Paris, ngày cuối cùng…
Paris, ngày cuối cùng…
11:33 sáng: Viết từ Café Notre Dame, đối diện với Quai Saint Michel.
Tôi ngồi đối diện với hai tháp chuông Nhà thờ Đức Bà ở cách tôi chừng mấy trăm mét. Tuy nhiên, tầm nhìn của tôi bị chắn bởi một màn hình lớn mà người ta dựng lên từ đêm qua để tường thuật cuộc viếng thăm của Giáo hoàng vào ngày mai. Thực tế là từ hôm qua, họ đã đóng cửa vườn đằng sau; ngày hôm nay chắc họ cũng không cho khách vào thăm Nhà thờ để còn chuẩn bị đón Giáo hoàng. Bây giờ, xung quanh Nhà thờ, ở cả hai bên bờ sông, phía trước và phía sau, người ta đã dựng lên rất nhiều rào chắn, màn hình ti vi ngoài trời và các xe thu phát. Tầm này ngày mai, chỗ này sẽ đông nghẹt người đón Giáo hoàng. Khi nghĩ đến việc Paris đã đông nghẹt khác du lịch từ mấy hôm nay, tôi mừng rằng hôm nay tôi sẽ rời Paris.
Nhưng nói như vậy là nói dối rồi. Tôi không mừng mình sẽ rời Paris hôm nay bởi vì dù đông đến mấy, chật đến mấy, Paris vẫn có một chỗ cho tôi và tôi có một chỗ cho Paris. Nhưng tôi sẽ đi, dù có hơi bịn rịn như phải chia tay một người bạn thơ ấu. Đêm qua, Carrie hỏi tôi “Sao chị có thể thích Paris thế nhỉ?” và nhún vai “Em thì không thích lắm, nhiều khách du lịch quá.” Tôi chỉ cười vì sẽ mất quá nhiều thời gian để giải thích cho Carrie hiểu rằng quan hệ của tôi với Paris đã bắt đầu ở một nơi không có những người khách du lịch này và đang tiếp diễn theo cái cách mà những khách du lịch này không thể làm ảnh hưởng.
Nhưng nói về sự quyến rũ của Paris thì tôi phải nhắc đến một việc mà tôi đã nghĩ từ hôm đầu đến đây: Tôi vừa không thể tưởng tượng nhưng đồng thời lại thấy hoàn toàn có thể hiểu tại sao cái thành phố bé nhỏ này có thể chứa nhiều con người vĩ đại đến vậy. Những đường phố nhỏ này đã thấy dấu chân của rất nhiều nghệ sĩ, nhà tư tưởng, chính khách lớn… họ đã đến, đã sống, và chết ở đây. Làm thế nào mà những bộ óc lớn này có thể ở cùng trong một không gian nhỏ, ảnh hưởng lẫn nhau nhưng không dẫm đạp lên nhau, chia sẻ mà không tan biến vào nhau, kết nối những vẫn độc đáo và riêng biệt, chung mà vẫn một mình, cứ ngang nhiên vĩ đại. Tôi cứ nghĩ đến tất cả những salon văn học ở Paris trong các thế kỷ trước và hiểu tại sao chỉ có ở Paris chuyện này mới xảy ra. Như phòng khách văn học của Hugo, nơi những nhà văn và nghệ sĩ thuộc trường phái Lãng mạn đã tụ tập thường xuyên. Hay phòng khách của Mallarmé mà người Paris gọi là Les Mardistes (Những kẻ Thứ Ba) vì thứ Ba hằng tuần là nơi tụ tập của các trí thức và nghệ sĩ bao gồm Yeats, Rilke, Paul Valéry, Paul Verlaine, v.v… Và dĩ nhiên phải kể đến phòng khách của Gertrude Stein – tụ điểm của những nhà văn, họa sĩ, nghệ sĩ nước ngoài sống ở Paris những năm 1920. Rồi tôi lại nghĩ đến những người như George Sand – một nhà văn, một người phụ nữ đã là người-tình/tri-kỷ của cả Chopin và Flaubert. Tất cả chỉ trong một thành phố rất nhỏ.
Thật khó tưởng tượng mà lại thật dễ hiểu.
Và điều này làm tôi nghĩ đến Hà Nội, làm cho tôi muốn làm cái gì đó tương tự ở Hà Nội bởi vì theo nhiều cách, Hà Nội rất giống Paris. Vấn đề là: kiếm đâu ra những người đủ yêu nghệ thuật và cái đẹp đến mức họ có thể chịu đựng và tha thứ cho những cái tôi to lớn và những lập dị của các nghệ sĩ đồng nghiệp; để thấy rằng cái tài và cái đẹp không thể nào xấu xa được.
Đêm qua trời mưa và tôi có một giấc ngủ đầy những giấc mơ nặng nề do hệ quả của cơn sốt chờn vờn. Tôi lục sục tỉnh dậy đi toilet nhiều lần, rồi có một giấc mơ lạ lùng trong tình trạng chàng màng, ở đó, tôi đã nhớ một người bạn mà tôi cũng không chắc là ai, nhưng nhớ đến mức nỗi nhớ như một con dao đâm chầm chậm xuyên qua người tôi, làm tôi tỉnh dậy. Và lơ mơ tỉnh dậy vào lúc gần sáng, tôi không hiểu đó là một giấc mơ, hay là ở một nơi nào đó, trong một chiều không gian nào đó, nó đã thực sự xảy ra, theo cái cách linh hồn của bạn tôi và tôi đã theo dấu nỗi nhớ không rõ khởi nguồn đó mà tìm gặp nhau.
Nhân nói đến trí nhớ, những ngày này tôi có một nỗi lo. Gần đây, có nhiều khoảnh khắc tôi không làm sao nhớ nổi những điều tôi từng biết chắc chắn. Ví dụ như tôi vẫn không làm sao nhớ được chính xác cách viết chữ “Sacré Coeur”. Đôi lúc, tôi muốn dừng ghi chép vì có vẻ như khi làm vậy, trí nhớ của tôi sẽ biến thành một cái gương chứ không phải một cái kho; một cái gương thì chỉ phản chiếu ảnh của một vật, và khi vật đó biến mất thì ảnh cũng biến mất lun. Cái hành vi ghi chép này có mục đích ghi nhớ mọi việc nhưng thực tế cũng lại là hành vi tẩy xóa chúng khỏi trí nhớ bởi vì khi tôi viết, não của tôi sẽ tự nhủ rằng được rồi, mình đã lưu lại các việc này trên văn bản ở đâu đó và không cần lưu trong bộ nhớ nữa.
Hôm trước, vì lo điều này, tôi thử không ghi chép gì cả ngày xem tôi có nhớ lại được không. Hóa ra tôi vẫn nhớ được. Vấn đề của tôi là trí nhớ cảm xúc của tôi mạnh hơn trí nhớ hình ảnh, vì thế mà khi tôi có ấn tượng mạnh về một cái gì đó, thì cái ấn tượng cảm giác đó luôn xóa nhòa tất cả các chi tiết khác, chỉ để lại các nét phác thảo cơ bản, giống hệt như kiểu của các họa sĩ trường phái Ấn tượng. Như khi tôi thích một ai đó, tôi không bao giờ nhớ được khuôn mặt người đó trông như thế nào, nhưng tôi có thể nhớ chi tiết cảm giác của mình vào từng khoảnh khắc gặp mặt. Như vào giây phút này, tôi đang ngồi đối diện Nhà thờ Đức Bà, tôi không chắc là sau này tôi sẽ nhớ được bao nhiêu chi tiết về các tòa tháp, các tượng thú, các cửa sổ, các kèo cột… nhưng tôi chắc chắn sẽ nhớ tôi đã cảm thấy thế nào mỗi lần tôi vượt qua sông Seine và thấy Nhà thờ Đức Bà kiêu hãnh đứng đó…
Sáng nay, trên cầu Bourbon, tôi đứng lại để nhìn Nhà thờ Đức Bà từ phía sau và lại thấy những bức tượng thánh sơn xanh lá cây xếp một hàng trầm mặc ở hai bên thân nhà thờ như thể các vị thánh đang hành hương lên một đỉnh núi. Trông họ thật bình an, nghiêm nghị, và cao thượng. Và tôi không biết sự bình an ấy hay cái gì khác làm cho nước mắt tôi dâng lên. Đấy là một cảm giác lạ - nhìn Nhà thờ Đức Bà và biết rằng hôm nay tôi sẽ rời Paris và nghe thấy nhà thờ dường như đang chào tạm biệt tôi chỉ bằng cách đứng đó vững chãi, cao lớn, tự tin, quen thuộc. Như thế, Nhà thờ Đức Bà là một vị thánh ngàn tuổi đang trìu mến nói với tôi, “Ồ nào, con của ta, đừng khóc, chúng ta chỉ tạm chia tay thôi, rồi chúng ta sẽ gặp lại.”
