Chương 7 I.
“Tao không muốn chết ở đây,” bố nói.
“Có chuyện gì sao?” Terry hỏi. “Anh không thích phòng của anh à?”
“Căn phòng thì ổn rồi. Cái chính là đất nước này.”
Ba người chúng tôi đang ăn món laksa[62] gà và ngắm mặt trời lặn trên đô thị ô nhiễm. Như thường lệ, bố cảm thấy buồn nôn và cố làm ra vẻ như chuyện nôn mửa của ông là một phản xạ tự nhiên không phải đối với thức ăn mà đối với những người có mặt.
“Chao ôi, bọn em cũng không muốn anh chết đâu, phải không, Jasper?”
“Vâng,” tôi đáp, và chờ ba mươi giây sau, tôi nói thêm, “lúc này thì không.”
Bố dùng tay áo tôi để lau khóe miệng ông và nói, “Tao muốn chết ở nhà.”
“Khi anh nói nhà, ý anh là...”
“Úc.”
Terry và tôi nhìn nhau hoảng hốt.
“Chà, ông anh ơi,” Terry từ tốn nói, “chuyện đấy không được thực tế lắm.”
“Tao biết. Nhưng tao sẽ vẫn về nhà.”
Terry hít một hơi sâu rồi nói với bố một cách ôn tồn và thong thả, tựa như đang nhẹ nhàng dạy bảo đứa con ngỗ ngược vì bóp ngạt con vật cưng của gia đình do ôm quá chặt.
“Marty ạ. Anh có biết điều gì sẽ xảy ra vào giây phút máy bay hạ cánh xuống đất Úc không? Anh sẽ bị bắt tại sân bay.” Bố không nói gì. Ông biết chuyện đó là thật. Terry bồi thêm: “Anh có muốn chết trong tù không? Vì đó là chuyện sẽ xảy ra nếu anh bay về nhà.”
“Không, tao không muốn chết trong tù.”
“Thế thì giải quyết xong,” Terry nói. “Anh sẽ chết ở đây.”
“Tao có một ý khác,” bố nói, và ngay lập tức mọi tia hi vọng đều tắt ngóm. Tôi biết rằng một cái chết nhẹ nhàng, yên tĩnh, êm ái, nối tiếp bằng một tang lễ kín đáo và một kì để tang lặng lẽ giờ đây đã ngoài tầm với. Bất kể chuyện gì sắp xảy ra, nó cũng sẽ rất nguy hiểm, rối tung, rồ dại và sẽ đẩy tôi đến bờ vực của cơn điên.
“Vậy, Marty, anh có đề xuất gì?”
“Chúng ta lén trở lại Úc.”
“Cái gì?”
“Bằng tàu,” ông giải thích. “Terry, tao tin chú mày biết bọn buôn người là ai.”
“Chuyện này thật điên rồ!” tôi lên tiếng. “Bố không thể muốn liều mạng mình chỉ để chết ở Úc! Bố ghét nước Úc cơ mà.”
“Nghe này, bố biết đây là thái độ đạo đức giả mang đẳng cấp quốc tế. Nhưng bố đếch quan tâm. Bố nhớ nhà! Bố nhớ phong cảnh và mùi của nó. Bố nhớ cả những người đồng hương và mùi của họ!”
“Lúc này hãy cẩn thận,” tôi đáp. “Hành động cuối cùng của bố sẽ đối lập hoàn toàn với mọi thứ mà bố đã suy nghĩ, nói và tin tưởng từ trước đến nay.”
“Bố biết chứ,” ông phấn khởi nói, không chút buồn phiền. Thật ra, ông có vẻ như phấn chấn lên hẳn vì chuyện này. Lúc bấy giờ ông đã đứng lên, khẽ lắc lư, đưa mắt thách chúng tôi nâng các đồ vật lên để ông bắn hạ.
“Chẳng phải bố nói với con rằng chủ nghĩa dân tộc là một căn bệnh sao?” tôi hỏi.
“Và bố tin là như vậy. Nhưng hóa ra bố đã mắc phải căn bệnh đó, cùng với mọi thứ khác. Và bố thấy chẳng có lý do gì đi chữa cho mình khỏi một căn bệnh nhẹ trong khi bố sắp chết vì một căn bệnh nặng.”
Tôi không trả lời. Tôi có thể nói gì?
Tôi phải lôi những khẩu súng cối ra để giúp mình. May thay, bố đã đóng gói một va li đầy những sách, và tôi đã tìm thấy chính xác câu trích dẫn mà tôi cần trong một quyển sách đã sờn vì đọc quá nhiều có nhan đề Xã hội điên loạn của Fromm. Tôi vào phòng ông nhưng ông đang đi vệ sinh, vì thế tôi đọc nó cho ông nghe qua cánh cửa nhà tắm: “Này, bố. ‘Người nào chưa giải phóng bản thân khỏi những ràng buộc với máu mủ và quê hương thì chưa phải là người hoàn thiện từ khi chào đời; năng lực yêu thương và lập luận của anh ta bị què quặt; anh ta không cảm nhận được bản thân hoặc những người xung quanh trong thực tại con người của anh ta hoặc của họ.’”
“Việc đấy không quan trọng. Khi bố chết, những thất bại và điểm yếu của bố cũng chết theo. Con thấy chưa? Những thất bại của bố cũng sẽ chết.”
Tôi đọc tiếp: “ ‘Chủ nghĩa dân tộc là hình thức loạn luân của chúng ta, là sự sùng bái của chúng ta, là sự điên rồ của chúng ta. “Chủ nghĩa yêu nước”... là biểu hiện phổ biến của nó... cũng giống như tình yêu đối với một cá nhân mà loại trừ tình yêu cho những người khác thì không phải là tình yêu, tình yêu dành cho đất nước nếu không phải là một phần của tình yêu dành cho nhân loại thì không phải là tình yêu, mà là sự sùng bái cuồng tín.’”
“Vậy thì sao?”
“Vậy là bố không yêu thương nhân loại, phải không?”
“Không. Không hẳn.”
“Đấy, bố thấy chưa!”
Bố giật nước bồn cầu rồi đi ra mà không rửa tay. “Con không thể làm bố đổi ý được đâu, Jasper ạ. Đây là điều bố muốn. Những kẻ sắp chết được đáp ứng nguyện vọng trước khi chết cho dù nó làm người sống tức điên lên. Và đây là nguyện vọng của bố - bố muốn chết trên quê hương mình, với người dân mình.”
Caroline, tôi thầm nghĩ. Rõ ràng bố đang chịu đựng một nỗi đau không ngừng xuất hiện. Ông đã chuẩn bị tinh thần để luôn thận trọng trước sự thanh thản của chính mình, và sứ mệnh đến Úc này là chỉ thị của một nỗi buồn mà ông buộc phải tuân theo.
Nhưng không chỉ có thế. Với việc lén lút quay lại nước Úc bằng cách làm một kiện hàng người trong một phi vụ buôn người mạo hiểm, bố đã tìm thấy dự án ngu ngốc cuối cùng, và nó chắc chắn sẽ giải quyết nhanh cái chết của ông.
II.Những kẻ buôn người điều hành đường dây của chúng tại một nhà hàng bình thường nằm trên một con đường đông đúc trông như bảy mươi con đường đông đúc khác mà tôi nhìn thấy khi chúng tôi lái xe đến. Terry cảnh báo bố và tôi ở cửa: “Chúng ta phải cẩn thận với bọn này. Chúng rất ác độc. Chúng sẽ cắt đầu anh trước rồi mới hỏi han sau, chủ yếu là hỏi xem gửi đầu anh đi đâu.” Với suy nghĩ đó trong đầu, chúng tôi chọn một bàn rồi gọi món cà ri rừng[63] và xà lách bò. Tôi luôn hình dung rằng lớp bình phong của những hoạt động phi pháp thường chỉ đơn thuần là để che đậy, nhưng ở đây người ta quả thật có phục vụ thức ăn, mà cũng không đến nỗi tệ.
