Paris, ngày…
Paris, ngày…
Cách đây năm phút, tôi gần như đã ghét Paris khi cô gái gác cổng Đại học Sorbonne trên phố Thánh Jacques đã trả lời đề nghị được vào thăm trường của tôi bằng một từ “Non!” và vẻ mặt khinh khỉnh.
Nhưng tôi không bỏ cuộc; tôi đi vòng sang cổng khác và ở đây, người gác cổng da đen đã cho tôi vào sau khi hỏi tôi vào làm gì và tôi nói tôi là sinh viên ở Chicago, tôi muốn vào thăm trường, và anh ta nói “Tôi ghét đội Chicago Bulls [40] , tôi thích Michael Jordan nhưng giờ anh ấy ngủ rồi”, và tôi đã trả lời “Nhưng Chicago còn có nhiều thứ khác, nhất định anh phải thích một cái gì đó chứ… đội White Sox [41] chẳng hạn?”; và anh ta phá lên cười “OK, vào đi”. Và giờ thì tôi đang ngồi trên một cái ghế đá trong khoảng sân hình chữ nhật lát đầy đá cổ, đối diện với hai pho tượng: Louis Pasteur và Victor Hugo. Ở Paris, đi đến đâu cũng có bóng dáng Hugo và vì thế mà tôi càng cảm thấy mình thuộc về Paris. Thành phố này có một chỗ cho tôi – nếu không phải giữa những người Paris thì là giữa Paris đầy Hugo; đấy là một mối tình không cần nói thành lời.
Nhưng quả thực, tôi đã suýt ghét Paris khi cô bảo vệ trường Sorbonne từ chối cho tôi vào trong. Nghĩ cho kỹ, cũng không thể trách cô ấy được. Cái mầm mống cơn chán ghét của tôi thực ra có bóng dáng một sự thất tình/ghen tuông và nó đã bắt đầu từ đêm qua, và lỗi là do tôi cả.
Đêm qua, lúc tôi trở về khách sạn, Francesca không ở đó, chỉ có Julia đang ở trong phòng cùng với một người bạn gái Nhật Bản mới quen. Chúng tôi hỏi thăm nhau xem đã làm gì trong ngày. Julia nói chị đã tới nghĩa trang Pere Lachaise với mục đích tìm một chỗ yên tĩnh mà suy nghĩ, nhưng những khách du lịch đi thăm nghĩa trang cứ liên tục quấy rầy bằng những câu hỏi “Mộ này của ai đấy? Ông ấy có nổi tiếng không?” Chị cứ ngồi xuống bất cứ ngôi mộ nào là có người hỏi mộ của ai và người chết có nổi tiếng không.
“Nổi tiếng, nổi tiếng, nổi tiếng,” Julia nói. “Tất cả những gì họ quan tâm chỉ là người chết này có nổi tiếng không, họ thậm chỉ chẳng buồn đọc bia mộ và chẳng có tí ý niệm gì về người đã chết.”
Julia thở hắt ra. Lần đầu tiên tôi thấy chị ấy nổi giận.
“Tôi đã tới Paris để tìm lại bản thân mình… nhưng mà trời ơi, Paris ồn ào không thể tưởng tượng được, quá nhiều khách du lịch, quá nhiều, quá nhiều… mà đàn ông Pháp thì trơ trẽn và lộ liễu quá mức. Không thể nào tìm thấy bản thân mình ở đây.”
“Tìm lại bản thân mình” – cụm từ này nén quá nhiều thứ. Tôi hỏi Julia muốn tìm lại bản thân như thế nào, chị tìm gì, và nếu tìm được thì cái “bản thân” ấy trông như thế nào. Vậy là Julia kể cho tôi về cuộc sống của chị ở Hàn Quốc.
Julia là giáo viên dạy tiếng Anh ở tiểu học. Chị năm nay đã ba lăm và bố mẹ chị vô cùng sốt ruột vì chị vẫn chưa lấy chồng, Julia từng có một mối tình gần mười năm với một người đàn ông Hàn Quốc, nhưng đã không đi đến đám cưới; và sau đó một thời gian dài thì chị không còn yêu lại ai. “Tôi chán đàn ông Hàn Quốc rồi,” Julia nói. “Họ vừa gia trưởng lại vừa yếu đuối.” Gần đây chị thích một anh chàng người Anh – người này là giáo viên tiếng Anh của Julia ở Seoul; và chị có cảm giác anh chàng ấy cũng thích chị; họ hay gặp nhau nói chuyện, nhưng họ cũng chưa chính thức hẹn hò vì Julia cố gắng giấu giếm tình cảm của mình, còn anh kia thì mới đến Hàn Quốc nên thấy các cô gái Hàn Quốc quá bí ẩn. Mùa hè này, anh chàng người Anh về lại London thăm nhà và sẽ cùng mấy người bạn đi du lịch ở Châu Âu, bao gồm cả Paris. Vậy là Julia lên kế hoạch đi châu Âu, với mục đích ngấm ngầm là để gặp anh chàng người Anh ở Paris; nhưng để làm thế, chị đã lên cả một lịch trình châu Âu dài dòng, với nhiều thành phố khách nhau, chỉ để trông có vẻ như chị không đi Paris để gặp anh chàng người Anh mà chỉ “tình cờ” có mặt ở đó đúng lúc anh ấy cũng có mặt ( trời ơi, phụ nữ châu Á hình như giống hệt nhau về sự lòng vòng này ).