Giờ thì tôi ngồi đây, đối diện với hai tòa tháp và tôi lại cảm thấy như chúng chỉ đứng đó cho mình tôi. Mặt trời vừa ló ra thắp sáng thành phố và làm những cửa sổ kính màu long lanh. Người người đi lại tấp nập trên phố, hầu hết là các đôi tình nhân, cả già lẫn trẻ… và, phải rồi, tôi nữa, tôi cũng có một tình nhân, tôi và Paris, chúng tôi là một đôi, chúng tôi đang có một cuộc hẹn hò bí mật và c’est si bon [56] .
[56] C’est si bon (Điều đó thật tốt) là một bài hát jazz rất nổi tiếng có xuất xứ từ Pháp.
“ C’est si bon, điều đó thật tốt; những đôi tình nhân ở Pháp nói với nhau như thế khi họ tán tỉnh nhau bởi vì, ồ, điều đó thật tốt. Điều đó thật tốt, tôi cũng sẽ nói với em, như người Pháp nói với nhau, ồ, thật tốt, phải rồi, thật tốt, từng lời nói, từng tiếng thở dài, từng nụ hôn, em yêu, thật tốt, chúng đều chỉ đi đến một ý nghĩ này thôi, em yêu, ý nghĩ này, ồ điều đó thật tốt, không gì có thể thay thế vòng tay hờ hững của em… Ồ, em yêu, đừng bao giờ xa tôi, đừng bao giờ, phải rồi, điều đó thật tốt…”
Tôi lại bắt đầu xúc động rồi.
Đêm qua, khi tôi từ quán Les Philosophes trở về, Carrie đang ngồi trên sàn giữa mấy cái va li, quần áo vứt lung tung. Carrie đang cuống cả lên vì không biết sẽ phải ở đâu bây giờ. Tôi đã nói với Carrie từ hôm đầu tiên rằng nếu như cô đổi ý không thuê nhà nữa mà sẽ ở khách sạn này thăm Paris chừng mười ngày rồi đi tiếp thì phải báo với khách sạn ngay để đặt phòng, nếu không thì sẽ không có phòng đâu. Carrie gật gù “vâng, vâng… rồi, rồi… em sẽ làm” nhưng rồi cứ lần lữa mãi và giờ, khi cô ấy muốn ở thêm thì khách sạn không còn phòng nào cả. Carrie giống như rất nhiều cô gái Mỹ trẻ - tự tin rằng mình là người Mỹ, miễn mình cầm đô la trong tay và nói thứ tiếng giao tiếp chính của thế giới thì mình có thể đi bất cứ đâu và làm bất cứ điều gì – theo cách và lịch của mình. Nhưng đây lại là Paris. Với cách của Paris.
Sáng nay, khi tỉnh dậy, tôi lại thấy Carrie ngồi trên sàn tiếp tục cuống lên. Cô không biết nên mang gì theo và bỏ lại gì khi tiếp tục đi du lịch ba lô ở châu Âu trong ba tháng tới.
“Chị nhìn xem,” Carrie gần như sắp khóc. “Em điên quá đi mất. Em để cho mọi người phỉnh phờ em mang theo cả cái đống chết tiệt này, ai cũng bảo, em sẽ cần cái này, sẽ cần cái kia… Giờ thì chị nhìn xem, cả một đống shit to tướng, làm sao mà e tha đi được.”
Tôi nhìn. Carrie mang theo rất nhiều xà phòng bánh, mấy chai dầu gội đầu lớn, rồi dầu tắm, các loại giày thể thao, giày cao gót, xăng đan, rất nhiều sách, số, cả một đống quần áo lót, máy tính, máy ảnh với một lô ống kính, và rất nhiều các đồ không tên. Tôi chỉ cho Carrie cái rõ ràng nhất:
“Carrie, em mang theo quá nhiều đồ trang điểm.”
Tôi bảo Carrie bỏ đồ trang điểm lại, chỉ mang theo những thứ thật căn bản: kem dưỡng ẩm ( đừng có mang cả lọ to thế kia, bỏ một lượng đủ dùng sang một cái lọ du lịch nhỏ mua ngoài siêu thị ), kem nền, một cái chổi quét, má phấn, chì mắt, một thỏi son, phấn phủ, sữa rửa mặt. Chấm hết. Không nên mang theo gì thêm. Bỏ lại cả những cái váy áo cầu kỳ nữa.
“Thế nhỡ em muốn mặc diện khác với bình thường thì sao? Chả nhẽ cứ áo phông, quần bò thôi à?” Carrie phản đối.
“Không, em sẽ không muốn mặc khác với bình thường đâu,” tôi nói. “Mọi người thường tưởng là khi đi du lịch, họ sẽ là một người khác và sẽ mặc như họ chưa bao giờ mặc nhưng rồi rốt cuộc, họ chẳng bao giờ có thể là người khác. Em sẽ vẫn mặc như lúc em ở Mỹ mà thôi, nhất là vì em sẽ đi du lịch ba lô trong nhiều ngày; đừng có mơ mộng làm gì.”
“Oh , hell [57] ! ” Carrie nói rồi vứt cả một chồng váy áo với giày cao gót sang bên để bỏ lại.
[57] Quỷ tha ma bắt!
Tôi bảo Carrie xếp toàn bộ hành lý của cô ấy thành ba đống: một đống là những thứ mà cô ấy bắt buộc phải có, không có không được; một đống là những thứ cô ấy muốn có; và một đống là những thứ “nếu có thì tốt, không có cũng không sao”. Tôi bảo Carrie bỏ các thứ trong đống thứ nhất vào cái va li mà cô ấy định mang theo ( và chỉ nên mang một cái va li theo, càng nhỏ càng tốt ), nếu còn thừa chỗ trong va li này thì cô ấy có thể bắt đầu bỏ đồ ở đống thứ hai vào, rồi nếu vẫn còn thừa thì mới bỏ đồ đống thứ ba.
Trong lúc Carrie đóng va li, tôi mang hành lý của tôi xuống phòng gửi đồ, rồi check out khỏi khách sạn và giờ thì tôi ngồi đây để có một bữa sáng chia tay với Paris.
Lúc này, mặt trời đang chiếu sáng thành phố nhưng không gay gắt. Có gió nhẹ với một chớm lạnh chờm trên da, chỉ đủ để cho người ta biết mùa thu đã đến. Tôi đã ăn xong bữa sáng gồm cá hồi và một ly sô cô la nóng; và giờ thì gọi thêm món crepe-coco, tức là chỉ có da crepe với một ít sợi dừa rắc bên trên. Tôi sẽ ngồi đây thêm một lúc với Nhà thờ Đức Bà và Paris. Tôi sẽ nhớ những khoảnh khắc này.
4:57 chiều: Viết từ quán Chez Tony trong sân bay Paris/Beauvais. Tôi vừa gọi một bữa ăn nhanh với giá 5 euro – gồm có một cái bánh mỳ kẹp, một chai nước và một cái bánh ngọt. Ba mươi phút nữa, tôi sẽ lên chuyến bay của hãng hàng không giá rẻ Easyjet để đi Venice.
Sáng nay, sau khi rời khỏi café Notre Dame, tôi đi trở lại khách sạn qua mặt trước của Nhà thờ Đức Bà. Rất nhiều người đã tụ tập trước một màn hình lớn để xem tường thuật trực tiếp lễ đón Giáo hoàng ở sân bay. Tôi chụp vài bức ảnh và thoáng nghĩ đến việc mua vài tấm bưu ảnh nhưng rồi lại nghĩ tôi đã có quá nhiều ảnh và ký ức. Chỉ có một việc tôi muốn làm là ném một đồng xu xuống sông Seine như lời hứa sẽ trở lại. Vậy là tôi đi các bậc thang xuống tận bờ sông, chỗ tôi có thể nhìn thấy nóc Nhà thờ Đức Bà, và ném một đồng xu nhỏ xuống.
