← Quay lại trang sách

Chương 6 I.

Tại sao, ôi tại sao tôi cũng chạy trốn? Tại sao tôi lại muốn cùng chia sẻ số phận với bố, sau tất cả những gì đã xảy ra giữa hai chúng tôi? Vì tôi là đứa con trai hiếu thảo? Bạn không thể biết được. Tôi yêu bố tôi, bất kể tình yêu ấy khiếm khuyết ra sao. Đó có phải là lý do không? Ý tôi là, lòng trung thành là một chuyện, nhưng nói cho cùng, bố, người đã hủy hoại cuộc đời tôi. Thế lẽ ra đã đủ cho tôi có quyền để mặc ông lao vào thế giới hoang dã mà không có tôi. Việc ông can thiệp vào chuyện tình cảm của tôi là không thể tha thứ. Thôi được, chuyện tôi yêu một người con gái không phải là một cô gái mà là một tòa nhà bốc cháy, đấy không phải lỗi của bố. Và cũng không phải lỗi của ông khi cô ta chọn một người đàn ông khác chứ không phải tôi. Tôi chẳng có cớ gì để kêu ca; tôi là tôi, và thật đáng xấu hổ như thế. Không phải lỗi của bố khi tôi không thể dùng vũ lực đối với tình cảm của cô ấy, khi tôi chẳng nghĩ ra được một lời đề nghị mà cô ấy không thể khước từ. Vậy là cô ấy khước từ tôi, thế thôi. Có phải là lỗi của bố khi cái dinh thự bốc cháy này yêu gã bạn trai cũ thất bại của cô ấy và hi sinh chúng tôi trên bệ thờ của tình yêu đó? Không, không phải. Nhưng tôi vẫn trách ông. Đó là cái hay khi trách móc; tôi thích đưa cô ấy đi đâu thì đưa, miễn bàn.

Việc Eddie gian lận trong quá trình chọn triệu phú và đẩy bố vào chỗ chết là một cú đâm lén nóng hổi mà tôi tha thiết muốn kể cho bạn gái của mình nghe trước khi tin tức xì ra, dù nghiêm túc mà nói, cô ấy không còn là bạn gái tôi nữa. Có lẽ đó chỉ là một cái cớ hay để gặp lại cô ấy - tiết lộ bí mật gia đình. Và tôi thì cần một cái cớ. Hỏa ngục đã bỏ tôi, mà việc giữ liên lạc với người đã bỏ bạn là chuyện nan giải, thật sự rất, rất khó để không lộ vẻ thảm hại. Tôi đã hai lần tìm cách gặp cô ấy, và cả hai lần tôi đều trông rất thảm hại. Lần đầu tiên tôi trả lại cái áo ngực mà cô ấy để quên trong chòi của tôi, còn lần thứ hai tôi trả lại cái áo ngực của cô ấy mà thực ra tôi mới mua buổi sáng hôm đó trong một cửa hàng bách hóa. Chẳng có lần nào cô ấy vui vẻ gặp tôi - cô ấy nhìn tôi tựa như tôi chả là cái đinh gì trong mắt cô ấy.

Lần thứ ba tôi đến nhà cô ấy và đặt ngón tay lên chuông điện. Tôi nhớ đó là một ngày rất đẹp, với những dải mây gân guốc xoáy trong gió mới, không khí có mùi nước hoa nồng nàn, đậm đặc như loại nước hoa đắt tiền mà các quý bà giàu có xức lên lũ mèo của họ.

“Anh muốn gì?” cô ấy sốt ruột hỏi.

“Không có gì. Anh chỉ muốn nói chuyện thôi.”

“Em không thể nói chuyện về chúng ta được nữa bởi vì chẳng còn chúng ta nữa. À, có một chúng ta, nhưng không phải là anh và em. Đó là em và Brian.”

“Chúng ta chỉ làm bạn thôi, không được sao?” tôi hỏi (thảm hại rồi đây).

“Bạn,” cô ấy chậm rãi trả lời, với ánh mắt bối rối, cứ như tôi vừa hỏi cô ấy rằng chúng tôi có thể làm cá được không.

“Thôi nào,” tôi nói. “Chúng ta đi dạo nhé.”

“Em không muốn đi.”

“Chỉ đi vòng quanh tòa nhà thôi mà.”

Cô ấy xiêu lòng, và trên đường đi tôi kể với cô ấy mọi chuyện xảy ra về các triệu phú, chuyện Eddie đã lừa bố trắng trợn để biến gần hết bạn bè của ông ta thành người trúng giải, và chuyện nếu có ai phát hiện ra, ông ta sẽ bị hành quyết.

Tôi nhớ lúc ấy tôi chỉ đơn giản là muốn thân thiết với cô ấy trở lại, dù chỉ trong một khoảnh khắc, và tiết lộ điều bí mật có khả năng hủy diệt cuộc đời của chúng tôi dường như là cách để đạt được điều đó. Nó chẳng đem lại điều gì cả. Thực tế, khi đã trút cạn bầu tâm sự, cảm giác khi ấy lại cực kì bất mãn. “Nói gì đi nữa, bố của anh cũng bị điên mà,” cô ấy nói, như thể việc này có liên quan phần nào. Khi chúng tôi trở lại khu nhà của cô ấy, cô ấy trở nên nghiêm túc. Tôi biết thế vì cô ấy nắm tay tôi. “Em vẫn còn cảm giác với anh,” cô ấy nói. Tôi định nói gì đó. Tôi biết thế vì tôi đã mở miệng, nhưng cô ấy cắt ngang tôi. “Nhưng em có cảm giác mạnh hơn dành cho anh ấy.” Vậy là tôi hiểu ra, đó là một cuộc cạnh tranh về sức mạnh trong cảm giác của cô ấy. Brian sẽ nhận được toàn bộ những phần mạnh; tôi sẽ nhận những gì còn lại, những tình cảm hờ hững, thoi thóp, nhạt nhòa. Thảo nào tôi chẳng cảm nhận được chúng.

Dĩ nhiên tôi buộc cô ấy thề không được kể cho bất kì ai về bí mật mà tôi vừa kể. Và dĩ nhiên cô ấy đã kể cho người đàn ông mà cô ấy yêu, vì vô tình tôi đã cho cô ấy một tin sốt dẻo để cứu vãn sự nghiệp báo chí tiêu điều của ông ta.

Vậy đó có phải là lý do tôi cùng với Eddie, bố và Caroline chạy trốn? Tôi đi theo để tìm kiếm sự tha thứ? Có lẽ, mà tại sao tôi phải ở lại? Tôi đã có một năm tồi tệ nhất đời mình. Khi Hỏa ngục Cao vút bỏ tôi, tôi đã dọn từ cái mê cung rộng rãi của bố đến một căn hộ dài và hẹp chẳng hơn gì một cái hành lang được tô vẽ, với một phòng tắm và một khoảng trống hình chữ L ở cuối để đặt một cái giường đơn và bất cứ thứ gì hình chữ L tình cờ vớ được quanh đó. Việc chuyển chỗ từ rừng vào phố đã có tác động bất ổn nghiêm trọng nằm ngoài dự đoán đối với tôi. Trong căn chòi của mình, tôi được ở gần tiếng nói của trái đất và không bao giờ phải cố gắng để cảm thấy thoải mái. Giờ đây, trong thành phố, tôi thấy mình bị cắt đứt khỏi mọi ảo giác mà tôi ưa thích. Tôi đã bỏ bản thân ở lại. Bị trục xuất khỏi nguồn cội, tôi cảm thấy hoàn toàn lênh đênh.

Rồi, khi bố trở thành người của công chúng được cả quốc gia ngưỡng mộ, tôi sẽ phải thừa nhận điều này - danh vọng của ông đã tác động mạnh đến tôi. Làm sao hai mươi triệu con người có thể thích người đàn ông cáu bẳn ấy? Ý tôi là, mới sáu tháng trước ông còn không kiếm đủ mười người bạn vào một căn phòng để ăn tối! Dù sao thì thế giới vẫn chưa rơi khỏi bản lề; vào một buổi chiều êm dịu, bố đến chỗ làm thăm tôi, mặc complet, nom ông cứng nhắc như không thể gập được gối. Ông đứng lóng ngóng trong góc làm việc khép kín của tôi, trông tựa một cái nhà được dựng lên bằng ván ép, và cuộc đối đầu buồn bã, lặng lẽ của chúng tôi đạt đến đỉnh điểm khi ông nói với tôi về cái tin đáng sợ đó. Ông cũng chẳng cần phải nói ra. Tôi không rõ tại sao, nhưng tôi đã biết. Ông bị ung thư. Ông không thấy được là tôi đã biết ngay khi ông đến ư? Thực tình tôi phải che mắt mình trước cái nhìn trừng trừng của tử thần.

