Rostock, ngày
Rostock, ngày...
Suốt mấy ngày vừa rồi, tôi đã trở lại Đức dự lễ nhập học của cháu tôi. Ở Đức, lễ vào lớp một là dịp trọng đại ngang với lễ tốt nghiệp cấp ba hoặc đại học ở Mỹ.
Từ sáng, chúng tôi đã dậy chuẩn bị. Tất cả đàn ông đều mặc com-lê, kể cả bé Andy hai tuổi. Tôi đã lo lắng chúng tôi ăn mặc quá trịnh trọng nhưng khi tới trường của Nam, nỗi lo của tôi tan biến vì các gia đình khác và lũ trẻ đều mặc lễ phục cả. Đứa trẻ nào cũng được tháp tùng bởi ông bà nội ngoại, bố mẹ, cô dì chú bác, anh chị em họ... Họ mang theo hoa, bóng bay chúc mừng, máy quay phim, máy chụp ảnh để ghi lại khoảnh khắc trọng đại này.
Phụ huynh và học sinh tập trung trong nhà thể thao của trường. Ở đó, các giáo viên và học sinh các lớp lớn hơn đã trang trí rất nhiều băng rôn, biểu ngữ chào mừng các em lớp một. Học sinh trật tự xếp hàng theo lớp; phụ huynh ngồi ở các hàng ghế xung quanh. Ở chỗ này tôi phải mở ngoặc nói rằng trẻ con Đức, từ những em bé một, hai tuổi đã có ý thức kỷ luật và tự lập một cách kinh ngạc; không hề có cảnh trẻ con khóc lóc, bám bố mẹ; không có cảnh bố mẹ dỗ dành, quát nạt, bú mớm, cho con ăn uống, tay xách nách mang. Một cô giáo hình như là cô hiệu phó đứng phía trên cầm micro hướng dẫn các em ngồi vào chỗ của mình, và học sinh cứ thế răm rắp làm theo, không hề có chen lấn, xô đẩy.
Đúng giờ, lễ nhập học bắt đầu. Các em học sinh lớp ba hát một vài bài hát và đóng một vở kịch ngắn; sau đó, cô hiệu trưởng đọc lời chào mừng các học sinh lớp một; rồi giáo viên chủ nhiệm của mỗi lớp một mới đọc tên từng học sinh để các em đi vào các lớp. Cô giáo gọi đến tên ai, em đó đứng lên, và gia đình vỗ tay, chụp ảnh rồi đi vào lớp rất trật tự. Điều mà tôi nghĩ đến nhiều nhất khi chứng kiến toàn bộ buổi lễ này là “sự tôn trọng”. Trẻ em ở đây được tôn trọng như những cá thể độc lập và có ý thức; cho nên chúng được đối xử trên tinh thần như thế; và chúng cư xử lại cũng với tinh thần như thế. Không có sự bao bọc, nuông chiều, cung phụng, hoặc hách dịch với trẻ em.
Chúng tôi theo Nam vào lớp. Trong lớp, cô chủ nhiệm nói thêm vài lời chúc và dặn dò; rồi các em được về - để các gia đình có thể tổ chức tiệc nhập học ở nhà. Buổi lễ rất đơn gỉan nhưng sang trọng. Sau lễ, chúng tôi đi tới một nhà hàng để ăn trưa, rồi lên tàu đi ra một hòn đảo cách đó ba mươi phút. Ở đó có bãi biển và bọn trẻ con được xuống tắm. Hầu hết các bố mẹ ngồi hoặc sưởi nắng ở bên trên, mặc bọn trẻ muốn làm gì thì làm. Có những đứa bé chỉ lẫm chẫm đi, hoặc còn đang bò nhưng bố mẹ chúng mặc kệ cho chúng bò xuống mép nước hoặc nghịch cát. Họ chỉ im lặng quan sát và theo dõi từ xa chứ không kè kè bên cạnh, cũng không ngăn cản, đe dọa, khuyên bảo, dỗ dành. Tôi quan sát một em bé còn đeo tã lẫm chẫm đi ra mép nước, ngồi xuống sờ tay vào nước và hét lên thích thú, rồi bị một cơn sóng đánh ngã ra nhưng bố mẹ em chỉ chăm chú theo dõi mà không chạy tới giúp. Em bé lồm cồm bò dậy, tự động lùi lại rồi tiếp tục sục tay xuống nước để vầy. Ở ngoài xa hơn một chút, những đứa bé ba, bốn tuổi; và xa hơn là bọn trẻ mười – mười lăm tuổi túm tụm chơi đùa. Chúng có thể cãi nhau và đánh nhau, và phải tự giải quyết lấy; người lớn sẽ không can thiệp ngay cả khi trẻ con quay về “mách”.
“Việc của con, con tự giải quyết” tôi nghe thấy một ông bố nói với đứa con khoảng sáu tuổi của mình; trong lúc đó, người mẹ nằm sưởi nắng đọc sách.
Tôi nằm trên cát, cạnh những bụi sậy úa vàng dưới nắng hè xem bọn trẻ đùa trên bãi biển và kinh ngạc vì cái cách mà người Đức dạy con. Họ kỷ luật và lý tính còn hơn người Mỹ. Được nuôi lớn lên trong sự bình tĩnh và kỷ luật tự nhiên như thế này, hy vọng những đứa trẻ sẽ có cơ hội giữ được bình tĩnh và kỷ luật trước những biến động và cám dỗ của cuộc sống người lớn sau này.
Đây có lẽ là điều tôi yêu nhất ở Sơn. Anh không bị cám dỗ bởi tiền bạc; không coi việc phải có nhà cửa ổn định, công việc ổn định, thăng tiến trong xã hội là mục đích sống – và tôi đồng ý với điều đó.
Nhưng anh lại cũng không thông cảm và kiên nhẫn được với những người yếu đuối hơn anh. Có phải ai sinh ra cũng đã may mắn có được sự mạnh mẽ đâu, ngay cả khi họ cố hết sức.