← Quay lại trang sách

Rostock, Đức

Rostock, Đức, ngày …. tháng Tám, năm 2008

Bây giờ là 4 giờ sáng

Tôi không ngủ được nên đã ngồi dậy để viết. Cái máy tính này của Hiền, em chồng tôi, dùng Window Đức và bàn phím Đức nên hơi khác so với bàn phím Mỹ: chữ Y bị chuyển từ hàng thứ nhất xuống hàng thứ ba và chữ Z thế vào chỗ chữ Y. Các phím Shift, Control, và các phím số đều lạ: tôi thậm chí không thể gõ một số ký tự và dấu theo ý mình và đang mất gấp đôi thời gian bình thường để gõ những dòng này. Nhưng đi du lịch là như vậy: mọi thứ không bao giờ như ở nhà.

Hôm qua, chuyến bay từ Boston đi New York chỉ có một tiếng và tôi phải chờ những ba tiếng ở New York JFK trước khi lên máy bay đi Berlin. Chính ở JFK chiều qua, tôi đã chạm chán châu Âu lần đầu. Khu vực đi Châu Âu tràn ngập người Âu và có thể nhận ra họ ngay: người Âu, kể cả khi bay đường dài vẫn ăn mặc chải chuốt trong khi người Mỹ ăn mặc cốt sao thoải mái. Những cô gái Đức, Pháp, Ý vẫn váy ngắn, giày cao gót, tất dài, kính mắt, khuôn mặt trang điểm cẩn thận như đang đến một cuộc hẹn; những người đàn ông mặc áo suit đen khít người hoặc designer jean với sơ mi phẳng phiu. Và nước hoa! Người Mỹ hầu như không còn dùng nước hoa khi đi làm hằng ngày, và nếu có thì thường dùng quá tay như để đề phòng. Còn những người Âu trong khu chờ bay, ai cũng mang nước hoa, nhẹ, mà lưu mùi rất lâu.

Máy bay xuống sân bay Tegel lúc gần trưa. Từ trên nhìn xuống, sân bay Tegel rất nhỏ. Nó lập tức gợi cho tôi nhớ đến hoặc Sheremetyevo ở Matxcơva hoặc Nội Bài những năm 1990. Khi làm xong thủ tục, bước ra ngoài, tôi không tin được là phần cửa ra chỉ có duy nhất một cái máy trả hành lý và cách đó vài bước chân thấy taxi xếp hàng đón khách.

Châu Âu.

Phải nói gì về ấn tượng đầu tiên khi đặt chân lên đất Châu Âu, mà chính xác là Berlin! Nếu phải chọn một cụm từ chủ đạo cho ngày đầu tiên này, tôi sẽ chọn một cụm từ đã bị lạm dụng trong thời gian gần đây nhưng lại chính xác trong trường hợp này: “thế giới phẳng”. Sau bảy tiếng đồng hồ từ khi rời New York, cái đập vào tôi đầu tiên trong sân bay ở Berlin là sạp bán sách và tạp chí. Chúng không khác gì với quầy Hudson News ở sân bay JFK ngoài chuyện bằng tiếng Đức.

Vẫn các tạp chí Cosmopolitan, Vogue, People, National, Geographic – bằng tiếng Đức.

Vẫn hình ảnh Jenifer Aniston, Britney Spears và Angelina Jolie tràn các bìa bào và tạp chí – bằng tiếng Đức.

Vẫn là Khaled Hosseini, Stephenie Meyer, Stephen King và dĩ nhiên J.K Rowling ở khu sách bestseller - bằng tiếng Đức.

Cứ như thể tôi không hề rời Mỹ mà nước Mỹ chỉ đột nhiên được “dịch” sang tiếng Đức và tôi mất oan bảy tiếng đồng hồ cho một sự di chuyển chỉ có tính hình thức.

Nhưng cái ấn tượng “ phẳng “ lớn nhất là trên khuôn mặt người. Trong hành lang sân bay Tegel, hầu hết người chờ bay đều mang khuôn mặt “phẳng” giống hệt nhau: khuôn mặt nhìn thẳng về phía trước, không thái độ, như thể không biết dòng người đi lại hối hả xung quanh. Không biết người Đức không có thói quen biều lộ tình cảm nơi công cộng hay cái vẻ mặt phẳng đó là biểu hiện của sự đồng dạng về tình cảm, suy nghĩ, hành vi mà cội nguồn của nó có thể chính là sự đồng dạng trong tiêu thụ các sản phẩm văn hóa. Với tốc độ toàn cầu hóa (mà phần nhiều là Âu – Mỹ hóa) như bây giờ thì đến một lúc nào đó, du lịch có lẽ mất cái ý nghĩa khám phá một văn hóa khác , với giá trị tương đương và tự thân , so với các giá trị Âu- Mỹ.

Từ Berlin, xe đi ba tiếng đồng hồ tới Rostock, Vừa ra khỏi những khối nhà bê tông cuối cùng của Berlin là những đống lúa mỳ và cỏ đã mở ra trên các triền đồi thấp, chạy thành sóng đến chân trời. Trên những cánh đồng, bò sữa đứng nhẩn nha cạnh những cối xay gió khổng lồ chầm chậm quay. Vắt ngang các cánh đồng là những vệt đường nhỏ, trên đó thi thoảng một chiếc xe tải chạy đơn độc rồi biến mất. Cảnh tượng này gợi nhớ đến California, nhất là vùng quanh thung lũng Napa. Tuy nhiên, ở California nói riêng và các thành phố lớn ở Mỹ nói chúng không có cảnh lái xe quy củ như tôi thấy trên đường từ Berlin đi Rostock. Tất cả xe chạy ở làn bên ngoài đều chạy nhanh để vượt, và khi vượt xong thì lập tức vào làn bên trong; cho nên làn bên ngoài hầu như luôn trống.

Chiều nay, Hiền dẫn tôi đi chợ. Chợ ở đây rất sạch, ngăn nắp; xúc xích, thịt xông khói, pho mát và sữa ngồn ngộn trên các quầy. Rau quả mơn mởn. Có một cảnh trong siêu thị mà tôi không thấy ở Mỹ: người Đức mua nước giải khát, uống xong thì mang chai đi trả lại ở các máy tự động, mỗi chai lấy lại hai mươi xu. Nhà ai cũng có các thùng rác phân loại theo quy trình tái chế, giấy riêng, đồ thủy tinh riêng, nhựa riêng vá rác riêng.

Rostock nghèo và buồn. Những khu nhà chung cư ở đây giống những hộp các tông hồng, chanh cốm và xanh được xếp chồng lên nhau - một sự đơn điệu đã rơi đến ngưỡng khắc khổ. Cái không khí “bao cấp” và “Đông Đức cũ” còn rất rõ, thêm vào đó là nỗi buồn len lén của một thành phố đang lụi dần khi các ngành công nghiệp từng nuôi sống thành phố bị thu hẹp [1] . Tôi muốn viết nhiều thêm về chuyện này và nhiều chuyện khác nhưng cơn buồn ngủ hình như đang trở lại. Bây giờ tôi sẽ datei öffnen cái file này, sẽ beenden và computer ausschalten . Trên cái Windows bằng tiếng Đức này, tôi hi vọng nó có nghĩa là tôi save file, close file, và shut down máy tính.

[1] Rostock từng là thành phố sản xuất máy bay và là thành phố cảng chính của Đức, nhưng từ sau khi nước Đức thống nhất, vị trí này bị mất đi; do đó các nhà máy và dân số Rostock ngày càng giảm xuống.

Giờ mới là im lặng thực sự. Không có tiếng bàn phím r ờ i r ạ c n à y…

…. t h ì tất cả những gì còn lại chỉ là bóng đêm tuy đang nhạt dần nhưng không hề có dấu hiệu của một thành phố sắp trở dậy. Tôi còn ở đây một vài ngày với gia đình Hiền rồi sẽ lang thang một mình ở Châu Âu. Tôi mong làm sao đến ngày đó.

Nhưng giấc ngủ không đến dễ dàng. Tôi cứ nghĩ mãi những gì chúng tôi đã nói đến chiều nay.

Chiều nay, trong lúc chúng tôi chuẩn bị bữa tối, Hiền nói:

“Việt ở được với anh Sơn thì giỏi thật.” (Hiền hơn tuổi tôi nên chúng tôi thỏa thuận gọi nhau bằng tên thay vì chị em).