Đây là những ngày lạ lùng, đầy biến động; bố cưới bạn gái cũ của em trai mình, Anouk cưới con trai của một triệu phú, bố bị bạn thân phản bội, tôi bị tình yêu đích thực của mình phản bội, còn ông thì bị cả một quốc gia căm ghét. Trên truyền thông, có muôn hình vạn trạng lời mô tả về ông: một doanh nhân, một kẻ lừa đảo, một người Do Thái. Tôi nhớ ông thường bị ám ảnh với việc không thể xác định được bản thân mình. Nghe bản thân bị phân chia theo cách này chỉ càng nhắc ông nhớ mình không phải là ai.

Mọi việc trở nên không ổn. Tôi bị người lạ dọa giết. Tôi phải xin nghỉ phép ở chỗ làm. Tôi cô đơn. Tôi đi lang thang trên đường vô định và cố giả vờ như nhìn thấy Hỏa ngục khắp nơi, nhưng ở Sydney chẳng có mấy người tóc đỏ cao trên mét tám, và tôi cuối cùng lại nhầm cô ấy với những người thay thế buồn cười nào đó. Thúc thủ về căn hộ của mình, tôi trở nên trầm cảm đến mức khi tới giờ ăn, tôi nghĩ: Có gì cho mình? Buổi tối tôi cứ mơ thấy một khuôn mặt duy nhất, khuôn mặt mà tôi từng mơ thấy khi còn bé, khuôn mặt xấu xí méo mó trong tiếng thét lặng câm, khuôn mặt mà đôi khi tôi nhìn thấy cả trong lúc thức. Tôi muốn bỏ chạy, nhưng tôi không biết chạy đi đâu, và, tệ hơn nữa, tôi không còn tha thiết cả đến việc mang giày. Đó là lúc tôi bắt đầu nghiện thuốc lá và thuốc phiện nặng, ăn ngũ cốc từ trong hộp, nốc vodka từ trong chai, nôn mửa cho đến khi ngủ, khóc không lý do, độc thoại bằng giọng nghiêm khắc, và đi tới đi lui trên đường sá đông nghịt người, không giống tôi, họ rõ ràng không gào thét bên trong và không bị tê liệt vì thiếu quyết đoán và không bị từng người một trên châu lục đảo đê tiện này căm ghét.

Tôi nằm bẹp trên giường, dưới tấm drap, và cứ nằm đấy, cho đến khi bị lay dậy khỏi giấc ngủ say bí tỉ vào một buổi chiều và thấy đôi mắt xanh lục của Anouk nhìn tôi.

“Tôi gọi cho cậu suốt mấy hôm nay.”

Cô ta mặc một cái áo ba lỗ cũ và quần ống rộng. Cú sốc của việc cưới được triệu phú rõ ràng đã khiến cô ta ăn mặc xấu đi.

“Lạ quá, Jasper ạ. Tôi có cảm giác giống hệt như khi tôi lần đầu bước vào căn hộ của bố cậu sau khi chúng ta gặp nhau. Nhớ không? Hãy nhìn nơi này mà xem! Thật kinh tởm. Chuyện này phải tin ở tôi - gạt tàn thuốc vào lon bia là dấu hiệu mà cậu không thể bỏ qua!”

Cô ta chạy quanh căn hộ, lăng xăng dọn dẹp, chẳng màng chỗ thức ăn mốc meo và rác rến vương vãi từ cuộc sống hàng ngày của tôi. “Cậu cần phải sơn lại bức tường này để tẩy mùi đi,” cô ta nói. Tôi chìm vào giấc ngủ khi nghe giọng cô ta lúc bổng lúc trầm. Điều cuối cùng tôi nhớ đã nghe cô ta nói là cụm từ “Giống hệt bố cậu.”

Vài giờ sau tôi thức dậy, phát hiện toàn bộ căn hộ sạch sẽ và tỏa mùi nhang khói. Anouk ngồi khoanh đôi chân dài trên sàn, giày đá ra tự lúc nào, một tia nắng phản chiếu trên chiếc lắc chân của cô ta. “Quá nhiều việc đã xảy ra. Cậu đã bị kích động thái quá. Xuống đây nào,” cô ta nói.

“Thôi khỏi, cảm ơn.”

“Tôi đã dạy cậu cách thiền, đúng không?”

“Tôi không nhớ.”

“Bố cậu không bao giờ chịu dập tắt suy nghĩ của ông ta - đó là lý do vì sao ông ta luôn suy sụp. Nếu không muốn chịu cảnh suy sụp tinh thần giống như vậy, cậu cần phải đạt được sự tĩnh tâm thông qua thiền định.”

“Hãy để tôi yên, Anouk.”

“Jasper. Tôi chỉ đang cố gắng giúp cậu. Cách duy nhất để cậu sống sót qua cơn thù hận này là cậu phải đạt được bình an nội tại. Và để tìm thấy bình an nội tại, trước tiên cậu phải đạt đến một con người cao hơn, cậu phải tìm thấy ánh sáng nội tại. Rồi cậu đi cùng ánh sáng đó.”

“Đi cùng ánh sáng. Đến cái gì?”

“Không - cậu và ánh sáng hòa thành một.”

“Khi đó tôi sẽ cảm thấy thế nào?”

“Hạnh phúc.”

“Vậy là nó tốt nhỉ.”

“Rất tốt.”

Cứ thế, Anouk tiếp tục nói, về bình yên nội tại, về thiền định và sức mạnh của trí tuệ không phải để bẻ cong thìa mà để phá tan thù hận. Không phải cô đang lừa phỉnh tôi. Cô chỉ tập tành làm quân sư -trình độ xa nhất mà cô đã đạt đến là hóng hớt những lời đồn đại về khả năng giác ngộ. Dù vậy, chúng tôi vẫn cố gắng tìm kiếm bình an, ánh sáng, con người cao hơn và thấp hơn của mình, và tất cả những thứ nằm ở giữa. Anouk nghĩ tôi hẳn là có khiếu thiền, vì tôi giãi bày với cô rằng tôi nghi ngờ mình có thể đọc được suy nghĩ của bố và thường nhìn thấy những khuôn mặt không có thật. Cô sốt sắng chộp lấy những tiết lộ này, và giọng nói điên loạn của cô trở nên quả quyết hơn. Hệt như ngày xưa, tôi không chống đỡ nổi trước lòng trắc ẩn điên cuồng của cô ta. Tôi để cô mua hoa và chuông gió. Tôi để cô mua cho tôi sách về các phương pháp thiền khác nhau. Tôi thậm chí còn để cho cô lôi tôi đến một buổi tái sinh. “Cậu không muốn nhớ về sự ra đời của chính mình ư?” cô ta ngắt lời, như vừa phát hiện tôi còn có thêm bản tính hay quên. Cô ta đưa tôi đến một trung tâm có tường sơn màu nướu răng bà già, và chúng tôi nằm trong một căn phòng ánh sáng mờ ảo hình bán nguyệt, cầu kinh và giật lùi và gắng gượng nhớ lại khoảnh khắc chào đời của mình giống như đang cố nhớ lại số điện thoại của một ai đó. Tôi cảm thấy mình giống một thằng ngốc. Nhưng tôi thích lại được ở bên cạnh Anouk, nên lần đó tôi cứ làm theo, và từng ngày sau đó, khi chúng tôi ngồi khoanh chân trong công viên và trên bãi biển, lặp đi lặp lại các câu thần chú như những kẻ mắc chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế. Trong những tuần đó tôi chẳng làm gì ngoài việc nhìn mình hít thở và cố gắng tịnh tâm, nhưng tâm tôi như một con thuyền thủng đáy; mỗi lần tôi tát ra ngoài một xô suy nghĩ, những suy nghĩ mới lại đổ vào. Và khi tôi nghĩ có lẽ đã đạt được sự hư không ở cấp nhẹ nhất, thì tôi lại đâm ra sợ hãi. Sự hư không của tôi không vui vẻ, mà có phần hiểm ác. Tiếng thở của tôi mang mầm mống tai họa. Tư thế tôi trông như đóng kịch. Đôi khi tôi nhắm mắt lại chỉ để nhìn thấy khuôn mặt lạ đáng sợ đó, hoặc giả tôi không thấy gì nhưng lại nghe thấy tiếng của bố tôi, yếu ớt và nghèn nghẹt, tựa như ông đang nói chuyện với tôi từ trong một cái hộp. Rõ ràng thiền định không thể giúp tôi. Không gì có thể giúp được tôi. Tôi nằm ngoài tầm cứu giúp, và kể cả một cơn mưa nắng bất ngờ cũng không thể cứu vãn được tôi. Thật sự, tôi bắt đầu tự hỏi tôi đã nhìn thấy gì trong thiên nhiên suốt thời gian tôi sống trong mê cung. Sự việc bỗng nhiên trở nên kinh khủng và phô trương, và tôi tự hỏi liệu có phải là báng bổ không khi nói với Chúa rằng cầu vồng là thứ vô vị.