Chúng tôi lặng lẽ ăn. Bố húng hắng ho trong lúc ăn và xen giữa những tiếng ho, ông gọi người phục vụ liên tục để yêu cầu một chai nước suối. Terry đang xơi ngốn ngấu mấy con tôm và thở phì phò qua mũi. Quốc vương đang nhìn tôi vẻ không hài lòng từ một tấm ảnh chân dung treo ở bức tường phía bên kia. Một đôi du khách bụi người Anh ở bàn cạnh bên đang tranh luận về những điểm khác nhau về mặt thể chất và tâm lý giữa gái mại dâm Thái Lan với một cô gái tên là Rita ở Đông Sussex.
“Vậy, chú Terry này,” tôi hỏi, “bây giờ thì sao? Chúng ta cứ ngồi ở đây đến lúc đóng cửa à?”
“Để đấy cho chú.”
Chúng tôi để đấy cho chú. Mọi sự giao tiếp diễn ra không có lời, theo một lô những nguyên tắc được xác lập trước: Terry gật đầu ra hiệu với người phục vụ, tay này sau đó gật đầu với đầu bếp thông qua một cánh cửa sổ mở vào nhà bếp. Tay đầu bếp sau đó chuyền cái gật đầu cho một người đứng ngoài tầm nhìn của chúng tôi, chúng tôi đoán rằng gã này lại chuyền nó cho hai mươi người nữa xếp hàng thành một cầu thang xoắn ốc dẫn đến gác lửng của địa ngục. Sau vài phút lo lắng, một người đàn ông với cái đầu hói hơi dị dạng đi ra và ngồi xuống, cắn môi và nhìn chúng tôi trừng trừng vẻ hăm dọa. Terry lôi ra một phong bì nhét đầy tiền và đẩy nó qua bên kia bàn. Việc này khiến tay buôn người dịu đi một chút. Chộp lấy cái phong bì, y đứng dậy. Chúng tôi đi theo y, bước chân chúng tôi tạo ra những tiếng vang kéo dài trong lúc bước dọc theo một lối đi, cuối lối đi là một căn phòng nhỏ không có cửa sổ, ở đó có hai tên cầm súng đón chúng tôi với ánh mắt lạnh tanh. Một tên quấy rối chúng tôi, lục soát vũ khí, và khi không tìm thấy gì, thì một người đàn ông trung niên ẻo lả diện bộ complet đắt tiền bước vào và im lặng nhìn chúng tôi. Sự bất động ấn tượng của gã khiến tôi có cảm giác như mình đang ở trong một câu chuyện của Conrad[64], tựa như tôi đang nhìn vào tâm khảm của bóng đêm. Dĩ nhiên gã này chỉ là một doanh nhân, với cùng một tình yêu dành cho lợi nhuận và thái độ vô cảm với nỗi đau khổ của con người hệt như những đối tác doanh nghiệp phương Tây của gã. Tôi nghĩ người đàn ông này có thể là một giám đốc cấp trung tại IBM hoặc một cố vấn luật cho ngành công nghiệp thuốc lá.
Bất thình lình, một tên trong đám vệ sĩ nện báng súng trường vào đầu Terry. Thân hình đồ sộ của chú ngã xuống đất. Chú bất tỉnh nhưng vẫn còn sống, nửa thân trên phập phồng theo hơi thở sâu, chậm rãi. Khi bọn chúng chĩa súng vào tôi, tôi nghĩ đây quả đúng là kiểu phòng mà tôi đã luôn tưởng tượng ra mình sẽ chết trong đó: bé xíu, thiếu không khí, và chen chúc những kẻ lạ mặt dửng dưng đứng nhìn.
“Mày là cảnh sát,” gã đàn anh nói bằng tiếng Anh.
“Không. Không phải cảnh sát,” bố phản đối. “Bọn tao là tội phạm bị truy nã. Giống bọn mày thôi. À, không giống bọn mày. Bọn tao không biết bọn mày có bị truy nã hay không. Có lẽ chẳng ai muốn truy nã chúng mày.”
“Mày là cảnh sát.”
“Không. Chúa ơi, nghe đây. Tao bị ung thư. Ung thư, mày biết không. Là ung thư đấy. Là chết đấy.” Rồi sau đó bố kể lại với chúng toàn bộ câu chuyện phi lý của ông về cú rơi từ đỉnh cao xuống vực sâu và trốn thoát khỏi Úc.
Tôi cứ tưởng theo lẽ thường ai nấy đều chấp nhận rằng những chuyện lố bịch dường này phải có thật, song lũ buôn người có vẻ bán tín bán nghi. Khi chúng cân nhắc số phận của chúng tôi, tôi nhớ Orwell[65] đã mô tả rằng tương lai là một chiếc giày bốt giẫm riết lên khuôn mặt người, và tôi nghĩ rằng xung quanh tôi là những chiếc giày bốt, những kẻ ghê gớm đến độ toàn nhân loại phải bị trừng phạt vì đã không làm gì để ngăn chặn sự tồn tại của chúng. Công việc của những kẻ buôn người này là tìm kiếm những con người tuyệt vọng, lột sạch từng xu của họ, nói dối họ trước khi tống họ lên những con tàu thông thường sẽ chìm nghỉm. Mỗi năm chúng gửi hàng trăm người đến chỗ chết vì khủng hoảng. Những kẻ chỉ biết bóc lột này là hội chứng bệnh đường ruột khó chịu của tạo hóa, tôi thầm nghĩ, và nhìn lũ người này như ví dụ điển hình của loài người, tôi nghĩ mình sẽ vui lòng biến mất nếu điều đó đồng nghĩa với việc chúng cũng không tồn tại.
Gã đàn anh nói nhỏ bằng tiếng Thái ngay khi Terry tỉnh lại. Chúng tôi giúp chú ấy đứng dậy, một việc vốn không mấy dễ dàng. Xoa đầu, chú nói, “Chúng nói anh sẽ phải trả hai mươi lăm nghìn.”
“Năm mươi nghìn,” tôi nói.
“Jasper,” bố thì thầm, “con không biết gì về mặc cả à?”
“Con cũng sẽ đi,” tôi nói.
Bố và Terry nhìn nhau. Cái nhìn của bố tối sầm và im lặng trong khi cái nhìn của em trai ông lại thao láo và hoang mang.
“Nhiều con tàu như thế này đã chìm khi còn rất lâu mới đến được Úc,” Terry lo lắng nói. “Marty! Em tuyệt đối cấm chuyện này! Anh không thể để Jasper đi với anh.”
“Tao không cản nó được,” bố nói, và tôi nhận ra trong giọng nói của ông một sự hân hoan bất chấp mạng sống của tôi vì giờ đây mạng sống của ông xem như đã hết.
“Jasper, cháu dại lắm. Đừng làm thế,” Terry phản đối.
“Cháu phải làm.”
Terry thở dài, và lầm bầm rằng tôi ngày càng giống bố mình. Thỏa thuận được xác định bằng một cái bắt tay và năm mươi nghìn tiền mặt mới cứng. Khi phi vụ đã kết thúc, những kẻ buôn người như trút được gánh nặng, thậm chí còn mời chúng tôi uống bia “miễn phí.” Nhìn những gã bất lương này, tôi tưởng tượng mình đã rẽ khỏi tuyến tiến hóa ở giai đoạn ban sơ và tiến hóa âm thầm, song song với con người nhưng luôn giữ khoảng cách.
“Hãy cho chú biết một điều, Jasper,” Terry nói sau khi chúng tôi rời khỏi nhà hàng. “Tại sao cháu lại đi?”
