Chương 4 I.
Ắt hẳn cái mê cung bên ngoài đã làm nhiễm độc mọi thứ bên trong nó. Còn lý do nào khác khiến bố để lại những mẩu giấy khắp nhà với những lời nhắn vô nghĩa trên đó, chẳng hạn như “Can’t love ear and not your open ugly raw room onto old maps[37]!”? Dễ giải mã những lời nhắn này bằng cách sử dụng hệ thống mật mã cơ bản nhất, chữ cái đầu tiên của mỗi từ trong câu ghép lại thành lời nhắn thật sự.
“Can’t love ear and not your open ugly raw room onto old maps!”
trở thành
“Clean your room!”[38]
Rồi ông bắt đầu với trò đảo chữ, những chữ cái bị xáo lên và thứ tự thông thường của chúng được sắp xếp lại.
“Egon ot het sposh. Kabc ralet.”
trở thành
“Gone to the shops. Back later.”[39]
Rồi một đêm nọ, vài tuần sau ngày sinh nhật thứ mười sáu của tôi, tôi tìm thấy lời nhắn sau đây gắn trên tấm gương phòng tắm:
rezizsl ta ta ixs em teme
Mất một lúc tôi mới giải mã được nó, vì ông đã sắp xếp lại thứ tự các từ cũng như các chữ cái. Sau vài phút nghiền ngẫm, tôi đã giải được nó:
“Meet me at Sizzler at six.”[40]
Sizzler là nơi chúng tôi thích đến để ăn mừng chuyện vui - nói cách khác, chúng tôi đã đến đấy một lần, vào năm năm trước, sau khi bố trúng số 46 đô la. Tôi đạp xe qua mê cung đến đường cái rồi đón xe buýt vào thành phố đến Khách sạn Carlos. Nhà hàng Sizzler này nằm ở tầng trên cùng, dù bạn không cần ở tại khách sạn mới được ăn ở đó. Đương nhiên, bạn có thể ở đó nếu bạn muốn, nhưng thật ra mà nói, một khi bạn đã ăn xong và thanh toán hóa đơn, họ quả thực chẳng bận tâm bạn ngủ ở đâu.
Khi tôi đến nơi, bố đã ngồi ở một bàn cạnh cửa sổ, tôi đoán là để chúng tôi có thể nhìn ra cảnh phố xá trong những quãng lặng khó tránh khỏi của buổi nói chuyện.
“Thế chuyện học hành của con sao rồi?” ông hỏi khi tôi ngồi xuống.
“Không tệ lắm.”
“Hôm nay học được gì không?”
“Mấy thứ thông thường ấy mà.”
“Chẳng hạn như?”
“Bố biết đấy,” tôi nói, và trở nên hồi hộp khi nhận ra ông đang không nhìn tôi. Có lẽ ông đã nghe ai đó nói rằng ta không nên nhìn thẳng vào mặt trời để khỏi trông gà hóa cuốc.
“Bố có cái này cho con xem,” ông nói. Ông đặt một chiếc phong bì lên bàn và gõ ngón tay lên nó.
Tôi cầm chiếc phong bì đã bóc lên và lấy lá thư bên trong ra. Phần in đầu thư là của trường tôi. Trong lúc đọc, tôi vờ làm ra vẻ lúng túng, nhưng tôi nghĩ kết quả lại thành ra vẻ tự thú.
Kính thưa ông Dean,
Thư này nhằm chính thức thông báo với ông rằng con trai của ông, Jasper Dean, có dính líu đến một vụ tấn công trên một chuyến tàu vào buổi chiều ngày hai mươi hai tháng Tư, sau giờ tan trường. Chúng tôi có bằng chứng không thể chối cãi rằng con trai của ông, trong lúc mặc đồng phục nhà trường, đã tấn công một người không gây hấn gì với cậu ta. Ngoài ra, chúng tôi viết thư này để thông báo với ông rằng con trai ông đã tự nguyện bỏ học.
Michael Silver
Hiệu trưởng
“Tại sao họ lại viết là con mặc đồng phục nhà trường? Sao việc đấy lại quan trọng nhỉ?”
“Thì họ là vậy mà.”
Bố tặc lưỡi.
“Con sẽ không quay lại trường đâu,” tôi nói.
“Tại sao?”
“Con đã nói tạm biệt cả rồi.”
“Mà con tấn công người ta à? Có thật không?”
“Bố phải ở đấy mới hiểu.”
“Có phải lúc đấy con đang tự vệ không?”
“Chuyện phức tạp hơn nhiều. Bố xem, mọi thứ mà con cần biết thì con đều có thể tự dạy cho mình. Con có thể tự đọc sách. Lũ ngốc ấy cần có người lật sách cho chúng. Con thì không.”
“Con sẽ làm gì?”
“Con sẽ nghĩ ra thứ gì đó,” tôi đáp. Làm sao tôi có thể nói với ông rằng giờ đây tôi muốn thứ mà ông đã từng muốn - du lịch trên những chuyến tàu và phải lòng những cô gái môi cong mắt trầm? Tôi chẳng bận tâm nếu cuối hành trình tôi không có gì để khoe ngoài cặp đùi đau đớn. Tôi chẳng có lỗi gì nếu cuộc đời của kẻ lang thang, của kẻ lữ hành, lại không còn được thế gian đoái hoài đến. Sẽ ra sao nếu người ta không thể chấp nhận được nữa cuộc đời cuốn theo chiều gió, hỏi xin một mẩu bánh mì và một mái nhà, ngủ trên những đống cỏ khô và tận hưởng thú yêu đương với những cô thôn nữ chân trần, rồi sau đó trốn chạy trước mùa gặt? Đây là cuộc sống mà tôi mong muốn, bay bổng khắp nơi như chiếc lá đầy lòng khát khao.
Nhưng rủi thay, bố lại không thích ý tưởng đứa con trai duy nhất của ông lông bông không mục đích qua không gian và thời gian, bởi ông bắt đầu mô tả kế hoạch cuộc đời tôi. Ông dựa lưng vào ghế và nói, “Con phải học hành đến nơi đến chốn.”
“Bố đâu có học hành đến nơi đến chốn.”
“Bố biết. Con không muốn theo chân bố, phải không nào?”
“Con không theo chân bố. Bố không có quyền can thiệp chuyện bỏ học của con.”
“Ái chà, vậy con định làm gì?”
“Con sẽ đi phiêu bạt giang hồ. Để xem chuyện gì xảy ra.”
“Bố sẽ cho con biết chuyện gì xảy ra. Phong ba bão táp.”
“Con sẽ liều mạng.”
“Nghe đây, Jasper. Bố biết quá rõ con đường chính xác dẫn đến những bữa ăn tối đông lạnh và quần áo bẩn. Bố đã bỏ học. Bố đã đi lang thang phiêu bạt khắp thế gian. Bố không cho mình lựa chọn nào khác ngoài việc tiếp tục xa rời xã hội. Nhưng bố đã đưa con trở lại trường học vì một lẽ: để con có thể đặt một chân vào cả hai thế giới: của chúng ta và của họ. Chẳng có lý do để bỏ đi vào lúc này như thể bỏ trốn khỏi hiện trường án mạng. Hãy ở lại. Hãy học đến nơi đến chốn. Rồi làm những gì con muốn. Con muốn học đại học? Con muốn tìm việc làm và ổn định cuộc sống? Con muốn đi du lịch đến những xứ độc tài hay ho nhất thế giới? Con muốn bị nhấn chìm trong một dòng sông ở nước ngoài vào mùa mưa lũ? Gì cũng được. Chỉ cần cho bản thân mình một lựa chọn. Vào lúc này hãy ở yên trong hệ thống, được chứ?”
“Bố có làm thế đâu. Đã bao nhiêu lần con nghe bố nói, ‘Đ. mẹ cái hệ thống này’? Thì, đấy chính là việc con đang làm. Đ. nó.”