Tạm biệt!
Lần tới trở lại Paris, tôi sẽ phải làm nhưng điều sau:
- Tìm ra phố Rue Mouffetard.
- Dành thêm thời gian ở khu vực quanh cầu Austerlitz và Montpartnasse.
- Đi thăm cung điện Versaille và rừng Fontainebleau.
- Tới rạp xem một bộ phim Pháp, một vở kịch Pháp hay một buổi nhạc Pháp.
- Đi thuyền trên sông Seine.
- Đến thư viện Francoise Miterrand.
Nhưng trên hết, tôi muốn gặp những người Paris thực sự. Tôi cũng muốn gặp những người Việt Nam sinh sống ở đây, nhất là những người trẻ. Nhất định như thế. Lần này là cuộc hẹn hò đầu tiên của tôi và Paris; không ai lại mang thêm người khác tới cuộc hẹn đầu tiên.
Tôi cũng cần phải ghi lại những điều tôi không thích về Paris.
- Tôi không thích một số người Paris thô lỗ, kênh kiệu, nhất là những người bán hàng.
- Tôi ghét việc phân chó ở khắp nơi, không ai nhặt.
- Tôi ghét những đôi sục cao su mà khách du lịch Mỹ đi khắp nơi ở Paris. Người nào nghĩ ra loại sục này nên phải chịu hình phạt đi sục này mọi nơi, mọi lúc, dù là với áo com lê hay váy.
- Tôi không thích khách du lịch quá nhiều ở Paris, mặc dù tôi cũng là du khách.
- Tôi không thích việc cả vườn Tuileries lớn chỉ có một cái toilet ở tận cuối vườn; và nhìn chung Paris không có nhiều toilet công cộng tử tế.
Và giờ thì tôi không thích bản thân mình vì nghĩ ra cái danh sách này. Tôi không thích mình cũng rơi vào thói quen tóm tắt, tổng kết mọi thứ, và quy mọi thứ về hai thái cực yêu-ghét, đã-làm-được và chưa-làm-được, thành-công và thất-bại. Một khi tôi bắt đầu tóm tắt tổng kết và khái quát Paris bằng những gạch đầu dòng, tôi bắt đầu mất Paris. Thế nên tôi sẽ dừng lại ở đây. Tôi muốn mang đi cùng tôi một Paris với những cảm giác hạnh phúc lớn không sao ôm nổi, và cả trăm ngàn những khoảnh khắc nhỏ, gần gũi, thân thiết. Một Paris bao chứa cả sự vĩ đại và cả những tiểu tiết: đầy sự cao cả và tình yêu. Một Paris mà tôi yêu bằng một tình yêu riêng, không chia sẻ. Một tình yêu không hỏi tại sao. Một tình yêu không có tóm tắt và tổng kết, không thể mang ra gạch đầu dòng.
Tạm biệt Paris! Hẹn gặp lại một ngày gần nhất.
☆☆☆Venice, ngày…
Trước khi tới châu Âu, tôi mất một thời gian đắn đo xem mình có nên đi đâu nữa hay chỉ ở Paris mà thôi. Tôi nói chuyện với Quang Anh, người đã sống ở châu Âu một thời gian. Cuộc nói chuyện qua Yahoo Messenger của chúng tôi như thế này:
Tôi: “Quang Anh, chị có nên đi Venice không?”
QA: “Tất nhiên. Chị phải đi Venice. Venice giống như là một giấc mơ. Hôm đầu tiên đến đấy, em thề là suốt cả ngày em há hốc mồm vì quá ấn tượng.”
Tôi: “Được rồi. Chị sẽ đi Venice.”
QA: “Thật đấy, cả một thành phố nổi trên nước, it’s craaaaazy [58] . ”
[58] Thật là điên rồ.
Tôi: “Rồi rồi, chị sẽ đi Venice.”
QA: “Nhưng mà Venice không so sánh được với Florence. Florence đẹp phát khóc. Em thề!”
Tôi:
Nhưng đấy là cách mà tôi đã quyết định đi Venice, và vì thế, tôi đến Venice mà không có một chút ý niệm về việc mình sẽ đi đâu, xem gì ở thành phố này. Sáng nay, buổi sáng đầu tiên ở Venice, tôi tỉnh dậy lúc 7 giờ sau một giấc ngủ mệt nhọc và ý nghĩ đầu tiên của tôi là “ Ước gì mình đang ở Paris”.
Và đấy cũng là ý nghĩ của tôi vào lúc này, 10 rưỡi sáng, khi tôi ngồi ở quán cà phê Florian trên quảng trường Thánh Marco, trung tâm Venice. Trước mặt tôi là Basilica San Marco [59] với tuổi đời hơn 1000 năm, ngạo nghễ vươn những mái vòm tròn khổng lồ kiểu Ả-rập của nó lên trời, hàng trăm khách du lịch hớn hở đi lại trên quảng trường, hàng ngàn con bồ câu dạn dĩ kiếm ăn trên tay khách, và cả mặt biển lớn xanh biếc bên ngoài với những chiếc gondola mũi cong bập bềnh trên mặt nước…
… tất cả đẹp như trong mơ…
[59] Basilica San Marco: Nhà thờ/Vương cung thánh đường Thánh Marco là nhà thờ chính của Cộng hòa Venice và sau này là Venice. Nhà thờ được xấy dựng từ năm 829 để lưu giữ hài cốt Thánh Marco (còn gọi là Thánh Mark), vị thánh bảo trợ của Venice. Kiến trúc chính của nhà thờ là kiến trúc Byzantine, và được thiết kế theo hình chữ thập trong tiếng Hy Lạp.
Những chiếc gondola xếp dọc mép nước ở quảng trường San Marco của Venice vào một ngày nắng đẹp.
… tất cả sáng láng, rạng rỡ, tràn trề, vương giả, thánh thần…
… vậy mà tôi chỉ nghĩ đến một việc: lẽ ra lúc này tôi có thể đang băng qua cầu Bourbon và được nhìn Paris vào một ngày mới với sông Seine mang một màu nước mới. Và tim tôi lại thở dài: “Ước gì mình đang ở Paris.”
Đây không phải là lỗi của Venice, dĩ nhiên càng không phải lỗi của Quang Anh. Không ai có lỗi. Từ chỗ này nhìn ra, tất cả du khách trừ tôi đều đang hớn hở tận hưởng Venice – họ đùa với những con bồ câu, chụp ảnh với nhau, tấp nập mua đồ lưu niệm, và xếp hàng dài vào thăm Basilica. Tôi có lẽ là người duy nhất ở Venice mà lại rầu rĩ mong mình đang ở một nơi khác. Lỗi là ở trái tim của tôi. Nó đã phải lòng Paris, và không một thành phố nào khác còn có chỗ nữa. Venice có thể là một kỳ quan có một không hai trên thế giới, có thể là một trong một trăm địa điểm mà ai cũng nên đến một lần trước đi chết ( theo lời các sách du lịch ), Venice có thể là giấc mơ của tất cả mọi người… thì trái tim tôi cũng vẫn thờ ơ. Biết làm sao được.
Tất nhiên cũng có một phần lý do là tôi rất mệt từ đêm qua. Tôi đã xuống sân bay của Venice lúc chiều tối và khi về tới khách sạn thì đã quá 7 giờ, đói, mệt, và tiếp tục váng vất sốt. Trong tình trạng đầm đìa mồ hôi lạnh, phải vất vả lắm tôi mới lôi được cái vali nhỏ qua những đường phố lát đá ngoắt ngoéo và những cây cầu để về đến khách sạn. Sau khi ăn một bữa thịt bò bít tết trong một nhà hàng đắt tiền nhưng thức ăn rất tệ thì tôi phải đi ăn thêm một bữa mỳ Ý ở một quán ngoài đường nữa để đảm bảo tôi không lăn ra ốm vì thiếu dinh dưỡng. Ăn xong, có vẻ như cơn váng vất sốt của tôi thuyên giảm nhưng mũi tôi vẫn tiếp tục sụt sịt và cái không khí ẩm lạnh của Venice làm cho sự thể không đỡ đi chút nào.
Các loại salad và thức ăn nhẹ trong một cửa hàng ở Venice – trông rất đẹp nhưng ăn thì không ngon tí nào.