Tôi nhún vai. Chuyện phức tạp lắm. Tôi không muốn lũ buôn người, những con ma cà rồng khốn nạn ấy, chơi xỏ bố và ném xác ông xuống nước sau khi ở trên biển được nửa giờ. Nhưng đây không chỉ là lòng vị tha bộc phát; nó là một hình thức đánh phủ đầu. Tôi không muốn sự oán giận của bố ám ảnh mình sau khi ông xuống mồ, hoặc những cơn sóng tội lỗi lăn tăn vỗ vào sự bình yên trong tương lai của tôi. Nhưng trên hết, đó sẽ là một chuyến đi đầy cảm xúc: nếu ông có chết, dù ở trên biển hay giữa “những người đồng hương” (kệ mẹ chúng là ai), tôi vẫn muốn tận mắt chứng kiến, mặt đối mặt. Cả cuộc đời mình tôi đã bị người đàn ông này đẩy đi quá những giới hạn chịu đựng, và tôi cảm thấy bị xúc phạm khi nghĩ đến chuyện mình có thể bị lôi kéo quá nhiều vào tấn bi kịch của cuộc đời ông mà lại vắng mặt ở đoạn kết. Bố có thể là kẻ thù tồi tệ nhất của bản thân ông, nhưng ông cũng là kẻ thù tồi tệ nhất của tôi, và tôi sẽ tức ói máu nếu phải nhẫn nại ngồi chờ bên sông, như một câu ngạn ngữ Trung Hoa, để chờ xác ông trôi đến. Tôi muốn nhìn thấy ông chết và chôn cất ông và vỗ đất cho phẳng bằng chính đôi tay mình.
Tôi nói ra điều này với tư cách là một đứa con hiếu thảo.
III.Đêm cuối cùng của chúng tôi ở Thái Lan, Terry chuẩn bị một bữa tiệc linh đình, nhưng đã sớm bị bố làm hỏng bét vì ông không đến. Chúng tôi tìm khắp nhà, đặc biệt ở các phòng tắm và bồn cầu, bất kì cái lỗ nào mà ông có thể đã rơi xuống, nhưng chẳng thấy bóng dáng ông đâu. Cuối cùng, trên bàn ông, chúng tôi tìm thấy một lời nhắn ngắn gọn: “Jasper và Terry thân mến. Đến nhà chứa rồi. Về sau.”
Terry rất giận khi anh trai cố tránh mặt mình trong đêm cuối cùng ở bên nhau, và tôi không thể thuyết phục được chú ấy rằng mọi kẻ sắp chết đều phải thực hiện một nghi lễ cổ xưa của riêng mình. Kẻ thì nắm tay người thân; người khác lại thích tình dục không an toàn ở thế giới thứ ba.
Trước khi đi ngủ, tôi gói ghém một số thứ cho chuyến đi. Chúng tôi đã đem theo rất ít khi đến Thái Lan, và tôi chuẩn bị thậm chí còn ít hơn thế cho chuyến trở về - một bộ quần áo để thay cho mỗi người, hai cái bàn chải đánh răng, một ống kem đánh răng, và hai lọ thuốc độc được Terry đem đến đưa cho tôi bằng đôi tay run rẩy trong bữa tối. “Của cháu đây, cháu trai,” chú nói, đưa cho tôi những tuýp nhựa nhỏ chứa thứ chất lỏng đục ngầu. “Trong trường hợp con tàu trôi dạt không đích đến hoặc kết cục nằm dưới đáy biển và cháu chỉ có thể chờ đến lúc chết đói hoặc chết chìm, thì đây! Lựa chọn thứ ba!” Chú cam đoan với tôi đấy là loại thuốc độc có tác dụng nhanh và tương đối không đau, dù tôi đắn đo mãi hai chữ “tương đối”, chột dạ khi nghĩ chúng tôi sẽ kêu gào vật vã trong một khoảng thời gian ngắn hơn so với những loại thuốc độc khác trong cửa hàng. Tôi giấu các tuýp nhựa vào một cái túi có dây kéo nằm bên hông túi xách của mình.
Suốt đêm tôi không tài nào chợp mắt. Tôi nghĩ về Caroline và sự bất lực của bản thân mình khi không thể cứu dì. Thật thất vọng khi đầu óc của tôi hóa ra chỉ có thế. Sau tất cả những gì tôi chứng kiến trong đời, tôi cơ hồ đã tin rằng bánh xe của lịch sử cá nhân xoay vòng nhờ suy nghĩ, và do đó lịch sử của tôi rất lầy lội vì suy nghĩ của tôi rất lầy lội. Tôi tưởng tượng rằng mọi thứ mà tôi đã trải nghiệm đến giờ phút này có thể là sự hiện thực hóa những nỗi sợ của tôi (đặc biệt là nỗi sợ của tôi đối với những sợ hãi của bố). Tóm lại, tôi đã có lúc tin rằng nếu tính cách làm nên số phận, và nếu tính cách là tổng hợp các hành động, và các hành động là kết quả của suy nghĩ, thì tính cách, hành động, và số phận của con người phụ thuộc vào những gì người đó nghĩ. Bây giờ thì tôi không chắc lắm.
Một giờ trước bình minh, khi đã đến lúc lên đường để đón tàu, bố vẫn chưa quay về. Tôi tưởng tượng ông hoặc là đã lạc đường ở Bangkok, mệt mỏi vì mất cả đêm để mặc cả với gái điếm, hoặc là đang đắm mình trong bồn tắm đầy bọt xà phòng tại một khách sạn sang trọng, đã đổi ý về chuyến đi mà không báo cho chúng tôi biết.
“Chúng ta làm gì bây giờ?” Terry hỏi.
“Ta đi xuống bến tàu đi. Có thể bố sẽ đến đấy.”
Mất nửa giờ lái xe đến bến tàu, băng qua thành phố chật chội rồi sau đó qua những khu ngoại ô xiêu vẹo trông như một ngôi nhà khổng lồ xếp bằng lá bài vừa đổ nhào. Chúng tôi đỗ xe cạnh một cầu tàu dài. Mặt trời đang nhô lên từ đường chân trời, tỏa sáng qua lớp sương mù. Xa xa phía trên, chúng tôi chỉ có thể nhận ra những đám mây mang hình những cái đầu bị cắt đứt.
“Nó kia rồi,” Terry nói.
Khi tôi trông thấy chiếc tàu đánh cá, cái quan tài tương lai ọp ẹp của chúng tôi, mọi khớp nối trong cơ thể tôi cứng đờ. Đó là một chiếc tàu gỗ tạm bợ, trông như một cổ vật được phục chế sơ sài để kịp đem ra trưng bày. Tôi thầm nghĩ: đây là nơi chúng tôi sẽ bị nhồi nhét như những miếng gan cá thu.
Không lâu sau, những người xin tị nạn, những Kẻ trốn chạy, bắt đầu xuất hiện thành từng nhóm hai, ba người, sợ hãi, ngờ vực. Có đàn ông, đàn bà, và trẻ con. Tôi nhẩm tính trong đầu khi họ chen chúc ở bến tàu - tám... mười hai... mười bảy... hai mươi lăm... ba mươi... Họ đến ngày một đông. Có vẻ như con tàu nhỏ bé này không thể nào chứa hết tất cả chúng tôi. Các bà mẹ ôm chặt những đứa con trai con gái của họ. Bỗng dưng tôi muốn khóc. Bạn không thể giả vờ như không trông thấy tình cảnh một gia đình đánh liều sự sinh tồn của những đứa con để cho chúng một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Nhưng họ ở đây! Những Kẻ trốn chạy! Họ ở đây, thể hiện cùng lúc cảm xúc về nỗi tuyệt vọng và niềm hi vọng của con người, ngấm ngầm túm tụm với nhau, xem xét con tàu với thái độ nghi hoặc tột độ. Họ không ngu ngốc. Họ biết họ sắp bước vào một trò chơi tung xu sấp ngửa. Họ nghi ngại con tàu gỉ sét này khó lòng giải thoát được cho họ. Tôi nhìn họ dò xét, tự hỏi: Liệu chúng tôi có phải tính đến giải pháp ăn thịt người trước khi chuyến hải hành kết thúc hay không? Liệu tôi có phải ăn cái đùi của người đàn ông ấy và uống tủy sống của người đàn bà kia với một cái ly nước giã kèm theo không?
Tôi đứng đợi cùng Terry trên cầu tàu. Những kẻ buôn người không biết từ đâu xuất hiện, tất cả đều mặc đồ kaki. Gã thuyền trưởng bước ra khỏi tàu. Đó là một gã đàn ông mảnh khảnh có gương mặt mệt mỏi. Gã đứng đấy chà xát gáy mình liên tục tựa như nó là một cái chai có vị thần bên trong. Gã ra lệnh cho tất cả chúng tôi lên tàu.
“Cháu sẽ không đi nếu bố không đi,” tôi nói với một sự nhẹ nhõm tột độ.
