng trận đòn, và đầu tôi váng vất bởi những cú đấm mạnh nện vào nó, nhưng trận đánh trở nên lọt chọt, lúng túng. Cuối cùng kế hoạch của tôi có tác dụng: chúng bỏ cuộc. Chúng hỏi tôi bị làm sao. Chúng hỏi sao tôi không đánh trả. Có lẽ sự thật là tôi mải ngăn cho nước mắt đừng rơi ra nên chẳng còn hơi sức đâu mà đánh trả bọn chúng, nhưng tôi vẫn im thin thít. Chúng nhổ nước bọt vào tôi rồi bỏ mặc tôi ngắm nghía màu máu của mình. Trên nền áo sơ mi trắng, nó có màu đỏ dạ quang.
Khi về nhà, tôi thấy bố đứng cạnh giường tôi, nhìn khinh khỉnh vào những bài báo mà tôi cắt dán trên tường.
“Chúa ơi. Chuyện gì xảy ra với con vậy?”
“Con không muốn nói về nó.”
“Đi lau người cho sạch nào.”
“Không, con muốn xem chuyện gì xảy ra với máu khi để nó qua đêm.”
“Đôi khi nó chuyển thành màu đen.”
“Con muốn thấy thế.”
Tôi vừa định bóc những tấm ảnh của chú Terry xuống thì bố bảo, “Bố muốn con tháo mấy cái này ra,” vì vậy dĩ nhiên tôi giữ chúng nguyên chỗ cũ. Rồi bố nói, “Đây không phải là con người thật của nó. Người ta đã biến nó thành một anh hùng.”
Đột nhiên tôi thấy mình lại yêu mến người chú hư hỏng của mình, vậy là tôi nói, “Chú ấy là anh hùng.”
“Bố của một đứa trẻ mới là anh hùng của nó, Jasper ạ.”
“Bố có chắc thế không?”
Bố quay lưng lại, khịt mũi trước những dòng tiêu đề.
“Con không biết thế nào là anh hùng đâu, Jasper ạ. Con lớn lên vào thời đại mà hai chữ ấy bị làm xấu đi, tước mất mọi ý nghĩa. Chúng ta đang nhanh chóng trở thành quốc gia đầu tiên mà dân số chỉ rặt một lũ anh hùng chẳng làm gì ngoài chuyện tung hô nhau. Dĩ nhiên chúng ta luôn tôn làm anh hùng những nam nữ vận động viên xuất sắc - nếu con thi đấu tốt cho đất nước với tư cách là vận động viên chạy đường dài, con vừa anh hùng vừa chạy nhanh - nhưng bây giờ tất cả những gì con cần làm là xuất hiện đúng nơi đúng lúc, như thằng cha tội nghiệp nọ bị chôn vùi trong tuyết lở. Từ điển sẽ gắn cho hắn cái mác người sống sót, nhưng nước Úc thì sẵn lòng gọi hắn là anh hùng, vì quyển từ điển thì biết cái gì chứ? Và giờ đây ai trở về từ một vụ xung đột vũ trang cũng được gọi là anh hùng tuốt. Ngày xưa con phải có hành động dũng cảm cụ thể trong chiến tranh, ngày nay con chỉ cần có mặt. Thời nay khi chiến tranh diễn ra, chủ nghĩa anh hùng dường như mang nghĩa “sự có mặt”.”
“Việc này liên can gì đến chú Terry?”
“Thì, nó rơi vào phân nhóm cuối cùng của chủ nghĩa anh hùng. Nó là một tên sát nhân, nhưng những nạn nhân của nó được lựa chọn kĩ.”
“Con không hiểu.”
Bố quay người về phía cửa sổ, và cứ xem đôi tai ông ngọ nguậy lên xuống, tôi biết ngay ông đang tự nói chuyện với mình bằng một cách kì lạ là cử động môi nhưng giữ lại hết mọi âm thanh. Cuối cùng ông nói như người bình thường.