Tóm lại, sáng nay tôi mệt và nhớ Paris. Còn bây giờ Venice bắt đầu vần vũ mây để chuẩn bị mưa. Những đám mây xà thấp xuống mặt nước. Gió nổi to, chạy từng cơn dài từ phía ngoài biển vào đất liền, dồn vào những con sóng táp ầm ầm vào kè đá của quảng trường trong lúc sấm ì ùng và chớp rạch những lằn sáng đầy hăm dọa. Tuy thế đám đông trên quảng trường vẫn tiếp tục huyên náo cho bồ câu ăn và mua bán mặt nạ Venice cùng đồ trang sức thủy tinh. Tôi cần nhanh chóng tìm lấy một chỗ trú chân vì tôi không muốn bị ướt và ốm thêm. Từ sáng tới giờ, cuộc tìm kiếm một chỗ cho Venice trong lòng tôi đã trở thành cuộc truy tìm một bịch khăn giấy vì mũi tôi bắt đầu chảy nước ròng như dòng Kênh Lớn của Venice. Tôi đi khắp các cửa hàng để tìm mua nhưng họ chỉ chào mời tôi mặt nạ và đồ lưu niệm. Tôi thực sự đã trang bị rất tệ cho Venice, thậm chí đến một cái bản đồ tử tế cũng không có. Tôi tới được chỗ này cũng là nhờ đi theo Kate, người bạn cùng phòng khách sạn của tôi – một nhà báo tự do ba mươi tám tuổi, sinh ra ở Anh, hiện đang làm việc ở Pháp và đã đến Venice từ hai đêm trước để viết bài về một triển lãm kiến trúc.
Đêm qua, chúng tôi làm quen nhau ở khách sạn và sau khi tôi nói rằng tôi vừa rời Paris còn Kate đang sống ở Paris, thì hai chúng tôi lập tức trở nên thân nhau ngay. Kate nói:
“Cưng ơi, dĩ nhiên là được chứ, em hoàn toàn có thể chuyển đến Paris sống và làm việc nếu em thật sự muốn. Chị chuyển đến đấy cách đây ba năm. Lúc đó, chị không hiểu một từ tiếng Pháp nào mà cũng chẳng có việc làm. Nhưng rồi cũng xoay xở được. Rồi em sẽ có bạn và mọi việc sẽ đâu vào đó, em sẽ lại có một cuộc sống mới ở Paris cho mà xem.”
Sáng nay, Kate đi phỏng vấn một số lãnh đạo thành phố và kiến trúc sư; chị bảo tôi có thể đi cùng nếu muốn, chị sẽ giới thiệu Venice cho tôi vì đã đến đây nhiều lần (nói chung, nếu viết báo về mảng kiến trúc và nhà cửa thì sẽ phải đến Venice nhiều). Nhưng tôi cảm ơn chị và nói tôi muốn khám phá một mình. Càng không có ý niệm gì về một thành phố mới thì tôi lại càng cần phải tự khám phá lấy đường đi – cái tạng của tôi là vậy.
Bây giờ thì trời đang mưa sầm sập. Tất cả khách du lịch đã chạy vào trú ở những hành lang lớn quanh quảng trường. Những đôi tình nhân co ro trong những chiếc áo mưa, cười thích thú – có rất nhiều cặp vợ chồng già. Dường như những người đến Venice đa phần là người già và có đôi. Tôi có lẽ là người duy nhất đi du lịch ở đây.
Than ôi, giá mà tôi đang ở Paris.
Trời tiếp tục mưa như trút suốt hai tiếng sau đó. Cứ như thể ai đó đã bê nguyên thác Niagara đến đây. Chưa đầy nửa tiếng, cả quảng trường đã biến thành một hồ bơi còn đảo Murano phía bên kia Lagoon [60] hoàn toàn biến mất sau màn mưa mờ mịt. Các hàng hiên chật ních khách du lịch, ai cũng chỉ có đủ chỗ cho hai bàn chân chứ hầu như không di chuyển được. Mùi nước hoa đủ loại, mùi mưa, mùi thuốc lá, mùi thức ăn và mùi người quánh lại trong không khí ẩm ướt, nhão nhoẹt, cộng với cảm giác ngột ngạt vì bị tắc lại trong đám đông, vừa ướt vừa lạnh, lại mũi dãi ròng ròng khiến cho tôi bắt đầu lao đao như sắp ngất đến nơi. Trời thì trông như sẽ không bao giờ ngừng mưa và chẳng mấy chốc tất cả Venice sẽ chìm xuống biển mang theo tôi.
[60] Lagoon là vịnh nước nằm trong đất liền, ngăn với biển bằng những đảo nhỏ hoặc bằng các bãi san hô (thuật ngữ gọi là “phá”, phá Venice). Phá Venice trải dài từ sông Sile ở phía Bắc đến Brenta ở phía Nam, với một diện tích bề mặt khoảng 550 km 2. Nó gồm có khoảng 8% đất đai, trên đó là Venice và nhiều hòn đảo nhỏ. Khoảng 11% bao phủ bởi mặt nước mở thường xuyên, hoặc kênh đào, trong khi 80% bao gồm các bãi bùn, các vùng nước nông và các đầm lầy nước mặn. Phá này là vùng đất ngập nước lớn nhất trong Địa Trung Hải.
“Vậy đấy,” tôi nghĩ, “vậy là hết một ngày ở Venice. Mình không thích Venice và Venice không thích mình.” Thế rồi, thêm vào đó, cái lạnh làm cho tôi bắt đâu, xin lỗi… buồn tè; vậy là tôi phải bắt đầu một cuộc lặn lội đi tìm nhà vệ sinh trong quảng trường nghẹt người nhưng dường như không hề có nhà vệ sinh này.
Mưa trên quảng trường San Marco của Venice
Sau khoảng mười lăm phút lặn lội, xô đẩy và hỏi han, cuối cùng tôi cũng tìm được nhà vệ sinh ở góc quảng trường. Vào một buồng, tôi đóng cửa lại, hạ nắp đậy bồn cầu xuống và ngồi lì ở trên đó, không phải để đi tiểu mà đơn giản vì nó sáng sủa, khô ráo và ấm áp hơn bên ngoài. Tôi mở cả sách hướng dẫn và bản đồ Venice miễn phí tôi mới lấy được để bắt đầu định hướng. May mà bên ngoài cũng không có nhiều người chờ; và nếu như nhà vệ sinh vắng nữa thì tôi có lẽ sẽ ngồi ở đó cả tiếng chờ hết mưa.
Khi tôi ra khỏi nhà vệ sinh, trời vẫn mưa như trút. Cũng chẳng có việc gì làm ngoài việc chờ mưa ngớt nên tôi lần ra ngoài cái cột xa vắng nhất, đứng tựa vào một cái cột và nhìn lơ đãng ra ngoài biển.
Thế rồi trong lúc tôi đang lơ đãng như thế thì Venice bất thần tóm được tôi, y như một cái mạng nhện trong suốt đột nhiên hiện ra tóm dính con muỗi vô tư lự bay ngang. Tôi đã rơi vào trạng thái bị thôi miên bởi một biển chuyển động của Venice, tựa một bệnh nhân bị thôi miên bởi cái đồng hồ quả lắc của nhà ảo thuật vô hình.
Đấy là chuyển động nhịp nhàng của dây thuyền gondola đậu song song ở mép nước; của những cơn sóng ào ạt chạy từ biển, táp bọt trắng xóa vào bờ, của những hàng nước mưa theo gió tạt dọc tạt ngang trong không trung như một nghệ sĩ trượt băng đang lướt tự do theo một điệu valse. Những chiếc gondola này đều được sơn xanh da trời thẫm; mỗi lần một cơn sóng táp vào bờ, những chiếc thuyền lại nhào lên đè sóng, rồi rút ra theo nước; cả loạt mũi thuyền cong vút nhấp nhô đều tăm tắp, cứ như thể đấy là một hàng diễn viên vũ ba lê mặc váy xanh da trời đang múa. Điều tuyệt vời nhất là, vì mưa cho nên tất cả các xe bán dạo đồ lưu niệm đã biến mất khỏi quảng trường; cả khách du lịch và người chèo thuyền cũng đã biến vào các hàng hiên. Từ chỗ tôi nhìn ra, cả quảng trường bây giờ đã trôi hết những phấn son du lịch. Chỉ còn một khoảng trống mệnh mông, như một sân khấu lớn, ở đó, những diễn viên ba lê và trượt băng đang tự do bay lượn giữa tiếng vĩ cầm của gió, của sóng, trong lúc mưa đổ như vãi kim cương từ trên cao.