“Đợi đã! Ông ấy kia rồi!”
Mẹ kiếp, đúng thế, ông ấy kia rồi, đang đi xuống bến tàu, lê bước về phía chúng tôi.
Ai đó từng nói rằng ở tuổi năm mươi, mọi người đều mang gương mặt xứng với tuổi. Chà, tôi xin lỗi, nhưng không có ai ở bất kì độ tuổi nào lại mang gương mặt xứng với gương mặt của bố khi ông tiến về phía chúng tôi. Nom như trọng lực đã bị rối loạn và kéo khuôn mặt ông vừa xuống đất vừa lên mặt trăng cùng lúc.
“Nó đấy ư? Con tàu đấy ư? Con tàu chết tiệt đấy ư? Nó có chống thấm không? Trông nó có vẻ lỏng lẻo quá.”
“Đúng là nó đấy.”
“Trông như nó không thể trôi trong không trung.”
“Con đồng ý. Bây giờ đổi ý thì vẫn chưa muộn đâu.”
“Không, không. Chúng ta vẫn đi.”
“Được.” Mẹ kiếp.
Mặt trời đang lên. Trời sắp sáng. Gã thuyền trưởng tiến đến và giục chúng tôi lên tàu lần nữa. Terry đặt một tay lên vai gã và bóp chặt nó như một quả chanh.
“Được rồi. Hãy nhớ những gì tao đã dặn mày: nếu hai người này không đến được Úc trong điều kiện tốt nhất, thì tao sẽ giết mày.”
“Và nếu nó không làm thế,” bố nói, “hồn ma của tao sẽ quay về và đá vào trứng mày.”
“Thỏa thuận vậy đi,” Terry nói. “Mày hiểu chưa?”
Gã thuyền trưởng ngán ngẩm gật đầu. Trông gã có vẻ như đã quen với những lời dọa nạt.
Terry và bố đứng nhìn nhau như hai người chuẩn bị đấu vật. Bố gắng gượng mỉm cười, nhưng khuôn mặt ông không đỡ nổi sự căng thẳng đột ngột. Terry thở phì ra, giống như đang leo cầu thang, và vỗ nhẹ lên cánh tay bố.
“Ái chà. Đây quả là một cuộc đoàn tụ khốn nạn, nhỉ?”
“Tao rất tiếc cái chết đã biến tao thành kẻ thối tha,” bố nói. Trông ông thật lúng túng với lời tạm biệt này, ông đưa tay lên đầu như thể ông đang lo nó sẽ nổ tung. Rồi họ mỉm cười với nhau. Bạn có thể thấy toàn bộ cuộc đời họ qua nụ cười ấy: tuổi thơ của họ, những cuộc phiêu lưu của họ. Nụ cười nói rằng, “Chẳng phải chúng ta đã trở thành hai sinh vật buồn cười và khác nhau sao?”
“Chúc anh có một cái chết nhẹ nhàng êm ái,” Terry nói, “và cố đừng lôi Jasper theo cùng đấy.”
“Nó sẽ ổn thôi,” bố nói, và quay đi khỏi em trai mình, ông bước lên con tàu đang dập dềnh gõ vào cầu tàu.
Terry nắm vai tôi và mỉm cười. Chú rướn về trước, tỏa hương rau mùi và sả, và đặt một nụ hôn lên trán tôi. “Cháu bảo trọng nhé.”
“Chú sẽ làm gì?” tôi hỏi.
“Chú nghĩ chú sẽ đi khỏi Thái Lan. Có thể chuyển đến Kurdistan hoặc Uzebekistan, một nơi nào đấy mà chú không đánh vần được. Chú sẽ cố gắng gầy dựng một liên doanh ở đấy. Toàn bộ chuyện về bố cháu và Caroline đã làm chú nghĩ lại một chút. Chú nghĩ mình cần thực hiện một hành trình lâu dài, trắc trở. Để xem chuyện gì sẽ xảy ra. Chú có cảm giác ngộ nghĩnh là toàn thể thế giới sẽ tan thành khói bụi. Cuộc chiến đã bắt đầu, Jasper ạ. Hãy nhớ lấy lời chú. Những kẻ vô sản đang tập hợp hành động. Và những kẻ tư sản đã có mặt cho một cuộc đua nước rút.”
Tôi đồng ý rằng có vẻ như tình hình đang diễn ra theo hướng đó.
“Chú có định xuất đầu lộ diện và trở về Úc không?”
“Một ngày nào đó chú sẽ trở về và khiến cho tất cả bọn họ sợ chết khiếp.”
“Thôi nào, về nhà thôi,” bố quát to từ trên boong tàu.
Terry nhìn bố và đưa lên một ngón tay để nói chú cần thêm một phút. “Jasper, trước khi cháu đi, chú muốn cho cháu một hai lời khuyên.”
“Được thôi.”
“Quan sát cháu trong mấy tháng qua, chú nhận ra rằng có một điều mà cháu mong muốn tột độ. Cháu muốn không bị giống như bố cháu.”
Tôi đã không giấu giếm chuyện đó, cả với bố.
“Đến lúc này hẳn cháu đã nhận ra rằng nếu cháu suy nghĩ can đảm, cháu sẽ băng qua những con đường đông đúc mà không cần nhìn trước ngó sau, và nếu cháu suy nghĩ tàn bạo, độc ác, cháu sẽ trở thành kẻ giật phăng cái ghế mỗi khi có ai đó định ngồi xuống. Cháu nghĩ thế nào thì thành người như thế ấy. Vì thế nếu cháu không muốn trở thành bố mình, thì đừng huyễn hoặc mình vào một góc như bố cháu - cháu cần phải suy nghĩ theo hướng mở cửa tâm hồn, và cách duy nhất để làm việc đó là cứ vô tư sống mà không biết mình đúng hay sai, hãy chơi trò chơi của đời mình mà không cần phải cố gắng hiểu ra luật lệ. Hãy thôi phán xét cuộc sống, tận hưởng sự phù phiếm, đừng để chuyện giết chóc làm cháu vỡ mộng, hãy nhớ rằng những kẻ nhịn ăn thì sống trong khi những người đói ăn thì chết, hãy phá ra cười khi ảo tưởng của cháu tan tành, và trên hết, hãy luôn trân trọng từng phút từng giây của kì nghỉ ngớ ngẩn ở địa ngục này.”
Tôi không biết phải nói gì. Tôi cám ơn Terry, ôm chú lần cuối, rồi lên tàu.
Khi con tàu ra khơi, qua một tấm màn khói động cơ đen kịt, tôi vẫy tay từ biệt Terry cho đến khi chú khuất khỏi tầm mắt. Tôi nhìn sang bố để xem liệu ông có buồn vì sẽ không bao giờ gặp lại em trai mình, và tôi nhận ra ông đã xoay người theo hướng ngược lại, chăm chú nhìn đường chân trời và nở một nụ cười lạc quan vô duyên hết sức.
IV.Đại dương mới khủng khiếp làm sao! Hàng tuần liền như thế!
Có vẻ như thuyền trưởng không tài nào khống chế nổi con tàu. Những đợt sóng to đe dọa chúng tôi từ mọi hướng. Chiếc tàu đánh cá bị hất tung thô bạo. Có cảm giác như nó không chỉ bị quăng tới quật lui mà còn quay như chong chóng và lộn nhào, xoay tròn điên cuồng trong không trung.
Phía dưới boong tàu, mọi ô cửa sổ đều bị hàn kín và sơn đen bằng hắc ín. Sàn tàu lót giấy bồi lấm lem đất cát, hành khách nằm ngủ trên những tấm đệm mỏng dính như drap trải giường. Tôi nhớ lại lúc mình mới đến Thái Lan, ai cũng bảo tôi đừng chĩa chân vào đầu người khác. Giờ đây, trong không gian chật chội, mọi người bị nhồi nhét sát vào nhau đến nỗi thành thử bạn phải chĩa chân không chỉ vào đầu người lạ mà còn vào cả mặt của họ, ngày này qua ngày khác. Bố và tôi bị nhét vào một góc chật chội, kẹp giữa những bao gạo to tướng và một gia đình nghiện thuốc lá nặng đến từ miền nam Trung Quốc.