Tội nghiệp chúng tôi, những đứa con nổi loạn. Cũng như bạn, chúng tôi có quyền nổi loạn chống lại cách hành xử của bố mình, chúng tôi cũng có tình trạng bất phục tùng và những cuộc cách mạng bùng nổ trong lòng. Nhưng làm sao bạn có thể nổi loạn chống lại sự nổi loạn? Liệu điều đó có nghĩa là quay trở lại sự phục tùng không? Thế thì không tốt. Nếu tôi làm thế, thì một ngày nào đó con trai tôi, nổi loạn chống lại tôi, sẽ trở thành bố tôi mất.
Bố chồm về trước như để tự thú một vụ giết người mà ông rất chi tự hào.
“Xem nào, nếu con định đi phiêu bạt giang hồ, thì bố muốn cho con một lời cảnh báo,” ông nói, chân mày cong lên trông thật chướng mắt. “Cứ gọi đấy là một biển báo đường. Bố cũng không chắc nên gọi nó là gì.”
Bố làm ra vẻ nghĩ ngợi. Hơi thở của ông trở nên gấp gáp. Ông xoay vòng vòng và động vào đôi nam nữ ngồi tại chiếc bàn sau lưng chúng tôi. Đột nhiên ông nói tiếp lời cảnh báo của mình.
“Người ta luôn than phiền mình không có giày cho đến khi họ nhìn thấy một người cụt chân, rồi họ than phiền mình không có xe lăn điện. Tại sao? Điều gì khiến họ tự động chuyển đổi bản thân từ một hệ thống tẻ nhạt này sang một hệ thống chán ngắt khác, và tại sao ý chí tự do lại chỉ được sử dụng theo chi tiết chứ không phải theo những phác thảo chung chung - không phải ‘Tôi có nên làm việc không?’ mà là ‘Tôi nên làm việc ở đâu?’ và không phải ‘Tôi có nên lập gia đình không’ mà là ‘Khi nào thì tôi nên lập gia đình?’ Tại sao chúng ta không đột nhiên hoán đổi đất nước để mọi người ở Pháp chuyển đến Ethiopia và mọi người ở Ethiopia chuyển đến Anh và mọi người ở Anh chuyển đến vùng Caribbe và cứ như thế cho đến khi cuối cùng chúng ta chia sẻ trái đất như chúng ta lẽ ra phải làm và rũ bỏ lòng trung thành điên cuồng, khát máu, ích kỉ và đáng xấu hổ của mình? Tại sao lại hao tốn ý chí tự do cho một sinh vật có vô vàn những lựa chọn song lại giả vờ chỉ có một hoặc hai sự lựa chọn?
“Nghe đây. Con người cũng giống như những cái đầu gối bị gõ bằng búa cao su tí hon. Nietzche là cây búa. Schopenhauer là cây búa. Darwin là cây búa. Bố không muốn là búa, bởi vì bố biết các đầu gối sẽ phản ứng thế nào. Biết ra thì chán lắm. Bố biết vì bố biết rằng người ta có lòng tin. Người ta hãnh diện với lòng tin của họ. Lòng kiêu hãnh bán đứng họ. Đó là lòng kiêu hãnh vì được sở hữu. Bố đã có những ảo ảnh bí ẩn và nhận thấy chúng quá ư ồn ào. Bố đã nhìn thấy những ảo ảnh đã nghe thấy những tiếng động đã ngửi thấy những mùi hương nhưng bố mặc kệ chúng như bố sẽ luôn mặc kệ chúng. Bố mặc kệ những điều bí ẩn này vì bố đã nhìn thấy chúng. Bố đã thấy nhiều hơn hầu hết mọi người, vậy mà họ lại tin còn bố thì không. Mà tại sao bố không tin? Bởi vì có một tiến trình đang diễn ra và bố có thể nhìn thấy nó.
“Nó xảy ra khi người ta nhìn thấy Cái chết, thứ vẫn luôn hiện diện. Họ thấy Cái chết nhưng lại ngộ nhận là Ánh sáng. Họ cảm thấy cái chết của chính họ và họ gọi đấy là Chúa trời. Việc này cũng xảy đến với bố. Khi bố cảm thấy từ thẳm sâu trong đáy lòng mình rằng cuộc sống này có ý nghĩa, hoặc có Chúa, bố biết đó thực sự là Cái chết, nhưng vì bố không muốn nhìn thấy Cái chết giữa thanh thiên bạch nhật, nên tâm trí bố bèn lập mưu và nói Nghe đây mày sẽ không chết đừng lo mày rất đặc biệt mày có ý nghĩa cuộc đời này có ý nghĩa mày không cảm nhận được nó sao? Và bố vẫn thấy Cái chết và cảm nhận được cả nó. Rồi tâm trí bố nói Đừng nghĩ về cái chết lalalala mày sẽ luôn luôn đẹp đẽ và đặc biệt và mày sẽ không bao giờ chết không bao giờ không bao giờ không bao giờ mày có nghe nói về linh hồn bất tử chưa ồ mày có một linh hồn bất tử thật đẹp đấy. Rồi bố nói Chắc là vậy và tâm trí bố nói Hãy nhìn cảnh hoàng hôn chết tiệt kia hãy nhìn những dãy núi chết tiệt kia hãy nhìn cái cây hùng vĩ chết giẫm kia chúng còn đến được từ đâu khác ngoài bàn tay của Chúa bàn tay sẽ bồng bế nâng niu mày suốt đời suốt kiếp. Và bố bắt đầu tin vào Những vũng nước sâu thẳm. Ai lại không tin cơ chứ? Chuyện bắt đầu như thế đấy. Nhưng bố hoài nghi. Và tâm trí bố nói Đừng lo. Mày sẽ không chết. Về lâu dài thì không. Bản chất của mày sẽ không tàn phai, những thứ đáng giữ lại thì không tàn phai. Một lần bố nhìn thấy toàn thế giới từ giường mình, nhưng bố đã khước từ nó. Lần khác bố thấy một ngọn lửa và trong ngọn lửa ấy bố nghe một tiếng nói bảo với bố rằng mình sẽ được tha mạng. Bố cũng khước từ điều đó, bởi vì bố biết rằng mọi tiếng nói đến từ bên trong ta. Năng lượng nguyên tử là một sự lãng phí thời gian. Người ta nên đi thu hoạch năng lượng của tiềm thức khi nó đang thực hiện việc phủ nhận Cái chết. Chính trong Tiến trình khắc nghiệt ấy mà Lòng tin được sản sinh, và nếu lửa thực sự nóng, chúng sẽ sản sinh ra Sự chắc chắn - đứa con trai xấu xí của Lòng tin. Cảm nhận được rằng con biết tỏng Ai tạo ra vũ trụ, Ai điều hành nó, Ai trả tiền cho nó, vân vân, về bản chất là thoát ly khỏi nó. Cái gọi là những kẻ tu hành, cái gọi là người theo chủ nghĩa tâm linh, những hội nhóm nhanh nhảu phản đối truyền thống ‘chủ nghĩa tiêu dùng hủy-diệt-linh-hồn’ của phương Tây và chỉ ra rằng sự sung túc là cái chết, họ nghĩ rằng điều đó chỉ đúng đối với sở hữu vật chất. Nhưng nếu sự sung túc là cái chết, thì chân lý ấy sẽ đúng nhất đối với mẹ của mọi sự sung túc, sự chắc chắn của lòng tin - êm ái hơn nhiều so với một chiếc ghế sofa bằng da mềm mại hay một bồn tắm Jacuzzi trong nhà, và đảm bảo sẽ hạ gục một tinh thần hăng hái nhanh hơn cả chiếc điều khiển điện để mở cửa garage. Nhưng rất khó cưỡng lại sức cám dỗ của sự chắc chắn, vì thế con cần để mắt đến Tiến trình giống như bố đã làm để khi bố nhìn thấy những ảo ảnh bí ẩn của toàn bộ cuộc sống và nghe những giọng nói nửa như thì thầm, bố có thể khước từ chúng thẳng tay và cự tuyệt sự thôi thúc muốn được cảm thấy đặc biệt và tin tưởng vào sự bất tử của mình, vì bố biết nó chỉ là tác phẩm do Cái chết tạo ra. Vậy con đã thấy chưa? Chúa là tư tưởng tuyên truyền đẹp đẽ tạo ra từ ngọn lửa tưởng tượng của con người. Và nếu