“Dĩ nhiên là chị đến Paris không chỉ vì anh ấy,” Julia nói, “chị muốn đến Paris vì chị chưa bao giờ đến Paris; ai cũng bảo Paris là thành phố lãng mạn nhất thế giới. Chị muốn đến đây để nghĩ, để lãng mạn trở lại một chút; chị quá mệt mỏi với cuộc sống ở Hàn Quốc, ai cũng giục lấy chồng đi, đẻ con đi, thế này đi, thế kia đi, chị ngột ngạt quá rồi.”
Julia đã viết thư cho anh chàng người Anh để thông báo rằng chị sẽ ở châu Âu; nếu anh ấy cũng ở Paris vào cùng ngày thì hãy gặp nhau. Anh chàng kia trả lời rằng anh ấy sẽ đi Paris nhưng không biết chính xác ngày nào vì còn tùy các bạn anh ấy sắp xếp. Vậy là Julia tiếp tục chờ… và ngày này qua ngày khác, tiếp tục cố tìm sự lãng mạn của Paris, “cố tìm lại bản thân” trong lúc chờ đợi. Nhưng ngày nào cũng thế, khi Julia đi ra ngoài với phấn son, áo váy, giày cao gót, và mái tóc đen dài được chăm sóc cận thận hằng đêm để buông xõa vào ban ngày - thì những người đàn ông Pháp xa lạ trên đường cứ lăn xả vào chị mà tán tỉnh theo những lời mà Julia cho là” rẻ tiền”.
Có một người đàn ông trung niên dường như ngày nào cũng ngồi uống cà phê ở cái quán gần cầu Pont Notre Dame với một mục đích là chờ chị đi tới để tán tỉnh. Ông ta nói ông ta “phát điên” vì chị; ông ta đã hai lần cầm tay chị hôn và hôm nay thì đòi hôn môi chị.
“Tôi chán ngấy Paris và đàn ông Paris rồi” Julis nói với tôi và cô gái Nhật.” Mai tôi sẽ xuống Nice tắm biển, ở đó yên tĩnh hơn, may ra thì có thể nghỉ ngơi. Sau đó thì tôi sẽ đi Tây Ban Nha.”
Cô gái Nhật cũng nói rằng cô đến Paris để nghỉ ngơi và “ enjoy the city ” nhưng cô viêm họng suốt những ngày ở đây vì Paris ngập khói thuốc lá ở khắp nơi và quá nhiều khách du lịch. Càng nghe chuyện tôi càng nhận ra rằng có rất nhiều cô gái châu Á một mình tới Paris - đều với những ảo tưởng và fantasy khác nhau; và thường thì họ thất vọng. Tôi nữa, tôi cùng là một cô gái châu Á, cũng đang ở Paris một mình, thất vọng thì không, ít nhất là chưa, nhưng sau cuộc nói chuyện với Julia và cô gái Nhật, tôi tự hỏi bao giờ đến lượt mình. Và càng nghĩ, tôi càng bực. Tự bao giờ sự lãng mạn Pháp nói riêng và sự lãng mạn nói chung của con người trở nên rẻ tiền như vậy? Từ bao giờ tình yêu trở nên cái gì đó khó bắt, đỏng đảnh, đầy những trò mèo đến vậy? Từ bao giờ cuộc sống con người trở nên một lối mòn trúc trắc gần như chỉ dẫn vào một ngõ cụt? Và từ bao giờ, Paris cho phép những người đàn ông trung niên nứng tình phá hỏng những chuyến đi của người khác?
Nhưng buồn nhất là ý nghĩ ở ngoài kia có nhiều phụ nữ cô đơn và lạc lõng. Nhất là ở các nước châu Á. Họ đều là những người giằng xé giữa ý thức đạo đức truyền thống với mong muốn cá nhân; họ khao khát được yêu một cách chân thành, mãnh liệt – một tình yêu lớn – nhưng rồi luôn luôn phải chấp nhận một cái gì đó thứ cấp, vừa phải. Họ đã tới Paris để “tìm lại mình”, “để tìm lại sự lãng mạn” như cách nói của Julia – bởi vì cái thứ tình yêu thứ cấp đó không bao giờ có thể làm người ta nguôi ngoai khao khát về tình yêu kia.