Trong cái chuồng nóng và nhễ nhại đó, lượng khí oxy duy nhất mà chúng tôi hít vào chính là từ những hành khách khác thở ra. Nằm dưới boong tàu chính là bị nhận chìm trong một cơn ác mộng. Sự va chạm của chân tay và những phần thân trên gầy giơ xương thật gây khó chịu, đặc biệt trong cảnh tối tăm ngột ngạt, ở đó những giọng nói - những âm thanh kì dị, lạnh xương sống, khò khè - tạo nên những cuộc trò chuyện xa lạ mà chúng tôi bị cách ly. Nếu phải ra ngoài để hít thở khí trời, thì đấy không phải đi chen qua họ mà là bị xô đẩy không thương tiếc từ đầu này đến đầu kia của thân tàu.
Thỉnh thoảng, bố và tôi ngủ trên boong tàu cứng và có lằn, gối đầu lên những cuộn dây thừng ướt sũng, nặng trịch, dính đầy sình từ đáy biển nay đây mai đó. Ở trên đấy cũng chẳng khá khẩm hơn là bao; ban ngày nóng kinh khủng, trời mưa liên tục, và ai có thể tưởng tượng nổi lũ muỗi lại bay xa đến tận ngoài khơi? Chúng không ngừng gặm nhấm chúng tôi. Chúng tôi không nghe được cả tiếng mình nguyền rủa Thượng đế trong tiếng động cơ tành tạch ầm ĩ, ở đó liên tục phun ra những đám khói đen.
Buổi tối chúng tôi nằm nhìn lên trời, nơi những ngôi sao đang bơi trong nhiều hình dạng, và những hình dạng ấy nom thật đáng sợ bởi tiếng nức nở, gào thét, kêu la trong mê sảng, phần lớn là từ bố.
Các giai đoạn cuối của bệnh ung thư thật chẳng dễ chịu chút nào. Bố bị hoang mang, mê sảng, co giật; ông mắc phải những chứng đau đầu dữ dội, chóng mặt, nói nhịu, choáng váng, buồn nôn, nôn mửa, run rẩy, đổ mồ hôi, đau cơ không chịu nổi, yếu lả người, và ngủ mê man như bị hôn mê. Ông bảo tôi trút vào miệng ông những viên thuốc trong một cái lọ không đọc được nhãn. Đó là thuốc giảm đau, ông nói thế. Như vậy là những dự án bất tử khác nhau của bố đã nhường chỗ cho dự án tử quan trọng hơn của ông: chết trong cảnh ít đau đớn nhất.
Chẳng ai thích có một người mắc bệnh trên tàu. Họ biết hành trình này đòi hỏi sức lực và sự chịu đựng, vả lại, dù bạn có theo tôn giáo nào, thì một người sắp chết cũng đều là điềm gở đối với tôn giáo ấy. Có lẽ vì chuyện này mà những Kẻ trốn chạy lưỡng lự không chia khẩu phần với chúng tôi. Mà không chỉ có vấn đề sức khỏe của bố khiến họ phiền lòng - chúng tôi còn bốc mùi của người lạ. Họ biết chúng tôi là những gã người Úc đã trả một khoản tiền khổng lồ để về quê một cách bất hợp pháp. Họ không thể hiểu nổi chuyện đó.
Một buổi tối khi đang ở trên boong tàu, tôi bị một tiếng quát làm cho tỉnh giấc. “Tại sao mày ở đây?” Tôi mở mắt, nhìn thấy gã thuyền trưởng đang đứng phía trên chúng tôi, hút thuốc phì phèo. Gương mặt gã trông như quyển tiểu thuyết ba xu mà tôi chẳng có sức để đọc. “Tao nghĩ lão sẽ không qua khỏi đâu,” vẫn là giọng nói của gã thuyền trưởng, trong lúc bàn chân gã nhứ nhứ vào bụng bố. “Có lẽ chúng ta nên ném lão đi.”
“Có lẽ tao ném mày đi thì có,” tôi đáp.
Một người trong những Kẻ trốn chạy đứng dậy phía sau tôi và quát lên gì đó với gã thuyền trưởng bằng một ngôn ngữ mà tôi không nhận ra. Gã thuyền trưởng lùi lại. Tôi quay qua nhìn. Kẻ trốn chạy này trạc tuổi tôi, có đôi mắt to và đẹp quá hớp so với khuôn mặt u buồn. Cậu ta có mái tóc xoăn dài và những sợi lông mi dài cong vút. Mọi thứ trên người cậu ta đều cong và dài.
“Họ nói anh là người Úc,” cậu ta nói.
“Đúng vậy.”
“Tôi muốn lấy một cái tên Úc. Anh nghĩ ra một tên giúp tôi được không?”
“Được chứ. Xem nào... Ned.”
“Ned?”
“Ned.”
“Được rồi. Bây giờ tôi là Ned. Anh làm ơn gọi tên mới của tôi để xem tôi có quay sang không nhé?”
“Được.”
Ned nhìn đi chỗ khác và tôi gọi “Shane!” để kiểm tra. Cậu ta không mắc bẫy. Sau đó tôi thử gọi cậu ta là Bob, Henry, Frederick, và Hotpants21, nhưng cậu ta vẫn không chút nao núng. Rồi tôi gọi “Ned!” và cậu ta quay lại, nhe răng cười như điên.
“Cám ơn anh,” cậu ta lịch sự nói. “Tôi hỏi anh một câu được không?”
“Hỏi đi.”
“Tại sao các người lại ở đây? Tất cả chúng tôi đều muốn biết.”
Tôi nhìn sau lưng mình. Những người khác đã chui từ buồng tàu phía dưới lên để gột sạch lá phổi bẩn của họ trong trời đêm. Bố đang vã mồ hôi và sốt bừng bừng, Ned chìa ra một cái giẻ ướt cho tôi xem.
“Cho phép tôi nhé?” cậu ta hỏi tôi.
“Cứ tự nhiên.”
Ned ấn miếng giẻ ướt vào trán bố. Bố bật ra một tiếng thở dài. Những hành khách đi cùng hỏi to gì đó với Ned, và cậu ta trả lời to lại trước khi vẫy họ đến. Họ dịch đến sát hơn, tạo thành đám đông xung quanh chúng tôi, và bắn vào tai chúng tôi những tràng tiếng Anh lõm bõm. Những diễn viên đóng vai phụ xa lạ này, đến vào phút cuối để diễn vai khách mời trong đoạn kết của cuộc đời một con người, muốn được biết.
“Ông tên gì?” Ned hỏi bố.
“Tôi là Martin. Đây là Jasper.”
“Vậy, Martin, tại sao ông lại vào nước Úc theo cách này?” Ned hỏi.
“Họ không muốn tôi đến đó,” bố uể oải đáp.
“Ông đã làm gì?”
“Tôi đã phạm phải những sai lầm tồi tệ.”
“Ông giết ai à?”
“Không.”
“Ông cưỡng hiếp ai à?”
“Không. Không phải như thế. Đó là một... sai sót tài chính.” Ông cau mày. Giá mà bố đã cưỡng hiếp và giết người. Những tội danh ấy ít ra cũng đáng để lấy mạng ông, và có lẽ mạng tôi nữa.
Ned dịch cụm từ “sai sót tài chính” cho những người khác, và cứ như định sẵn, tấm màn mây dày tách ra, để mặt trăng soi sáng sự bối rối trên khuôn mặt họ. Nhìn họ quan sát chúng tôi, tôi tự hỏi liệu họ có manh mối nào, dù là nhỏ nhất, về những gì nên mong đợi ở nước Úc. Tôi cho rằng họ biết họ sẽ sống một cuộc đời chui nhủi, bị bóc lột trong nhà thổ, nhà máy, công trường xây dựng, bếp ăn nhà hàng, và bị ngành công nghiệp thời trang vắt kiệt sức, buộc họ may vá đến lúc những ngón tay chỉ còn giơ xương. Nhưng tôi rất nghi ngờ chuyện họ biết đến sự ganh đua như trẻ mới lớn giữa các nhà lãnh đạo chính trị để xem ai có chính sách nhập cư nghiêm khắc nhất, kiểu chính sách mà bạn sẽ không muốn gặp trong hang cùng ngõ hẻm. Hoặc giả công chúng đã mặc định chống lại họ, vì ngay cả khi bạn chạy trốn để bảo toàn mạng sống, bạn vẫn phải chờ đến lượt, hoặc giả nước Úc, như mọi nơi khác, rất xuất sắc trong việc phân biệt theo cảm tính những người có vẻ quan trọng.