con yêu Chúa vì cảm kích nghệ thuật sáng tạo của ông ta thì cũng được thôi, nhưng con không cần phải tin một nhân vật chỉ vì con có ấn tượng với tác giả. Cái chết và Con người, hai đồng tác giả của Chúa, chính là những nhà văn sáng tác khỏe nhất hành tinh. Sản phẩm của họ thật xuất chúng. Cái chết bất khả kháng và Tiềm thức của Con người đã chấp bút nên Jesus, Muhammad, và Đức Phật, vài ví dụ thế. Và đấy chỉ là những nhân vật. Họ tạo ra thiên đường, địa ngục, vườn lạc viên, chốn u minh, và luyện ngục. Và đó chỉ mới là bối cảnh. Và còn gì nữa? Mọi thứ, có lẽ thế. Sự hợp tác thành công này đã tạo ra mọi thứ trong cuộc đời ngoại trừ chính cuộc đời, mọi thứ đang tồn tại ngoại trừ thứ ngay từ đầu đã ở đây khi chúng ta tìm thấy nó. Con hiểu chưa? Con có hiểu Tiến trình không? Hãy đọc Becker! Hãy đọc Rank! Hãy đọc Fromm! Họ sẽ nói cho con biết! Loài người độc nhất vô nhị trên đời này ở chỗ, trái với tất cả các loài động vật khác, họ đã phát triển một ý thức quá tiến bộ đến nỗi nó có một phụ phẩm đáng sợ: họ là sinh vật duy nhất nhận thức được cái chết của mình. Sự thật này đáng sợ đến nỗi từ thuở hồng hoang loài người đã chôn giấu nó sâu bên trong tiềm thức của họ, và điều này đã biến con người thành những cỗ máy cường tráng, những nhà máy bằng xương bằng thịt sản xuất ra ý nghĩa. Ý nghĩa mà họ cảm thấy bắt đầu được rót vào các dự án bất tử của họ - như con cái của họ, hoặc thần thánh của họ, hoặc các tác phẩm nghệ thuật của họ, hoặc công việc kinh doanh của họ, hoặc đất nước họ - mà họ tin rằng sẽ trường thọ hơn họ. Và vấn đề là đây: con người cảm thấy họ cần những lòng tin này để sống nhưng lại vô tình tự giết mình vì lòng tin của họ. Vì thế mà khi một người hi sinh cuộc đời vì động cơ tôn giáo, anh ta đã lựa chọn cái chết không phải vì một vị thần, mà để phục vụ cho một nỗi sợ hãi nguyên thủy tiềm thức. Vậy là chính nỗi sợ này đã khiến anh ta chết vì chính điều mà anh ta sợ nhất. Con hiểu chưa? Điều trớ trêu trong các dự án bất tử của họ chính là, trong khi chúng được tiềm thức tạo ra để đánh lừa con người, khiến họ có cảm giác mình là đặc biệt và nỗ lực tìm kiếm một cuộc sống bất tử, thì thái độ bực bội của họ đối với những dự án bất tử này chính là điều giết chết họ. Đây là lúc con cần phải cẩn thận. Đây là lời cảnh báo của bố dành cho con. Biển báo đường của bố. Sự chối bỏ cái chết đẩy nhanh con người đến huyệt mộ, và nếu con bất cẩn, họ sẽ lôi con theo.”
Bố trở nên bất động, và khuôn mặt dữ dội của ông truyền đến tôi những làn sóng bất an vô tận trong lúc đợi tôi thốt lên lời ca ngợi và phục tùng. Tôi nín thinh. Đôi khi chẳng có gì mỉa mai cho bằng sự im lặng.
“Vậy, con nghĩ sao?”
“Con chẳng hiểu bố vừa nói gì.”
Ông thở to, tựa như vừa cõng tôi trên lưng chạy vài vòng marathon. Thực ra thì, bài diễn thuyết của ông gây ấn tượng rất sâu sắc trong tâm trí tôi, đến độ một bác sĩ phẫu thuật có thể nhận ra những khe sâu trên đó. Và không chỉ vì nó đã cấy một hạt giống khiến tôi rốt cuộc nghi ngờ bất kì cảm giác hay ý nghĩ nào có thể xem là tâm linh của mình, mà vì không gì ức chế hoặc khó chịu hơn cảnh một triết gia tự dồn bản thân đến đường cùng bằng suy nghĩ. Và tối hôm ấy, lần đầu tiên tôi nhìn thấu vào cái góc khuất của ông, bước đường cùng kinh khủng của ông, ngõ cụt buồn bã của ông, nơi bố đã tự chủng ngừa để tránh bất kì điều kì bí hay tín ngưỡng nào xảy đến với ông, để nhỡ Chúa có xuống trần và dọa vào mặt ông, ông sẽ không bao giờ cho phép mình tin vào điều đó. Đó là đêm tôi hiểu ông không chỉ là một kẻ hoài nghi không tin vào giác quan thứ sáu, mà là một kẻ hoài nghi-cực đoan, không chịu tin vào cả năm giác quan còn lại.
Bố đột ngột ném chiếc khăn ăn vào mặt tôi và làu bàu, “Con biết gì không? Bố rũ sạch duyên nợ với con rồi.”
“Đừng quên dùng xà phòng nhé,” tôi đáp.
Tôi nghĩ chuyện này cũng chẳng có gì bất thường - bố và con trai, hai thế hệ người, lớn lên xa rời nhau. Dẫu vậy, tôi vẫn nhớ về thuở mình còn ấu thơ, khi ông vác tôi trên vai đến trường, thỉnh thoảng vào thẳng trong lớp. Ông thường ngồi ở bàn giáo viên và vác tôi nằm ngang trên vai ông rồi hỏi những đứa trẻ đang mắt chữ o mồm chữ i, “Có ai thấy con trai tôi không?” Nếu so sánh những thời điểm như thế với những thời điểm lúc này, nó chỉ khiến ta thêm buồn mà thôi.
Người phục vụ đi qua. “Quý khách có cần thêm gì không ạ?” anh ta hỏi. Bố dùng ánh mắt đâm thủng anh ta. Người phục vụ lui lại.
“Đi nào,” bố đột ngột lên tiếng.
“Được thôi.”
Chúng tôi gỡ áo khoác khỏi ghế. Một đám những đôi mắt tò mò nhìn theo chúng tôi đến tận cửa. Chúng tôi bước vào tiết trời đêm lạnh lẽo. Những đôi mắt ở lại trong nhà hàng, nơi ấy thật ấm áp.
Tôi biết tại sao ông bực dọc. Theo kiểu hời hợt đầy mâu thuẫn của riêng mình, ông luôn dùng hết sức lực nhằm nhào nặn tôi. Đây là đêm đầu tiên ông thấy rõ rằng tôi không hề muốn dính dáng gì đến cái khuôn đúc của ông. Ông trông thấy tôi nhổ nước bọt vào đó, và ông tự ái. Vấn đề là, chuyện học hành là trận chiến lớn đầu tiên trong mối quan hệ của hai chúng tôi, cuộc chạm trán liên tục của chúng tôi, vì lẽ đó mà ông luôn dao động giữa đe dọa phóng hỏa hệ thống trường học công với bỏ mặc tôi cho nó. Với việc tự ý bỏ học, tôi đã thực hiện một quyết định mà ông không thể làm được. Đó là lý do vì sao ông giảng cho tôi nghe bài diễn thuyết đó: sau tất thảy những bài giảng rối như canh hẹ và mâu thuẫn mà bố đã giội bom tôi trong nhiều năm qua, trên những chủ đề từ sự sáng tạo đến nước xốt đến sự sám hối đến khoen xỏ vú, ở đó bố thử nghiệm những ý tưởng như thể ông đang ở trong phòng thay quần áo thử những chiếc áo sơ mi, cuối cùng ông đã cho tôi nghe ý tưởng nòng cốt làm nền tảng cho cuộc đời ông.
Điều mà cả hai chúng tôi đều không biết vào lúc đó, dĩ nhiên rồi, là chúng tôi đang ở bên bờ vực của một chuỗi thảm họa khó tin khác, có thể truy ngược lại từ những sự kiện đơn lẻ. Người ta nói nhìn điểm khởi đầu thì biết kết cục. Chà, điểm khởi đầu của sự kết thúc này chính là việc tôi bỏ học.