Tôi cũng biết rất nhiều người con gái không bao giờ có cùng câu hỏi và nhu cầu với Julia. Họ không bao giờ cần “tìm lại bản thân mình”. Cuộc sống với họ luôn luôn rõ ràng; họ chọn người đàn ông tối ưu, và lấy chồng và sinh con, và cuộc sống của họ cứ thế tiếp diễn. Ở một khía cạnh nào đó, họ thật đáng ngưỡng mộ và ghen tị. Cuộc đời sẽ dễ dàng hơn bao nhiêu nếu như bạn không có những ý nghĩ kiểu như bạn cần tìm lại bản thân mình. Cuộc đời sẽ dễ dàng hơn bao nhiêu nếu như bạn chỉ cần có chồng con, chứ không cần thêm một thứ xa xỉ là được chồng hiểu .
Nhưng than ôi, cả điều ấy nữa, người ta cũng đâu có cưỡng được. Tôi tin là Julia đã cố dẹp những tiếng thì thầm trong lòng mình, nhưng không thể.
Đêm qua, tôi nói với Julia:
“Chị đừng buồn. Mình không thể kiểm soát được người khác được đâu. Điều duy nhất chúng ta có thể làm là kiểm soát bản thân mình. Đừng để mấy người đàn ôn Pháp phá hỏng Paris của chị. Chị hãy tìm Paris của riêng chị và tìm chỗ của chị ở Paris.”
Nhưng Julia đã chịu đựng Paris đủ rồi. Tôi đồ rằng chị ấy đang “thất tình” với Paris – và cả với anh chàng người Anh có lẽ sẽ không bao giờ đủ dứt khoát mà đến Paris gặp chị. Chị đã quyết tâm ngày mai sẽ đi Nice – để thử cơ hội với Nice. Tôi e rằng chị lại cũng sẽ thất vọng với Nice thôi; nhưng ít nhất chị cũng đang cố gắng đi tìm và tôi chúc chị mọi tốt lành.
Sáng nay, khi tỉnh dậy, những tàn dư của cuộc nói chuyện đêm qua vẫn còn vương lại trong đầu tôi. Và rồi, để thêm vào đó, Paris lại mưa, xám, và lạnh… còn tôi thì đã đánh mất cái ô của mình ngày hôm qua. Một câu hỏi lặng lẽ hiện lên trong đầu tôi. “Mình đang làm gì ở đây? Thực sự thì mình đang làm gì ở Paris và ở châu Âu một mình? Mình tìm gì? Cần gì? Muốn gì?
Nhưng dù tôi có biết mình tìm gì, muốn gì ở Paris hay không thì sự thật là tôi đang ở Paris và tôi không muốn trời mưa hay sự tuyệt vọng của Julia trở thành sự tuyệt vọng của tôi; vậy là tôi thay quần áo và ra ngoài. Trời không thực sự lạnh nhưng ướt và xám. Ai cũng bước đi vội vã trong mưa, tay nắm chặt ô. Điều lạ là khi tôi vượt qua sông Seine dưới trời mưa, đầu để trần và nhìn những ngươi Paris cắm cúi bước trong mưa dưới những chiếc ô đen, rồi nhìn sông Seine và cả thành phổ ủ dột dưới màn nước màu xám, đột nhiên tôi bình tĩnh lại. Một cảm giác thanh thản, thậm chí hạnh phúc, lại len lén đến gần ôm lấy tôi. Bất kể thế nào, tôi vẫn có thể có một mối tình riêng, một chuyến đi riêng với Paris mà không ai có thể lấy mất của tôi điều đó.
Khi tôi đi dọc bờ sông, người đàn ông đã đọc thơ Verlaine cho tôi hôm trước lại từ hiệu sách bước ra “”Bonjour petite mademoiselle”. Tôi nói “Bonjour” rồi cứ thế đi thẳng. Ông ta kêu lên “Troi oi” nhưng tôi cứ bước đi mà không hề ngoái đầu.
☆☆☆Paris, ngày…
Cuối cùng thì tôi cũng tới Maison de Victor Hugo. Buổi chiều tối ngày thứ năm sau khi tới Paris, tôi đã quyết định không thể chần chừ thêm nữa.
Nó bắt đầu từ một ý nghĩ vào buổi tối hôm trước. Tôi muốn đi tìm phố Rue Plumet và phố Rue Saint Denis. Trong những người khốn khổ , Rue Plumet là phố mà Cô-dét sống cùng Giăng Van Giăng, và từ đó bắt đầu tình yêu với Ma-ri-uýt trong những buổi dạo chơi ở vườn Luxembourg. Vào các buổi tối, Ma-ri-uýt thường lẻn tới ngôi nhà Cô-dét trên phố, lách qua hàng rào vườn; và họ sẽ ngồi cạnh nhau suốt đêm, chẳng để nói gì, mà chỉ để chiêm ngưỡng người kia và ngập trong tình yêu. Hugo gọi đó là “Tình ca phố Pơ Luy Mê”. Còn phố Saint Denis là phố mà những người bạn trong nhóm ABC đã lập chiến lũy làm cách mạng và Ma-ri-uýt đã tới đó để chết cho nền cộng hòa non tre khi nghĩ rằng Cô-dét bỏ đi. Ma-ri-uýt lẽ ra đã chết nếu Giăng Van Giăng không đến chiến lũy cõng anh trên vai, lội qua cống ngầm Paris để trả anh về cho ông nội. Trong Những người khốn khổ , Hugo gọi cuộc chiến của những người bạn ABC là “”anh hùng ca phố Xanh Đờ Ni”. Sau buổi nói chuyện với Julia, tôi dứt khoát rằng tôi phải đi tìm xem có còn chút nào bóng dáng của cái “tình ca phố Pơ Luy Mê” và “anh hùng ca phố Xanh Đờ Ni” ở Paris không.