“Cả cái nhà này không có ai ở được với chú Sơn đâu đó cô ơi,” cháu tôi cười.” Ai cũng sợ chú Sơn như sợ cọp đó, cô không biết à?”

Không, điều này tôi không hề biết.

“Chuyện đám cưới với Việt cũng thế đấy,” ba chồng tôi cười. “Chuyện vợ con của Sơn, cả nhà không ai hỏi gì bao giờ, đùng cái Sơn viết thư về cho ba bảo ba ơi con sắp cưới vợ… thì ba cũng chuẩn bị mọi thứ chứ hồi đấy đã gặp Việt đâu… Đến lúc ăn hỏi gặp bố mẹ Việt ở Hà Nội, ba bảo thôi gặp được anh chị, thấy anh chị hiền lành thì tôi cũng đỡ lo, chắc con Việt cũng hiền lành như anh chị. Bố mẹ Việt cũng run run, bảo gặp ba thì cũng yên tâm chứ hai ông bà cũng chưa gặp Sơn bao giờ, thấy Việt bảo đám cưới thì đám cưới… mắc cười hai ông bà thông gia an ủi nhau, chả biết con dâu, con rể mình mặt mũi ra sao. Hai đứa vậy là giống tính nhau… thế nên ở được với nhau… cũng là duyên số cả.”

“Chắc là vậy ba nhỉ?” Hiền nói. “Ai cũng bảo từ hồi lấy vợ, anh Sơn hiền đi bao nhiêu.”

Mọi người đều cười. Tôi cũng cười. Tôi kể cho mọi người nghe vô vàn những chuyện ly kỳ khi sống với Sơn. Như chuyện ngày trước ngày cưới, Sơn và mấy người bạn rủ nhau lái xe vòng quanh nước Mỹ, từ Boston xuống Miami, qua Texas rồi vượt qua biên giới sang Mexico, rồi một người bị giữ lại ở Mexico và Sơn phải đưa cậu bạn đó tới thủ đô để bay về Việt Nam, rồi cả đoàn lại đi tiếp sang đến bờ Tây, rồi ghé thăm tôi ở Chicago mấy ngày, rồi đi tiếp lên Michigan, vượt qua biên giới sang Canada, rồi về lại Boston; sau đó Sơn mới bay về Chicago để chúng tôi cùng về Việt Nam làm đám cưới.

“Trời ơi, con ở nhà cứ thấp thỏm. Anh ấy với bạn thì bị giữ ở biên giới Mexico, mà hồi đó Mexico đang có đảo chính, cảnh sát với quân đội súng ống khắp nơi. Xong rồi, có hôm, bạn anh ấy còn đăng lên mạng một mẩu tin là anh Sơn và mấy người bị bắn chết. Lúc con đọc, con tưởng thật, con cầm cái điện thoại mà không bấm nổi số, tay con cứ run bần bật thế này này, điện thoại cứ rơi xuống. Mãi sau mới bấm được số gọi sang Mexico, gặp anh ấy, anh ấy cười hềnh hệch bảo là chúng nó đùa. Hôm ấy, con không vỡ tim chết là may.”

Rồi tôi kể chuyện những khi đi đường với Sơn; Sơn luôn lái xe rất nhanh, vượt hết xe này đến xe khác. Nếu xe nào chậm chậm mà cứ chạy ở làn ngoài là Sơn bấm còi liên tục; thậm chí chạy sang làn bên cạnh, vượt lên trước, và chặn không cho xe kia lên để “dạy cho con lợn này một bài học”. Mỗi lần như thế, tôi ngồi ghế bên này, chỉ còn biết bám chặt vào thành ghế và tay nắm ở cửa xe. Suốt mấy năm qua, bất kể chúng tôi sống ở bờ Đông hay bờ Tây, các loại phiếu phạt lái xe quá tốc độ, đỗ xe ở chỗ cấm đỗ… từ khắp các thành phố mà Sơn từng đi qua cứ bám theo chúng tôi như một cái đuôi dài.

Tôi kể; ba chồng tôi, Hiền và cháu tôi cười chảy cả nước mắt. Tôi cũng cười chảy cả nước mắt. Sao khi kể lại, những chuyện ấy lại buồn cười đến thế. Hình như tất cả những câu chuyện kể lại đều lãng mạn hơn, bớt đau lòng hơn lúc chúng đang diễn ra. Chuyện về Sơn giống như chuyện về một nhân vật anh hùng bạt mạng trong các bộ phim Hollywood; chúng hấp dẫn nhất là khi ta là khán giả. Tôi và Sơn đã gặp nhau ở Boston, rồi đăng ký kết hôn mười tháng sau đó mà không có gia đình chứng kiến; rồi về Việt Nam làm đám cưới; và Sơn đã nghỉ việc để về Chicago với tôi; rồi chúng tôi đã chuyển đi bờ Tây sống; rồi Sơn lại nghỉ việc ở đó và về làm lại ở bờ Đông; rồi Sơn lại nghỉ việc ở bờ Đông và chúng tôi quay lại Chicago; còn bây giờ Sơn lại trở lại bờ Đông và tôi lại đi theo. Lúc nào cũng di chuyển, lúc nào cũng sống trong căng thẳng, bấp bênh như thể cả hai đang trong một bộ phim hành động đầy những cảnh rượt đuổi.

Nhưng mà… khi tôi chờ Sơn và các bạn anh đi xuyên Mỹ, hay những lần chúng tôi chất đồ đạc lên xe, chạy từ bang này sang bang khác, chỉ dừng lại ngủ đêm ở những thị trấn dọc xa lộ… thì mọi việc không hề giống phim và không hề buồn cười. Những ngày tháng ở Oregon, ở New Jersey, hay như bây giờ, ở New Hampshire… những ngày tháng ấy không hề buồn cười.

Chiều nay, tôi không nói cho ba và mọi người biết rằng tôi không chắc chắn tôi có thể chịu đựng được bao lâu nữa. Tôi đã mệt rồi. Tôi thực sự đã mệt rồi. Tôi yêu Sơn nhưng sống với anh khó quá. Nó không khác gì xây nhà dưới chân môt ngọn núi lửa đang âm ỉ cháy; tôi không bao giờ biết trước lúc nào thì núi lửa phun trào; chỉ biết mỗi lần phun trào thì tất cả mọi thứ quanh chân núi đều bị hủy diệt. Tôi đã cuống cuồng vơ vét chạy di tản quá nhiều lần, và đến giờ thì bắt đầu hỏi tại sao mình vẫn cứ hy vọng có thể xây dựng một ngôi nhà yên ổn dưới chân ngọn núi này?

Nhưng tôi sẽ không nghĩ đến những việc này vội. Bây giờ, tôi sẽ cố ngủ để giữ sức cho những ngày ở Châu Âu. Phải rồi, tôi đang ở châu Âu. Tôi đã mong chờ chuyến đi này biết bao.

Rome, ngày…

Sáng nay, tôi rời Berlin trong mưa. Trời lạnh, nhiều gió. Sau hai tiếng, Rome đón tôi bằng bản nhạc Clair de Lune của Debussy đột ngột được mở trong khoang máy bay của hang hàng không giá rẻ Easyjet. Ra khỏi cửa máy bay là nắng ấm và trời xanh Địa Trung Hải. Tôi đã tới Rome rồi.

Từ sân bay Ciampino phải bắt xe buýt vào nhà ga trung tâm của Rome: Roma Termini. Bên ngoài sân bay, cảnh tượng nhốn nháo khác hẳn với Đức và cũng bẩn hơn Đức rất nhiều. Ba lần liền, những chiếc xe con sà vào gần chỗ tôi đứng và những đại gia đình bảy, tám người huyên náo chui vào những chiếc Fiat năm chỗ, chưa kể hành lý được chất đầy trong cốp xe hoặc chằng trên nóc xe. Trên xe buýt chạy vào thành phố, radio được mở to cho cả xe nghe. Không biết tiếng Ý thì tôi cũng hiểu là đang có một trận bóng đá. Chà, bình luận viên trên radio… nói thế nào nhỉ… à, “nói văng nước miếng” trong khi người tài xế và một số hành khách ngồi gần đó vừa nghe vừa mắng nhiếc, la ó các cầu thủ một cách đầy kích động khiến cho tôi vừa thót tim sợ rằng bác tài xế sẽ tông xe vào lề đường vừa không nhịn được cười khi nghe tiếng gào thét huyên náo và những âm rung r… r… đặc trưng của tiếng Ý. Ngoài đường, hầu như xe ô tô nào cũng để ngỏ kính cửa, từ đó vọng ra tiếng radio tường thuật bóng đá - và lái xe taxi có một vẻ mặt hầm hầm như thể khách đi xe là kẻ thù khiến họ bỏ lỡ cơ hội xem trận bóng.