Tôi đã ở trong trạng thái tinh thần đó khi bố, Eddie, và Caroline xuất hiện ở khu chung cư của tôi và bấm còi cho đến khi tôi đi xuống đường. Chiếc xe cứ nằm đó, nổ máy rì rì. Tôi đi đến cửa xe. Tất cả họ đều đeo kính râm, giống như đang cùng nhau ngất ngây sau một đêm say bét nhè.

“Họ sẽ đến bắt bố vào ngày mai,” bố nói. “Bọn bố sẽ chạy trốn.”

“Bố sẽ không bao giờ trốn được.”

“Để xem. Dù sao thì, bọn bố chỉ đến để chào từ biệt,” bố nói.

Eddie lắc đầu. “Cậu nên đi với chúng tôi.”

Đó có vẻ là một lý do hay để lắc đầu của tôi, vì vậy tôi lắc đầu, và hỏi, “Những kẻ chạy trốn điên rồ các người định làm gì ở Thái Lan?”

“Tim Lung đã đề nghị sẽ chứa chấp bọn bố một thời gian.”

“Tim Lung?” tôi hét to, rồi thì thầm, “Chúa ơi.”

Chính lúc ấy một ý nghĩ ngớ ngẩn và nguy hiểm len lỏi vào đầu tôi kèm theo một tiếng nổ đánh tách suýt thành tiếng. Tôi yêu điên yêu cuồng Hỏa ngục bao nhiêu thì tôi ghét cay ghét đắng Tim Lung bấy nhiêu.

Tôi nghĩ: mình sẽ giết lão. Giết lão với một viên đạn lạnh lùng vào đầu.

“Con không sao chứ?” bố hỏi.

Vào khoảnh khắc ấy tôi biết mình chưa biến được ảo tưởng khát máu thành hiện thực. Trong nhiều tháng tôi đã chất chứa những suy nghĩ xấu xa về con người (tôi mơ cảnh nhét đầy lòng cừu nấu kiểu Scotland vào miệng họ), và giờ đây tôi biết rằng dùng bạo lực là bước hợp lý tiếp theo. Sau nhiều năm chứng kiến sự suy sụp theo mùa của bố, tôi từ lâu đã quyết tâm không mất cả đời căng óc nghĩ ngợi; một vụ ra tay giết người đột ngột xem ra là cách để giải quyết chuyện này. Đúng, bỗng dưng tôi không còn chìm trong tăm tối, sờ soạng dọc những hành lang bất tận của tháng ngày nữa. Lần đầu tiên sau một thời gian dài, con đường trước mặt tôi được soi sáng và xác định rõ ràng.

Vì thế khi bố nói câu từ biệt ráo hoảnh của ông lần cuối, tôi nói, “Con sẽ đi với bố.”

II.

Hãy tin tôi: cảm giác lạnh gáy và đề phòng về chuyến đi trở nên trầm trọng hơn khi phải dùng hộ chiếu giả. Và chúng tôi sẽ bay bằng máy bay tư nhân - khuôn mặt nổi tiếng của bố đừng hòng ra khỏi nước Úc nếu không chi một khoản hối lộ lớn. Nấp dưới lớp mũ và cặp kính râm, chúng tôi đến sân bay và đi qua cổng an ninh thẳng ra đường trải nhựa. Eddie nói chiếc máy bay thuộc về một “người bạn của một người bạn,” và ông ta đưa những phong bì chứa tiền mặt cho một số quan chức hải quan vô liêm sỉ, số tiền này sẽ được chia chác với đám nhân viên mặt đất và tổ xử lí hành lí. Nói thật, trông tất cả những người chúng tôi gặp đều vô cùng thoải mái với giao dịch này.

Khi chúng tôi chờ Eddie phát xong tiền hối lộ và hoàn tất mớ giấy tờ giả mạo, Caroline xoa lưng bố trong khi ông vuốt căng những nếp nhăn trên trán mình. Không ai muốn nhìn hoặc nói chuyện với Eddie. Tôi không khỏi cảm thấy tội nghiệp cho ông ta. Tôi biết ông ta đáng chuốc lấy cơn tức giận và sự ghẻ lạnh mà ông ta đáng nhận, nhưng nụ cười nửa miệng cố hữu khiến Eddie trông sao mà đen đủi, sao mà không chút giảo quyệt, đến nỗi tôi hẳn sẽ đứng dậy bảo vệ hành vi không thể biện hộ của ông ta nếu bồi thẩm đoàn khi đó không quá thiên về một hình phạt chặt đầu. “Chừng nào ta ở trên trời, ta sẽ ổn thôi,” bố nói, để trấn an chính ông. Vế câu kì quặc đó mắc kẹt trong đầu tôi: “Chừng nào ta ở trên trời.” Không ai nói gì; tất cả chúng tôi đều chìm vào suy nghĩ, có lẽ cùng một suy nghĩ giống nhau. Suốt buổi chúng tôi tránh nói về tương lai, vì đó là điều không thể tưởng tượng ra.

Chúng tôi lên máy bay không gặp sự cố nào (nếu bạn không tính cơn vã mồ hôi bất thường của bố là một sự cố), đến cả ho cũng không dám để không thổi bay lớp ngụy trang của mình. Tôi tranh với Eddie ghế ngồi cạnh cửa sổ, vì đây là lần đầu tiên tôi rời khỏi Úc và tôi muốn vẫy chào tạm biệt. Động cơ được khởi động. Chúng tôi cất cánh trong tiếng gầm rú. Chúng tôi leo lên trời. Rồi chúng tôi thăng bằng lại. Chúng tôi đã ở trên trời. Chúng tôi đã an toàn.

“Thoát trong gang tấc,” tôi nói.

Eddie có vẻ ngạc nhiên, tựa như đã quên béng rằng tôi ở đấy. Tôi đã ở đấy. Ánh mắt của ông ta lướt qua tôi ra cửa sổ.

“Tạm biệt, nước Úc,” ông ta nói, pha chút kinh tởm.

Chuyện là thế đấy - chúng tôi đã bị tống cổ ra khỏi nước Úc. Giờ đây chúng tôi là những kẻ chạy trốn. Tất cả chúng tôi có lẽ sẽ để râu, trừ Caroline thì phải nhuộm tóc; chúng tôi sẽ học ngôn ngữ mới và ngụy trang khi đến bất kì đâu, màu xanh đậm cho rừng già, màu đồng sáng loáng cho sảnh chờ khách sạn. Mọi việc được vạch sẵn cho chúng tôi.

Tôi nhìn sang bố. Caroline đang ngả đầu lên vai ông. Mỗi khi bắt gặp tôi nhìn ông, bố lại dành cho tôi ánh mắt “Chuyện này tuyệt quá nhỉ?”, như thể ông đang đưa tôi đi chơi trong một kì nghỉ thắt chặt tình cha con. Ông đã quên mất rằng chúng tôi vốn dĩ đã âm thầm gắn bó, như các tù nhân bị xích chung với nhau. Bên ngoài, bầu trời phẳng lì; mang một màu ảm đạm, mộc mạc. Tôi nhìn Sydney biến mất khỏi tầm mắt với một cảm giác từa tựa nỗi buồn.