“Người ta không hiểu bố, Jasper ạ. Mà như vậy cũng không sao, nhưng đôi khi nó gây khó chịu, vì họ cứ tưởng là họ hiểu. Song tất cả những gì họ thấy là vẻ bề ngoài của bố trong quan hệ xã giao, và thực ra, bố hiếm khi điều chỉnh tư cách của Martin Dean trong nhiều năm nay rồi. Ồ hẳn nhiên, chỉnh chỗ này một chút, sửa chỗ kia một tẹo, con biết đấy, để mà tiến lên với đời, nhưng nó thực chất vẫn nguyên vẹn như ngày đầu. Người ta luôn bảo tính cách một con người là không thể thay đổi, nhưng đa phần chính tư cách mới không thay đổi, chứ không phải con người, và bên dưới cái mặt nạ không đổi ấy là một sinh vật đang tiến hóa như điên, biến thể ngoài vòng kiểm soát. Bố bảo con, con người nhất quán nhất mà con biết thật ra lại là một người hoàn toàn xa lạ với con, nở hoa đâm chồi đủ thể loại hoa lá cành và con mắt thứ ba. Con có thể ngồi cạnh người ấy trong một văn phòng nhỏ suốt mười năm trời mà không nhận thấy sự bộc phát tăng trưởng diễn ra ngay trước mắt mình. Nói thật, kẻ nào mà nói một người bạn của mình đã không thay đổi trong nhiều năm chẳng qua là không phân biệt được một cái mặt nạ với một khuôn mặt thật.”
“Bố đang nói chuyện quái quỷ gì thế?”
Bố đi đến giường tôi, và sau khi gấp đôi chiếc gối, thong thả nằm xuống.
“Bố đang nói bố luôn có một giấc mơ cỏn con là sẽ có người được nghe trực tiếp về tuổi thơ bố. Chẳng hạn như, con có biết những khiếm khuyết hình thể của bố suýt khiến bố mất mạng không? Con có nghe câu thành ngữ “Khi nặn nó ra, người ta ném cái khuôn đi”? Chà, có vẻ như ai đó nhặt được một cái khuôn bị ném đi, và dù nó bị nứt nẻ cong queo dưới ánh mặt trời, kiến bò vào trong và một gã bợm già đã tiểu tiện lên nó, họ vẫn dùng lại nó để nặn ra bố. Chắc con cũng không biết rằng người ta luôn chèn ép bố vì bố thông minh. Họ bảo, “Mày khôn quá, Martin, quá ư là thông minh, khôn quá hóa phiền đấy.” Bố mỉm cười và nghĩ chắc họ nhầm lẫn rồi. Làm sao một người có thể quá thông minh được? Có giống như người ta quá xinh đẹp? Hay quá giàu có? Hay quá hạnh phúc? Điều bố không hiểu là người ta không suy nghĩ; họ nhắc đi nhắc lại. Họ không xử lý; họ nhai lại. Họ không tiêu hóa; họ sao chép. Lúc đó bố chỉ có mỗi một mẩu nhận thức rằng bất kể người ta nói gì, lựa chọn giữa những phương án có sẵn không đồng nghĩa với việc nghĩ cho bản thân ta. Cách đúng đắn duy nhất để nghĩ cho bản thân mình là tạo ra phương án cho riêng mình, những phương án chưa có sẵn. Đó là điều mà tuổi thơ bố dạy cho bố và nó sẽ dạy cho con, Jasper ạ, nếu con nghe lời bố. Rồi sau đó, khi người ta đang nói về bố, bố sẽ không phải là người duy nhất biết họ sai, sai, sai. Hiểu chưa? Khi người ta nói về bố trước mặt chúng ta, con và bố sẽ có thể trao nhau ánh nhìn kín đáo, bí mật trong căn phòng, tha hồ mà cười khúc khích, và có thể một ngày, sau khi bố chết, con sẽ nói với họ sự thật, con sẽ tiết lộ mọi thứ về bố, mọi thứ bố đã kể với con, và có thể họ sẽ cảm thấy như những kẻ ngốc, hoặc có thể họ sẽ nhún vai rồi nói, ‘Ồ thật sao, hay nhỉ,’ rồi quay lại với chương trình trò chơi trên truyền hình mà họ đang xem. Nhưng trong trường hợp nào, thì mọi chuyện cũng tùy thuộc vào chúng ta, Jasper ạ. Bố chắc chắn không muốn gây áp lực buộc con rò rỉ bí mật của con tim linh hồn bố, trừ phi con cảm thấy điều đó làm con giàu có hơn, về tinh thần hoặc tài chính.”