Sự thật là tôi không hề có ý định đi Ý khi chuẩn bị chuyến đi châu Âu này. Tôi chỉ định tới Rostock thăm gia đình Hiền rồi sẽ đi Paris và ở đó toàn bộ thời gian. Cho đến khi quyết định đi thêm Ý, tôi không có thời gian đọc bất cứ thông tin gì để chuẩn bị cho hành trình. Trong đầu tôi, tất cả ý niệm về Rome và nước Ý được chắp vá từ phim Bố Già, các sách sử về đế quốc La Mã, các đĩa opera, và ký ức về cái thời mà người Việt Nam háo hức chờ World Cup để xem Robero Baggio trên ti vi đen trắng.

Xuống xe buýt ở nhà ga Termini, tôi kéo hành lý tới chỗ có một dãy xe taxi chờ. Vừa thấy tôi tiến tới, một người đàn ông to béo, trông như Clemenza bước ra từ Bố Già, lập tức nổ ra một tràng tiếng Ý rổn ráng và chỉ vào chiếc taxi đầu tiên. Tôi chưa kịp định thần thì Don Clemenza bật tay cái tách, và từ đâu bỗng nhiên hiện ra một anh chàng chứng hai mươi tuổi, trông giống hệt Roberto Baggio. Chàng Baggio mặc áo phông Lacoste xanh lam, quần bò xé, đeo kính Armani, mái tóc đen hơi xoăn được vuốt keo bóng mượt – y như một tài tử điện ảnh. Chàng hùng dũng tiến tới nhấc hành lý của tôi cho vào cốp xe taxi đã mở sẵn và chỉ tay ra hiệu cho tôi vào xe theo một lối không chừa cho tôi bất cứ lựa chọn nào khác.

Chàng Baggio có vẻ chỉ biết nói tiếng Ý, tôi thì “non parto italiano [2] ” nên sau khi vào xe, tôi đưa cho chàng tờ giấy đặt khách sạn, có địa chỉ trên đó. Chàng nhìn địa chỉ, gât đầu rồi đánh xe hòa vào dòng xe đông đúc trên phố. Suốt mười lăm phút sau đó, chàng chạy lòng vòng qua Via nọ, Via kia [3] . Trong lúc này, tôi đọc lại tờ giấy đật khách sạn: hướng dẫn trên đó nói rằng khách sạn chỉ cách nhà ga Roma Termini khoảng 2 phút đi bộ và bản đồ thì cho thấy nó ở ngay ngách bên cạnh nhà ga. À, đã quá muộn! Nhưng thôi, có thể đi taxi phải tránh đường một chiều nên lâu hơn. Có một điều là nhìn mãi chẳng thấy có đường một chiều nào cả, còn chàng Baggio cứ liên tục lòng vòng gần nhà ga, vừa lái vừa liên tục xổ ra những tràng tiếng Ý du dương và chỉ tay ra hai bên phố ra ý rằng không hiểu cái khách sạn quỷ quái này ở chỗ nào mà tìm mãi không thấy. Đoán chừng chạy quanh có lẽ không giải quyết được vấn đề nên khi xe quay lại gần nhà ga một lần nữa, tôi nói:

“Xin anh dừng ở đây, tôi sẽ xuống từ tìm lấy vậy.”

[2] Không biết nói tiếng Ý.

[3] Via: tiếng Ý là “đường, phố”.

Chàng Baggio tiếp tục chỉ ra hai bên đường, ra vẻ không hiểu ý, và tiếp tục chạy xe. Tôi phải kêu lên “Stop, stop, stop”; và sau khi lần nữa thêm một đoạn thì chàng cũng ngặm ngùi dừng xe. Tôi xuống xe, lấy hành lý để lên vỉa hè, rồi quay lại đề trả tiền. Đồng hồ lúc trước chỉ có 8 euro, nhưng khi tôi quay lại thì đã thấy 14 euro và chàng Baggio thản nhiên nói tiếng Anh:

“Forteen [4] ”

[4] Mười bốn.

Rồi lè nhè một tràng dài tiếng Ý, trong đó có từ “bagaglio” mà tôi lập tức hiểu là “hành lý”.

“Xin lỗi, chắc là anh đùa?” Tôi nói. “Tôi chưa bao giờ thấy đi taxi phải trả thêm tiền hành lý.”

Nhưng chàng Baggio rõ ràng không đùa vì chàng rút từ phía sau lưng ghế ra một tờ giấy trắng nhàu nhĩ, có ghi một số dòng bằng tiếng Ý. Chàng chỉ cho tôi một dòng loáng thoáng về “bagaglio”, rồi lại lè nhè một tràng tiếng Ý với vẻ mặt vô cùng nghiêm trọng – trong số đó cũng chỉ có một từ mà tôi hiểu rõ: “polizia”. Ý chàng nói, nếu tôi không trả tiền thì sẽ gọi cảnh sát.

“Xin lỗi, anh lại đùa?” Tôi nói. “Ai viết ra cái tờ giấy này? Tôi không thấy có dấu má hay biểu tượng của tồ chức nào hết?”

Baggio không trả lời câu hỏi của tôi mà rút điện thoại di động và chỉ về phía trạm cảnh sát gần đó, đồng thời liên tục nhắc đi nhắc lại “polizia, polizia” và làm ra vẻ chuẩn bị bấm máy. Biết không thể “nói chuyện phải quẫy” với kẻ vừa ăn cắp vừa la làng này, tôi nói:

“Anh cứ gọi cảnh sát đi, đồ lừa đảo!”

Tôi ném tờ 10 euro vào người chàng và ra khỏi xe, sập cửa lại. Thật may là hành lý của tôi đã ở trên vỉa hè. Chàng Baggio cúi nhìn qua cửa, vẫn tiếp tục ra bộ bấm điện thoại; rồi chừng mấy giây sau thì chàng dông thẳng.

Sau khi loanh quanh một hồi dưới nắng và mồ hôi nhễ nhại vì vẫn mặc áo khoác từ Berlin, tôi tìm thấy con đường có khách sạn. Đó là một đường phố vắng vẻ cách nhà ga khoảng 300 mét. Tuy nhiên, khi tôi tìm đến đúng số nhà thì ở đó không hề có khách sạn nào mà chỉ có một cái cửa lớn, đóng kín, với một tấm biển đồng ở bên ngoài, trên tấm biển đó có một số tên nhà với nút chuông bấm cho từng căn.

Vừa nóng vừa mệt vừa đói, tôi bắt đầu tin nước Ý toàn mafia thì một ông già đầu hói bụng phệ trông giống hệt Frankie ở Bố Già tập hai đủng đỉnh đi qua. Trong tình trạng chết đuối vớ được cọc, tôi lễ phép hỏi Don Frankie bằng tiếng Anh liệu ông có biết cái “hotel” này ở đâu không. Don Frankie nhìn địa chỉ rồi nói với tôi bằng tiếng Ý là tôi đến đúng “hotel” rồi. Tôi đáp lại bằng tiếng Anh rằng tôi chẳng thấy có biểu hiện “hotel” gì cả (chỉ có mỗi từ này là hai bên đều hiểu) . Don Frankie đeo kính lên nhìn các chữ trên tấm biển đồng rồi thản nhiên bấm lần lượt tất cả các chuông cửa từ trên xuống dưới, mỗi lần bấm lại nhún vai nói ra một tràng tiếng Ý ra ý “Ôi dào, biết làm thế nào được? Việc phải làm thì làm thôi, cứ bấm cho chúng nó chết.” Vừa mệt vừa chán nản mà tôi không nhịn được cười. Nhưng bấm tất cả chuông cửa mà không có ai trả lời, Don Frankie lắc đầu ra ý rất tiếc ông không thể giúp gì thêm.