***
Vậy thì tại sao tôi lại bỏ học? Bởi vì tôi thể nào cũng bị xếp ngồi cạnh đứa bé bị nổi mẩn ngứa? Hay vì hễ tôi đi học muộn là y như rằng thầy giáo lại làm vẻ mặt như đang đại tiện? Hay đơn giản vì mọi người có thẩm quyền lúc nào cũng bị xúc phạm trước hành vi của tôi? Không, ngẫm lại thì thấy, tôi đã thích thú trước điều đó; những tĩnh mạch đập trong cổ một ông thầy giáo: cao trào của hài kịch. Một ông thầy khác giận tím người: quá đã! Hồi ấy tôi thấy chẳng có gì buồn cười hơn sự nổi nóng, chẳng có gì khiến tôi cảm thấy nhẹ nhõm hơn hoặc hoạt bát hơn.
Không, nếu tôi phải trung thực, thì tất cả những trò chọc giận ấy chỉ làm tôi sa lầy vào địa ngục nghiền nát của lòng bất mãn; không có lý do gì để bỏ đi khỏi nó, đó chỉ là sự bất hạnh đều đặn mà một người may mắn có được. Động cơ bỏ học thực sự của tôi bắt đầu bằng tất cả những vụ tự tử quái ác này.
Trường của chúng tôi bị dồn hết mức đến sát bờ biển phía đông, chỉ chưa chìm hẳn xuống nước mà thôi. Chúng tôi phải đóng cửa sổ lớp học để tránh bị phân tâm trước tiếng biển gầm gào bên dưới, nhưng vào những ngày hè, cái nóng ngột ngạt buộc chúng tôi không còn lựa chọn nào khác ngoài mở cửa sổ, và tiếng nói của giáo viên khó lòng át nổi tiếng sóng vỗ ì ầm. Các tòa nhà của trường, một dãy những khối nhà gạch màu đỏ gắn kết với nhau, tọa lạc phía trên cao mặt nước, trên bờ vực của Vách Chán nản (Tên “Vách Tuyệt vọng” đã được đặt cho một mặt vách núi hoang vắng khác nằm quanh mũi biển). Từ cuối sân bóng của trường, những lối đi khúc khuỷu dẫn xuống bãi biển. Nếu bạn không thích đi trên các lối đi này, nếu bạn thiếu kiên nhẫn hay bạn không muốn liều đi trên con dốc dựng đứng, hoặc nếu bạn khinh bỉ bản thân và cuộc đời mình và không nhìn thấy hi vọng nào về một tương lai tươi sáng hơn, bạn có thể nhảy xuống bất cứ lúc nào. Nhiều người đã làm thế. Cứ trung bình chín, mười tháng lại có một vụ tự tử ở trường tôi. Dĩ nhiên, nạn tự tử ở giới trẻ không phải là không phổ biến; những cô gái chàng trai vẫn hắt hơi đến chết do nhiều chứng cảm cúm khác nhau của tâm hồn. Nhưng hẳn phải có một tiếng gọi thôi miên bí ẩn nào đó trôi qua những cánh cửa sổ mở he hé kia, bởi không ít trẻ con trường chúng tôi đã đẩy mình qua cổng trời đó. Việc những đứa trẻ vị thành niên từ bỏ cuộc sống chẳng phải là chuyện gì quá bất thường, như tôi đã nói, nhưng chính những cái đám tang làm ta suy sụp. Chúa ơi, tôi nên biết mới phải. Thậm chí bây giờ tôi vẫn nằm mơ thấy một chiếc quan tài mở toang, một sự việc hẳn đã không xảy ra nếu tôi không buộc phải viết một bài tập làm văn về Hamlet cho môn tiếng Anh của mình.
Tình trạng tê liệt của Hamlet
Tác giả: Jasper Dean
Câu chuyện của Hamlet là một lời cảnh tỉnh rõ ràng về những hiểm họa của sự thiếu quyết đoán. Hamlet là một hoàng tử Đan Mạch, anh ta không thể quyết định liệu có nên báo thù cho cái chết của vua cha, tự sát, không tự sát, vân vân và vân vân. Bạn sẽ không thể tin nổi cách anh ta lải nhải về chuyện này. Không thể tránh khỏi, hành vi chán ốm này đã khiến Hamlet hóa điên, và khi vở kịch kết thúc mọi người đều chết cả, thật không hay cho Shakespeare nếu sau đó ông ta quyết định muốn viết phần tiếp theo. Bài học xương máu từ sự thiếu quyết đoán của Hamlet chính là bài học cho toàn nhân loại, mặc dù nếu chú của bạn đã ám sát bố của bạn và cưới mẹ của bạn, thì bạn có lẽ sẽ cảm thấy chuyện này có mối tương đồng đặc biệt.
Tên của Hamlet cũng giống tên bố anh ta, cũng là Hamlet. Ông ấy đã chết thật vật vã khi em trai rót thuốc độc vào tai ông ấy. Trong tai ông ấy! Chẳng hay chút nào. Rõ ràng, tính đố kị anh em chính là thứ đã mục ruỗng trong đất nước Đan Mạch.
Sau này, khi hồn ma của bố Hamlet ra hiệu cho anh ta đi theo, Horatio đã khuyên anh ta đừng làm thế đề phòng trường hợp hồn ma tìm cách làm cho Hamlet hóa điên, mà quả đúng là như thế, và Horatio cũng lưu ý rằng mọi người nhìn xuống từ một vị trí không có gì ngăn cản ở tít trên cao sẽ nghĩ đến chuyện nhảy xuống cho chết, điều đó làm tôi nghĩ, Tốt, vậy là không chỉ có mình.
Nói tóm lại, vở Hamlet nói về sự thiếu quyết đoán. Thực ra thì, sự do dự ảnh hưởng đến tất cả chúng ta, ngay cả khi chúng ta thuộc tuýp người chẳng gặp khó khăn gì khi ra quyết định. Nói cách khác, tính thiếu kiên nhẫn là điều chó chết. Chúng ta cũng chịu đựng khổ sở. Ví dụ như, chờ đợi người nào khác ra quyết định ở một nhà hàng trong lúc người phục vụ đứng ngay đấy là một trong những nỗi kinh hoàng lớn nhất cuộc đời, nhưng chúng ta phải học cách kiên nhẫn. Giật phăng thực đơn khỏi tay cô gái mình đang hẹn hò và quát lên “Cô ta sẽ ăn thịt gà” không phải là cách để chiến đấu với nỗi khổ sở này, và đương nhiên bạn đừng hòng ngủ được với cô nàng.
Thế đấy. Tôi cho rằng mình không nên ngạc nhiên khi bị thầy giáo tiếng Anh của tôi, thầy White, đánh rớt. Tôi còn có thể trông đợi gì hơn ở ông ta, hay ở bất cứ nhà giáo dục chậm chạp nào khác đã ám ngôi trường ấy? Thậm chí đến giờ tôi vẫn có thể nhìn thấy họ. Một thầy giáo có vẻ ngoài trông như tất cả các cơ quan nội tạng quan trọng của ông ta không chỉ đã bị cắt bỏ mà còn đang bị cất giữ để đòi một khoản tiền chuộc mà ông ta không có khả năng đáp ứng. Một ông thầy khác trông như đã bước vào một buổi tiệc hai phút sau khi tất cả đã ra về và vẫn nghe được tiếng cười tra tấn ông ta từ phía cuối con đường. Một người thì ngồi đấy đầy thách thức, như một con kiến đơn độc từ chối mang một mẩu vụn bánh mì. Một số thì hớn hở như những tên bạo chúa, số khác lại lơ tơ mơ như những gã khờ.