Năm giờ sau chúng tôi vẫn đang bay trên nước Úc, trên phong cảnh tẻ nhạt và ảm đạm đến mức không hình dung nổi của đất nước điên loạn của chúng tôi. Bạn không thể tin được cảnh vật cứ tiếp diễn như thế. Để thưởng thức vẻ đẹp đau khổ của nội địa, bạn phải ở ngay giữa nó, với một chiếc xe vượt địa hình được trang bị đầy đủ. Về mặt địa hình nơi ấy thật đáng sợ và khó hiểu. Thế đấy, đó là trung tâm của đất nước chúng tôi. Nó không phải là Vườn Địa Đàng.

Rồi chúng tôi bay qua mặt nước. Vậy là xong, tôi nghĩ. Sân khấu nơi đã diễn ra cuộc đời không thể tin nổi của chúng tôi đã lùi xa, dưới những đám mây. Cảm xúc chạy sâu vào cơ thể tôi đến khi tôi cảm thấy nó tụ lại và trở nên thoải mái. Chỉ còn phải nghĩ đến tương lai mà thôi. Tôi rất sợ nó; nó không giống như kiểu tương lai tồn tại dài lâu.

“Lão muốn gì ở chúng tôi?” tôi đột ngột hỏi Eddie.

“Ai?”

“Tim Lung.”

“Tôi không biết. Ông ấy đã mời các người làm khách của ông ấy.”

“Tại sao?”

“Tôi không biết.”

“Vậy thì, lão muốn chúng tôi ở trong bao lâu?”

“Tôi không biết.”

“Ông biết cái gì?”

“Ông ấy nóng lòng gặp các người.”

“Tại sao?”

“Tôi không biết.”

“Chúa ơi, Eddie!”

Chúng tôi bỏ cuộc trước lão Tim Lung bí ẩn này. Lợi dụng bố để trộm hàng triệu đô la từ người dân Úc, phải chăng giờ đây lão muốn cám ơn bố vì đã đóng vai gã khờ thật dễ thương? Phải chăng vì tò mò - lão muốn gặp để xem một người có thể ngốc đến mức nào? Hay là còn có một âm mưu đen tối nào khác mà không ai trong chúng tôi nghĩ đến?

Đèn trong máy bay tắt hết, và khi chúng tôi bay qua hành tinh trong bóng đêm, tôi nghĩ về người mà tôi sẽ giết. Từ tin tức truyền thông tôi biết rằng những điều tra viên tuyệt vọng ở Thái Lan, do không thể xác định được nơi ở của lão, đã quả quyết rằng lão là hiện thân của cái ác, một con quái vật thật sự. Nếu vậy thì, rõ ràng, thế giới sẽ tốt đẹp hơn nếu vắng lão. Dẫu sao thì, tôi vẫn cảm thấy buồn phiền khi nhận ra giết người là ý tưởng thiết thực duy nhất mà tôi có.

III.

“Chẳng có ai đến đây đón chúng ta,” Eddie nói trong lúc đưa mắt nhìn đám đông.

Bố, Caroline và tôi nhìn nhau - chúng tôi không biết rằng lẽ ra phải có người đến đón.

“Đợi ở đây nhé,” Eddie nói. “Tôi sẽ đi gọi điện thoại.”

Tôi nhìn mặt Eddie khi ông ta nói chuyện với người mà tôi cho là Tim Lung. Ông ta gật đầu lia lịa, gập mình trong một tư thế phục tùng kì lạ và mang một kiểu cười hối lỗi trên mặt.

Eddie gác máy và gọi tiếp một cuộc nữa. Bố, Caroline và tôi lặng lẽ nhìn ông ta. Thỉnh thoảng chúng tôi đưa mắt nhìn nhau ngầm nói, “Mọi chuyện nằm ngoài tầm tay của chúng ta nhưng chúng ta phải làm một việc gì đấy, và ánh mắt tỏ vẻ hiểu biết này chính là việc đó.” Eddie lại gác máy và nhìn cái điện thoại chăm chú một lúc. Rồi ông ta đi đến chỗ chúng tôi, xoa tay vẻ lo lắng.

“Chúng ta phải nghỉ đêm trong khách sạn. Chúng ta sẽ đến chỗ ông Lung vào ngày mai.”

“Được thôi. Hãy đón một chiếc taxi nào,” bố nói.

“Không - sẽ có người đến chở chúng ta đi.”

Hai mươi phút sau, một người phụ nữ Thái Lan nhỏ bé tiến đến, đôi mắt to đến nỗi trông như không có mi mắt. Bà ta bước chậm rãi về phía chúng tôi, run rẩy. Eddie chỉ đứng trời trồng như một con bò cái đang nhai lại thức ăn. Người đàn bà vòng tay qua người ông ta, và khi họ ôm nhau, từ miệng bà ta phát ra những tiếng nấc khẽ. Tôi biết lúc đó Eddie bối rối vì ông ta đột nhiên không còn vẻ láu cá nữa. Họ cứ ôm riết lấy nhau cho đến khi việc đấy trở nên nhàm chán. Tất cả chúng tôi cảm thấy ngượng nghịu đầy khổ sở.

“Từ lâu tôi đã mong được gặp các bạn,” bà ta nói, quay sang chúng tôi.

“Vậy à?” tôi hồ nghi hỏi.

Rồi Eddie nói, “Ling là vợ tôi.”

“Không, không phải,” bố nói.

“Vâng, tôi là vợ anh ấy,” bà ta trả lời.

Bố và tôi bị sốc. Eddie đã có vợ?

“Eddie, ông lập gia đình bao lâu rồi?”

“Gần hai mươi lăm năm.”

“Hai mươi lăm năm!”

“Nhưng ông sống ở Úc mà,” bố nói.

“Giờ thì hết rồi.”

Bố không hiểu đầu cua tai nheo ra làm sao. “Eddie,” ông nói, “hai mươi lăm năm. Như vậy có phải là ông đã có vợ khi chúng ta gặp nhau ở Paris?”

Eddie mỉm cười, như thể đó là một câu trả lời chứ không phải một câu hỏi.

Chúng tôi rời khỏi sân bay trong trạng thái bấn loạn. Chúng tôi không chỉ ở trong một đất nước khác mà là một dải thiên hà khác, nơi mà Eddie đã lấy vợ hai mươi lăm năm. Bên ngoài, cái nóng dội mạnh vào chúng tôi. Tất cả chúng tôi leo lên một chiếc Mercedes cũ màu xanh ô liu và tăng tốc về khách sạn. Vì đó là lần đầu tiên tôi đi nước ngoài, nên mắt tôi hút hết mọi thứ - nhưng tôi sẽ dành phần mô tả du lịch cho bạn. Đó là Thái Lan. Bạn biết những phong cảnh, bạn biết những mùi hương. Bạn đã đọc sách, bạn đã xem phim. Nóng nực, nhớp nháp, nhễ nhại, có mùi thức ăn cay, và ở đâu cũng lấp ló một dấu hiệu ma túy và mại dâm, vì như hầu hết các du khách, chúng ta đã đem theo định kiến này trong chuyến đi và không khai báo chúng, như chúng ta phải khai báo, khi làm thủ tục nhập cảnh, vì đó là những vật liệu độc hại thích hợp nhất để cách ly.

Trong xe, Eddie và Ling nói chuyện khe khẽ với nhau bằng tiếng Thái. Chúng tôi nghe tên của mình được nhắc đến vài lần. Bố không thể rời mắt khỏi Eddie và vợ ông ta. Vợ ông ta!

“Này, Eddie. Ông có con không?” bố hỏi.

Eddie lắc đầu.

“Thật không?”

Eddie quay trở lại Ling và tiếp tục nói chuyện nhẹ nhàng.

Khi chúng tôi làm thủ tục nhận phòng ở khách sạn, cẩn thận kí tên mới chứ không phải tên cũ, tôi chợt nhận ra điều lạ lùng nhất không phải là đi du lịch, đột ngột trót lọt và thực sự ra khỏi nước Úc, mà là đi du lịch theo nhóm. Tôi đã luôn tưởng tượng việc đi khỏi nước Úc sẽ là biểu tượng tối thượng cho sự độc lập của tôi, vậy mà giờ đây tôi đứng đây, với tất cả mọi người. Tôi biết ta không bao giờ thoát khỏi được chính mình, rằng ta đem theo quá khứ với ta, nhưng tôi thực sự đã thoát. Một chút an ủi cho tôi khi được ở một phòng riêng, trông xuống xác một con chó chết bị moi mất ruột.