Để rút ngắn câu truyện này tôi sẽ kể vắn tắt rằng cuối cùng tôi cũng tìm được khách sạn sau khi tiếp tục chạy lòng vòng, gặp một người đàn ông Sri Lanka gọi giúp điện thoại đến khách sạn và lần này gặp một người của khách sạn. Hóa ra, cái địa chỉ mà họ cho tôi chỉ là văn phòng môi giới; người môi giới sau đó mới đưa tôi tới khách sạn. Và khách sạn này thực ra cũng không phải của người Ý mà của một gia đình Nga – tóm lại, mọi thứ đều rất lòng vòng và mafia. Như tôi nhanh chóng nhận ra sau nửa ngày ở Rome, hầu hết khách sạn nhỏ và các cửa hàng quanh khu nhà ga chính của Rome cũng như ở một số điểm du lịch đều do người Ấn Độ, Pakistan, Sri Lanka, Nga, v.v… thuê lại của người Ý để kinh doanh. Tôi cũng hỏi người chủ khách sạn về chuyện anh chàng lái taxi đòi tôi tiền hành lý, ông ta nói đó là chiêu lừa phổ biến ở đây.

Chiều hôm đó, sau khi sắp xếp phòng, tắm, thay quần áo, tôi đi tới nhà thờ Santa Maria Maggiore, khu đấu trường La Mã Colosseo, khu di tích Domus Aurea Palatino.

Chà, tôi buộc phải nói rằng sau ngày thứ nhất, Rome làm tôi thất vọng. Khu đấu trường Golosseo quả có to lớn, quả có cổ xưa, nhưng trong tổng thể Rome, đấu trường này chỉ khiến tôi liên tưởng đến một miếng gấm được vá vào một chiếc áo sơ mi Dolce & Gabbana made in China. Thực tế là toàn bộ Rome - cho đến lúc này - gợi cho tôi cảm giác về sự nham nhở và lệch lạc vì cái cổ xưa và hiện đại, cái hoành tráng và tiểu tiết lẫn lộn với nhau một cách lộn xộn, bừa ẩu, nhốn nháo. Tôi lại phải nhắc lại là Rome bẩn: bẩn hơn Berlin, bẩn hơn các thành phố lớn của Mỹ. Hơn thế, Rome gợi một cảm giác về một chàng công tử đỏm dáng nhưng lấc cấc, hư hỏng, thuộc một dòng họ quý tộc có lịch sử ngàn năm. Tổ tiên của anh ta có thể danh giá và tạo ra nhiều kỳ tích nhưng đến anh ta thì hầu như tất cả sự văn hóa và lịch lãm đó biến mất, còn lại chỉ là tên họ và một số đồ gia bảo mà anh ta trưng hết ở phòng ngoài cho khách xem (và không quên thu tiền). Nói như người Việt Nam là “hổ phụ sinh cẩu tử”. Có thể ngày mai tôi sẽ đổi ý, nhưng lúc này thì là như vậy.

Tôi ăn bữa tối đầu tiên ở ngay gần khách sạn: spaghetti thịt bò xốt cà chua với một ít rau. Thức ăn dở - điều này tôi đã biết trước vì đây là một cửa hàng phục vụ khách du lịch chứ không phải là một nhà hàng tử tế, nhưng tôi chỉ muốn ăn nhanh để quay lại nhà thờ Santa Maria Maggiore [5] xem lễ tối và sau đó sẽ đi bộ trở lại khu đấu trường Colosseo xem nó có đẹp hơn vào buổi tối không. Nhưng nhà thờ Santa Maria Maggiore đã đóng cửa khi tôi tới. Bên ngoài đài phun nước đối diện với nhà thờ, mấy du khách đang ngồi nghỉ chân; khuôn mặt họ thất thểu và mệt mỏi, như thể muốn nói “Người ta bảo mọi con đường đều dẫn về thành Rome, nhưng đến Rome rồi thì đi đâu?” Cũng phải nói thêm: tháng Tám là tháng đi du lịch của Rome nên hầu hết người bản xứ đi vắng; thành phố sau 8 giờ tối hầu như không còn hoạt động gì nhiều. Tôi bỏ luôn ý định đi bộ tiếp ra khu Colosseo để về ngủ sớm.

[5] Một trong những nhà thờ cổ nhất và thiêng liêng nhất ở Rome cũng như trên thế giới, được coi là một thành tích của Thiên Chúa Giáo La Mã.

Sau 10 giờ đêm, những con đường hẹp và cổ kính quanh nhà ga trung tâm đã vắng người. Ít đèn đường. Mèo hoang không biết từ đâu ra rất nhiều, kêu thảm thiết. Trên vỉa hè, mấy người đàn ông Ấn Độ đang mệt nhọc thu dọn những món đồ lưu niệm và túi da Ý rởm mà họ bày bán. Tôi muốn vào Internet để có cảm giác kết nối với thế giới quen thuộc của mình nhưng khi người chủ cửa hàng Internet yêu cầu tôi phải xuất trình hộ chiếu mới được dùng mạng thì trong không khí nghi ngờ cả thành Rome, tôi từ chối và đi thẳng về khách sạn. Đất thánh ư? Rome lúc này không có gì giống đất thánh. Điều vui nhất trong ngày hôm nay với tôi là gặp được chị Mai, nói chính xác là sơ Anna Thanh Mai. Chị là người quen của gia đình chồng tôi. Tôi quý chị ngay lập tức.

Cái mà tôi chú ý nhất trong ngày hôm nay là những phòng xưng tội bằng gỗ đặt dọc hai bên sảnh chính của nhà thờ Santa Maria Maggiore. Có gần hai mươi phòng và người xưng tội có thể xưng tội bằng nhiều thứ tiếng - Ý, Anh, Pháp, Đức, Hà Lan, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha. Có một phòng mà cha nghe xưng tôi là người Việt Nam: cha Joseph Trần. Lúc tôi ở trong nhà thờ, có một phòng xưng tội sáng đèn; rồi một người đàn ông chừng năm mươi tuổi đến quỳ ở bục, chắp tay, cúi đầu, lầm rầm xưng tội chừng mười phút. Trông ông ta rất thành kính và đau khổ.

Ý nghĩ cuối cùng của tôi trước khi chìm vào giấc ngủ là: không biết tội lỗi được xưng nhiều nhất ở Rome là tội gì? Và tội lỗi mà con người thường xuyên mắc phải nhất là tội gì?

Đêm qua, trước khi đi ngủ, rồi đã nhủ thầm rằng sáng nay sẽ dậy trước 6 giờ để tới nhà thờ Santa Maria Maggiore xem người Rome xưng tội trong lễ sáng. Tuy nhiên, khi tôi mở được mắt, đồng hồ đã chỉ 7 giờ. Ngoài cửa sổ, bầu trời có màu xanh Địa Trung Hải ngăn ngắt, không mây. Một ngày nắng rực rỡ.

Hơn 8 giờ, chị Mai tới. Hôm sau, chị mặc áo trắng với váy đen; hôm nay áo hoa và váy hoa vải phin thô màu vàng nhạt nhưng kiểu dáng giống hệt hôm qua. Chị đi xăng đan da nâu và đội mũ vải mềm – gợi tôi nhớ đến những bức ảnh các thiếu nữ trường dòng Sài Gòn từ trước 1975. Chị nhìn tôi bằng đôi mắt nâu rất trong, mỉm cười:

“Hôm qua Việt ngủ có ngon không?”

Chị nói chậm; và sự chậm rãi, cộng với cái nhìn của chị đột nhiên gột khỏi tôi một cái gì đó. Có lẽ là sự đề phòng bản năng. Chị đã hỏi một câu đơn giản nhưng thật lòng.

“Em ngủ như chết,” tôi nói. Tôi đã ngủ như chết thật.

Chị Mai chỉ hơn tôi bốn tuổi, người gốc Huế. Chị vào nhà dòng từ năm mười sáu tuổi, sau khi tốt nghiệp trung học. Chị đã sống nhiều năm ở Pháp rồi qua Rome từ bốn năm nay để học tiếp. Khi nào học xong trong trường dòng, chị sẽ ở lại đây và sống vĩnh viễn trong nhà dòng. Dòng tu mà chị theo gọi là dòng Nữ Công Truyền Giáo; những người theo dòng này không mặc trang phục nữ tu như các dòng khác (tức áo thung với khăn trùm đầu) mà vẫn mặc quần áo bình thường vì họ muốn sống đạo giữa đời.