Rồi lại còn thầy White nữa: đó là ông thầy có một mảng tóc bạc nhỏ nằm trên đầu tựa như tàn thuốc lá, người luôn có vẻ như vừa thoáng thấy tương lai của mình trong một nhà dưỡng lão nam. Nhưng tệ hơn là, ông ta là thầy giáo có con trai học trong lớp chúng tôi. Được thôi, bạn không thể lập kế hoạch cho hạnh phúc trong đời, nhưng bạn có thể thận trọng nhất định trước sự bất hạnh, phải không nào? Mỗi lần bắt đầu giờ học, thầy White lại điểm danh. Ông ta phải gọi tên con trai của mình. Bạn có thể tưởng tượng được chuyện gì lố bịch hơn thế? Một ông bố biết con trai mình có ở trong căn phòng hay không, đương nhiên rồi.
“White,” ông ta thường gọi.
“Có ạ,” Brett thường đáp. Thật là một trò hề.
Tội nghiệp Brett!
Tội nghiệp thầy White!
Làm sao bất kì ai trong hai người họ có thể chịu đựng nổi khi phải kiềm nén sự thân mật của họ đến mức độ mà một người ngày nào cũng giả vờ cả đến việc không nhận ra khuôn mặt người nhà của mình? Và khi thầy White chì chiết về sự ngu dốt của lũ học trò, Brett cảm thấy ra sao khi bị chính bố mình đối xử thô bạo như thế? Đấy có phải là một trò chơi đối với họ không? Nó có thật không? Trong những lần ta thán của thầy White, khuôn mặt Brett quá ư vô cảm, quá ư bất động - tôi phải nói rằng nó biết cũng như chúng tôi biết là bố nó là một kẻ bạo chúa nhỏ mọn đối xử với chúng tôi như thể chúng tôi đã tước đoạt của ông ta những năm tháng quan trọng và, để báo thù, đã dự đoán những thất bại trong tương lai của chúng tôi, và đánh rớt chúng tôi để chứng tỏ ông ta có tài tiên tri. Vâng, thầy White, không cần bàn cãi nữa, thầy là giáo viên ưa thích nhất của em. Sự đáng sợ của thầy là điều dễ hiểu nhất đối với em. Thầy là người để lộ cơn tức giận đau đớn, và thật trơ trẽn thầy đã làm việc đó trước mặt con của thầy.
Thầy White trả bài tập làm văn Hamlet cho tôi với khuôn mặt giận tím tái. Ông ta thực tình đã cho tôi ăn điểm không. Với bài văn của mình, tôi đã biến một thứ thiêng liêng đối với ông thành trò cười: William Shakespeare. Trong thâm tâm, tôi biết rằngHamlet là một tác phẩm xuất sắc, nhưng khi bị ra lệnh phải hoàn thành một bài tập, tôi lại chẳng đào đâu ra hứng thú để thực hiện nó. Viết những thứ rác rưởi là hình thức thể hiện cơn nổi loạn vặt vãnh của tôi.
Đêm hôm ấy tôi đã phạm phải sai lầm là đưa bài văn cho bố xem. Ông vừa đọc vừa nheo mắt, làu bàu, gật gù - về cơ bản, trông như ông đang nâng một khối gỗ nặng trịch. Tôi đứng cạnh ông, chờ đợi sự đồng tình của ông, tôi cho là thế. Tôi không hiểu nổi. Ông đưa nó lại cho tôi và nói, “Hôm nay bố đọc được một chuyện rất thú vị trong Từ điển triết học của Voltaire. Con có biết trước khi người Ai Cập ướp xác pharaoh, họ lấy não ông ta ra không? Ấy vậy mà họ trông chờ ông ta sống lại sau nhiều thế kỉ. Con nghĩ họ tưởng tượng ông ta sẽ làm gì ở đó, khi mà trong đầu không có não?”
Đã khá lâu bố không tìm cách tự dạy dỗ tôi. Để bù đắp việc đã bỏ mặc tôi cho một hệ thống mà ông không có gì khác ngoài sự khinh bỉ, bố thường xuyên thảy hàng đống sách vào phòng tôi với những lời nhắn nho nhỏ ghi trên mẩu giấy ghi chú (“Đọc quyển này đi!” hoặc “Tay này quả là một ông thần giỏi khiếp đảm!”) dán trên các bìa sách: Plato, Nietzsche, Cioran, Lawrence, Wittgenstein, Schopenhauer, Novalis, Epictetus, Berkeley, Kant, Popper, Sartre, Rousseau, vân vân. Ông có vẻ đặc biệt thích bất kì tác giả nào là người bi quan, theo thuyết hư vô, hay một người hoài nghi, trong đó có Céline, Bernhard, và nhà thơ theo chủ nghĩa bi quan cực đoan, James Thomson, với bài thơ u ám đáng sợ của ông ta “Thành phố đêm kinh sợ.”
“Nữ giới đâu cả rồi?” tôi hỏi bố. “Họ không nghĩ ra được cái gì đáng để viết à?”
Tối hôm sau tôi thấy Virginia Woolf, George Sand, Ayn Rand, Gertrude Stein, Dorothy Parker, Simone de Beauvoir, Simone Weil, Mary McCarthy, Margaret Mead, Hannah Arendt, và Susan Sontag đang đợi mình trên gối.
Theo cách này tôi không buộc phải tự học quá nhiều như tôi đã từng bị ép ăn, và thú thực tôi cũng thích tất cả những quyển sách ấy. Ví dụ như, các tác giả người Hy Lạp có những ý tưởng rất hay về cách thức điều hành xã hội vẫn có giá trị đến ngày nay, nhất là trong trường hợp bạn nghĩ rằng chế độ nô lệ là tuyệt vời. Về phần những người còn lại, toàn những thiên tài không cần bàn cãi, tôi phải thừa nhận rằng sự hào hứng của họ dành cho và sự ăn mừng của họ đối với một loại người (chính họ) và nỗi khiếp đảm cùng sự lo sợ của họ đối với loại người kia (mọi người còn lại) mài xát lên dây thần kinh của tôi. Không hẳn vì họ đã kêu gọi chấm dứt chương trình giáo dục phổ cập do e sợ chúng sẽ “hủy hoại suy nghĩ” hay vì họ đã làm mọi việc có thể để biến nghệ thuật của họ thành thứ không thể hiểu được với đa số mọi người, mà chính là họ luôn nói những điều thiếu thân thiện chẳng hạn như “Chúc mừng ba lần cho những người phát minh ra khí độc!” (D.H. Lawrence) và “Nếu chúng ta mong mỏi một nền văn minh và văn hóa nào đó, chúng ta phải triệt tiêu loại người không thích ứng được với nó” (G.B. Shaw) và “Sớm muộn gì chúng ta cũng phải hạn chế gia đình của những giai cấp không trí thức” (Yeats) và “Đa số con người không có quyền tồn tại, nhưng lại là nỗi bất hạnh đối với những người giai cấp cao hơn” (Nietzche). Mọi người khác, hay nói cách khác là mọi người mà tôi biết, đều chẳng hơn gì một tử thi đang thối rữa, bật dậy chủ yếu vì thích xem bóng đá hơn là đọc sách Virgil. “Giải trí đại chúng là sự cáo chung của nền văn minh,” những trí thức ấy làu bàu, nhưng tôi thì nói, nếu một người cười khúc khích trước một việc vặt vãnh và toàn thân anh ta ửng đỏ lên vì niềm vui đó, thì liệu có quan trọng không nếu điều đó không xuất phát từ một công trình nghệ thuật sâu sắc mà từ một buổi chiếu lại bộ phim Bewitched? Thực lòng thì, ai mà quan tâm? Người đó chỉ vừa có một khoảnh khắc tuyệt vời trong lòng, và quan trọng hơn là, anh ta có được nó với giá rất rẻ. Tốt cho anh ta, kẻ lù đù! Về cơ bản họ nghĩ sẽ thật đáng yêu nếu những đám người mất nhân tính, những kẻ đã khiến họ phát ốm theo nghĩa đen, lại sẵn lòng chìm vào quá khứ hoặc trở thành nô lệ và quyết định rất nhanh việc đó. Họ muốn tạo ra một giống người siêu phàm dựa trên những cái tôi trưởng giả, mắc bệnh giang mai của họ, những gã ngồi trên đỉnh núi cả ngày liếm láp thần thánh trong con người họ đến phát rồ. Cá nhân tôi nghĩ điều họ ghét cay ghét đắng không phải là “niềm ham muốn tầm thường về hạnh phúc” của số đông, mà chính là sự công nhận bí mật, chua chát rằng quần chúng đôi khi lại tìm thấy nó.