Đêm hôm đó tôi đi đi lại lại trong phòng khách sạn. Tất cả những gì tôi có thể nghĩ đến là giờ đây, tin tức về vụ đào tẩu của chúng tôi đã xuất hiện trên toàn nước Úc, trong từng nơi tụ tập công cộng, và mặc cho sự ra đi lén lút của chúng tôi, một ai đó chắc chắn sẽ lần ra dấu vết chúng tôi không mấy khó khăn. Tôi có thể dễ dàng hình dung ra phản ứng của nước Úc trước tin chúng tôi đã bỏ trốn, và vào khoảng ba giờ sáng tôi cảm thấy bị một thứ phang trúng, một thứ mà tôi tin chắc là làn sóng căm thù nóng rực đã di chuyển cả một chặng đường từ quê hương đến những phòng khách sạn có điều hòa nhiệt độ của chúng tôi trên đường Khe Sahn.

Tôi rời khỏi khách sạn đi vào Bangkok, tự hỏi làm cách nào để mua súng. Tôi không hề nghĩ rằng việc đó sẽ quá khó khăn; trong đầu tôi nơi này là một đô thị nhớp nhúa, một thành phố mang dáng dấp Sodom và Gomorrah[58], chuyên phục vụ thức ăn ngon hết xẩy. Tôi đang ở trong một đất nước gần như cuồng điên, chỉ nhìn vào những khuôn mặt, và cụ thể hơn là vào những cặp mắt. Hầu hết những cặp mắt tôi thấy đều ngây thơ đến điên lên được; chỉ một vài cặp đốt cháy người khác khi nhìn. Đó là những cặp mắt tôi muốn. Tôi nghĩ về việc giết người và những kẻ sát nhân. Nạn nhân của tôi cũng là một tên tội phạm; ai sẽ khóc cho lão? Chà, có lẽ là nhiều người. Có thể lão cũng đã lập gia đình! Tôi nghĩ mà há hốc mồm. Tôi chẳng biết sao mình lại ngạc nhiên đến thế; cớ gì lão không được lập gia đình chứ? Lão đâu có khét tiếng là xấu xí và khó gần, chỉ khét tiếng là ác độc thôi. Như thế cũng được xem là hấp dẫn trong một số giới rồi.

Lúc đó là bốn giờ sáng, trời vẫn nóng bức ngột ngạt, và tôi vẫn chưa tìm được khẩu súng nào. Tôi đi tiếp, suy nghĩ, “Tim Lung - tao có nên giết mày thẳng tay, khỏi cần mời rượu khai vị đúng không?” Trong lúc đi, tôi thắp một điếu thuốc lá. Sao lại không? Đâu phải không dưng không rằng nó là nguyên nhân tử vong có thể phòng ngừa số một thế giới.

Tôi thấy mệt và dựa lưng vào một cái cột đèn. Tôi cảm thấy một đôi mắt dán vào mình. Đôi mắt này có gì đó đáng sợ nhưng lại gây phấn khích một cách kì lạ. Đây là đôi mắt mà tôi đang tìm kiếm.

Tôi tiến đến gã trai và chúng tôi nói cùng một lúc.

“Anh biết tôi có thể mua súng ở đâu không?”

“Anh có muốn xem biểu diễn sex không?”

“Có, hãy dẫn tôi đi.”

Gã lùa tôi đi vào một con đường và đưa tôi đến Patpong. Những tốp đàn ông phương Tây đang đi vào các câu lạc bộ thoát y và tôi nghĩ ngay đến Freud, triết gia tin rằng văn minh phát triển ngày càng đối lập với nhu cầu của con người. Rõ ràng Freud chưa bao giờ đến Patpong. Ở đây nhu cầu của đàn ông được đáp ứng hết sức chu đáo, từng nhu cầu một, ngay cả những nhu cầu khiến hắn trở nên bệnh hoạn.

Tôi đi vào quán bar đầu tiên, ngồi xuống một cái ghế đẩu và gọi một ly bia. Một cô gái trẻ đi đến và ngồi lên đùi tôi. Cô ả chắc không quá mười sáu tuổi. Cô ta thọc tay vào giữa hai chân tôi và tôi hỏi cô ta, “Cô biết tôi có thể mua súng ở đâu không?” Ngay lập tức tôi biết mình đã phạm sai lầm. Cô ả nhảy ra khỏi đùi tôi như thể nó vừa đớp cô ta một cái. Tôi thấy cô ta nói chuyện đầy kích động với vài gã sừng sỏ ở phía sau quầy bar. Tôi bỏ chạy, nghĩ rằng mình đã rơi vào một nơi không có thực, một nơi có thể làm hại mình, và sau khi chạy qua vài dãy nhà, tôi dừng lại. Thực tế, những người Thái này cũng tội ác đầy mình chẳng kém những kẻ mà bạn tìm thấy tại bất kì tiệm thức ăn nhanh ở góc đường nào tại Sydney, và đơn thuần mua một khẩu súng từ họ là việc bất khả thi. Trong trường hợp này, khi gặp Tim Lung, tôi sẽ phải tùy cơ ứng biến.

Khi tôi đi xuống phòng điểm tâm của khách sạn vào buổi sáng, tôi suy đoán từ nét mặt của bố và Caroline rằng họ cũng không hề chợp mắt. Đó là những khuôn mặt khổ sở, mất ngủ. Những khuôn mặt bị nỗi lo lắng cấu véo. Tại bữa ăn sáng quen thuộc gồm thịt hun khói, trứng, và bánh sừng trâu cũ, chúng tôi nói những câu đùa nhạt nhẽo và vô nghĩa, cố vượt qua tâm trạng u ám. Bất kể chuyện gì đang chờ đợi chúng tôi, chúng tôi muốn đón nó với cái dạ dày no căng.

Eddie bước vào, không còn giữ thái độ nhã nhặn thường thấy.

“Các người xong chưa?”

“Vợ ông đâu?” bố hỏi.

“Câm mồm đi, Martin. Tôi đã chịu đựng ông đủ rồi. Tôi thực sự chịu hết nổi rồi.”

Câu nói đó khiến chúng tôi im lặng.

IV.

Để đến chỗ Tim Lung, chúng tôi phải bắt một chiếc xuồng đuôi tôm, đi xuôi theo một con kênh bẩn thỉu, hôi hám. Khi băng qua những chiếc ghe gỗ chất đầy rau quả đủ màu sắc, tôi che mặt trước những đợt nước bẩn bắn lên. Những ấn tượng đầu tiên của tôi về Thái Lan rất tốt, nhưng tôi biết hệ miễn dịch của mình chưa đủ sức chống lại đám vi khuẩn ở xứ này. Khi đã vượt qua đoàn ghe thuyền bừa bộn này, chúng tôi chỉ còn lại một mình trên con kênh, tiến về phía trước. Ở hai bên bờ, nằm sóng soài trên những con đường bụi bặm là những ngôi nhà trông như xây dở dang hoặc sắp sập. Chúng tôi băng qua những người đàn bà đội mũ rơm rộng vành đang giặt giũ bằng nước sông màu nâu, rõ ràng chẳng màng đến ý nghĩ vi khuẩn viêm não đang ẩn náu trong đồ lót của họ. Rồi đến những con đường dài, hoang vắng, bụi bặm, và những cái cây khổng lồ với tán cây ngả rạp. Những ngôi nhà, giờ đã là những dinh thự to và hào nhoáng, nằm cách xa nhau. Tôi có cảm giác chúng tôi sắp đến nơi. Tôi cố đoán khuôn mặt của Eddie. Nó thật khó đoán. Bố nhìn tôi ngầm nói “Chúng ta đã thoát, nhưng thoát vào cái gì?”

Chiếc xuồng dừng lại. Chúng tôi lên bờ và đi lên một con đê nhỏ đến một cánh cổng sắt lớn. Trước khi Eddie kịp nhấn chuông điện, một giọng the thé từ chiếc máy liên lạc nội bộ bé xíu đã nói câu gì đó bằng tiếng Thái và Eddie trả lời, nhìn về phía tôi, khiến tôi cảm thấy chúng tôi đang ở trên một con đường mà quay lại là tự sát còn đi tới cũng có thể là tự sát. Tôi nổi hết gai ốc. Caroline nắm tay tôi. Cánh cổng mở ra. Chúng tôi tiến vào. Bố nói gì đấy về tình trạng ruột của ông mà tôi không hiểu lắm.