Sáng nay, trên tàu điện ngầm đi Vatican, tôi hỏi rất nhiều về cuộc sống trong nhà dòng của chị. Ví dụ như hằng ngày lịch hoạt động của chị như thế nào, chị lấy đâu ra tiền để sống; chị nói rằng nhà dòng chu cấp cho chị “mọi thứ”, chị không phải lo gì cả.

“Mọi thứ tức là,” tôi cố nghĩ ra cái gì đó thật riêng tư “em xin lỗi chị, kể cả quần áo lót và băng vệ sinh!”

“Ừ,” chị cười. “Bọn mình có một chị bề trên lo quản lý tất cả những thứ đó, khi nào hết thì chị phát cho.”

“Thế nếu chị muốn tiêu gì đó riêng thì sao?”

“Bọn mình không phải tiêu gì riêng hết,” chị lại cười từ “riêng” của tôi. “Bọn mình sống chung, hưởng chung, có gì cần thì trình bày với chị bề trên, chị sẽ cung cấp cho.”

“Nhưng mà… chị vẫn phải có những thứ cần dùng riêng chứ. Như hôm nay chị ra ngoài thì vé tàu điện ngầm chị lấy tiền ở đâu để mua? Nếu chị muốn ăn kem hay uống nước bên ngoài thì sao?”

“À, cũng được lo hết rồi; mình trình bày với chị bề trên và chị đưa vé cho mình. Mỗi tháng, mình được 15 euro để chi các khoản riêng như Việt nói. Nhưng bọn mình không có đi ra ngoài nhiều như người thường, hôm nay mình ra gặp Việt thì mình trình bày với chị bề trên là em xin phép ra ngoài gặp gia đình từ Việt Nam sang.”

Chị cho tôi biết chị sống cùng với một sơ người châu Phi nữa trong một căn phòng nhỏ. Tôi không nhịn được tò mò nên cứ căn vặn chị mô tả tỉ mỉ cho tôi xem phòng đó trông thế nào, diện tích bao nhiêu mét vuông, đồ đạc chính xác có những gì, giường có đệm không, có toilet riêng không, có ti vi, radio, máy tính không, có Internet không, vân vân… Chị cười, kiên nhẫn trả lời tôi rằng phòng của chị khoảng 12 mét vuông, trong phòng có vài cái ghế gỗ, hai cái bàn, không có tivi với radio, Internet thì có ở một cái máy tính chung cho mọi người và chỉ dùng vào cuối tuần. Chị và sơ cùng phòng mỗi người có một giường ngủ đơn chứ không có phòng ngủ riêng và quanh giường của mình thì “mình cũng có thể trang trí tùy theo sở thích”.

“Thế sở thích của chị là gì?”

“Mình chỉ muốn phụng sự Chúa thôi!” Chị Mai cười ngất trước sự háo hức của tôi.

“Thế chị trang trí quanh giường thế nào? Các bạn của chị trang trí như thế nào?” (Tôi cứ hình dung các phòng ký túc xá của sinh viên ở Việt Nam với những cái giường cá nhân quây ri đô, và những bức tường dán đầy ảnh Brad Pitt.)

“Mình thì không trang trí gì cả; chỉ có ảnh Chúa,” chị Mai cười. “Các chị em khác cũng thế. Có người thì có ảnh gia đình, có người thì không.”

Tôi càng tò mò không biết sống trong nhà dòng thì thế nào.

“Chị Mai ơi, cho em vào sống với chị mấy ngày được không?”

Chị Mai ngạc nhiên nhìn tôi. Rồi chị nói nếu tôi nghiêm túc thì chị sẽ trình với “chị bề trên” xem thế nào.

Tôi nghiêm túc chứ. Cách đây hơn mười năm, tôi từng vô cùng dị ứng với đạo Thiên Chúa khi Quang Anh, người bạn thân của tôi lúc đó, quyết định theo đạo. Tôi từng nghe rằng tôn giáo “là thuốc phiện của đám đông”, chỉ dành cho những người yếu đuối, không làm chủ được cuộc sống của mình nên phải trông vào một đấng siêu nhiên. Khi thấy Quang Anh đổi từ “lương” sang “đạo” vào năm thứ hai ở đại học, tôi bắt đầu đi nhà thờ theo bạn, thậm chí còn đến các lớp học Kinh Thánh do một nhà truyền giáo Tin Lành người Mỹ dạy trong hai năm. Nhưng sự thật là trong suốt những năm ấy, cái duy nhất mà tôi thích trong đạo Tin Lành chỉ là những buổi thánh ca miễn phí ở nhà thờ. Tôi không sao có thể tin Chúa.

Thế thì những người tin Chúa là như thế nào? Cái gì làm cho tôi không thể tin mà họ lại tin? Tôi chắc chắn người Mỹ không phải "những người yếu đuối, không làm chủ được cuộc sống của mình"; tại sao đa phần người Mỹ tin Chúa? Mà thực tế là hơn hai tỷ người trên thế giới này đang tin Chúa. Hơn thế, nếu chỉ lựa chọn tin Chúa nhưng vẫn sống cuộc sống thế tục thì không sao, nhưng còn những người vào nhà dòng để toàn tâm toàn ý phụng sự Chúa? Cái đức tin ấy của họ là thế nào, cái đời sống ấy là thế nào? Không ít người cho rằng những người tu hành sống đời khổ hạnh, thậm chí hành xác, không có tự do. Nhưng nhìn chị Mai, tôi không thấy bóng dáng khổ hạnh, cũng không có bóng dáng sự tù túng. Trên mặt chị ít khổ đau hơn hầu hết những người "vô thần", "tự do" mà tôi gặp.

Một bà sơ trên đường phố Rome

Sáng nay, chúng tôi định sẽ tới bảo tàng Vatican trước. Lúc 9 giờ sáng, bên ngoài bảo tàng đã có một hàng người dài khoảng hai trăm mét, vắt từ cổng qua hai khúc quanh của con đường. Họ nhích chậm chạp dưới cái nắng ngày càng gay gắt. Những người đứng xung quanh tôi – đa phần là khách du lịch da trắng – vừa liên tục uống nước, vừa thở nặng nề và lau mồ hôi nhễ nhại trên mặt, trên cổ. Nhìn tốc độ di chuyển của dòng người, chúng tôi quyết định bỏ cuộc để đi sang nhà thờ Thánh Peter.

Nhà thờ Thánh Peter là một trong những điểm du lịch chính của Vatican và cũng là nơi công chúng được vào tự do, những nơi khác đều có những người lính Thụy Sĩ mặc đồng phục vàng, xanh, đỏ, đeo súng đứng gác. Trên đường từ bảo tàng Vatican sang nhà thờ, tôi nhìn thấy nhiều linh mục mặc áo thụng đen và các bà sơ mặc áo thụng xanh nhạt nghiêm trang đi ra đi vào các cánh cổng có lính gác. Họ băng qua đường, chậm rãi bước trên các vỉa hè lát đá, khuôn mặt không thuộc về thế giới này và không hề quan tâm tới những dòng xe cộ đông đúc. Đây hẳn là một cảnh bình thường với Rome và với chị Mai nhưng tôi phải đứng lại nhìn. Có cái gì đó siêu thực trong chuyển động của những khuôn mặt bình thản ấy giữa phố phường Rome ngập người và xe.

Quảng trường Thánh Peter là một không gian đồ sộ. Tôi chưa từng thấy một quảng trường nào đồ sộ như vậy. Cả quảng trường được bao bởi những hành lang vòng cung lớn với 248 cột đá khổng lồ, mỗi cột cao hai mươi mét, đường kính mấy người ôm, được dựng song song theo kiểu các hàng cột của đền Pantheon. Trên đỉnh các hành lang vòng cung là 140 bức tượng thánh trong các tư thế rất sinh động, đang đổ những bóng dài trên quảng trường ngập nắng.

Nhưng tôi thích quảng trường bên ngoài bao nhiêu thì lại không thích bên trong nhà thờ Thánh Peter bấy nhiêu, mặc dù, đây nữa, đây cũng là một công trình khổng lồ. Có quá nhiều thứ được “trưng bày” ở đây; bức tranh nào, bức tượng nào cũng đi kèm những dòng giới thiệu về kì tích có một không hai của nó, khiến cả basilica [6] như một bữa tiệc thánh tích ngồn ngộn mà chỉ nhìn đã phải bội thực. Nào là các thánh tích và hầm mộ của các Giáo hoàng; nào là tượng của Michelangelo; nào là tranh, bàn thờ của người nổi tiếng này người nổi tiếng khác. Tôi không thấy Chúa hay “đạo” ở đây. Cũng không thấy có sự thiêng liêng hay bình yên nào - ngay cả trong những phòng nguyện nhỏ hai bên nhà thờ cho các khách du lịch vào cầu nguyện.