Nếu họ biết chuyện này đi nữa thì cũng chẳng có thời gian để nghĩ ngợi nhiều về nó. Sống sót sau chuyến đi là ưu tiên duy nhất, và đó không phải là một trò dễ xơi. Mọi việc đang xấu dần đi. Nguồn lương thực suy giảm. Gió mưa tàn phá con tàu. Những con sóng cuồn cuộn khổng lồ đe dọa lật úp chúng tôi bất cứ lúc nào. Có những lúc chúng tôi không thể buông tay khỏi lan can tàu nếu không sẽ bị hất văng khỏi tàu. Chúng tôi thấy chẳng tiến gần hơn nước Úc là bao so với khi khởi hành, và ngày càng khó tin rằng đất nước chúng tôi, hay bất kì đất nước nào khác, còn tồn tại. Đại dương ngày một rộng lớn. Nó bao trùm toàn trái đất. Bầu trời cũng rộng lớn hơn - được nâng lên cao hơn, kéo căng đến điểm tận cùng. Con tàu của chúng tôi là vật bé nhỏ nhất trong tạo hóa, còn chúng tôi là những chấm li ti. Sự đói khát nhấn chìm chúng tôi thêm một bậc. Cơn nóng là bộ đồ hóa trang giả béo toàn thân mà tất cả chúng tôi cùng mặc. Nhiều người run cầm cập vì sốt. Chúng tôi phát hiện đất liền một hoặc hai lần, và tôi thét vào màng nhĩ của gã thuyền trưởng, “Chạy về phía đó đi, vì Chúa!”
“Đó không phải là nước Úc.”
“Ai mà quan tâm? Đó là đất liền! Đất khô! Chúng ta sẽ không chết chìm ở đó!”
Con tàu tăng tốc, cắt thành một đường sủi bọt trên đại dương đang sôi sùng sục vì những tư tưởng hằn học.
Thật ngạc nhiên khi con người sắp chết lại có thể điềm tĩnh trong một cái gánh xiếc như vậy. Tôi không bao giờ tin nổi. Tôi cứ nghĩ chúng tôi sẽ xé thịt nhau, uống máu những người anh em của mình, nhưng sự thể hoàn toàn không giống thế một chút nào. Mọi người quá mệt mỏi. Phải, có tiếng khóc và khá nhiều nỗi bất mãn cay đắng, nhưng đó là nỗi bất mãn cay đắng lặng lẽ và u buồn. Chúng tôi là những sinh vật nhỏ bé, teo tóp, quá yếu ớt để có thể phản đối nghiêm túc bất kể bằng cách nào.
Phần lớn thời gian bố nằm bất động trên boong tàu, trông như một món đồ chơi nhồi bông đáng sợ để tặng cho một đứa bé trong lễ Halloween.
Tôi vỗ nhẹ lên trán ông, nhưng ông chỉ thu đủ sức để hất tôi ra.
“Bố sắp chết rồi,” ông cay đắng nói.
“Đợi thêm vài ngày nữa thì con cũng chết luôn,” tôi nói, để làm ông vui lên.
“Bố xin lỗi về chuyện đó. Bố đã bảo con đừng đi,” ông nói, biết rõ rằng ông đã không hề nói thế.
Bố đang cố gắng tỏ vẻ ăn năn hối lỗi vì đã ích kỉ định sắp xếp số phận của tôi theo hướng số phận của ông. Nhưng tôi biết nhiều hơn thế. Tôi biết một điều mà ông sẽ không bao giờ thừa nhận - đó là ông chưa bao giờ từ bỏ hẳn ảo tưởng cũ kĩ, bệnh hoạn của ông rằng tôi là sự đầu thai non của bản thân còn sống của ông - và giờ đây ông nghĩ rằng nếu tôi chết, thì ông có thể sẽ sống tiếp.
“Jasper, bố sắp chết rồi,” ông lại nói.
“Chúa ơi, bố à! Nhìn quanh mà xem! Mọi người ở đây đều sắp chết cả! Tất cả chúng ta đều sẽ chết!”
Điều đó khiến ông nóng máu. Ông phát điên vì cái chết của ông không được xem như một sự cố bi thương biệt lập. Phải chết giữa những kẻ đang hấp hối, như một con số, quả thật là chuyện chướng tai gai mắt đối với ông. Tuy nhiên, phần lớn chính vì lời cầu nguyện trời phật không dứt mà bố nổi đóa. “Bố ước gì lũ ngốc này câm miệng đi cho,” bố nói.
“Những người này là người tốt, bố ạ. Chúng ta nên lấy làm hãnh diện được chết chìm cùng với họ.”
Nhảm nhí. Tôi đang nói toàn chuyện nhảm nhí. Nhưng bố đã quyết tâm rời bỏ dương thế trong sự thù hằn, và tôi chẳng thể làm gì để thuyết phục ông đổi ý. Ngay cả khi cuộc đời ông đã được đóng gói và tấm hộ chiếu cuộc đời được đóng dấu, ông vẫn khước từ thế giới tín ngưỡng đến lần thứ bao nhiêu không biết.
Chúng tôi là những kẻ duy nhất không cầu nguyện, và sự thực chứng của những Kẻ trốn chạy quả thật khiến bố và tôi cảm thấy xấu hổ. Họ vẫn có cảm giác rằng những điều đáng yêu đang khuấy động trong không gian. Họ lâng lâng trong chuyến tháo chạy ngây ngất, hạnh phúc vì thần thánh của họ không phải là loại thần thánh tinh thần, chả giúp được gì cho ta trong cơn nguy khốn có thật như một vụ đắm tàu chẳng hạn; thần thánh của họ rất cổ điển, loại thần thánh hướng toàn thể tạo hóa vào khát vọng của cá nhân. Thật quý hóa làm sao! Thần thánh của họ thực sự lắng nghe con người, và đôi khi can thiệp nữa. Thần thánh của họ phù hộ độ trì cho những nguyện vọng cá nhân! Đó là Người mà bạn biết là ai đấy! Vì lẽ đó mà trong trải nghiệm riêng của mình, họ không hề biết đến nỗi khủng hoảng lạnh lẽo của chúng tôi: chúng tôi không hình dung ra được ngón cái và ngón trỏ khổng lồ nào mò xuống từ thiên đường để nhặt chúng tôi ra khỏi cơn khốn khó.
Tôi chăm sóc cho bố trong trạng thái giống như bị thôi miên. Trong bóng tối ông đưa ra vô vàn sáng kiến về cuộc sống và cách sống. Tuy nhiên, chúng có phần rối rắm và tầm thường hơn cả những lời chỉ trích thường ngày của ông, và tôi nhận ra rằng khi bạn suy sụp, thứ duy nhất bạn phải nắm chặt là chính bạn. Khi ông nói, tôi giả vờ lắng nghe. Nếu ông muốn ngủ, tôi cũng ngủ cùng. Khi bố rên rỉ, tôi cho ông uống thuốc giảm đau. Chẳng còn gì khác để làm. Ông đang đau đớn, đôi mắt xa xăm của ông trở nên xa xăm hơn bao giờ hết. Tôi biết ông đang nghĩ đến Caroline. “Martin Dean - hắn quả thật đã là một thằng ngốc!” ông nói. Ông cảm thấy được an ủi khi nói về bản thân mình ở ngôi thứ ba trong thì quá khứ.