Nhà của Tim Lung có chữ “tập đoàn ma túy” viết lên ở khắp nơi. Nó rất rộng, với những bức tường sơn trắng khổng lồ và những cây cột chạm trổ bao bọc xung quanh, mái lợp ngói màu xanh lục và cam óng ánh, và một bức tượng Phật nằm khổng lồ ẩn náu trong một khu rừng tre dày đặc. Tôi củng cố ý nghĩ rằng chúng tôi đang dạo bước vào một sào huyệt của bọn trộm cắp khi trông thấy những gã đàn ông nấp dưới tán cây với những khẩu súng trường bán tự động, nhìn chúng tôi tựa như chúng tôi đến để bán một sản phẩm mà họ biết sẽ chẳng có công dụng gì sất. Những gã này mặc áo sơ mi cộc tay và quần dài. Tôi chỉ đám người vũ trang cho bố và nhận được câu trả lời dễ đoán của ông. “Bố biết,” ông nói. “Quần dài, trong thời tiết thế này!”

“Lối này,” Eddie nói.

Chúng tôi đi xuống một dãy cầu thang vào một cái sân hình chữ nhật. Vài cái thủ lợn móc trên những ngọn giáo, trên trán chúng thò ra mấy nén hương. Thật hay. Trên một bức tường ở cái sân là một bức bích họa trải dài vẽ cảnh một thành phố đang bốc cháy. Thật triển vọng. Ở cuối sân, những cánh cửa trượt to tướng đã mở sẵn. Tôi không biết mình đang trông đợi điều gì - những con chó Doberman[59] gầm gừ, những cái bàn chất cao cocaine và các túi tiền, gái điếm nằm ườn trên ghế sofa bọc da màu trắng, và một vệt máu dài dẫn đến những thi thể không nguyên vẹn của các cảnh sát. Điều tôi không ngờ đến chính là thứ cuối cùng trên thế gian này mà tôi có thể trông đợi.

Bố nhìn thấy đầu tiên. Ông thốt lên, “Cái quái gì thế này?”

Ở hai bên tường, lồng trong những khung ảnh hoặc dán lên bằng băng keo màu nâu, là hàng trăm hàng nghìn tấm ảnh của bố và tôi.

Tôi cũng thốt lên: “Cái quái gì thế này?”

V.

“Marty! Đấy là ảnh của anh!” Caroline nói.

“Anh biết!”

“Và của con nữa, Jasper ạ!”

“Con biết!”

“Đây có phải là ảnh của con lúc còn bé không? Con kháu quá!”

Những khuôn mặt của chúng tôi qua các thời kì khác nhau thò ra từ khắp nơi trong căn phòng. Cuộc triển lãm dị hợm này trưng bày toàn bộ những tấm ảnh mà Eddie đã chụp chúng tôi trong hai mươi năm qua. Có những ảnh của bố thời trẻ ở Paris, gầy và cao, tóc tai bù xù, một chòm râu kì lạ nằm ở cằm và cổ ông, những sợi râu không thể và không thèm mọc ngược lên mặt; bố, trước khi bắt đầu sưu tập tế bào mỡ, đang hút những điếu thuốc mỏng dính trong căn hộ đầu tiên của chúng tôi. Và cũng có ngần ấy tấm ảnh chụp tôi, bé xíu và dò dẫm lối đi suốt thời thơ ấu và niên thiếu. Nhưng chính những tấm ảnh ở Paris khiến tôi thích thú hơn cả: hết ảnh này đến ảnh khác chụp bố cùng một người phụ nữ trẻ đẹp, da xanh tái, với một nụ cười hoang hoải.

“Bố, đó có phải là...?”

“Astrid,” ông xác nhận.

“Đây có phải là mẹ của con không, Jasper? Chị ấy đẹp quá!” Caroline thì thầm.

“Chuyện này là thế nào?” bố hét lên, tiếng của ông vang dội khắp căn nhà. Bố tôi, một gã tâm thần hoang tưởng ngay thật, cuối cùng đã phát hiện ra, sau ngần ấy năm, rằng quả thực có một âm mưu chống lại ông.

“Đi nào,” Eddie nói, dẫn chúng tôi tiến sâu hơn vào căn nhà.

Bố và tôi thấy ớn lạnh. Chuyện này có liên quan gì đến vụ tự tử của mẹ Astrid không? Đến việc mẹ của tôi chết trên một con tàu của Tim Lung? Chúng tôi bị đẩy vào vai thám tử tư, buộc phải điều tra cuộc sống của chính mình, nhưng những chuyến đi tinh thần của chúng tôi vào quá khứ đều vô ích. Chúng tôi chẳng hiểu gì cả. Chúng tôi vừa nhụt chí vừa phấn khởi. Một cơn ác mộng của người mắc bệnh tâm thần hoang tưởng! Một giấc mơ của kẻ mắc bệnh tự yêu mình! Chúng tôi không biết nên cảm thấy thế nào: được tôn vinh hay bị cưỡng bức. Có lẽ cả hai. Chúng tôi quay cuồng trong hoang mang. Rõ ràng Eddie đã truyền cho tên lãnh chúa tội phạm này một nỗi ám ảnh về bố và tôi, nhưng ông ta đã nói gì? Ông ta có thể nói những gì? Tôi tưởng tượng cảnh ông ta trong một chầu rượu nửa đêm với sếp của mình: “Ông sẽ không tin nổi những con người này. Bọn chúng mất trí rồi. Bọn chúng không nên được phép sống!”

“Ông Lung đang chờ các người trong đó,” Eddie nói, chỉ vào những cánh cửa hai lớp bằng gỗ ở cuối lối đi. Ông ta phải có dây thần kinh bằng thép để nở nụ cười tự mãn ấy.

Bố đột ngột tóm mạnh cổ áo ông ta; trông như ông định lột cái áo qua khỏi đầu Eddie - hành động bạo lực chính thức đầu tiên của bố. Caroline gỡ các ngón tay ông ra. “Mày đã đẩy chúng tao vào chuyện gì thế hả, thằng khốn nạn?” ông quát lên, dù nghe không có vẻ hăm dọa như ý muốn của ông. Cơn thịnh nộ hòa với sự tò mò chân thật đem lại kết quả thật lạ.

Một tay lính gác có vũ trang xuất hiện ở cửa để xem xét vụ ầm ĩ. Eddie giải tán gã bằng một cái gật đầu. Thất vọng, gã lính gác lui lại vào bóng râm. Rõ ràng Eddie có một cái gật đầu không thể chối từ. Đó là chuyện mới đối với chúng tôi. Chúng tôi tiếp tục lần theo lối đi đến những cánh cửa hai lớp bằng gỗ với tâm trạng sửng sốt, xem thêm nhiều ảnh nữa trên lối đi. Cho đến lúc này, tôi chưa bao giờ nhận ra bố trông thật giống một con chó bị ép đẩy xuống hồ bơi. Còn tôi -bản sắc của tôi dường như bỗng trở nên kém vững chắc hơn. Tôi cảm thấy hầu như không thể kết nối với quá khứ bằng ảnh của chúng tôi. Chúng tôi trông như những phế tích đổ nát của một nền văn minh đã sụp đổ. Thật chẳng hiểu nổi chúng tôi một chút nào.

Và mẹ của tôi! Tim tôi gần như vỡ tung khi nhìn thấy bà. Trong các tấm ảnh nom bà thật lặng lẽ và bất động; mọi hành động diễn ra sau đôi mắt, kiểu mắt như vừa trở về từ những góc xa xôi nhất của trái đất chỉ để nói với bạn rằng đừng bận tâm đi đến đó. Nụ cười của bà như một chiếc cầu thang dẫn đến chốn vô định. Xuất hiện mờ ảo trong các góc khung hình là nhan sắc buồn của bà, bà đang tựa đầu lên tay, đôi mắt mệt mỏi tối sầm. Có lẽ chỉ là trùng hợp, nhưng trong mỗi tấm ảnh trông bà có vẻ như ngày càng xa dần ống kính máy ảnh, giống như đang thu nhỏ lại. Những hình ảnh này đem đến tôi một lòng tôn trọng mới với bố - trông mẹ như một người phụ nữ xa cách và trang nghiêm mà không một người tỉnh táo nào muốn quan hệ tình cảm. Tôi tháo một tấm ảnh của bà trên tường và gỡ nó ra khỏi khung. Đó là ảnh trắng đen, chụp trong một tiệm giặt tự động. Mẹ tôi đang ngồi trên một chiếc máy giặt, chân đung đưa, nhìn trực diện vào ống kính với đôi mắt to ấn tượng. Đột nhiên tôi biết chuyện bí ẩn này có liên quan gì đấy đến bà - ở đây tôi sẽ nhận được manh mối đầu tiên cho biết bà là ai, bà đến từ đâu. Có một điều đã rõ ràng với tôi: câu đố về sự tồn tại của mẹ tôi có thể được giải đáp đằng sau cánh cửa đó.