Từ chỗ này nhìn ra, Venice là một giấc mơ màu xám nhẹ. Một cơn mộng ngọt ngào chàng màng vương vấn. Như lúc này tôi đang từ từ chìm vào.
Vậy là tôi ngồi đó không biết bao lâu, cứ mơ màng trôi lướt trong giấc mộng màu xám nhẹ có mưa và mặt nước xanh và những chiếc thuyền và những bóng người trôi ra trôi vào. Mỗi lúc mưa xám hơi ngớt đi, một hàng người dài lại lập tức hình thành như một phép màu ngay phía dưới basilica – những cái bóng nhạt nhòa dưới những cái ô tròn xanh, đỏ. Dãy người chậm chạp nhích lên như những con bướm rừng Amazon cứ rập rờn tụ thành đám trên một tảng đá kho cạnh suối; và rồi mỗi lần mưa ào xuống to hơn, những con bướm lại tản ra, bay chấp chới vào hàng hiên, vừa bay vừa hò hét và giẫm nước mưa bắn tung tóe dưới bước chân. Có người ngã xuống vũng nước và thế là một tràng cười lại râm ran các hành lang quảng trường.
Ngồi một lúc, tôi bắt đầu tò mò về những cửa hàng xung quanh quảng trường. Từ sáng đến giờ, người ra người vào cửa hàng tấp nập, ai nấy đều rất hớn hở. Tôi đã liếc từ trước và khi thấy chúng có vẻ là các cửa hàng trang sức thì tôi đã lập tức mất hứng. Nhưng hóa ra tôi đã sai làm sao!
Những món đồ trang sức ở đây đều là đồ địa phương, được làm ngay tại Venice, Murano, Florence, Bologna… của Ý, bởi những người thợ thủ công Ý vô danh và chúng đẹp một cách điên rồ; đẹp hơn cả đồ trong các cửa hàng lớn mà tôi thấy ở Mỹ, Pháp, Hàn Quốc, hay Rome. Kiểu dáng, thiết kế, và các họa tiết trang trí… tất cả đều tinh xảo khủng khiếp. Mà lại rất rẻ, chỉ 10 đến 35 đô la. Tôi cứ đứng ngắm mãi một cái mặt dây chuyền bằng thủy tinh nhỏ - nó rất đơn giản, chỉ là một hình xoáy màu xanh da trời nhẹ, ở giữa có những vân nhỏ màu trắng, vàng, và xám chạy dài. Tôi không biết gì về công nghệ thổi thủy tinh nhưng tôi cứ tưởng tượng từ trong miệng một chiếc bình bằng vàng ròng, một dòng thủy tinh màu xanh da trời rất mảnh đã chảy ra, và người thợ thủ công vô danh nào đó đã rất lơ đãng lấy tay ngắt một đoạn thủy tinh khỏi cái dòng đó, và miết nhẹ hai ngón tay khiến cho cái dòng thủy tinh đó xoắn nhẹ. Những vân tay và cả linh hồn của chính người thợ này vẫn còn lưu lại trên mặt thủy tinh; còn những vệt xám, trắng, vàng nhỏ đó là những dải không khí hay vụn vàng vô tình bị kẹt lại bên trong dòng thủy tinh. Cái đường lượn kết thúc rất nhẹ ở phía dưới – không sắc nhọn, không thô tù, không đứt gãy – làm tôi có cảm giác nếu tôi nhìn thấy cô gái nào đeo miếng thủy tinh này trước ngực, thì cái điểm nhọn cuối cùng tiếp xúc với da ngực người con gái ấy sẽ là điểm hội tụ tất cả tinh thần của cô gái; nếu đấy là một cô gái có tâm hồn đẹp thì người ta có thể thấy cả miếng thủy tinh này sáng xanh lên, với những vụn vàng lấp lánh.
Sau khi đi từ cửa hàng này sang cửa hàng khác để ngắm đồ, tôi quyết định đã đến lúc phải khám phá Venice bất kể trời mưa. Vả lại, cũng phải biết đường về khách sạn nữa! Vậy là tôi lấy Grand Canal (Kênh Lớn) làm định hướng và cứ men theo đó mà đi. Qua vài phố, tôi bắt đầu nhận ra quy luật xây dựng ở Venice; vậy là tôi yên tâm mình chắc chắn có thể trở về khách sạn đến những nơi muốn đến; tôi đi chậm lại, vượt qua những cái cầu nhỏ nối các nhà, các phố, rồi vòng đi vòng lại, tạt chỗ nọ chỗ kia. Càng đi, tôi càng chìm dần vào giấc mơ Venice.
Có thể tưởng tượng Venice bằng cách nghĩ đến phố cổ Hà Nội, đoạn Hàng Ngang – Hàng Đào, Hàng Bạc – Mã Mây… tức là một mê cung những ngóc ngách đủ cho hai, ba người đi vừa; bây giờ, hãy nhấc tất cả khu phố cổ đó mà đặt ra ngoài biển, và thay thế các con đường bằng những kênh nước; và xây thêm các cầu bê tông hình cung nhỏ để nối nhà này với nhà kia; phố này với phố kia. Bước ra cửa nhà, để đi bất cứ đâu, người ta chỉ có hai lựa chọn: một là lên cầu đi bộ, hai là xuống thuyền. Tất cả mọi hoạt động đều ở trên mặt nước – bằng thuyền, taxi nước, hoặc lội, khắp thành phố không bóng dáng ô tô, xe đạp, xe máy, không có bất cứ phương tiện vận chuyển đường bộ nào.
Có lẽ vì thế mà ở Venice cái gì cũng đắt, đắt hơn nhiều so với Paris. Chi phí vận chuyển thực phẩm, hàng hóa để nuôi sống thành phố này quá cao – chưa kể tiền đổ vào để liên tục phục chế, gia cố nhằm đảm bảo thành phố này còn nổi được trên mặt nước. Nhưng cũng vì người ta đã giữ được thành phố này qua hàng ngàn năm cho nên người Venice trở thành bậc thầy về sự chính xác và hài hòa. Những quần áo bày bán trong các cửa hàng ở đây thanh lịch, trang nhã vô cùng. Ngay cả những đôi ủng cao su mà các cô gái Venice đi trong mưa trông cũng như ủng thời trang. Tuy thế, tôi chỉ thực sự bị chinh phục bởi một miếng bánh nhỏ mà tôi mua trong một cửa hàng ăn ọp ẹp trên đường. Tôi đã đói và lại không tin tưởng các nhà hàng hào nhoáng sau bữa tối hôm qua nên đã tạt vào một cửa hàng bình dân bán đồ ăn hàng ngày để mua một hộp salad cá thu. Khi đã trả tiền xong, tôi nhìn thấy cái bánh trông như cái bánh chanh (lemon cake) ở Mỹ nhưng không đề tên… màu vàng chanh tự nhiên của nó và cách những hạt lạc được rắc ở trên quá đẹp nên tôi bảo người bán hàng gói cho tôi một miếng.
Ở cửa hàng ăn ra, tôi bỏ ô, để đầu trần, tạt hết chỗ nọ đến chỗ kia để ngắm nghía sự hoàn hảo điên rồ trong mọi chi tiết của Venice. Từ những cửa sắt uốn công phu, những cầu ngắn bắc qua các kênh nước với độ cong và chiều dài được tính cẩn thận, những cửa sổ đan xen nhau trên các mặt tường, những tay nắm cửa bằng đồng, màu đỏ của ngói lợp trên các mái nhà, màu nâu của đá lát đường dưới chân, sự phân bổ các khoảng không gian trống với các ngôi nhà… Venice là một mê cung nhưng không gây cảm giác ngột ngạt; một mê cung mà không thể được tả bằng từ nào khác ngoài “ exquisite [61] ”. Cũng đúng thôi: thành phố này được xây trên nước từ khoảng thế kỷ IX đến thế kỷ VIII. Những người xây thành phố này chắc chắn phải có một ý thức tuyệt hảo về sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người; họ cũng phải có các kỹ năng tuyệt với để giữ thành phố này không chỉ nổi trên mặt nước suốt hàng ngàn năm qua mà còn là trung tâm hội hè, nghệ thuật của châu Âu trong thế kỷ XVIII.