Vì thế mà, như cách bố đã bỏ rơi tôi, tôi bỏ rơi những người bạn có học của ông, tất cả những thiên tài tuyệt vời, cay đắng ấy, và ở trường tôi đã đi vào nề nếp và làm những việc tối thiểu đơn thuần một cách thoải mái. Thường tôi hay tự cho mình nghỉ học và đi lang thang trong thành phố sôi động để xem nhịp đập của nó hoặc đến đường đua để xem những con ngựa gồng mình chịu đựng sự tồn tại bất hạnh của chúng dưới cặp mông những con người nhỏ bé. Thỉnh thoảng ban giám hiệu lại gửi cho bố những lá thư nghiêm trọng, hài hước một cách không chủ ý về sự chuyên cần của tôi.
“Mới nhận được thư nữa,” bố thường nói, vẫy vẫy nó trong không khí như một tờ 10 đô la mà ông vừa tìm thấy trong một chiếc quần cũ.
“Thì sao?”
“Thì con có gì để nói không?”
“Năm ngày một tuần là quá nhiều. Nó vắt kiệt sức con.”
“Con không cần phải là đứa giỏi nhất xứ, con biết chứ. Chỉ cần học làng nhàng. Đó chính là điều con nên nhắm đến.”
“Ôi, thì đấy chính là việc con đang làm. Con đang làng nhàng đây.”
“Tuyệt. Chỉ cần đảm bảo rằng con đến trường đủ số buổi để có được mảnh giấy mang tên con trên đó.”
“Để làm cái quái gì chứ?”
“Bố đã bảo con hàng nghìn lần rồi. Con cần làm cho xã hội nói rằng con đang hòa nhập. Chuyện gì con thích thì để sau này hẵng làm, nhưng con cần làm cho họ nghĩ rằng con là một người trong số họ.”
“Có thể con chính là một người trong số họ.”
“Ừ, còn bố thì sẽ đi làm lúc bảy giờ sáng mai.”
Nhưng không phải lúc nào ông cũng để yên chuyện này. Thực ra thì, tôi đã có một tiếng tăm nhất định trong các thầy cô vì những chuyến thăm đáng sợ nói chung và đáng xấu hổ nói riêng của bố mình. Khuôn mặt ông thường bất thình lình xuất hiện, dán chặt vào lớp kính lạnh buốt của cửa lớp học.
Một ngày sau khi tôi cho bố xem bài văn Hamlet, ông đến lớp học tiếng Anh của tôi và ngồi vào ghế ở cuối lớp, co rúm người cho lọt vào chiếc ghế gỗ. Thầy White vừa viết chữ “sự liên văn bản” lên bảng thì bố đi vào, vì thế khi ông quay lại và nhìn thấy một người đàn ông trung niên giữa đám đần độn măng sữa chúng tôi, ông trở nên lúng túng. Ông quắc mắt nhìn bố vẻ không đồng tình, tựa như đã sẵn sàng trừng phạt một đứa học trò của mình vì cái tội tự ý già đi ngay trong giờ học.
“Trong này hơi uể oải, nhẩy?” bố nói.
“Xin hỏi ông nói gì cơ!”
“Tôi bảo, ở trong này thì hơi khó suy nghĩ, phải không?”
“Tôi xin lỗi, ông là...”
“Một phụ huynh quan tâm.”
“Ông là phụ huynh của một học sinh trong lớp này?”
“Có thể từ ‘quan tâm’ là nói nhẹ bớt. Khi tôi nghĩ đến con trai mình dưới sự dạy dỗ của thầy, tôi bắt đầu chảy máu mắt.”
“Trò nào là con ông?”
“Tôi không xấu hổ khi phải thừa nhận đâu. Con trai tôi là sinh vật được gọi là ‘Jasper’.”
Thầy White phóng ánh mắt lạnh lùng về phía tôi đúng vào lúc tôi đang cố ngồi lọt vào cái ghế của mình. “Jasper? Đây có phải là bố em không?”
Tôi gật đầu. Tôi còn lựa chọn nào khác?
“Nếu ông muốn nói chuyện với tôi về con trai ông, chúng ta có thể sắp xếp một cuộc hẹn,” ông ta nói với bố.
“Tôi không cần nói chuyện với thầy về con trai tôi. Tôi biết con trai tôi. Thầy có biết không?”
“ Đương nhiên. Jasper đã học trong lớp tôi suốt năm nay.”
“Còn những đứa khác? Dạy để chúng biết đọc biết viết: làm tốt lắm. Như thế đã đáp ứng những đòi hỏi của đời người rồi.Nhưng thầy có biết chúng không? Thầy có biết bản thân mình không? Vì nếu thầy không biết về mình, thầy không thể giúp chúng biết về bản thân chúng, và thầy có lẽ đang lãng phí thời gian của mọi người ở đây khi chỉ đơn thuần đào tạo ra một đội quân sao chép khiếp nhược như những gì mà toàn bộ đám giáo viên ngờ nghệch các người trong cái hố xí của nhà nước này sẽ làm, bảo lũ học sinh phải nghĩ gì thay vì nghĩ như thế nào, cố gắng gò chúng vào khuôn mẫu một công dân đóng thuế tương lai hoàn hảo thay vì bận tâm tìm hiểu chúng là ai.”
Những học sinh khác bật cười, vì bối rối.
“Yên lặng!” thầy White quát lên, tựa như đó là Ngày đền tội và ông ta giữ vai trò quan trọng trong việc lọc ra toàn bộ linh hồn. Chúng tôi im lặng. Chẳng có tác dụng gì. Sự im lặng bị áp đặt vẫn rất ồn ào.
“Tại sao chúng phải tôn trọng thầy? Thầy chẳng tôn trọng chúng tẹo nào,” bố nói tiếp, và bảo đám học sinh, “Hạ mình trước một kẻ uy quyền là tự nhổ nước bọt vào mặt mình.”
“Tôi buộc phải mời ông ra khỏi đây.”
“Tôi đang trông chờ giây phút ấy.”
“Xin vui lòng đi ra cho.”
“Tôi để ý thấy thầy có một hình thập ác quanh cổ.”
“Việc gì đến nó?”
“Tôi có cần giải thích rõ ràng cho thầy không?”
“Simon.” Thầy White gọi một đứa học sinh đang ngớ ra. “Em vui lòng chạy xuống phòng hiệu trưởng, thưa với thầy ấy rằng chúng ta bị quấy nhiễu trong lớp học và nên gọi cảnh sát đến.”
“Làm sao thầy có thể khuyến khích học sinh của mình nghĩ cho bản thân chúng với thái độ cởi mở nếu thầy cứ để hệ thống niềm tin lạc hậu nghiền nát đầu thầy như một chiếc mặt nạ sắt? Thầy không thấy ư? Sự linh hoạt trong chuyển động tinh thần của thầy bị giới hạn bởi những nguyên tắc máy móc cứng nhắc, vì thế thầy có thể sẽ nghĩ rằng thầy đứng đó dạy chúng về Hamlet, nhưng điều chúng thực sự nghe được là một người đàn ông sợ bước ra khỏi cái vòng thít chặt đã được vẽ quanh ông ta bởi những kẻ chết từ lâu rồi, những kẻ đã bán cho tổ tiên ông ta một đống lời nói dối để họ có thể quấy rối tất cả những đứa bé trai mà họ muốn trong những căn phòng thú tội kín đáo của họ!”
Tôi đưa mắt nhìn Brett. Nó ngồi im trong ghế của mình; khuôn mặt nó mảnh dẻ và trông thật thanh tú, và tôi nghĩ nếu không có tóc, mắt, mũi, và miệng, thì khuôn mặt nó có thể là một bàn tay của nghệ sĩ dương cầm. Brett bắt gặp tôi đang nhìn nó chăm chăm, nhưng tôi không nghĩ rằng nó biết tôi đang chơi trò ví von khuôn mặt của nó, vì nó mỉm cười với tôi. Tôi cười đáp lại. Nếu tôi biết rằng hai tháng sau đó Brett tự tử, thì tôi đã khóc thay vì cười.