“Bố, bố có định kể về chú Terry hay không?”
“Bố có không ư - con nghĩ bố vừa mới nói gì?”
“Con chả biết.”
“Thôi, ngồi xuống và câm miệng lại, bố sẽ kể cho con nghe một chuyện.”
Nó là đây. Đã đến lúc bố mở lòng và trút ra phiên bản của ông về biên niên kí gia đình nhà Dean, phiên bản của ông trái ngược với những lời đồn đại thần thoại hóa của cả nước. Vậy là ông bắt đầu nói. Ông nói và nói không ngừng đến tám giờ sáng, và nếu ông có thở dưới những lời nói ấy, tôi chẳng thể trông thấy hay nghe được nó nhưng tôi chắc ngửi được nó. Khi ông kết thúc, tôi có cảm tưởng như vừa đi du lịch xuyên qua đầu bố và bước ra có phần bị thu nhỏ, chỉ là giảm đi tí chút tâm trạng chắc chắn về bản sắc của mình hơn so với lúc bước vào. Tôi nghĩ, để công bằng cho màn độc thoại không dừng của ông, tốt hơn là bạn tự nghe lấy - những lời ông để lại cho tôi đã trở thành của riêng tôi, những lời tôi không bao giờ quên. Bằng cách ấy bạn sẽ biết được hai người mà chỉ tốn phí cho một người. Bằng cách ấy bạn nghe được nó như tôi đã nghe, chỉ một phần là biên niên kí của Terry Dean, còn phần lớn là câu chuyện về tuổi thơ đau ốm bất thường của bố tôi, những lần suýt chết, những ảo giác bí ẩn, sự tẩy chay, và lòng hận người, tiếp theo sát đó là thời trai trẻ bị bỏ mặc, danh tiếng, bạo lực, nỗi đau, và cái chết.
Dù sao, bạn biết rồi đấy. Mỗi gia đình đều có một câu chuyện như thế này.
Tận sốNgười ta đã hỏi đi hỏi lại bố một câu hỏi duy nhất. Mọi người đều muốn biết cùng một điều: Thời thơ ấu của Terry Dean như thế nào? Họ trông chờ những câu chuyện về thói hung hăng trẻ con và sự hư hỏng trong trái tim một đứa bé sơ sinh. Họ hình dung một tên tội phạm thu nhỏ bò quanh trong nôi làm những hành động vô đạo đức giữa những lần được bú mớm. Thật lố bịch! Thế Hitler có nhảy tưng tưng đến bầu vú của mẹ ông ta không? Thôi được, đúng thế, có những dấu hiệu nếu con cố tình vạch lá tìm sâu. Năm bảy tuổi, khi Terry đóng vai cảnh sát trong trò cảnh sát và tên cướp, nó sẽ để cho con đi nếu con bôi trơn tay nó bằng một cây kẹo mút. Trong trò trốn tìm, nó như một kẻ đào tẩu. Nhưng thế thì sao? Điều đó đâu có nghĩa là bản chất bạo lực được in lên ADN của một người nào đó. Đúng, người ta luôn thất vọng khi bố bảo với họ rằng theo những gì mà bố biết thì Terry là một đứa trẻ bình thường, nó ngủ và khóc và ăn và ị và tè và dần dần nhận thức được mình là thực thể khác biệt với, để xem, bức tường chẳng hạn (đấy là bài học đầu tiên trong đời con: con không phải là bức tường). Khi còn bé nó chạy lăng quăng la hét bằng giọng the thé mà trẻ con thường phát ra khi la hét. Nó thích với lấy những vật độc hại cho vào mồm (bản năng tự sát của một đứa bé sắc bén như dao cạo), và nó có khả năng kì lạ là cứ nhè lúc bố mẹ chợp mắt mà khóc. Nói tóm lại, nó cũng giống như bất kì đứa trẻ nào khác. Bố mới là đứa trẻ đáng chú ý, nếu chỉ nói về những điều bố không thể làm.