[61] Tinh xảo, tuyệt vời, hoàn mỹ.
Dưới mái hiên một căn nhà đóng kín cửa cạnh nhà thờ thánh Maurizio, tôi đứng lại ăn miếng bánh màu vàng mua lúc nãy. Nó có vị hơi giống bánh nướng, và cái nhân vàng bên trong là trứng; nhưng miếng bánh lại không khô, không sệt, không bở, và cũng không ngọt khé như bánh nướng. Tôi vốn không thích đồ ngọt, vậy mà tôi ăn hết cả miếng bánh to bằng bàn tay và nghĩ đến việc quay lại mua thêm một miếng nữa cho bữa tối. Sau đó, tôi mở hộp ăn món salad cá thu… Trời ơi, nó ngon khủng khiếp, những lá spinach xanh sạch sẽ, không dấu vết giập nát, những quả cà chua nho đỏ mọng, và một lớp dầu ô liu mòng được tráng lên trên, và những miếng cá thu… Thêm vào bữa ăn tuyệt vời ấy, cái dĩa nhựa mà người chủ quán bỏ vào trong túi đồ ăn cho tôi là một cái dĩa nhựa màu vàng chanh, có một cán rất dài và mảnh; cái cán ấy được gọt vát một đường rất nhẹ ở đầu – chỉ một chi tiết ấy thôi nhưng nó khiến cái dĩa không còn là một thứ người ta dùng với mục đích chính là xiên thức ăn cho vào bụng rồi sẽ vứt đi. Rõ ràng, kể cả khi người Ý làm cái dĩa chỉ để dùng một lần, họ cũng không thể dừng được cái việc là làm nó thật đẹp, thật hoàn hảo. Dù chỉ để cầm nó trong giây lát, cầm nó trong giây lát, thì với người Ý, cái giây lát ấy phải được tối ưu hóa bằng cái đẹp. Chao ôi là một thứ đạo đức cao cả, lấy sự duy mỹ làm chuẩn mực.
Tôi đứng dưới cái cửa đó ăn bữa trưa lâng lâng như trên thiên đường mặc dù những hạt mưa nhỏ từ trên cao cứ táp chéo vào người. Trong lúc đó, từ nhà thờ thánh Maurizio đối diện, tổ khúc Bốn mùa của Vivaldi vọng qua vòm nhà thờ, choán lấy khoảng trống lát gạch nhỏ phía trước nhà thờ và căn nhà bỏ không mà tôi đang đứng. Theo như tấm biển thông báo bên ngoài thì nhà thờ đang triển lãm bộ sưu tập violon cổ và họ chơi nhạc Vivaldi suốt ngày.
Dùng nhà thờ làm bảo tàng nghệ thuật, ở Venice, cái đẹp và sự thần thánh không hề tách rời.
Tôi vừa trở về nhà trọ, ướt và lạnh. Hai ống quần bết nước, giày sũng nước, tay thì cóng lại vì phải giữ ô trong gió mạnh. Tôi nên đi thay quần áo, nhưng nhà tắm đang có người nên tôi sẽ ngồi viết trước khi những thứ này trôi khỏi đầu óc.
Tôi đã đi bộ về nhà trong tình trạng mù dở bởi vì để tránh gió thốc, tôi lấy ô chắn trước mặt như một cái khiên. Nhưng cũng vì thế mà tầm nhìn của tôi bị hạn chế xuống khoảng nửa mét dưới đất. Tôi cứ nghĩ hầu hết mọi người đều cao hơn tôi và họ sẽ nhìn thấy tôi để mà tránh ra. Vậy là tôi cứ đi như thế về nhà… và trên đường quan sát không biết bao nhiêu chân và giày. Có lần, tôi nhìn thấy bốn mũi giày trước mặt tôi; họ dừng lại và tôi cũng dừng lại, rồi chẳng ai nhúc nhích. Tôi bỏ ô ra nhìn xem ai đang chắn đường. Hóa ra là một cặp vợ chồng già nhỏ bé; họ cũng đang làm chính xác điều tôi làm – tức là cầm ô như cầm khiên chắn gió nên cũng chẳng nhìn thấy gì cả. Hai bên nhìn nhau cười rồi đi.
Phòng khách nhà trọ lúc này có khoảng mười người ngồi tản mát tán chuyện phiếm, tay ai cũng cầm một ly rượu. Bên ngoài trời vẫn mưa và đang nhá nhem tối; bên trong, ai đó mở nhạc Beatles, U2 và đủ các loại nhac cũ. Trên bàn đã có sáu vỏ chai – chả thế mà ai cũng có vẻ tươi tắn và hồng hào; chỉ có tôi vẫn đang tái mét và tơi tả vì ướt. Khi tôi vào, họ hỏi tôi có uống rượu không nhưng tôi chỉ cám ơn và không uống.
Căn phòng này rất cổ và thực tế là cả cái nhà trọ này vốn là một căn nhà cổ được biến thành nhà trọ. Căn nhà được xây từ thế kỷ XII. Trần nhà rất cao, có một cái đèn chùm khổng lồ ở chính giữa và được treo bằng những sợi xích sắt to bằng cổ tay; rất nhiều cửa sổ bằng gỗ hướng ra ngoài đường và một con kênh. Có vẻ người chủ căn nhà này đã giao cho một người cháu biến căn nhà thành nhà trọ và người cháu – một anh chàng ngoài ba mươi có một mớ tóc xoăn khổng lồ - chẳng sửa sang gì, thậm chí cũng không buồn dọn dẹp nên trong nhà vẫn còn những đồ vật khá kỳ cục; ví dụ như ở góc phòng khách là một cái máy khâu hiệu Compania Singer cũ bằng sắt, với bàn đạp chân và trục tay tôi từng thấy ở Việt Nam hồi những năm 1980. Tất cả bàn ghế, tủ, đàn piano trong phòng khách đều vàng vọt, cũ kỹ, cổ giả… và được vứt lung tung.
Bên ngoài vẫn chưa tối hẳn. Trong phòng, ánh nhá nhem cuối ngày lẫn với ánh sáng vàng vọt của hai ngọn đèn bàn và mấy ngọn nến, cộng với mùi mưa và mùi căn nhà cũ. Hai thanh niên mặc vest đen vừa mới bước vào phòng khách cùng với hai chiếc ô đen – tôi đoán là họ chuẩn bị đi dự buổi hòa nhạc Vivaldi mà tôi thấy quảng cáo đầy trên phố. Hai cô gái ngồi trên ghế chăm chú đọc sách trong khi một thanh niên khác tựa người bên cửa sổ ngắm mưa và người ngoài phố. Những người còn lại thì ngả ngốn tán gẫu bên những chai rượu rỗng, còn tôi thì ngồi viết những dòng này bằng bút bi trên một chiếc bàn nhỏ. Nếu Monet hay Renoir bước vào căn phòng này, họ hẳn có thể vẽ lại quang cảnh căn phòng và đặt tên cho nó “Hoàng hôn Venice” hoặc đơn giản là “Venice”.
Lười biếng, mơ màng, hoàng hôn là những từ thích hợp để mô tả tinh thần của Venice.
Trời vẫn mưa nhưng chỉ còn lất phất rả rích. Tôi mừng là mình đã đến Venice mà không hề có một chút kế hoạch hay ý niệm gì về thành phố; chỉ cứ lang thang từ chỗ này sang chỗ khác bởi vì đấy là một cách tốt nhất để có thể tận hưởng cái đẹp của Venice theo đúng tốc độ lười biếng và mơ ngủ của thành phố thay vì kiểu “mình phải đi đến chỗ này, mình phải đi đến chỗ kia”.