Trước khi đi, để cho chắc chắn, tôi hỏi người lễ tân về phố Saint Denis. Anh ấy chỉ cho tôi con đường dài trên bản đồ; rồi nói một câu làm tôi đứng tim:
“Cô muốn tới đó làm gì? Phố này nổi tiếng là phố đèn đỏ.”
Tôi nói với người lễ tân rằng tôi cần đến đó tìm một thứ. Vậy là tôi đi dọc phố Rivoli và chỉ qua một quãng ngắn, tôi nhìn thấy tấm biển đề “Rue Saint Denis”. Con phố hoàn toàn không như tôi tưởng tượng.
Phố Saint Denis ở khúc này chỉ là một đoạn ngắn chừng vài trăm mét; chạy giữa phố Rivoli và phố Lombards. Một bên phố là một bức tường cao của một tòa nhà cổ; bên kia là một vài cửa hàng ăn Địa Trung Hải khá xập xệ theo tiêu chuẩn của Paris. Loanh quanh một lúc vẫn không thấy chút bóng dáng “anh hùng ca phố Xanh Đờ Ni” nào, tôi quyết định sẽ ăn vội một bữa trưa gồm cơm sữa chua với thịt cừu nướng ở một nhà hàng Địa Trung Hải rồi sẽ đi tới Maison de Victor Hugo [42] và bỏ qua “Tình ca phố Pơ Luy Mê”.
[42] Nhà Victor Hugo.
Tôi không hy vọng gì nhiều. Thực sự, đến Paris lần đầu tiên và một mình bằng những ký ức về Paris trong các tiểu thuyết Pháp từ thế kỷ XVIII-XIX, tôi hiểu rằng tôi hầu như đã tự lên cho mình một kịch bản đầy các thất vọng và có khi còn đẩy mình vào những tình huống ngớ ngẩm kỳ lạ. Mầy ngày hôm nay, tôi đã rơi vào tình huống ấy rồi, khi cố gắng tìm cho được cái hàng cấy tròn vườn Luxembourg, nơi Ma-ri-uýt và Cô-dét nhìn thấy nhau lần đầu trong lúc đi dạo, cho đến lúc “Ma-ri-uýt yêu như si như dại”. Trong Những người khốn khổ , Hugo tả hàng cây này nằm gần cổng vào ở phổ Rue de I’Ouest và cạnh đó có mấy “pho tượng lực sĩ”. Tôi đã tìm suốt cả mấy hôm nay trên cả ba cái bản đồ tôi có nhưng không sao tìm thấy phố Rue de I’Ouest đâu, và tôi cũng đã đi loanh quoanh khắp vườn nhưng vẫn không xác định được chính xác hàng cây đó là ở chỗ nào vì không thấy chỗ nào có các “pho tượng lực sĩ” cả. Một buổi sáng, sau khi tìm mãi không thấy, tôi quyết định cầu cứu hai cô gái trẻ ngồi cạnh tôi trong vườn bằng cách chìa cuốn Những người khốn khổ bằng tiếng Anh cho họ xem và chỉ cho họ nơi tôi muốn tìm. Trong sách tiếng Anh, chỗ những hàng cây được gọi là “The Pepinere” và tôi chỉ cho họ chữ đó, cộng với “Rue de I’Ouest”. Hai cô gái bàn với nhau một lúc rồi quay sang tôi:
“Chị biết đấy, có khi những cái tên này chỉ là hư cấu thôi. Cuốn sách này cũ rồi mà.”
Phải, cuốn sách này cũ thật nhưng mấy cái tên này chắc chắn không phải hư cấu. Hugo không bịa ra chúng. Hugo đã mô tả Paris đúng như thời của ông. Có thể là tên đường đã thay đổi khi Paris được tái thiết theo kế hoạch của bá tước Haussmann. Có thể các cô gái này quá trẻ để biết và tin vào một Paris đó.
Vậy là tôi quyết định rời khỏi vườn và trở lại vào một ngày có nắng để tìm cho ra. Ngoài cổng vườn trên phố Thánh Michel, tôi nhìn thấy một hiệu bán sách và tạp chí với cái tên “The Economist [43] ” nổi bật phía trên và bên cạnh đó là jazz club có tên The Little Journal mà cả mấy cuốn sách du lịch đều gợi ý tôi nên ghé vào. Vì tất cả giấy và bút tôi mang theo đều đã hết nên tôi ghé vào hiệu sách để mua thêm.
[43] Nhà kinh tế học.