Bố mở nó ra, và tôi theo sát phía sau.

VI.

Chúng tôi bước vào một gian phòng hình vuông với rất nhiều gối trên sàn nhà đến độ một phần trong tôi chỉ muốn nằm xuống để được đút nho. Những cây dương xỉ to trong nhà khiến tôi cảm thấy chúng tôi lại được ở ngoài trời. Các bức tường không chạm hẳn trần nhà và ánh nắng chiếu xuyên vào phía trên, trừ bức tường ở phía xa, làm bằng kính và nhìn ra tượng Phật đồ sộ trong vườn. Ở đó, tại bức tường kính, là một người đàn ông, quay lưng về phía chúng tôi, nhìn ra tượng Phật. Họ có kích cỡ giống nhau. Trong ánh sáng xuyên qua cửa sổ, chúng tôi chỉ có thể thấy được cái bóng khổng lồ của người đàn ông ấy. Ít nhất, tôi nghĩ đó là một người đàn ông. Trông ít nhiều giống thế, chỉ có điều to hơn.

“Thưa ông Lung,” Eddie nói, “tôi xin phép được giới thiệu Martin và Jasper Dean. Và Caroline Potts.”

Người đàn ông quay lại. Ông ta không phải là người Thái Lan, Trung Quốc, hay người châu Á gì cả. Ông ta có mái tóc xộc xệch màu vàng hoe và một bộ râu rậm phủ trên làn da mềm nhão, đầy tàn nhang, và ông ta đang mặc quần cộc với áo sơ mi giả flanen cắt ngắn. Ông ta trông như một nhà thám hiểm mới trở về từ chốn hoang dã, thưởng thức hương vị đầu tiên của nền văn minh. Tuy nhiên, đó chỉ là mô tả ngoài lề, bỏ qua chi tiết quan trọng khổng lồ, vì trên hết ông ta chính là chi tiết khổng lồ ấy, người đàn ông béo nhất mà tôi từng thấy hoặc sẽ thấy trong đời, một biến dị kinh ngạc của tạo hóa. Ông ta hoặc là bị rối loạn nội tiết hoặc là đã ăn quá nhiều trong hàng thập niên với tham vọng trở thành người to nhất thế giới còn sống. Hình hài cơ thể ông ta trông không giống thật chút nào - sự gớm guốc của ông ta khiến tôi ngạt thở. Tôi chẳng thể nào giết gã quái nhân này bằng một viên đạn, cũng như không thể làm móp một quả núi bằng một cái tát.

Ông ta nhìn chúng tôi chòng chọc không chớp mắt, ngay cả khi ông ta dụi điếu thuốc đang hút và châm một điếu mới. Rõ ràng ông ta định nhìn chòng chọc cho đến khi chúng tôi khuất phục. Nó có tác dụng. Tôi cảm thấy mình phục tùng khôn tả, đồng thời gầy gò kinh khủng. Tôi nhìn sang bố xem ông có cũng cảm thấy phục tùng không. Ông thì không. Ông đang nheo mắt nhìn người đàn ông khổng lồ tựa như đó là một trong những câu đố màu nhiệm tiết lộ hình ảnh bị che giấu.

Bố nói trước, như thể đang nói mớ. “Quỷ thần thiên địa ơi,” ông nói, và tôi hiểu ngay.

Caroline thốt lên đầu tiên. “Terry,” dì ấy nói.

Terry Dean, chú của tôi, nhìn chúng tôi lần lượt từng người một rồi nở một nụ cười hoang dại nhất mà tôi từng thấy.

VII.

“Ngạc nhiên chưa? Dĩ nhiên là mọi người ngạc nhiên rồi,” chú ấy nói, cười ha hả. Giọng nói vang dội, mạnh mẽ của chú nghe như đến từ sâu bên trong một cái hang. Chú đi khập khiễng về phía chúng tôi. “Mọi người nên nhìn thấy khuôn mặt của mình lúc này. Thật là đáng xem. Mọi người có muốn tôi lấy cho một cái gương soi không? Không à? Có chuyện gì vậy, Marty? Anh bị sốc hả? Dễ hiểu thôi, rất dễ hiểu. Chúng ta cứ chờ ở đây cho đến khi cơn sốc qua đi, nhường chỗ cho cơn giận và sự oán thán. Tôi không mong có ai ngậm bồ hòn làm ngọt về chuyện này. Đây không phải là chuyện làm ta cười ngay tắp lự, ngay từ đầu, mà sau đó, khi tất cả đã lắng dịu. Đừng lo - nó sẽ lắng xuống. Trong vài ngày tới mọi người sẽ phải khổ sở nhớ lại từng ngày mà tôi không còn sống. Nhưng hãy cho tôi biết, mọi người có nghi ngờ việc này không? Dù chỉ một tí ti? Tôi đang nghĩ gì? Anh ở đây, nhìn thấy thằng em trai chết từ đời tám hoánh của mình sau ngần ấy năm, và nó không chỉ mặt dày khi còn sống và hít thở, mà thậm chí nó còn không thèm mời anh một ly bia! Eddie, lấy cho chúng tôi ít bia được không, anh bạn? Và Jasper! Ta đã chờ đến ngày gặp cháu từ lâu rồi. Cháu biết ta là ai không?”

Tôi gật đầu.

“Cháu trai của ta! Cháu có cái mũi giống hệt của bà nội, bố cháu có bao giờ cho cháu biết điều đó chưa? Chú rất vui khi gặp được cháu. Eddie đã kể tất cả về cháu cho chú nghe. Cháu phải thuộc dạng sắt đá lắm đây, sống với bố cháu mà không bị nát vụn thành triệu mảnh. Nhưng trông cháu có vẻ ổn phết nhỉ. Trông cháu bình thường, khỏe mạnh và thích nghi tốt lắm. Làm sao mà cháu không bị điên được? Thật điên rồ khi cháu không phát điên! Dù biết đâu là cháu có. Đó là điều ta nóng lòng muốn tìm hiểu. Và Caroline! Gặp lại em là một chuyện khá sốc, anh phải thừa nhận. Dĩ nhiên Eddie kể với anh là em đã có chồng...”

Terry nhìn Caroline một lúc lâu trước khi hoàn hồn trở lại.

“Tôi biết, mọi người đều bất ngờ. Hãy uống bia đi, mọi người sẽ thấy khá hơn. Tôi sẽ chờ đến khi mọi người bình tĩnh lại. Có thời gian mà. Chúa ơi, nếu có một thứ mà tất cả chúng ta đều có, thì đó chính là thời gian. Marty, anh đang làm em sợ hãi với ánh mắt ấy. Cả em nữa, Caroline ạ. Nhưng cháu thì không, Jasper, nhỉ? Có lẽ vì cháu hẵng còn trẻ. Khi cháu già hơn, cháu sẽ bất ngờ nếu vẫn còn bị bất ngờ. Tôi thắc mắc, cái gì là bất ngờ lớn nhất, chuyện tôi còn sống một cách khó tin, hay chuyện tôi béo lên một cách khó tin? Mọi người cứ nói đi, tôi chẳng chấp nhặt đâu. Tôi thích béo mà. Tôi là Henry đệ Bát phốp pháp. Ông Phật phốp pháp. Cứ nói huỵch toẹt ra đi để chúng ta khỏi mắc mứu về chuyện này. Tôi là một thằng chó chết béo ị. Tôi sẽ cởi áo ra để mọi người thấy mức độ của nó. Thấy chưa? Được chứ? Tôi là một con cá voi. Cái bụng của tôi là vô đối! Không thể địch nổi!”

Mà đúng thật. Terry thật khổng lồ đến nỗi tạo ra một ấn tượng rằng chú không thể bị phá hủy, rằng chú có thể sống sót qua bất kì thảm họa nào. Cái vườn thú những hình xăm con vật mà bố đã mô tả cho tôi nhiều năm trước giờ đã kéo căng ra thành những vòng xoáy màu mè không hình dạng.