Bữa tối chung trong nhà trọ khá ngon mặc dù đơn giản: chỉ là pasta với thịt bò và nấm. Kate và tôi ngồi trên sô pha cạnh nhau vì cả hai chúng tôi đều vào muộn và cái bàn to giữa phòng đã chật kín người. Hai chúng tôi đã nói chuyện từ lúc Kate trở lại; câu chuyện chẳng mấy chốc quay về hôn nhân. Kate đã từng kết hôn một lần. Chị kể cho tôi nghe cuộc đời như tiểu thuyết của chị. Nhưng trước khi kể về Kate, tôi cần phải ghi lại: ba cô sinh viên người Úc vừa mới được bổ sung vào phòng tôi. Tuy thế, cả ba đều là gốc châu Á. Cả ba là bạn của nhau từ bé, vào đại học cùng nhau, vừa mới tốt nghiệp cùng nhau và đã đi du lịch bụi xuyên châu Âu cùng nhau trong suốt gần ba tháng qua. Cả ba sẽ ở Venice vài ngày, rồi sẽ đi Paris trước khi trở về nhà để bắt đầu cuộc sống người lớn, làm việc kiếm tiền. Đi du lịch bụi xuyên châu Âu dường như là một nghi lễ trưởng thành của thanh niên các nước phương Tây. Mùa hè ngay sau khi tốt nghiệp đại học thường là mùa hè để họ lang thang một mình hoặc với bạn bè, để nghĩ, để sắp xếp lại cuộc sống.
Trở lại với Kate. Chị ấy ba mươi tám tuổi nhưng trông chỉ như hai mươi lăm. Người chị ấy vẫn gầy và gọn, ăn mặc đẹp – có lẽ là do những năm tháng ở Paris. Và chị lúc nào cũng mỉm cười.
Mười ba tuổi ở Anh, Kate gặp một ngôi sao nhạc rock nổi tiếng và thần tượng anh ta. Người này, lúc đó ngoài ba mươi, cũng quý mến chị nhưng chỉ như một người cha hay người anh. Cô bé Kate lúc đó theo anh ta tới mọi concert trong bốn năm liền, như một dạng super-fan . Năm mười bảy tuổi, chị nghĩ rằng mình đã là người lớn và chấm dứt tình trạng theo đuổi yêu đương mơ mộng kiểu trẻ con, vả lại chị sắp chuyển đi New York sống nên quyết định đến gặp ngôi sao nhạc rock lần cuối để nói chuyện. Nhưng chị đã không gặp được anh kia. Hơn năm năm sau, từ New York, chị ấy đã quay lại Anh đúng vào lúc ngôi sao kia chuyển đến Mỹ để bắt đầu sự nghiệp quốc tế. Nhiều năm lại trôi qua; chị cưới một người đàn ông vốn là một người bạn từ nhỏ. Rồi một thời gian trôi qua; ngôi sao nhạc rock trở lại Anh. Lúc này Kate đã lấy chồng được khoảng sáu năm và cuộc sống hôn nhân êm ả. Một ngày nọ, chị tình cờ gặp lại ngôi sao nhạc rock và họ lập tức quấn lấy nhau. Anh ta, lúc đó gần năm mươi, muốn chị ấy, lúc đó gần ba mươi, đến sống cùng. Vậy là chị về nhà, kể hết chuyện với chồng; họ ly dị và chị chuyển đến sống với ngôi sao nhạc rock. Họ sống được hai năm thì chị bỏ đi. Giờ thị Kate đã sống độc thân được vài năm.
“Lúc chị nói muốn ly dị, chồng chị có buồn không?”
“Buồn chứ cưng; nhưng anh ấy biết chuyện mà. Chị đã kể cho anh ấy nghe chuyện này từ lúc bọn chị mới gặp nhau. Anh ấy biết hết. Anh ấy bảo là anh ấy tôn trọng chị vì dù sao chị cũng đã trung thực với anh ấy.”
“Thế chị sống với anh nhạc rock kia có vui không? Nhạc sĩ, họa sĩ, nhà văn… họ sống trong đầu họ nhiều quá, mà họ lại cũng không cưỡng được.”
“Bọn chị sống cũng vui. Nói chung cũng lên lên xuống xuống, thăng trầm như bất cứ cặp nào, cưng biết đấy.”
“Thế rồi bọn chị cứ thế chia tay hay có chuyện gì lớn xảy ra?”
“Kể ra thì cũng nhiều nguyên nhân, nhưng chẳng cái nào là biến cố lớn cả; cơ bản là đến cuối năm thứ hai, chị muốn anh ấy phải quyết định dứt khoát xem có kết hôn không, rồi còn chuyện con cái nữa. Nhưng anh ấy không quyết định được. Thế là chị bảo chị phải ra đi để xây dựng cuộc sống của chị.”
“Thế anh ấy có buồn không? Có giữ chị lại không?”
“Buồn chứ. Bọn chị khóc suốt. Anh ấy muốn chị ở lại, nhưng anh ấy cũng không thể quyết định được việc kết hôn. Anh ấy không muốn kết hôn, anh ấy chỉ muốn sống với nhau như thế, anh ấy bảo sao không thể cứ sống với nhau như thế này , chị thì không thể mãi được, chị không thể cứ như thế đến hết đời, đơn giản là chị không thể.”
“Chị có thấy tiếc gì sau toàn bộ chuyện này không? Nghe chuyện em cứ có cảm giác mất mát thế nào đó.”
“Không, chị không tiếc.”
“Thế chị có tiếc khoảng thời gian mà chị đã theo đuổi và ám ảnh về cái anh nhạc rock này không? Chị có bao giờ tiếc là chị đã phí thời gian cho nó vì kết cục của nó đã không như chị mong muốn?”
“Không, nó là một tình cảm thật em ạ, lúc đó tình cảm của mình rất trong sáng và chân thành, tuy đúng là trẻ con nhưng nó là cái trong sáng và chân thành của trẻ con. Cho nên chị không tiếc. Nó ngớ ngẩn, đúng rồi, nhưng mà lúc đấy nó thế, nó rất chân thành.”
“Thế chị có tiếc đã ly dị chồng không? Chị nói anh ấy là người tốt, và chị đã hạnh phúc; chị có bao giờ tiếc là nếu chị không ly dị thì cuộc sống của chị vẫn cứ êm đềm đến giờ?”
“Không, chị không tiếc. Anh ấy tốt nhưng cuộc sống bọn chị vẫn thiếu cái gì đó, chị không thể giả vờ được. Nếu chị không chia tay thì chị vẫn không thể nào thôi ám ảnh về người kia, thực sự là như thế. Với cả, tiếc làm gì cho phí phạm, mỗi một lúc mình chỉ có thể quyết định điều tốt nhất vào lúc đó thôi cưng, mình làm sao biết được quyết định đó là tốt nhất hay không, đời thì dài, chết có khi cũng còn chưa là kết thúc thì làm sao tính được?”
“Thế chị có định sẽ lập gia đình lại không?”
“Chị không biết, chị không cần lấy chồng nhưng chị muốn có con, mà chị cũng chẳng còn nhiều thời gian nữa cho nên chị phải nhanh lên. Nhưng chị cũng không thể lấy đại một ai đấy chỉ để có con. Cưng biết đấy, khi đến từng này tuổi thì rất thực tế, không thể lãng mạn như thời còn hai mươi tuổi được nữa. Bây giờ, chị không thể nào hẹn hò với người nào không có công ăn việc làm tử tế, không đủ tự nuôi sống bản thân. Ý chị là, chị sẵn sàng làm việc nhưng mà người đó cũng phải làm việc nữa. Không thể nào có kiểu tình yêu ‘tình yêu là tất cả, tình yêu sẽ chinh phục tất cả’. Chị không thể kham nổi cách sống đó nữa.”
“Em xin lỗi nhưng mà nghe như vậy thấy buồn quá.”
“Ừ, buồn, chị biết, nhưng mà đời nó vậy đấy.”
“Làm sao mà đời người ta lại cứ xuống dốc như vậy nhỉ? Em cứ nghĩ, hàng triệu, hàng tỷ người… tất cả đều cứ đi xuống dần, lụi dần, chẳng mấy người hạnh phúc; ai cũng có rất nhiều ước mơ và dự định, và hăm hở lúc hai mươi tuổi, nghĩ rằng mình có thời gian để làm tất cả, nhưng chớp mắt một cái, cuộc sống dường như đã sang dốc bên kia rồi, chỉ có đi xuống và mọi thứ chỉ là xoay xở thực dụng để có thể sống được.”
“Chờ đến lúc cưng ba mươi tám tuổi như chị; nó sẽ còn buồn hơn nhiều so với những gì em tưởng tượng bây giờ.”