Trả tiền xong và đã quay người đi, một cái gì đó kéo tôi quay lại hỏi người bán hàng – cũng là người chủ tiệm sách – rằng tại sao cửa hàng của ông ấy lại có tên “The Economist”. Người bán hàng hào hứng giải thích với tôi rằng cửa hàng của ông ấy là “đối tác” với tạp chí The Economist nổi tiếng. Tôi nói “ oh très bien, excellent magazine [44] ” và giải thích thêm với ông ấy rằng, hồi còn học đại học ở Hà Nội, tôi theo học ngành ngoại thương, thế nên hồi đó tôi đọc The Economist hằng tuần. Quả thật, hồi những năm từ 1995 đến 1997, khi Internet còn hiếm, tôi thường mua những bản The Economist, Time và Newsweek từ cửa hàng bán sách báo cũ trên phố Bà Triệu để học cái gọi là “tiếng Anh thương mại” và thỉnh thoảng dịch một bài tôi thích cho các báo Việt Nam. Hồi đó, tùy vào báo đã cũ một tuần hay hai tuần mà tôi sẽ trả hai ngàn đến mười ngàn đồng một tờ, và khi dịch xong một bài, tôi có thể được trả tứ tám mươi đến hai trăm ngàn đồng. Đấy là một trong những cách kiếm tiền đầu tiên của tôi ở đại hoc, trước khi tôi tìm ra những cách khác nhanh hơn và nhiều hơn.
[44] Ồ, hay quá, một tạp chí tuyệt vời.
Ông chủ hiệu sách rất vui khi biết rằng tôi đọc The Economist ở Việt Nam. Ông tặng tôi một cuốn sổ nhỏ có chữ “The Economist” bên ngoài làm kỷ niệm. Thấy ông vui tính, tôi lấy cuốn Những người khốn khổ trong túi ra hỏi xem ông có biết “the Pepienere” với phố Rue I’Ouest ở đâu không. Ông nói nó ngay bên đường kỳa cô kỳa, chính là cái hàng cây cắt phẳng đó, cô nhìn thấy chưa?
Trời ơi, tôi đã loanh quanh luẩn quẩn ở đó mấy lần; đã nằm đó mà đọc sách; thậm chí đã nằm ở đó để tra bản đồ tìm chính nó. Thật không thể tin được.
Nhưng lần này, rõ ràng không có bóng dáng anh hùng ca phố Xanh Đờ Ni nào. Tôi cũng không hy vọng nhiều ở Maison de Victor Hugo.
Lúc 5 giờ chiều, từ cửa sổ tầng ba căn nhà Victor Hugo nhìn ra, Place des Vosges – cái công viên nhỏ hình chữ nhật có nhiều hàng cây dẻ xanh lá và những ghế băng dài – không một bóng người. Mưa đã ngớt nhưng mặt trời vẫn khuất sau mây và mặt đất trong công viên có những vũng nước nhỏ như những chiếc gương xám. Căn phòng tôi đang ngồi này có sàn gỗ, với những tấm rèm màu đỏ sẫm và thảm tường treo quanh phòng. Một cái gương, một bức tượng bán thân của Hugo và sáu bức tranh lớn trên tường trong đó có một bức vẽ Hugo và con trai mà tôi quen thuộc. Giữa phòng có hai tủ kính lớn báy bản tin đầu tiên của các tập thơ và kịch của Hugo: Lá thu, Ánh sáng và những cái bóng, Chàng hề của nhà vua . Có cả hai cái kiếm sắt cùng một số huân chương, mề đay được bày trong phòng.
Ba phòng liền kề căn phòng này hơi kỳ cục, nếu không muốn nói là xấu. Một căn phòng trưng bày rất nhiều đĩa sứ và đồ cổ từ phương Đông; tường nhà cũng được sơn và trang trí bằng sơn mài hoặc chất liệu gì đó, khiến cho căn phòng trở nên nặng nề, ngột ngạt. Thậm chí có cả một bức tượng Phật Bà Quan Âm bằng sứ và một số đồ sứ minh họa các điển tích trong văn hóa Trung Hoa. Căn phòng tiếp theo có một cái bàn lớn ở chính giữa phòng, xung quanh là ghế và các tủ gỗ - đây là phòng ăn hoặc phòng hút xì gà. Phòng tiếp theo là phòng làm việc, nơi Hugo viết. Căn phòng chỉ có vài cái ghế, bút, lọ mực và một tủ sách. Kế đến là phòng ngủ. Căn phòng rất tối và lạ lùng – tường phủ thảm đỏ, và cái gường thì hết sức nhỏ; không thể tưởng tượng cái giường búp bê đó lại có thể chứa một con người như Hugo.
Từ lúc vào Maison de Hugo đến lúc này, tôi không hề có cảm giác rằng Hugo từng sống ở đây. Không một đồ vật nào gợi lên tinh thần của ông, khí chất của ông. Thứ duy nhất mang lại một chút liên hệ là những tấm kính màu nhỏ xíu ở các cửa sổ dọc cầu thang dẫn lên căn nhà. Và ở cái chiếu nghỉ giữa tầng hai và tầng ba có một tượng thần Cupid bằng đồng đen tinh nghịch nhìn xuống; tôi cứ nghĩ nếu cái tượng này đã ở đó từ lúc còn Hugo, thì thần Cupid xinh xắn kia đã chứng kiến Hugo đi lại trên cầu thanh này nhiều năm. Hugo hẳn là sẽ dừng lại ở cái chiếu nghỉ này mà nhìn qua những vuông cửa sổ nhỏ ra ngoài.