***
Thực ra chúng tôi đã nói chuyện với nhau vào buổi sáng ngày nó chết.
“Này, Brett, cậu trả năm đô la mà cậu còn nợ tớ được không?”
“Ngày mai tớ trả cậu được chứ?”
“Cũng được.”
Con người thật giỏi ngụy tạo hạnh phúc một cách đáng kinh ngạc. Đó gần như là khả năng bẩm sinh của họ, giống như lục lọi điện thoại công cộng tìm xu lẻ sau khi gọi điện. Brett là bậc thầy về chuyện đó, cho đến tận phút chót. Quỷ tha ma bắt, tôi đã nói chuyện với một đứa con gái từng tán gẫu với Brett mười phút trước khi nó nhảy xuống vực, và con bé bảo bọn chúng nói về chuyện thời tiết!
“Này, Kristin, c-cậu có nghĩ đấy là gió nam không?” Brett bị tật nói lắp nhẹ, thường xuất hiện và biến mất tùy theo những dao động của áp lực xã hội.
“Làm thế quái nào mà tớ biết được?”
“Nó h-h-hơi mạnh, nhỉ?”
“Tại sao cậu lại nói chuyện với tớ, đồ mặt mụn?”
Tôi không muốn quan trọng hóa cái chết của Brett hơn mức thực tế đối với tôi. Nó chẳng phải bạn thân hay tri kỉ gì của tôi. Chúng tôi là đồng minh, về mặt nào đó việc này làm chúng tôi thân thiết hơn bạn bè bình thường. Chuyện xảy ra như sau:
Một lần vào giờ ăn trưa, một đám đông nhỏ quây tròn tại sân trong của trường, đứng gần nhau đến nỗi trông chúng như được kết dính vào nhau thành một tấm chăn xấu xí. Tôi nhăn mặt chờ đợi. Không hề có chuyện hạ nhục kín đáo trên sân trường; tất cả đều công khai không thương xót. Tôi tự hỏi ai là kẻ bị mất mặt lần này. Tôi hé mắt nhìn qua mái tóc húi cua của mắt xích lùn nhất thì thấy Brett White đang ở trên mặt đất, máu nhỏ xuống từ miệng. Theo một vài khán giả nhiệt tình, Brett đã ngã trong lúc chạy trốn một đứa học sinh khác, Harrison. Giờ đây, toàn thể đám học sinh đang nhìn xuống Brett và cười ha ha vì thủ lĩnh của bọn chúng đang cười. Đây chẳng phải là những đứa trẻ vốn dĩ độc ác; chúng chỉ từ bỏ cái tôi của chúng vì thằng Harrison, thế thôi, giao nộp ý chí của chúng cho ý chí của Harrison, một lựa chọn tồi. Tại sao các băng nhóm không bao giờ tuân theo một đứa trẻ hiền lành dễ mến là chuyện ai cũng biết, nhưng tôi ước gì điều đó xảy ra chỉ một lần thôi. Con người, như Freud đã lưu ý, có một niềm đam mê tột độ đối với uy quyền. Tôi nghĩ nỗi khao khát âm thầm bị thống trị của con người thực ra có thể thành hiện thực, chỉ cần anh ta cho phép mình bị thống trị một lần duy nhất bởi một gã thật dễ thương. Bởi vì sự thực là, trong cơn hăng tiết tập thể, tên thủ lĩnh có thể gào lên, “Tất cả hãy hôn thằng khốn một cái lên má nào!” và bọn chúng sẽ chạy đến đứa bé tội nghiệp với đôi môi mím chặt.
Vào lúc đó, mấy chiếc răng cửa của Brett đang nằm trên nền bê tông. Trông chúng như những viên kẹo Tic Tac. Nó nhặt mấy chiếc răng lên. Bạn có thể thấy nó đang cố kiềm nước mắt.
Tôi nhìn những đứa học sinh khác và tuyệt vọng khi thấy không đứa nào có đủ lòng trắc ẩn để đứng ra. Thật đau lòng khi chứng kiến tất cả những tâm hồn nghèo nàn ấy bạo hành Brett theo cách này. Tôi cúi xuống cạnh nó và nói, “Hãy cười to giống như cậu nghĩ chuyện này tức cười lắm ấy.”
Nó làm theo lời khuyên của tôi và bắt đầu cười. Nó thì thầm vào tai tôi, “Người ta có gắn chúng lại được không?” và tôi cũng cười to, như thể nó vừa nói đùa. Khi tôi đã đỡ nó đứng dậy, màn nhục mạ vẫn tiếp diễn. Một quả bóng bay thẳng vào mặt nó.
“Mở to miệng ra, tao muốn nó đi qua khung thành!” một ai đó la lên.
Đúng là hàm răng nó trông như khung thành.
“Có cần phải thế không?” tôi quát lên vu vơ.
Harrison bước ra khỏi đám đông và, sừng sững đứng trước mặt tôi, nói, “Mày là người Do Thái, phải không?”
Tôi gầm lên. Tôi chỉ mới kể với một người rằng ông nội tôi bị Đức quốc xã sát hại, và tôi chưa bao giờ nghe nói đến đoạn kết câu chuyện. Nói chung, không có nhiều kẻ bài Do Thái ở trường, chỉ là những lời bông phèng về chuyện tiền và mũi, mũi và tiền, những chiếc mũi to tướng có tiền rơi ra từ đấy, những bàn tay Do Thái bẩn thỉu nhét tiền vào những chiếc mũi Do Thái to tướng của họ. Đại loại thế. Sau một khoảng thời gian, bạn chẳng còn quan tâm đến những ác ý nằm sau những câu đùa nữa, bạn chỉ ước gì chúng hài hước hơn.
“Tao nghĩ cái mặt mày trông ngốc ơi là ngốc, thằng Do Thái ạ.”
“Đã thế tao còn lùn nữa chứ,” tôi nói, nhớ rằng bố có lần bảo tôi cách để làm kẻ thù lúng túng là đáp trả những lời sỉ nhục của chúng bằng những lời sỉ nhục của mình.
“Tại sao mày ngốc thế hử?” nó hỏi.
“Tao không biết. Tao sẽ trả lời câu đó sau khi giải thích được tại sao tao lại xấu xí vậy.”
Brett nhanh chóng hiểu ra và nói với tôi, “Tớ xấu hơn cậu, và tớ kết hợp tay-mắt rất tệ.”
“Tớ không thể chạy mà không vấp ngã,” tôi đáp lại.
“Tớ chưa bao giờ hôn một đứa con gái và có lẽ sẽ không bao giờ.”
“Tớ có mụn trên lưng. Tớ nghĩ nó sẽ để lại sẹo suốt đời.”
“Thật không? Tớ cũng thế.”
Charlie Mills tách đám đông bước ra và cũng bắt đầu lên tiếng. “Như thế chẳng là gì,” nó nói. “Tớ béo, xấu xí, bốc mùi, ngu ngốc, và là con nuôi.”
Harrison lúng túng đứng đấy, cố nghĩ ra một câu để nói. Tất cả chúng tôi đều nhìn nó và phá ra cười. Đó là một khoảnh khắc thật hả hê. Rồi Harrison bước về phía tôi với sự tự tin của kẻ được tạo hóa ưu đãi. Nó đẩy tôi, còn tôi cố dồn trọng lực của mình lên chân trước, nhưng chẳng ích gì. Rốt cuộc tôi bị hạ úp mặt xuống nền bê tông. Lần thứ hai tôi về nhà với chiếc áo sơ mi trắng vấy máu.
Eddie, bố, và Anouk đang uống trà ở hàng hiên, trông có vẻ kiệt sức. Bầu không khí trĩu nặng sự bất động. Linh tính mách bảo tôi đã bỏ lỡ một cuộc tranh cãi nảy lửa. Khói từ điếu thuốc rê của Eddie lơ lửng trong không khí. Khi tôi tiến đến, vết máu trên áo tôi làm họ sống động trở lại. Tất cả họ nhảy dựng lên vì chú ý, như thể họ là ba nhà hiền triết thông thái đã chờ đợi mười năm ròng mới có người đặt một câu hỏi.