[6] Basilica là nhà thờ kiểu lớn, xây kiểu hoàng cung La Mã.

Cái duy nhất có vẻ có tính đạo trong nhà thờ Thánh Peter là cảnh một nhóm khoảng hai mươi phụ nữ Hàn Quốc đứng xung quanh một cây thánh giá gỗ gắn trên một bức tường trần trụi hiếm hoi trong nhà thờ. Họ cùng vươn tay về cây thánh giá; những người không đứng gần cây thánh giá thì vươn tay chạm vào vai người đứng trước. Trông họ như những cái rễ mọc ra từ cây thánh giá trong lúc họ cúi đầu, lầm rầm cầu nguyện.

Ở nhà thờ thánh Peter ra, chúng tôi đi tới Spanish steps, qua quảng trường Republica, qua Piazza del Popolo (quảng trường Nhân dân); rồi đi qua các đường phố hẹp lát đá tới đài phun nước Trevi. Có đi bộ như vậy mới bắt đầu hình dung được Rome và cái tinh thần thần thánh của Rome. Ở Rome, nếu tính tỷ lệ, có lẽ đài phun nước, nhà thờ, và các quảng trường công cộng là ba dạng công trình có mật độ dày đặc nhất. Cứ đi vài phố lại thấy một đài phun nước giữa một quảng trường lớn hoặc nhỏ. Và nhà thờ thì hầu như góc phố nào cũng có. Hình như từ ban đầu, người La Mã hiểu rằng để có một xã hội tốt và một đời sống cao thì phải có một xã hội dân sự và người dân cần được thực hành quyền dân chủ của mình bên cạnh việc vui chơi giải trí. Họ hiểu rằng con người thực sự là một thực thể xã hội, bên cạnh việc là một thực thể sinh học và tâm linh. Một điều nữa cũng khiến tôi nghĩ: Rome thực sự rất nhỏ về diện tích và theo một số tài liệu tôi từng đọc thì người La Mã cổ đại chỉ có chiều cao trung bình khoảng một mét rưỡi, nhưng họ đã thiết kế tất cả các công trình công cộng với một sự phóng khoáng và vĩ đại cả về ý nghĩa và kích thước thực. Những quảng trường thênh thang, những nóc nhà cao, những hành lang đá lớn, những trụ tường cẩm thạch mấy người ôm, những tháp nhà thờ vươn thẳng lên trời, những bậc thềm, và những chạm trổ kỳ công… Mọi thứ đều phải cao rộng, hoành tráng, phải như thế giới của các vị thần, của Chúa trên thiên đàng. Con người quả là một bản sao của thế giới thần thánh; và nghiễm nhiên có thể là thần thánh.

Sau 3 giờ chiều, Rome tràn ngập người ngồi nhàn tản sưởi nắng ở các quảng trường – cả dân cư Rome và khách du lịch. Cũng khó mà có thể vội vã trong một ngày nắng đẹp như thế này, giữa một thành phố chậm rãi thế này. Trên phố, các tiệm kem đầy ắp người. Ngay cả những cảnh sát lực lưỡng, bảnh bao cũng vừa tán chuyện, vừa ngả ngốn trên những chiếc xe Vespa mà ăn kem thoải mái. Những người đàn ông đi bộ trên phố với một vẻ tự tin và trễ nải của những con báo ăn no đang đi dạo. Tôi thấy cả những ông già mặc com lê nghiêm chỉnh đủng đỉnh bước đi, vừa đi vừa liếm kem như một đứa trẻ. Các cô gái mặc đẹp chạy rông trên phố với mái tóc đen buông xõa; họ thoải mái phô bày cái cơ thể sexy như một quyền tự nhiên của con người.

Quanh đài phun nước Trevi, khách du lịch và người Rome la liệt nằm, ngồi, sửa nắng; họ ở sát cạnh nhau mà không thấy chật chội. Ngay cạnh đó, tôi nhìn thấy một cánh cửa gỗ màu đen pha đỏ, trông rất cổ kính; tôi không rõ nó là cửa vào cái gì nhưng cứ liều đẩy thử rồi bước vào. Bên trong hóa ra là một nhà thờ nhỏ hoàn toàn tĩnh lặng. Nhà thờ chỉ có diện tích như một gian phòng nhỏ, tối, với một ban thờ Chúa ở chính giữa và một vài hàng ghế. Có ba người đang gục đầu yên lặng cầu nguyện trong khi chỉ cách vài bước chân là bao nhiêu khách du lịch và người Rome đang ngồi ăn kem sưởi nắng. Nhìn từ bên ngoài, không thể biết được đây là một nhà thờ - và có lẽ có tuổi đời cả ngàn. Không biết có bao nhiêu nhà thờ như thế này ở Rome - thật khó tưởng tượng rằng tôi đang ngồi ở một tàn tích có thể đã có từ thời Julius Caesar Cleopartra, Antony, khi mà đế chế La Mã trải rộng tới tận sông Nile.

Tối nay, đã chán ngán các loại pizza và mỳ ống, tôi ăn tối ở một nhà hàng Trung Quốc gần khách sạn. Bàn bên cạnh là một cặp vợ chồng châu Á và một cậu con trai nhỏ - có vẻ như cặp vợ chồng đã cãi nhau trước khi đi ăn tối nên họ không hề nói chuyện với nhau và cũng không nhìn nhau suốt bữa; cả hai chỉ nhìn vào cậu con trai. Người vợ có một vẻ mặt khiến cho tôi nghĩ tới cụm từ "bể khổ". Hai mắt chị là hai cái hố khổ và khuôn mặt chị là một bản khắc sống của những năm tháng không vui; một khuôn mặt chỉ chực gục xuống khóc nếu quanh đây không có người. Chị có vẻ rất muốn chấm dứt cuộc hôn nhân này nhưng không biết cách, có khi không biết lựa chọn đó liệu có tồn tại với chị. Giữa hai người ngồi đó là một khoảng trống chết chóc. Thật là một cảnh đau lòng giữa Rome - thành phố mà người ta hôn nhau ở khắp các góc phố và cúi xuống buộc giày cho nhau.

Tôi vừa ăn vừa liếc nhìn chị và tự hỏi, không biết chị đang nghĩ gì.

Khó lắm, tôi biết chứ.

Những ngày này, tôi chỉ ngủ từ hai đến năm tiếng mỗi ngày. Đã thế, ngày nào tôi cũng đi bộ liên tục, ăn ít, chỉ uống nước là nhiều. Vậy mà không thấy mệt.

Sáng nay, tôi mở mắt lúc 3 giờ sáng và đến 5 giờ đã ra khỏi nhà, xuống tàu điện tới bảo tàng Vatican. Tôi muốn đến sớm để xếp hàng mua vé và có thể vào được bảo tàng trước khi rời Rome.

Bên ngoài, trời còn tối và hơi lạnh. Những đường phố Rome yên tĩnh. Dưới bến tàu điện, chỉ có một vài người chờ tàu. Trông họ đều mệt mỏi và nhem nhuốc - điều rất khó thấy ở Rome. Họ chắc chắn không phải người Ý. Có vẻ như họ là dân nhập cư từ Ấn Độ, Sri Lanka, Thổ Nhĩ Kỳ, Pakistan hay một nước nào đó có màu da sẫm màu.