Trước khi Terry chào đời, cuộc sống của bố bị bao trùm bởi bệnh tật. Giờ đây bố cảm thấy kinh ngạc là mình đã biết quá ít về tình trạng của mình, và cũng muốn biết quá ít về nó. Điều duy nhất khiến bố bận tâm là những triệu chứng (những cơn đau dạ dày kinh khủng, những cơn đau cơ, nôn mửa, chóng mặt); những nguyên nhân lẩn khuất có vẻ như hoàn toàn chẳng liên quan. Chúng chẳng dính dáng gì đến bố. Viêm não? Máu trắng? Suy giảm miễn dịch? Đến tận bây giờ bố cũng không biết. Cho tới lúc bố có được câu trả lời thì những người có thể từng mắc bệnh này đã chết từ lâu. Bố biết các bác sĩ có những giả thuyết, nhưng bố cũng nhớ là họ không thể ra quyết định. Bố chỉ nhớ được vài cụm từ, như “chứng dị cơ,” “rối loạn hệ thần kinh,” và “cái chết êm ái,” nó chẳng có tác động gì đến bố vào thời điểm đó. Bố nhớ bị đâm kim tiêm và ép uống những viên thuốc có kích thước và hình dạng của những ngón tay cái sưng múp. Bố nhớ là khi họ chụp X quang, các bác sĩ lủi ra ngoài rất nhanh, như thể họ mới châm ngòi pháo hoa vậy.
Tất cả chuyện này xảy ra trước khi Terry chào đời.
Rồi một ngày bệnh tình bố chuyển biến trầm trọng hơn. Hơi thở bố gấp gáp và mệt nhọc. Mỗi lần nuốt nước bọt dài hơn thế kỉ; cổ họng bố là một vùng đất hoang, và bố sẵn sàng bán linh hồn mình để có được một chút nước bọt. Bàng quang và ruột bố tự tung tự tác. Một ông bác sĩ mặt mũi nhợt nhạt đến khám bố hai lần mỗi ngày, nói với người mẹ lo âu của bố ở chân giường, lần nào cũng như thể bố đang nằm ở phòng khác, “Chúng ta có thể đưa nó đến bệnh viện,” ông ta thường bảo vậy. “Nhưng mà thật tình, có ích gì? Nó ở đây thì tốt hơn.”
Chính vào lúc đó bố tự hỏi có phải mình sắp chết và liệu họ có chôn mình ở nghĩa trang mới của thị trấn hay không. Họ vẫn còn đang đốn cây trong lúc bố đứng trước cửa tử. Bố tự hỏi: Liệu nó có xong kịp không nhỉ? Nếu bố toi đời trước khi nó hoàn thành, người ta sẽ phải gửi thi hài bố đến một thị trấn xa xôi mà bố chưa sống một ngày ở đó, nơi ấy dân chúng sẽ đi qua mộ bố mà chẳng buồn bận tâm, “Ta nhớ cậu bé ấy.” Không thể chịu nổi! Vì vậy bố nghĩ có lẽ nếu bố cầm cự cái chết thêm một vài tuần nữa, có lẽ nếu bố chọn đúng thời điểm, thì bố có thể là thi thể đầu tiên biến cánh đồng trơ trọi ấy thành một nghĩa trang hoạt động, là xác chết khai trương. Khi đó bố sẽ không bị lãng quên. Đúng, bố đã lên kế hoạch trong lúc nằm chờ chết. Bố nghĩ đến tất cả lũ sâu bọ trong cánh đồng ấy và cách chúng thưởng thức buổi chiêu đãi. Đừng ăn qua loa, lũ giòi bọ! Thịt người tươi sắp dọn đến đây! Đừng làm hỏng bữa tối của chúng mày!
Nằm trên giường khi mặt trời trôi qua kẽ hở