Tôi nhìn Kate. Lúc trẻ hơn, chắc chắn chị là một cô gái xinh đẹp và năng động; chị chắc chắn đã có lúc nghĩ mình có tất cả, và có thể có tất cả… thế mà bằng cách nào đó, cuộc sống của chị đã đến chỗ như bây giờ: một người viết báo nghiệp dư, cố gắng làm việc đủ sống và nuôi hy vọng sẽ có một gia đình trong khi hy vọng cứ mỏng dần, mỏng dần. Chị đã rẽ sai ở chỗ nào? Đã lạc lối ở chỗ nào? Cuộc sống có cách riêng để chơi khăm hay tất cả là lỗi của chị?
Tôi không biết nữa.
Ở sâu trong tim, người ta nghĩ gì? Muốn gì? Cần gì?
Nếu tôi chia tay Sơn, cuộc đời tôi rồi có kết cục giống như Kate không?
☆☆☆Venice, ngày…
Bây giờ là 10 rưỡi sáng và tôi đang ở trong nhà thờ Thánh Mary. Tôi chạy vào đây để tránh mưa sau khi đã mua vé tàu ở ga Santa Lucia. 3 giờ chiều mai tôi đi Florence rồi mà Venice thì cứ mưa ròng rã như thể cái thành phố nổi này quyết làm cho toàn bộ ký ức của tôi về Venice là một tập hợp hỗn độn của mưa, lạnh, ướt, và dĩ nhiên là nước – nước ở bên dưới, nước ở bên trên, nước đầy trong không khí, nước dọc, nước ngang, nước ở khắp nơi.
Tôi đã quên hôm nay là Chủ nhật, cho tới lúc chạy vào đây tránh mưa và chứng kiến lễ cầu kinh sáng Chủ nhật. Buổi lễ sớm lúc 7 giờ đã xong và bây giờ là buổi lễ thứ hai trong ngày; và nó được mở đầu bằng một giai điệu organ quen thuộc mà tôi đã nghe rất nhiều lần vào những sáng Chủ nhật ở nhà thờ Ngõ Trạm cùng với Quang Anh. Nó là bài thánh ca khai lễ với câu kết thúc “Chúa cha và Con, Thánh linh muôn đời”. Ngay cả khi được hát bằng tiếng Ý, tôi cũng vẫn nhận ra giai điệu. Tôi ngồi ở phía cuối nhà thờ; cách tôi hai bước chân là một buồng xưng tội nhỏ. Từ lúc tôi vào ngồi đây, hai phụ nữ và một người đàn ông đã lần lượt vào xưng tội. Tôi không biết họ xưng gì với đức cha ngồi trong đó nhưng, nếu có thể, tôi cũng muốn được xưng.
“Trình cha, con là kẻ có tội. Đêm qua, con đã có rất nhiều ý nghĩ xấu xa…”
Quả thật, đêm qua tôi có rất nhiều ý nghĩ xấu xa. Nhưng mà buổi lễ đã bắt đầu.
Đầu tiên cũng là những màn cầu nguyện chung và dàn hợp ca nhà thờ hát vài bài Kinh Thánh quen thuộc (giờ tôi mới nghĩ ra, có lẽ nghi thức các buổi lễ nhà thờ ở đâu cũng thế, vị họ cần có sự thống nhất này để tập hợp các con chiên khắp thế giới). Sau đó thì một đức cha to béo và hói bắt đầu giảng đạo. Đức cha này là tạng đức cha bốc đồng (trái với kiểu các đức cha trầm mặc, sâu lắng) – tức là ông nói to, nói nhiều, cao hứng, liên tục lên bổng xuống trầm, đi đi lại lại trong lúc giảng. Tôi hoàn toàn không hiểu đức cha giảng gì nhưng nghe có vẻ rất thú vị, những bà già ngồi bên dưới liên tục “Amen” làm dấu thánh, và giữa một màn giảng bài cao hứng, đức cha giơ hai tay lên trời hét to “ paradiso, paradiso ” rồi thêm một vài từ khác và lại “ paradiso ”.
Vậy là đức cha đang giảng về thiên đường. Tôi không muốn báng bổ, nhất là vì tôi đang ở trong nhà thờ, nhưng quả thực mỗi lần nghe tiếng Ý, tôi không thể nghĩ đến thiên đường hay bất cứ cái gì khác ngoài phim Bố Già . Thực tế là từ khi tới Ý, tôi đã nghĩ rất nhiều tới Bố Già và mafia. Đến mức, hôm qua, trên đường về lại nhà trọ, tôi dừng ở một cửa hàng bánh ngọt để mua một cái bánh cuộn kem canolla Sicily chỉ vì trong Bố Già phần III, Connie đã đầu độc cha đỡ đầu của mình bằng một cái bánh trứ danh này.
Vì tôi đang nói đến Bố Già và đầu độc, và vì đức cha trên kia sẽ còn giảng lâu và trời thì đang mưa bên ngoài, tôi sẽ viết lại những ý nghĩ tồi tệ của tôi đêm qua.
Đêm qua, tôi đã lên giường với quyết tâm phải ngủ một giấc dài mà tôi rất cần để có thể lấy lại sức. Nhưng khoảng gần nửa đêm, tôi tỉnh dậy vì một cô nàng người Úc liên tục gây ồn trong phòng. Cô nàng này đã uống rất nhiều rượu trong bữa tối và chắc say xỉn cho nên cứ đi lại rầm rập và sập cửa rầm rầm mỗi lần đi ra đi vào. Cô ta không ở trong phòng tôi; cô ta ở phòng bên cạnh nhưng liên tục đi qua phòng tôi để sang phòng của mấy cậu con trai; và họ cười đùa, uống rượu, đi ra đi vào liên tục, mỗi lần lại sập cửa ầm ầm và bước chân thì huỳnh huỵch như đóng gạch.
Bằng vào những tiếng động trong phòng, tôi biết tất cả những người trong phòng tôi đều đã tỉnh dậy – cả Kate, cả mấy cô bé sinh viên người Úc, và những người còn lại. Nhưng chúng tôi có lẽ đều hiền lành như nhau nên chẳng ai nói gì. Và vì không có ai nói gì, cho nên tôi lại nghĩ “Có khi chỉ mỗi mình là bực vì mình thiếu ngủ cả tuần nay.” Và thế là, để tự xoa dịu bản thân, tôi bắt đầu cố nghĩ những ý thiền định kiểu như “Nào, mình biết là mình không thể nào khống chế được bên ngoài. Mình chỉ có thể kiểm soát bản thân mình mà thôi. Nào, tất cả là do tâm mà ra, hít vào, thở ra, hít vào, thở ra… ngủ đi, ngủ đi…”
Tôi cố hít thở đều, hít vào, thở ra, hít vào, thở ra… tôi tập trung theo dõi hơi thở của mình, nào bắt đầu đi vào từ mũi, qua trước ngực, xuống đan điền, một… hai… ba… đi lại lên ngực, qua mũi…
aaaaaa
ummmm
aaaaaa
ummmmm
hít vào
thở ra
hít vào
thở ra
aaaaaaaa
ummmmmmmmm…
nhưng mà giời ơiiiiiiiiiiiiiiiii, tổ sư bố nó chứ, con lợn cái người Úc cứ tiếp tục đi ra đi vào sập cửa ầm ầm như đóng ván quan tài bố nó. Tôi không sao thở được. Tổ sư bố mày, đồ con lợn, đồ lợn sề lắm lông, đồ óc bã đậu, đồ shithead, đồ asshole, you bitch [62] , đồ trời chu đất diệt kia. Giời đất ơiiiiiiiii, tôi phát điên lên mất. Đầu tôi như sắp vỡ ra; máu dồn lên mặt nóng ran và thái dương thì giật như sắp đứt mạch máu. Giời ơi là giờiiiiiiii, tổ sư bố mày, cả lò nhà mày, họ hàng, hang hốc cụ kỵ nhà mày…
[62] Đồ óc đất, đồ lỗ đít, đồ chó cái.
Trời ơi, tôi đã tức đến nỗi một việc kỳ lạ đã xảy ra. Tôi nhớ hồi tôi mười tám tuổi và bắt đầu tập thiền, thầy của tôi thường nói về khái niệm “tín tâm” và về “quán chiếu”. Khi bạn tin sâu sắc vào một điều gì đó và bạn dùng toàn bộ định lực tập trung quán chiếu thì bạn có thể nhăm mắt mà nhìn thấy “linh hồn Bổn Tôn” tức là thấy Ph?