Lúc hơn 6 giờ 15, bên ngoài bảo tàng chưa hề có ai. Những chỉ vài phút sau, một nhóm người Tây Ban Nha xuất hiện: một gia đình bốn người, gồm bố mẹ và hai người con có lẽ đang là học sinh cấp ba. Sau đó, một chiếc xe buýt dừng lại ở ngay chỗ chúng tôi và hai bà sơ chừng ngoài bốn mươi tuổi bước xuống, một mặc áo thụng trắng, một mặc áo thụng đen. Hôm trước, tôi hỏi chị Mai các màu áo có nghĩa là gì; có phải giống như là đai trắng, đai đen trong võ thuật không; chị Mai cười, bảo không phải, màu khác nhau là do các dòng tu khác nhau. Hai bà sơ đi tới chỗ tôi đứng; nhìn tấm biển báo giờ mở cửa; rồi có vẻ không chắc chắn lắm, họ hỏi tôi. Người mặc áo trắng nói tiếng Anh không sõi nhưng có thể hiểu được; vậy là chúng tôi bập bõm tán gẫu. Hóa ra, họ từ Philippines tới. Tôi nói rằng bảo tàng phải đến 8 giờ 30 mới mở cửa, nhưng người ta có thói quen đến từ sớm để xếp hàng. Sau khi nghe thông tin này và thấy mới chỉ có khoảng chục người đứng xếp hàng, hai bà sơ đi ra trước hai cánh cổng kín bằng gỗ của bảo tàng để chụp ảnh cho nhau. Họ giơ tay giơ chân làm điệu bộ, rồi trêu nhau gì đó và cười lăn lộn, đến mức phải ngồi xuống cho khỏi ngã. Trông họ giống như hai cô gái trẻ thân nhau đang đi shopping trong siêu thị chứ không phải hai nữ tu sĩ. Tôi quan sát họ và cũng thấy vui lây.

Trời buổi sớm có gió lạnh nên những người đứng đợi bắt đầu co ro. Chẳng mấy chốc, có mấy người phụ nữ mang rất nhiều khăn quàng và mũ len đến chào bán. Khăn mũ đủ các loại màu sắc, bằng lụa và len, giá từ 3 đến 5 euro. Họ bán những thứ này vì bảo tàng cấm những người mặc quần sooc và áo cộc tay vào bên trong, những người này phải mua khăn để trùm lên.

Đến 8 giờ 30, bảo tàng mở cửa. Phòng đầu tiên là các cổ vật và tượng thần trong Thần thoại Hy Lạp, hầu hết được làm từ trước hay ngay đầu Công nguyên. Tôi nhanh chóng nhận ra rằng tôi cần cả tuần mới có thể xem hết được bảo tàng này, mà tôi chỉ có buổi sáng nay. Vậy là tôi đành bỏ qua một loạt phòng để đi thẳng tới Nhà nguyện Sistine.

Đường đi tới đó không dễ. Phải đi lên đi xuống các cầu thang hẹp và xuyên qua các căn phòng đầy những bức tranh trần và tranh tường lớn, vẽ các tích tôn giáo. Một ý nghĩ cứ trở đi trở lại trong đầu tôi: tại sao ở các nền văn minh đầu tiên của con người, đời sống nghệ thuật và tôn giáo – tâm linh

Những người đến từ 6 giờ sáng để xếp hàng bên ngoài bảo tang Vatican (Rome)

được hòa trộn tự nhiên đến thế vào đời sống thế tục? Nghĩa là việc kính Chúa, thờ thần, việc coi con người như một hóa thân hoặc sự nối dài của thế giới thần linh là một việc tự nhiên; trong khi thế giới hiện đại của chúng ta dễ coi điều đó là biểu hiện của sự tăm tối và ngu dốt. Kết luận này có vẻ quá vội vàng và là một sản phẩm chính trị - xã hội nhiều hơn là sự thật. Con người hiện đại có lẽ đã quá tự mãn về quyền lực của mình và trong sự tự mãn đó đã cắt đứt mình khỏi một sợi dây nối với một cái gì đó cao cả, toàn thiện.

Phần chính của nhà nguyện Sistine là một căn phòng kiến trúc Phục hưng được xây dựng theo kích thước của đền thờ Solomon trong kinh Cựu ước – và lúc này đông nghẹt người. Tôi hầu như không thể di chuyển mà chỉ có thể thả lỏng cho mình được đẩy đi trong cái sóng người đều đang ngửa cổ nhìn lên trần nhà. Trên đó, trong vòng bốn năm từ 1508 đến 1512, Giáo hoàng Julius đệ nhị đã thuê Michelangelo vẽ chín bức bích họa để mô tả ba giai đoạn trong quan hệ của con người với Chúa trời: Chúa tạo ra thế giới, Chúa và con người, Loài người phản bội lại Chúa. Sau đó, từ năm 1537 đến năm 1541, Giáo hoàng lại thuê tiếp Michelangelo vẽ bức Sự phán xử cuối cùng (The Last Judgment) để tạo nên mắt xích cuối cùng cho tổng thể câu chuyện về loài người và Chúa.

Căn phòng lúc này rất tối vì toàn bộ cửa sổ đều bị đóng và do vậy khó mà nhìn rõ các họa tiết, nhất là trong tư thế ngửa đầu. Tuy thế, chỉ quy mô của những bức họa cũng có thể khiến người ta choáng ngợp. Tất cả những người trong phòng hẳn đều cũng có cảm giác này nên hầu như không ai nói gì, chỉ ngửa cổ nhìn, và thỉnh thoảng khẽ tặc lưỡi. Sự chiêm bái và ngả mũ này chỉ có một nửa với Chúa; nửa còn lại là với sức sáng tạo kinh khủng của Michelangelo. Ít nhất là tôi cảm thấy thế. Tôi không có gì để nói khi đứng đây. Tôi chỉ có thể im lặng và đồng tình với cái tuyên ngôn không lời của Michelangelo khi ông vẽ những bức fiasco này: hoặc là thế này , hoặc là không gì cả.

Nhưng thế này thực sự khó lắm. Những người cho rằng nó dễ là những người hoặc rất may mắn, hoặc không hề biết họ đang nói gì.

Tôi tới Rome làm gì? Câu hỏi này trở đi trở lại trong đầu tôi tối qua. Đa số những người tới Rome – mà phần nhiều là từ các nước phương Tây, hoặc các nước châu Á thân phương Tây như Nhật, Hàn Quốc, Singapore – đều ít nhiều có mục đích hành hương. Họ tới Rome để tới Vatican, để được gần Chúa hơn thông qua việc gần với Giáo hoàng hơn và gần với đất thánh hơn. Nói gì đi nữa, Thiên Chúa giáo vẫn là tôn giáo lớn nhất thế giới vào thời điểm hiện tại, với khoảng hơn hai tỷ tín đồ, trong đó có quá nửa thuộc Thiên Chúa giáo La Mã.

Với tôi, mục đích hành hương này hoàn toàn không có. Từ lâu tôi đã nghĩ, ngoại trừ chuyện một người xuất thân trong gia đình nào và xã hội nào, sự lựa chọn tôn giáo của người đó còn phụ thuộc tạng người. Tạng của tôi không sao tin được những điều cơ bản mà người theo đạo Thiên Chúa nào cũng tin: có một đấng sáng tạo, gọi là Chúa Trời, đã tạo ra thế giới và con người từ cát bụi; loài người đã phản bội lại Chúa và vì thế mà tất cả chúng ta sinh ra đã có tội lỗi khởi thủy; tuy nhiên Chúa thương loài người nên đã cử con duy nhất của Ngài là Jesus xuống chịu tội cho loài người bằng cách chết trên thánh giá; và những ai tin nhận Chúa sẽ được rửa sạch tội lỗi để lên thiên đường sau khi chết còn tất cả những người không tin Chúa sẽ xuống địa ngục [7] .

[7] Dĩ nhiên là một số dòng chỉ tin chúa Jesus là sứ giả của Chúa chứ không phải con của Chúa.

Đi nhà thờ với Quang Anh đến hai năm và dầu cố gắng hết sức, tôi vẫn không sao chấp nhận được những điều này. Có cái gì đó trong tôi cứ cưỡng ra. Có lần, khi hết cả kiên nhẫn với tôi, Quang Anh đã nói:

“Tại sao chị bướng thế nhỉ? Chị không chịu tin nhận Chúa chẳng qua là do chị kiêu ngạo chứ không phải vì nó phi logic. Chị sợ người ta bảo chị ngu ngốc.”

Bướng thì tôi công nhận, nhưng sợ người ta bảo mình ngu ngốc thì chắc chắn là không.

“Em nhầm,” tôi nói. “Nếu thực sự có Chúa, và Chúa đã để Jesus chết trên thánh giá để rửa tội cho con người, thì chị hết tội rồi, tại sao chị lại phải theo Đạo, mà không chị lại còn phải xuống địa ngục. Đã bảo là chết để đền tội thay rồi mà vẫn còn bắt vào đạo mới được chuộc tội thật; cái lỗi đấy là lỗi phiên dịch và cưỡng ép của nhà thờ, chị chẳng tin Chúa tử tế nào lại ép người ta như thế. Phật chẳng bao giờ ép ai theo đạo Phật, Phật bảo mỗi người đều là Phật, phải tự mà cứu mình.”