Bố đứng như trời trồng. Trông ông như muốn nói gì đó nhưng cái lưỡi lại không chịu hợp tác. “Còn sống... béo,” là tất cả những gì ông chật vật thốt lên.

Tôi phát hiện ra rằng Terry dường như đang lúng túng. Chú không biết nên nhìn vào ai. Thỉnh thoảng chú quay sang và nhìn tôi dò xét. Tôi có lẽ là cơ hội yêu mến và chấp nhận lập tức tốt nhất của chú. Chú không nhận được nó, vì cho dù thật khó tin khi một thành viên gia đình được thần thoại hóa toàn diện vẫn còn sống và khỏe mạnh, nhưng trên hết, tôi cảm thấy một sự thất vọng cay đắng khi việc này chẳng liên quan gì đến mẹ tôi cả.

“Không ai định ôm tôi một cái à?”

Chẳng ai động đậy.

“Vậy Tim Lung là ai?” cuối cùng bố cũng lên tiếng.

“Tim Lung không tồn tại. Cũng như chả có Pradit Banthadthan hay Tanakorn Krirkkiat gì sất.”

“Chú mày đang nói cái gì vậy?”

“Em đang thực hiện nó, Marty. Cuối cùng em cũng đã thực hiện nó.”

“Thực hiện cái gì?”

“Liên doanh tội phạm dân chủ.”

Bố lên cơn co giật như vừa mới dùng dây cáp kích điện khởi động xe ô tô. “Chú mày là cái gì?!” ông gào lên. Đây là phản xạ xúc động đầu tiên mà ông thể hiện.

“Chà, ông anh ơi, lần đầu tiên thằng em này làm nên trò trống đấy. Dù sao thì lão Harry cũng có lý đấy chứ. Vụ này diễn ra thuận lợi như là có ơn trên phù hộ ấy.”

“Tao thật không tin nổi! Tao thật đ. thể nào tin nổi!”

Điều này rõ ràng còn gây sốc cho bố mạnh hơn cả cái tin Terry vẫn còn sống sờ sờ suốt thời gian qua.

Caroline nói, “Cái gì dân chủ...”

“Đừng hỏi,” bố ngắt lời. “Ôi trời ơi.”

Terry khoái trá vỗ đôi tay múp míp và nhảy choi choi trên đôi chân béo ngắn ngủn. Tôi đang nghĩ ngợi làm sao mà chú ấy lại khác một trời một vực so với hình ảnh gã trai trẻ nổi loạn thường xuất hiện trong tâm trí tôi. Người đàn ông phì lũ này chính là người anh hùng thể thao đó, kẻ chạy trốn đó, tên du đãng được cả đất nước tôn sùng đó ư?

Bỗng dưng hai chân chú dừng lại và chú bối rối trông thấy.

“Eddie nói với em rằng anh bị ốm,” Terry nói.

“Đừng đánh trống lảng,” bố nói, giọng của ông bấn loạn vì xúc động. “Tao đã rải tro của chú mày, chú mày biết không.”

“Thật không? Ở đâu?”

“Tao cho chúng vào mấy chai ớt bột trong một siêu thị nhỏ. Số còn lại tao đổ xuống một vũng nước bên đường.”

“Hà, em không thể nói rằng mình xứng đáng được hơn thế!” Terry cười to và đặt tay lên vai bố.

“Đừng động vào tao, quân cô hồn phì lũ!”

“Ông anh ơi. Đừng như thế chứ. Anh nổi cáu vì cái vụ triệu phú ấy à? Đừng như vậy. Em không thể dằn lòng được, thế thôi. Vừa nghe tin anh đang làm gì ở Úc, Marty ạ, là em biết ngay mình phải làm gì. Em đã cứu anh khỏi hết bi kịch này đến bi kịch khác. Và cứu anh đã làm cho em trở thành em như ngày nay. Em không hối tiếc việc ấy. Em yêu thích bản thân mình lúc này, và chỉ cần lấy đi mấy triệu đô la trong một âm mưu rõ mười mươi như vậy là cách dễ nhất để em cứu anh một lần cuối. Anh thấy đấy, ông anh ạ, em muốn anh đến đây. Em nghĩ đã đến lúc chúng ta lại gặp nhau, và em đã quá hạn phải gặp Jasper từ lâu rồi.”

Tôi có thể nhìn thấy cơn tức giận bên trong người bố sắp tìm được lối ra. Một cơn bão hiểm ác đang cuồn cuộn bên trong ông, và nó chắc chắn có liên quan đến Caroline. Ông đã nhận ra rằng dì ấy không hề biểu lộ một chút tức giận; dì đang lặng thinh, vẫn nhìn Terry trân trối với nỗi khiếp sợ và kinh ngạc. Terry, trong khi đó, lại hướng những nụ cười của chú ấy về phía tôi.

“Này, cháu trai. Sao cháu không nói gì đi?”

“Làm sao chú thoát khỏi phòng biệt giam?”

Khuôn mặt Terry trở nên thất thần trong chốc lát, rồi chú lên tiếng, “Trận hỏa hoạn! Phải rồi! Và Marty ạ, anh đã kể cho cu cậu này nghe toàn bộ câu chuyện. Tốt thôi! Câu hỏi hay đấy, Jasper, ngay từ đầu.”

“Mà chú mày có thật là bị biệt giam không?” bố hỏi.

Tất cả chúng tôi chồm về trước với sự chăm chú cao độ khi Terry bắt đầu kể.

“Chắc chắn là em có! Đấy là một vụ hút chết. Em suýt tí nữa thì bị nướng chín - trong phòng biệt giam không có cửa sổ, đương nhiên, nhưng em nghe thấy nhiều tiếng la hét, đám cai ngục quát tháo ra lệnh cho nhau, và khi khói luồn vào dưới cửa, em biết em sẽ bị nấu chín. Trong cái chuồng xi măng ấy tối đen như mực, nóng còn hơn địa ngục và khói mịt mù. Em hoảng sợ. Em bắt đầu gào lên, ‘Thả tôi ra! Thả tôi ra!’ Nhưng chẳng có ai đến. Em đập lên cửa và cánh tay suýt bị bỏng. Em chẳng thể làm được gì, và em phải vận hết mọi nỗ lực tâm lý mới có thể trấn an mình để sẵn sàng cho một cái chết không hề dễ chịu. Rồi em nghe thấy tiếng bước chân ở hành lang. Đó là một viên cai ngục, Franklin. Em nhận ra giọng của ông ta: ‘Ai ở trong đấy?’ ông ta quát to. “Terry Dean!’ em đáp. Franklin già tốt bụng. Ông ấy là một người tốt, rất yêu môn cricket và hâm mộ cuồng nhiệt vụ nổi loạn của em. Ông ấy mở cửa và nói, ‘Đi nào!’ và trong cơn bấn loạn cứu em, ông ấy đã mất cảnh giác. Em đánh ông ấy bất tỉnh, lấy quần áo của ông ấy, ném ông ấy vào phòng giam, rồi đóng cửa.”

“Chú mày giết người đã đến để cứu chú mày.”

Terry dừng lại một chốc và nhìn bố một cách kì lạ, như một người đang quyết định có nên giải thích một hiện tượng thiên nhiên phức tạp với một đứa bé hay không, rồi tiếp tục. “Sau đó thì dễ rồi. Cả nhà tù đang bốc cháy, và em thậm chí chẳng cần dùng đến mấy cái chìa khóa mà em đã trộm được - mọi cánh cửa đều mở. Bằng cách nào đó em đã lần tìm được đường đi qua các hành lang mịt mù khói và ra khỏi nhà tù, em nhìn thấy thị trấn chìm trong lửa và biến mất trong những làn khói. Thế đấy.”

“Vậy là Franklin đã chết cháy trong ngục của chú mày.”

“Ừ, em đoán là anh đã hốt tro của ông ấy.”

“Chuyện gì xảy ra sau đó?”

“À ừ - em trông thấy anh trong lửa. Em gọi to tên anh, nhưng anh không nhìn thấy em. Rồi em thấy anh đang chạy vào một cái bẫy. Em hét lên, ‘Trái, rẽ trái!’ và anh rẽ rồi mất hút.”

“Tao có nghe thấy chú mày! Tao cứ nghĩ đấy là hồn ma máu me của chú mày chứ, quân vô phúc!”

“Trải qua vài ngày ẩn nấp rất kĩ ở Sydney. Bắt một chuyến tàu chở hàng đến Indonesia.