Nhưng ngoài hai chi tiết ấy, cả căn nhà là một cổ vật không linh hồn, không tính cách.
Ở Maison de Victor Hugo ra, trời bắt đầu nhá nhem tối và mưa xối xả. Không có ô nên tôi đành đứng lại trong mái hiên của khu nhà mà lúc nãy một nghệ sĩ piano đường phố có tên Yuri Klempert đang chơi nhạc. Tôi bỏ 1 euro để yêu cầu ông chơi bản Raindrops (Những giọt mưa) của Chopin. Rồi tôi yêu cầu vài bản nhạc nữa của Liszt và Tchaikovsky. Bên ngoài, mưa tiếp tục trút, khác hẳn những cơn mưa lây rây mấy hôm trước. Nước mưa chảy ròng ròng từ mái hiên xuống thành một bức rèm nước; ngoài công viên không một bóng người; chỉ có tiếng piano thánh thót lẫn tiếng mưa trong hành lang lớn bao bọc cả khu nhà này.
Tôi ngồi khoảng ba mươi phút thì một cô gái rất đẹp cũng ghé vào tránh mưa và cũng bỏ tiền để yêu cầu nghe Beethoven.
Thế rồi, giữa lúc mưa ngày một nặng hạt, một thanh niên chạy một chiếc xe Yamaha dừng lại dưới hiên. Cậu ta rất trẻ, có lẽ khoảng mười tám hay hai mươi tuổi. Cậu ta mặc một cái áo da đen với quần bò đen bó sát và giày da đen cao cổ kiểu nhà binh, dây buộc còn lòng thòng. Lúc mới tới, cậu ta đội mũ bảo hiểm nhưng giờ thì đã bỏ mũ ra ôm trước ngực. Lúc mới xuống khỏi xe, cậu ta bồn chồn, vừa hút thuốc vừa trầm ngâm nhìn ra ngoài trời mưa nặng hạt như sợ rằng sẽ không kịp đến một cuộc hẹn nào đó, nhưng sau khi hút hết điếu thuốc, cậu có vẻ bình tĩnh lại, rồi bỏ mũ xuống yên xe và giờ thì đang hướng về phía Yuri Kemplert để nghe nhạc. Lúc nãy tôi chỉ thấy khuôn mặt nhìn nghiêng của cậu ta, giờ thì tôi thấy cả khuôn mặt.
Tôi chưa bao giờ nhìn thấy Ma-ri-uýt trong Những người khốn khổ , nhưng nếu Ma-ri-uýt hiện ra bằng xương bằng thịt thì chắc sẽ có khuôn mặt của chàng trai này.
Và cái ý nghĩ tự nhiên tiếp theo, mà không, đó không phải ý nghĩ, nó là một cảm giác tự nhiên mà tôi cảm thấy bằng cả cơ thể: tôi yêu chàng trai này, không phải như yêu sự tái hiện của Ma-ri-uýt mà như chính cậu ấy, chàng trai Paris xa lạ này. Giá tôi có thể mời cậu ấy đi ăn tối. Giá mà có thể ngồi bên cạnh cậu ấy ăn một bữa tối, như hai người xa lạ, và cậu ấy có thể nói gì hoặc không nói gì cũng được, có thể hiểu tôi hoặc không hiểu tôi, có thể biết về tình yêu của tôi hoặc không biết cũng được, tôi không bận lòng. Chỉ cần được ngồi cạnh nhau ăn một bữa tối; tôi sẽ chấp nhận khoảng trống ở giữa để đổi lấy cái việc ở gần cậu ấy vào một chiều mưa thế này; như lúc này tôi đã đang chấp nhận khoảng trống giữa tôi với cậu ấy, với cô gái đẹp kia và với Yuri Klempert.
“Anh có thể đi ăn tối với tôi không?”
Như thế có kỳ cục quá không? Có rẻ tiền quá không? Tôi đang làm đúng cái việc mà người bán sách và “nhà khoa học sở hữu thuyết giãn nở vũ trụ” đã làm với tôi. Những cơn bốc đồng này? Chúng là lỗi của Paris hay của tôi? Nhưng mà thực sự, tôi ước gì tôi có đủ dũng cảm mà nói với cậu ấy “Anh có thể đi ăn tối với tôi không?”
Anh có thể đi ăn tối với tôi không?
Nhưng tôi là một kẻ hèn nhát, đã luôn là một kẻ hèn nhát trong những tình huống thế này. Thế nên tôi chỉ tiếp tục nghe nhạc và viết những dòng này vào sổ trong lúc vẫn theo dõi Ma-ri-uýt của tôi qua đuôi mắt. Ma-ri-uýt cũng đang theo dõi tôi – có lẽ cậu ấy đang tự hỏi không biết tôi viết gì, và chắc không thể ngờ rằng tôi đang viết về cậu ấy.