Nghe đến Phật thì dĩ nhiên Quang Anh càng điên tiết. Nhất là vì lúc đó, trong cố gắng tìm một lối tắt để đi tới sự thật (trời ơi!), tôi vừa đi nhà thờ cùng Quang Anh vừa bắt đầu tập thiền cùng với một nhóm bạn khác.

“Đây không phải là phiên dịch của nhà thờ,” Quang Anh nói “Đây là Kinh Thánh nói! Kinh Thánh là lời Chúa; chị đã đọc sách Luke và Mathew trong Tân ước, chị biết việc Chúa Jesus là con của Chúa chính là lời Chúa nói trong Kinh Thánh chứ không phải là sự phiên dịch của nhà thờ.”

“Dào,” tôi tặc lưỡi, “Luke và Mathew trước hết là các nhà chính trị.”

Đến đây thì Quang Anh hết chịu nổi.

“Vấn đề không phải là logic , vấn đề là chị chưa thấy địa ngục đấy thôi; nếu chị biết chắc chị sẽ phải xuống địa ngục nếu không tin Chúa thì chị đã ba chân bốn cẳng tin nhận rồi. Chị đúng là chưa thấy quan tài chưa nhỏ lệ.”

“Em lại nhầm nữa rồi,” tôi cũng phì khói qua hai tai. “Nếu quả thực là như thế thì lại càng phi lý. Thế thì chị thà xuống địa ngục còn hơn. Đằng nào thì đa số bạn của chị với em cũng xuống địa ngục với chị. Xuống đấy cũng vui chán.”

Lúc ấy chúng tôi đang uống sinh tố trên phố Hoàng Diệu vào một buổi tối thứ Bảy, sau khi đi tập thánh ca ở nhà thờ về (hồi đó, phố Hoàng Diệu còn là phố sinh tố). Đến đây thì Quang Anh không nói không rằng, lên xe đi thẳng.

Cũng vì xung đột này mà bọn tôi đã từ mặt nhau một thời gian dài trước khi làm bạn trở lại một cách dè dặt. Chúng tôi học cách không mang chuyện tôn giáo ra tranh luận nữa; nhưng tôi biết Quang Anh vẫn không thể tiêu hóa nổi việc tôi lại không nhận ra cái sự thật rành rành về Chúa.

Chị Mai, trái lại, thuộc tạng có thể theo đạo Thiên Chúa và thực tế là chị đang hiến cả đời mình cho Chúa. Tôi đoán, khi tôi và chị Mai đứng trong nhà nguyện Sistine nhìn lên những bức fiasco của Michelangelo, chị Mai nhìn thấy Chúa, còn tôi chủ yếu thấy Michelangelo. Chị Mai cho rằng ngay cả sự sáng tạo của Maichelangelo cũng thuộc về Chúa, nếu không nhờ ân phước của Chúa thì Michelangelo không thể nào tạo ra kiệt tác này; còn tôi thì chỉ nhìn thấy cơ bắp và các nơ ron thần kinh của Michelangelo căng ra trong lúc ông ngửa đầu ra vẽ, bất kể Chúa hay quỷ Satan có muốn ông vẽ hay không.

Nhưng rút cục, tôi tới Rome để làm gì?

Ngày hôm nay, tôi đối mặt lại với câu hỏi này, nhưng là trước “chị bề trên” trong nhà dòng của chị Mai. Chiều nay, khi gặp chị Mai, tôi lại hỏi chị không biết chị đã hỏi “chị bề trên” cho tôi chưa.

“Nếu chị bề trên đồng ý thì em sẽ quay lại Rome để đến sống thử trong nhà dòng,” tôi nói.

“Chị hỏi rồi,” Chị Mai cười. “Chị bề trên bảo sao cứ nói mà mãi không đưa cô ấy đến đây giới thiệu.”

Lúc ấy, chúng tôi đang đứng bên ngoài nhà ga Termini, tôi nói, “ Thế thì đi luôn bây giờ được không chị, để em xuống rửa mặt một chút trông cho tử tế đã.” Tôi chạy xuống tầng dưới để vào nhà vệ sinh. Nhưng tôi vội quá và có lẽ là mừng quá nên đã chạy nhầm và toilet nam mà không biết. Trong lúc trang điểm, tôi nhìn vào gương và nhận thấy những người đàn ông đi ngang phía sau tôi cứ nhìn tôi chằm chằm. Đến lúc, những cái nhìn xoáy quá, tôi quay lại nhìn họ và nhận ra mình đang ở trong nhà vệ sinh nam. Tôi vội vàng ôm túi đồ trang điểm chạy ra khỏi phòng.

Nhà dòng của chị Mai ở trong một con phố rất hẹp cạnh khu Piazza Navona. Không có cổng vào, không có tường cao, không có hàng rào, không có thánh giá hay bất cứ dấu hiệu nào bên ngoài cho thấy đây là một nhà dòng. Đó chỉ là một căn nhà hai tầng sơn màu vàng mang kiến trúc Phục Hưng như những căn nhà bên cạnh. Chúng tôi đi qua một cái cửa nhỏ, rồi chị Mai dẫn tôi sang một căn phòng giống như một cái am, ở đó có một bàn thờ Chúa và Đức Mẹ Maria rất đơn giản. Chị bỏ dép, quỳ xuống làm dấu thánh – tuy chỉ trong vài giây nhưng các cử động đều tập trung, tự nhiên, và nối nhau mềm mại như một thứ bản năng thường hằng, tôi cũng vội vàng bỏ dép, quỳ xuống sau chị, và cũng bất giác làm dấu thánh mặc dù ngay trong lúc đang làm dấu, trí óc lập tức đánh động tôi rằng cái dấu thánh của tôi hoàn toàn trống rỗng về nghĩa (và ở đây thì có một phần khác lại lặng im ghi nhận rằng cái phản xạ làm dấu đầu tiên, trước khi trí óc tôi can thiệp, là một phản xạ tự nhiên để đáp lại một điều gì đó tự nhiên mà gọi bằng tên không gì quan trọng). Rồi chị đứng dậy, nói với tôi rằng mỗi lần đi ra ngoài hay đi về, mọi người trong nhà dòng đều phải chào Chúa trước.

“Giống như con cái khi ra ngoài nhà hay đi về đều phải chào bố mẹ mình,” chị nhẹ nhàng nói.

Chào Chúa xong, chị Mai dẫn tôi đi qua một cái cửa ngách để vào bếp – chị giải thích rằng phải đi qua bếp mới lên được nhà trên, nơi mọi người sinh hoạt. Vừa bước vào bếp, tôi đã nghe tiếng cười lớn và sau tiếng cười là bốn phụ nữ da đen to lớn, đầu vấn khăn, mặc váy hoa rộng kiểu châu Phi, đang lau dọn những cái bồn rửa bát to như những bể nước ở giữ phòng (họ lập tức gợi tôi nhớ đến những bộ phim từ thời những năm 1980 như Nô tì Isaura). Chị Mai nói với họ rằng tôi là người nhà của chị từ Việt Nam sang (họ nói với nhau bằng tiếng Pháp), rồi giới thiệu với tôi lần lượt cả bốn người: hai chị từ châu Phi, một chị từ Úc và một từ Haiti. Mỗi lần chị Mai giới thiẹu đến ai, người đó lại tiến tới hôn tôi vào hai bên má.

“Bon jour. Enchanté!” các chị cười hiền hậu.

“Bon jour,” tôi luống cuống đáp lại vì còn bất ngờ với những cái hôn. “Enchanté!”

Các chị lúc đó chưa biết tôi không nói tiếng Pháp nên hỏi tôi “Comment ca va [8] ?” và nhiều câu khác, tôi trả lời rằng tôi “très bien [9] ” và tôi “non parle Francaise [10] ”. Vậy là họ chỉ mỉm cười rất trìu mến, mắt ai cũng lấp lánh niềm vui. Tôi nhìn thấy trên bàn cạnh đó hai thùng đựng sâm banh nên nói:

“Ah, champane... Beaucoup de champagne. Champage no good for sisters [11] .?