Anouk hét lên đầu tiên. “Cậu bị thằng nào bắt nạt à? Sao không cho nó số điện thoại của tôi rồi bảo nó gọi cho tôi? Tôi tin chắc ngồi thiền sẽ giúp nó bình tâm.”
“Hãy trả tiền cho nó,” Eddie nói. “Cứ quay lại nói chuyện với nó đem theo một túi giấy nhét đầy tiền.”
Không thua chị kém em, bố quát lên từ chiếc ghế bành, “Lại đây nào, con trai, bố muốn kể con nghe chuyện này!” Tôi đi lên bậc tam cấp mái hiên. Ông vỗ lên đầu gối để ra dấu nó đã thông thoáng, có thể ngồi lên. Tôi muốn đứng hơn. Bố nói, “Con biết còn ai nữa cũng từng bị xem thường không? Socrates. Đúng thế. Socrates. Đúng thế. Một lần nọ ông ta đang nói chuyện triết lý với vài người bạn thì một gã nhà quê không ưa điều ông ta nói bước đến trước mặt rồi đá vào mông ông ta mạnh đến nỗi chính gã ngã nhào xuống đất. Socrates ngước nhìn gã đàn ông và mỉm cười nhân hậu. Ông ta đón nhận sự việc với một sự bình tĩnh kinh ngạc. Một người thấy vậy hỏi, ‘Tại sao ông không làm gì, hoặc nói gì đi?’ và Socrates trả lời, ‘Nếu ông bị một con la đá vào mình, ông có quở trách nó không?’”
Bố phá ra cười hô hố. Người ông lắc lư mạnh đến nỗi tôi thấy mừng vì đã quyết định không ngồi lên đầu gối ông. Nó đang nẩy lên như con bò tót. “Hiểu chưa? Hiểu chưa?” bố hỏi tôi qua tràng cười.
Tôi lắc đầu, dù trong thâm tâm đã hiểu ra. Nhưng, thành thực mà nói, tôi nhất định sẽ quở trách con la vì đã đá tôi. Thậm chí có thể tôi còn vật nó xuống đất. Nó là con la của tôi, tôi muốn làm gì thì làm. Tuy vậy, mấu chốt của vấn đề là tôi đã hiểu được mấu chốt của vấn đề, song nó cũng chẳng thể giúp ích được gì cho tôi hơn so với những đề xuất bất khả thi của Eddie hay Anouk. Phải nói là, bố và Eddie và Anouk, những ánh sáng tôi có để dẫn dắt mình qua thời thơ ấu, chẳng làm được gì ngoài dẫn tôi đến những bức tường gạch.
***
Vài tuần sau tôi đến nhà của Brett. Nó đã dụ khị tôi đến đó với lời hứa hẹn sẽ cho tôi ăn bánh chocolate. Nó nói muốn thử răng mới. Khi chúng tôi rời sân trường, nó giải thích làm thế nào mà, bằng cách bắc những chiếc răng trở lại vào nướu, nha sĩ đã giúp dây thần kinh không bị chết. Để hoàn tất, ông ấy đã tiến hành xử lý chân răng, bơm rất nhiều khí gas nhưng vẫn chẳng thấm vào đâu.
Khi đến nhà Brett, tôi rất thất vọng phát hiện ra chẳng có cái bánh nào sất, và bị choáng khi nó nói chúng tôi sẽ tự làm bánh. Tôi nghĩ tốt hơn hết nên nói rõ với nó.
“Nghe này, Brett. Cậu cũng được đấy, nhưng tớ cảm thấy hơi buồn cười khi làm bánh với cậu.”
“Đừng lo. Thật ra chúng ta chẳng phải làm bánh biếc gì đâu. Chỉ cần làm bột nhào rồi ăn luôn. Chẳng cần dùng đến cả lò nướng.”
Thế nghe cũng được, nhưng thực tình thì cuối cùng cũng chẳng khác làm một cái bánh tử tế là bao, và khi nó bắt đầu rây bột, tôi suýt bỏ chạy. Nhưng tôi đã không làm thế. Tôi chịu đựng. Chúng tôi trộn xong hỗn hợp và vừa mới dùng thìa gỗ to thọc vào đấy thì nghe tiếng cửa trước mở ra và một giọng nói cất lên, “Bố về rồi đây!”
Người tôi hóa đá và cứ đứng đơ ra như thế cho đến khi cửa nhà bếp hé mở, đầu của thầy White ló vào.
“Có phải Jasper Dean đấy không?”
“Em chào thầy, thầy White.”
“Chào bố,” Brett nói, câu nói ấy khiến tôi thấy kì cục. Tôi cứ ngờ nghệch cho rằng ở nhà nó gọi bố nó là thầy White.
Thầy White đẩy cửa mở hẳn rồi bước vào nhà bếp. “Hai đứa đang làm bánh à?” ông hỏi, và, nhìn vào chỗ bột nhào, nói thêm, “Chừng nào xong cho bố biết nhé, bố có thể ăn một miếng.”
“Bố sẵn sàng chưa? Gần xong rồi đấy,” Brett nói, tươi cười với bố mình.
Thầy White bật cười. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy răng ông. Chúng không xấu. Ông đi đến và thọc ngón tay vào cái bát rồi nếm lớp chocolate dày.
“Thế nào, Jasper, bố em khỏe không?”
“Thầy biết đấy ạ, bố em vẫn thế mà.”
“Ông ta đúng là đã ăn thua đủ với tôi đấy,” ông nói, cười khì.
“Em mừng là thầy nghĩ thế ạ,” tôi đáp.
“Thế giới cần những người nồng nhiệt,” thầy White nói, cười mỉm.
“Em nghĩ vậy,” tôi nói, và khi thầy White đi lên lầu, tôi nghĩ đến tất cả những giai đoạn rối loạn tâm lý kéo dài của bố, đó là những khi mà nồng nhiệt đồng nghĩa với nhớ giật nước bồn cầu.
Phòng của Brett trông chẳng khác gì phòng của một đứa trẻ vị thành niên điển hình, trừ mỗi chuyện nó quá ngăn nắp đến độ tôi cảm thấy hơi thở của mình có thể làm xáo trộn mọi thứ. Có vài bức ảnh đóng khung trên bàn, trong đó có một bức chụp Brett và thầy White đang đứng khoác tay lên vai nhau trên một sân vận động - trông họ như hai diễn viên trong một bộ phim truyền hình ủy mị về tình cha con. Thậm chí trông nó chẳng đời thật tí nào. Đầu giường của Brett có một cây thập tự rất to treo trên tường.
“Cái đó để làm gì?” tôi sợ hãi hỏi.
“Nó là của mẹ tớ.”
“Bà ấy bị làm sao?”
“Ung thư dạ dày.”
“Ôi.”
Brett chậm rãi bước đến cửa sổ, những bước ngập ngừng, tựa như đang băng qua địa hình lạ lẫm trong đêm tối.
“Cậu cũng không có mẹ, phải không? Chuyện gì xảy ra với mẹ cậu?”
“Mafia người Arab.”
“Được rồi, đừng kể với tớ.”
Tôi nhìn gần hơn tượng Chúa Jesus treo ở đó, khuôn mặt dài thống khổ của ông nhìn xuống tạo thành góc chếch. Trông như ông đang nghiền ngẫm những bức ảnh đầy tình cảm của Brett và bố nó. Đôi mắt vô tư lự của ông trông có vẻ như đang nghĩ ngợi về chúng với một nỗi buồn nào đó. Có lẽ nó khiến ông nhớ đến bố của mình, hoặc đến những lần ông bị phục sinh khi ông ít mong đợi nhất.
“Vậy bố con cậu có đạo à?” tôi hỏi.
“Chúng tớ theo đạo Công giáo. Còn cậu?”
“Vô thần.”
“Cậu có thích trường học không?” Brett đột ngột hỏi.
“Cậu nghĩ sao?”
“Nó không phải là vĩnh viễn. Đó là điều mà tớ nghĩ mãi. Nó không vĩnh viễn.”
“Cũng may là cậu không bị béo. Một khi cậu vào đời rồi th