Thỉnh thoảng Ned cho tôi nghỉ ngơi. Cậu ta thay tôi cho bố uống nước và nhận nhiệm vụ vờ lắng nghe màn độc thoại đều đều không dứt của ông. Những lúc đó tôi bò qua thân người nửa tỉnh nửa mê của những kẻ đồng hành để lên boong tàu hít thở chút khí trời. Phía trên tôi bầu trời mở ra như một cái sọ bị nứt. Những ngôi sao đang lấp lánh như những hạt mồ hôi. Tôi tỉnh táo, nhưng những giác quan của tôi đang mơ ngủ. Mồ hôi của tôi có vị xoài, rồi chocolate, rồi quả bơ. Đây là một thảm họa! Bố chết quá chậm và chịu quá nhiều đau đớn. Tại sao ông không tự vẫn cho rồi? Tại sao những kẻ vô thần tuyệt đối lại chịu đựng quá nhiều khổ sở không đáng như vậy? Ông đang đợi điều gì?
Đột nhiên tôi nhớ ra. Thuốc độc!
Tôi chạy xuống và leo qua tấm đệm người rồi sốt sắng thì thầm vào tai ông. “Bố có muốn thuốc độc không?”
Bố ngồi dậy nhìn tôi với đôi mắt sáng rực. Cái chết có thể được kiểm soát, đôi mắt ấy nói. Sức lực sinh tồn của chúng tôi phần nào được nạp nhiên liệu, nhờ có thuốc độc.
“Sáng mai vào lúc bình minh,” ông nói. “Chúng ta sẽ cùng nhau làm việc đó.”
“Bố - con sẽ không uống thuốc độc đâu.”
“Không, đương nhiên là không. Ý bố không phải là con sẽ uống nó. Ý bố là bố sẽ uống còn con sẽ nhìn.”
Tội nghiệp bố. Ông luôn ghét sự cô đơn, và giờ đây ông đang đối mặt với hình thái cô đơn sâu sắc nhất, tập trung nhất trên cõi đời này.
Nhưng vào lúc bình minh trời đổ mưa, và ông không muốn tự tử trong mưa.
Khi mưa tạnh, trời lại quá nóng không thể chấm dứt sự sống.
Vào ban đêm bố lại muốn trút hơi thở cuối cùng trong ánh nắng ấm áp của mặt trời.
Nói tóm lại, ông chưa bao giờ sẵn sàng. Ông không ngừng do dự. Ông luôn tìm ra được cớ mới để thoái thác: mưa nhiều quá, mây nhiều quá, nắng quá, sóng to quá, sớm quá, muộn quá.
Hai hoặc ba ngày khổ sở đã trôi qua như thế.
***
Cuối cùng nó xảy ra ngay sau hoàng hôn vào khoảng tuần thứ hai hoặc thứ ba trên biển. Một cơn sóng bọt trắng xóa ập vào dưới boong tàu. Chúng tôi bị nhấn chìm một nửa. Tiếng kêu rít chẳng giúp được gì. Khi đại dương lặng sóng, bố ngồi dậy trong bóng tối. Ông bỗng dưng không thở được. Tôi cho ông uống ít nước.
“Jasper, bố nghĩ đã đến lúc.”
“Làm sao bố biết?”
“Bố chỉ biết thế thôi. Bố luôn nghi ngờ kiểu của mấy người trong phim biết rằng đã đến lúc ra đi, nhưng đúng là thế. Thần chết biết gõ cửa. Hắn thực sự gõ cửa.”
“Con có thể làm được gì không?”
“Đưa bố lên trên, đợi đến khi bố chết, rồi đẩy bố xuống biển.”
“Con tưởng bố không muốn bị chôn dưới nước.”
“Bố nào muốn. Nhưng lũ khốn này đã nhìn bố như thể bố là một miếng thịt cừu to tướng.”
“Ung thư không hẳn đã làm bố trông ngon miệng đâu.”
“Đừng cãi bố. Khi bố chết rồi, bố không muốn trải qua một phút nào trên con tàu này nữa.”
“Con hiểu rồi.”
Những Kẻ trốn chạy không rời mắt khỏi chúng tôi. Họ nói với nhau bằng giọng thì thầm bí ẩn khi Ned giúp tôi đưa bố ra khỏi đó.
Lên đến boong tàu ông thở dễ hơn. Không khí Thái Bình Dương có vẻ làm ông khá hơn đôi chút. Chuyển động mênh mông của đại dương xoa dịu ông. À, ít nhất thì tôi cũng muốn nghĩ như thế. Đây là những khoảnh khắc cuối cùng của ông, và tôi muốn nghĩ rằng vào phút cuối ông đã thôi không còn thấy sự vô nghĩa vũ trụ của ông là điều nhục nhã, rằng cuối cùng ông đã cảm thấy có gì đó bất thường khi sống không ý nghĩa, rằng dù sao cũng thú vị khi đó là một tai nạn tại miền đất hoang đáng sợ của không-thời-gian. Tôi hi vọng rằng, khi đưa mắt nhìn màn trình diễn tuyệt diệu của đại dương trong màu xanh dâng tràn và đối mặt với cơn gió biển cuồng nộ, biết đâu ông đã thấu hiểu rằng màn trình diễn trên sân khấu vũ trụ là một vở kịch vĩ đại hơn mà ông khó lòng mơ tưởng được giao một vai chính. Nhưng không, ông không thèm nhìn lại sự tồn tại của mình - ông không mảy may đùa cợt về nó cho đến phút chót. Ông tiến về cái chết của mình như một người tử vì đạo tiến về lý tưởng bí mật của y, không muốn hạ nhục bản thân mình.
Tôi ghi chép lại phút cuối của ông trong trạng thái buồn bã của một người viết tiểu sử quá thân cận với chủ thể của mình.
Màn đêm tĩnh mịch, chỉ có tiếng kẽo kẹt của con tàu và tiếng nước vỗ nhè nhẹ. Mặt trăng treo sáng ngời trên đường chân trời. Chúng tôi đang tiến thẳng về phía nó. Thuyền trưởng đang xoay bánh lái hướng chúng tôi tiến vào mặt trăng. Tôi tưởng tượng một cánh cửa hầm mở ra. Tôi tưởng tượng chúng tôi trôi lững lờ bên trong. Tôi tưởng tượng cánh cửa đóng sầm lại sau lưng chúng tôi và âm thanh của tiếng cười điên dại. Tôi tưởng tượng ra những thứ này để làm bản thân quên đi cái chết của bố.
“Nhìn đi, ông Martin, nhìn mặt trăng xem,” Ned nói. “Nhìn xem nó được vẽ lên trời như thế nào. Thượng đế quả thật là một nghệ sĩ.”
Điều đó đem đến cho bố một cơn bùng phát năng lượng. “Tôi hi vọng không phải thế, vì sinh mạng của tất cả chúng ta,” ông đáp. “Thú thật, Ned ạ, cậu có bao giờ gặp một nghệ sĩ chưa? Họ chẳng phải người tử tế đâu. Họ là giống người ích kỉ, ngạo mạn, và độc ác, suốt ngày chỉ biết đắm chìm trong cơn trầm cảm tự sát. Kể cho cậu ta nghe đi, Jasper.”
Tôi thở dài, thuộc bài diễn văn này nằm lòng. “Nghệ sĩ là loại người lừa dối nhân tình, từ bỏ những đứa con hợp pháp của họ, và khiến những kẻ xui xẻo quen biết họ phải chịu đựng khủng khiếp vì cố gắng thể hiện lòng tốt với họ,” tôi nói.
Bố ngẩng đầu lên để nói thêm, “Vậy mà cậu tự hào gọi Thượng đế là nghệ sĩ và hi vọng ông ta quan tâm đến cậu ư? Chúc cậu may mắn!”
“Ông thiếu niềm tin.”
“Cậu có bao giờ tự hỏi tại sao Thượng đế của cậu lại đòi hỏi niềm tin? Có phải vì thiên đường chỉ có số chỗ ngồi hạn chế và sự cần thiết của đức tin là cách mà Thượng đế hạn chế số lượng?”
Ned nhìn ông vẻ thương hại, lắc đầu và không nói gì.
“Bố, thôi chuyện đó đi.”
Tôi cho ông uống vài viên thuốc giảm đau nữa. Sau khi nuốt, ông há mồm và bất tỉnh. Mười phút sau ông bắt đầu nói lảm nhảm điên loạn.