Người yêu Paris của tôi. Mon coeur . Tôi yêu cậu nhiều hơn cậu biết.
Trời vừa đổ một cơn mưa nặng hạt mới. Yuri Klepert đang chơi Pathetique của Beethoven và Ma-ri-uýt của tôi lại lo lắng nhìn ra trời mưa. Tôi mong trời ngớt mưa để cậu ấy kịp đến cuộc hẹn với Cô-dét của cậu ấy.
Đi đi, và hãy yêu cô ấy thật nhiều. Tôi sẽ không ghen.
☆☆☆Paris, ngày…
Francesca đã về Milan, Julia đã đi Nice, tôi đã chuyển sang phòng ở mới và có ba người bạn mới: Amy người Seattle, Tristan người Anh, và một phụ nữ trung niên bí ẩn người Canada. Amy là sinh viên ngành chính trị và quan hệ quốc tế tới Paris một năm theo chương trình trao đổi sinh viên; Tristan cũng là sinh viên đang đi du lịch. Còn người phụ nữ Canada to béo thì tôi hoàn toàn không biết lai lịch và cũng không biết lý do chị ấy tời Paris làm gì và tại sao lại có mặt ở cái khách sạn sinh vên này.
Rất nhiều người tới Paris để mua sắm. Nhiều cô gái đặc biệt tới Paris chỉ để mua sắm và ngắm thời trang. Nhưng mua sắm không nằm trong danh sách các việc tôi muốn làm khi tới Paris, và sự thật là chưa bao giờ nằm trong danh sách các việc tôi muốn làm ở bất cứ đâu. Từ hôm đến Paris, tôi chưa hề bước chân vào một cửa hàng quần áo giày dép nào mặc dù đã ngắm nghía từ xa những cửa hàng thời trang trên Rue de Royale và Rue St-Honoré. Nhưng chiêm ngưỡng cái đẹp và sự thanh lịch Paris vậy thôi, chứ tôi không có ham muốn mua những quần áo ấy mang lên người. Cho đến hôm nay, tôi mới chỉ lên một cơn shopping khi tôi gặp một cửa hàng bán sách và băng đĩa cũ ở số 20 phố Thánh Michel. Cũng ở đây lần đầu tiên tôi thấy phiền lòng với việc mình không biết tiếng Pháp và đành bất lực nhìn những dãy sách cũ như người đi trên sa mạc thấy nước mà không được uống. Có một số tên sách và tác giả ở khu “Poche Romantique” và “Romans Poche” là quen thuộc, như Barbara Taylor Bradford hay Danielle Sterk và “Arts Humor Theatre Poesie Cinema” có nhiều đầu sách mà tôi lờ mờ đoán được tên sách nhưng không thể biết thêm các tác giả Pháp viết gì, style ra sao.
Tuy thế, khi đọc sách du lịch về khu chợ trời Clignancent bên quận 18, nơi người ta bán “thượng vàng hạ cám”, tôi nhất định phải tới xem. Như giới thiệu thì đây là chợ trời lớn nhất trên thế giới, có rất nhiều thứ chỉ có thể kiếm được ở đây, và chỉ mở vào thứ Bảy, Chủ nhật và thứ Hai.
Sáng nay, khi tôi chuẩn bị ra ngoài, Amy và Tristan hỏi tôi đi đâu; tôi nói “chợ trời” và Amy lập tức vùng dậy muốn đi cùng; nhưng vì Amy còn phải tắm gội, ăn sáng, và trang điểm rất lâu nên cô ấy bảo tôi cứ đi trước, với lời dặn:
“Khi nào tới nơi, em sẽ tìm chị rồi mình cùng mua sắm hay ăn trưa.”
Nhưng bây giờ, khi đang ở trong chợ rồi, tôi nhận thấy không có cách nào Amy có thể tìm ra tôi trong cái chợ trời lớn này. Khu chợ gồm rất nhiều các khu vực bán đồ khác nhau, chia theo thể loại, và đúng là bán thượng vàng hạ cám, bất cứ cái gì mà người ta có thể nghĩ tới, từ búp bê, kim chỉ, tranh ảnh, bàn ghế, đèn, đồ uống trà, đồ nhà bếp, đồ trên bàn ăn, thắt lưng, quần áo thời trang cổ xưa, găng tay, dây đeo chìa khóa, sách, cây cảnh, đĩa, đài quay đĩa cổ, thậm chỉ cả quan tài và bia mộ. Và mỗi một thứ đồ được bày thành khu riêng; như khu bán kim chỉ có cả vài đường ngách ngắn chỉ bán đủ các thứ kim chỉ, len, sợi cho những người thích khâu, may, đan lát.