“Hàng trăm...hàng triệu...tín đồ Cơ đốc giáo chảy nước dãi...thiên đường là một khách sạn hào nhoáng mà...sẽ không va phải người Hồi giáo và Do Thái ở máy lấy đá...người Hồi giáo và Do Thái...không tốt hơn...không nhúc nhích...người hiện đại...răng tốt...tập trung không được lâu...ngỡ là...sự náo loạn của cảm giác xa lánh...không có thế giới quan về tôn giáo...loạn thần kinh chức năng...bệnh điên...không đúng...luôn là tôn giáo giữa các sinh vật...kẻ...chết.”
“Hãy để dành sức,” Ned nói. Cậu ta có thể nói “Im đi” và tôi sẽ không phiền lòng vì chuyện đó.
Đầu bố lại ngả xuống đùi tôi. Ông chỉ còn lại không quá vài chục phút, vậy mà ông vẫn không tin điều đó.
“Chuyện này thật khó tin,” ông nói, và hít một hơi sâu. Nhìn mặt ông tôi có thể biết rằng thuốc giảm đau đang phát huy tác dụng.
“Con biết.”
“Nhưng đúng là vậy! Chết! Cái chết của bố!”
Ông chìm vào giấc ngủ trong vài phút, rồi mắt ông vụt mở với một ánh nhìn trống rỗng trong đó, hờ hững như ánh nhìn của một viên quan chức. Tôi nghĩ ông đang cố thuyết phục bản thân rằng ngày ông chết không phải là ngày tồi tệ nhất cuộc đời ông mà chỉ là một ngày như mọi ngày. Dù vậy, ông không thể cố lâu hơn, và rên rỉ một lần nữa qua hàm răng nghiến chặt.
“Jasper.”
“Con đây.”
“Chekhov tin rằng con người sẽ trở nên tốt đẹp hơn nếu con cho anh ta thấy anh ta là người thế nào. Bố không nghĩ rằng điều đó lại đúng. Nó chỉ khiến anh ta buồn hơn và cô đơn hơn.”
“Nghe này, bố - đừng để bị áp lực phải thốt ra những lời trăng trối sâu sắc. Bố hãy thoải mái đi.”
“Bố đã nói nhiều câu ngớ ngẩn trong đời mình phải không?”
“Cũng không hẳn tất cả đều ngớ ngẩn.”
Bố thở khò khè trong khi hai con mắt đảo tròn trong đầu ông tựa như chúng đang tìm kiếm cái gì đó trong góc hộp sọ.
“Jasper,” ông thều thào, “bố phải thừa nhận một chuyện.”
“Chuyện gì?”
“Bố đã nghe được con,” ông đáp.
“Bố nghe được gì?”
“Trong rừng. Khi bọn họ đến. Bố nghe tiếng con cảnh báo bố.”
“Bố nghe được con à?” tôi thét lên. Tôi không thể tin nổi. “Bố nghe thấy ư? Sao bố không làm gì? Bố đã có thể cứu dì Caroline!”
“Bố không tin đó là thật.”
Chúng tôi không nói gì một lúc lâu. Cả hai im lặng nhìn những làn nước nhấp nhô trên biển.
Rồi cơn đau tái phát. Ông gào lên đau đớn. Tôi cảm thấy sợ. Rồi nỗi sợ biến thành cơn hoảng loạn. Tôi nghĩ: Đừng chết. Đừng bỏ con. Đừng bỏ chúng ta. Bố đang phá vỡ một quan hệ đối tác đấy. Bố không thấy sao? Làm ơn, bố ơi. Con hoàn toàn phụ thuộc vào bố, ngay cả khi làm kẻ đối lập của bố, đặc biệt khi làm kẻ đối lập của bố - vì nếu bố chết đi rồi thì con sẽ thành cái gì đây? Phần đối lập của không gì cả có phải là tất cả không? Hay là không là gì cả?
Và tôi cũng không muốn nổi giận với một hồn ma. Cơn giận đó sẽ không bao giờ chấm dứt.
“Bố, con tha lỗi cho bố.”
“Về chuyện gì?”
“Về tất cả.”
“Tất cả cái gì? Bố đã làm gì không phải với con?”
Người đàn ông cáu bẳn này là ai? “Việc đấy không quan trọng.”
“Thôi được.”
“Bố, con yêu bố.”
“Bố cũng yêu con.”
Đấy. Chúng tôi đã nói ra điều đó. Tốt.
Mà có thể không tốt lắm - lạ thay, thật thất vọng. Chúng tôi vừa mới nói “Con yêu bố” và “Bố yêu con.” Bố và con trai, vào phút lâm chung của bố, lại nói chúng tôi yêu thương nhau. Tại sao chuyện đó không tốt? Đây là lý do: bởi vì tôi biết một điều mà không ai từng biết hoặc sẽ biết - ông mới kì lạ và tuyệt vời làm sao. Và đó là điều mà tôi thực lòng muốn nói.
“Bố.”
“Lẽ ra bố nên tự tử,” ông nói giữa hai hàm răng nghiến chặt; rồi ông lặp lại câu đó, tựa như nó là câu thần chú của riêng ông. Ông sẽ không bao giờ tha thứ bản thân mình vì đã không tự vẫn. Theo suy nghĩ của tôi, việc đó là hợp lẽ. Tôi nghĩ tất cả mọi người vào phút lâm chung không nên tha thứ cho bản thân họ vì đã không tự sát, dù chỉ một ngày trước khi chết. Để bản thân mình bị sát hại bởi bàn tay của Tạo hóa chính là sự lãnh đạm có thật duy nhất trên cõi đời này.
Cái chết thật của bố diễn ra rất nhanh - thậm chí rất đột ngột. Cơ thể ông khẽ run lên, rồi co giật hốt hoảng, ông thở hổn hển, hàm răng cắn chặt giống như muốn cắn cái chết, ánh sáng trong mắt ông lóe lên rồi tắt ngóm.
Thế là hết.
Bố chết rồi.
Bố chết rồi!
Không thể tin nổi!
Và tôi chưa bao giờ nói tôi quý ông. Tại sao tôi lại không nói ra? Con yêu bố - quá đơn giản. Nói “Con yêu bố” khó lắm sao? Nó là lời bài hát cơ mà. Bố biết tôi yêu ông. Ông không hề biết tôi quý ông. Thậm chí tôn trọng ông nữa.
Nước bọt chưa nuốt đọng lại trên môi bố. Đôi mắt ông, vô tri vô giác, vẫn cố tỏ ra vẻ bất mãn. Khuôn mặt ông, bị cái chết làm biến dạng, nguyền rủa toàn thể nhân loại với cái miệng xoắn lại. Thật khó tin rằng cơn náo động dai dẳng, nhục nhã trong đầu ông đã kết thúc.
Vài Kẻ trốn chạy tiến đến để giúp tôi ném ông khỏi tàu.
“Đừng đụng vào ông ấy!” tôi gào lên.
Tôi quyết tâm tự tay mình tiến hành lễ thủy táng, không cần trợ giúp. Đó là một ý nghĩ vô dụng, nhưng tôi lì lợm cố làm cho được. Tôi quỳ xuống cạnh xác ông, khuỳnh cánh tay luồn dưới người ông. Ông trở nên gân guốc trên đôi tay tôi. Tứ chi dài thượt, đung đưa của ông lắc lư qua vai tôi. Sóng biển cuồn cuộn dâng lên, tựa như đang liếm môi. Tất cả những khuôn mặt phục tùng, chùng xuống của những Kẻ trốn chạy nhìn theo kính cẩn. Buổi lễ không lời dựng họ dậy từ cái chết uể oải của họ.
Tôi đưa vai ra, hất thi thể bố qua mạn tàu và mai táng ông trong tiếng gầm gào của sóng biển. Ông nhấp nhô trên mặt nước, trồi lên sụt xuống như một củ cà rốt bị ném vào nồi nước hầm đang sôi. Rồi ông chìm xuống, như thể bị đôi tay vô hình túm lấy, và hối hả lên đường để chào đón ông trong những góc khuất kì lạ của biển khơi.
Thế là hết.
Vĩnh biệt, bố. Mong là bố biết con đã cảm thấy thế nào.
Ned đặt tay lên vai tôi. “Ông ấy đã về với Thượng đế rồi.”
“Đó thật là một điều kinh khủng.”