Trong chợ trời ở Clignancourt có thượng vàng hạ cám. Đây là những bao diêm đủ loại (Paris)
Khi viết những dòng này, tôi ngồi ở góc cắt giữa Allée 3 (Ngách 3) và Allée 4 (Ngách 4) của Marche Antiques, khu chợ bán đồ cổ. Những ngách này chằng chịt khắp chợ, giống những đường làng nhỏ và ngắn, làm thành một ma trận. Vào đến đây, tôi mới thấy mình hoàn toàn sai lầm khi cho rằng mình không phải là người thích mua sắm. Tôi có thể ở đây cả ngày để đi khắp chợ bởi vì thực tế là tôi đã ngồi cả tiếng vừa rồi để đọc các postcard trong một cửa hàng bán postcard cũ. Tôi dĩ nhiên chỉ có thể đoán lờ mờ nội dung những tấm thiệp. Có một loạt thiệp từ một người đàn ông đang đi du lịch ở Ấn Độ vào năm 1063 gửi cho bạn ở Marseille; rồi một xấp thiệp từ một ông mục sư đều đặn hàng tháng gửi cho vợ từ châu Phi, kể những chuyện “safari” và bệnh “syphilis”. Có nhiều tấm thiệp gửi từ Việt Nam về Paris từ thời Đông Dương, với những hình phố cổ Hà Nội, vịnh Bắc Bộ, chợ Đồng Xuân, hay các cô gái Sài Gòn – Gia Định. Tôi bỏ 50 xu mua một tấm thiệp gửi từ Hà Nội năm 1926 từ một thanh niên pháp có vẻ đang rất nhớ nhà:
Georges thân mến,
Từ một xứ sở rất xa xôi mình gửi đến bạn những lời chúc cho năm mới 1926 và không phải không có những nỗi buồn. Mình đã nhớ nhà nhiều hơn mình tưởng.
Tuy nhiên mình cưỡi ngựa một giờ mỗi buổi sáng và bạn biết đó là một trong những niềm say mê lớn của mình. Có điều, suốt dọc đường, mình chỉ thấy cảnh ruộng lúa khá đơn điệu.
Khi cưỡi ngựa bạn có thể có ý niệm về nông nghiệp tại đất nước này; điều không may là bạn chẳng thể biết thêm gì chính xác vì một cách tự nhiên, tất cả những cánh đồng lúa đều ngập nước và người ta làm việc trong điều kiện như vậy.
Mình ở đây rất bận rộn (toàn chuyện pháp lý, ban hành luật lệ) và không còn lúc nào để đi săn. Còn bạn thì sao?
Hãy viết cho mình vài chữ, mình sẽ rất vui; nó mang tới cho mình chút hương của mảnh đất mình yêu hết lòng.
Thân ái
Ôm hôn từ một người bạn đã không quên bạn.
Những tấm thiệp đều đã ố vàng, nước mực đen nhem nhuốc, được đựng trong một cái hộp gỗ có lẽ cũng có tuổi đời hàng trăm năm. Tất cả những người gửi thư này giờ đã chết. Georges có lẽ đã chết. Người gửi thư cho Georges cùng với nỗi nhớ nhà và những ký ức Việt Nam của anh ta cũng đã chết.
Tất cả những gì còn lại của họ đang được bán ở đây, với giá 50 xu. Họ có lẽ không bao giờ hình dung những tấm thiệp riêng tư lại ra chợ, xếp lẫn trong những bưu thiếp của hàng ngàn người khác. Ngồi đọc những tấm thiệp này giống như được mở những cánh cửa bí mật vào cuộc đời của những người xa lạ trong quá khứ và quan sát những chuyện đời vô danh đã trôi qua không ai ghi chép, kể lại.
Tôi may mắn làm sao khi còn đang sống đây, còn đang hít thở và đi lại. Càng may mắn hơn nữa vì tôi đang ở Paris vào một ngày như hôm nay; trời đã hửng nắng sau nhiều ngày mưa rả rích.
Đã trưa rồi và chợ ngày càng đông người tới mua sắm, trong đó có rất nhiều du khách Mỹ, người nào cũng hớn hở túi lớn, túi nhỏ. Chính tôi, mặc dù đã huy dộng tất cả ý chí và lý do, vẫn cứ mua ba cái áo thun mỏng cao cổ, hai cái mũ nồi (cùng với một bài học về cách đội mũ kiểu Paris từ người bán hàng Ấn Độ), một cái áo khoác mùa thu màu đen. Tất cả đều là đồ rẻ tiền nhưng lại rất đẹp. Ba cái áo có cổ đề giá 5 euro một cái nhưng tôi mua cả ba với giá 10 euro; cái áo khoác chỉ 23 euro. Tôi phải cố gắng lắm mới cưỡng lại được ham muốn mua giày cao gót và bốt vì chúng đẹp mà rẻ, một đôi bốt chỉ chừng 20 euro. Quả thực, ngay cả những đồ gia công bán ở chợ trời Paris cũng rất đẹp. Điều này thì Mỹ không bằng.
Rời khỏi khu chợ trời, tôi lên tàu số 4 rồi lên xuống bến Chateau Rouge của khu Montmartre. Lên khỏi bến, từ đầu tiên nảy lên trong óc tôi là “đen”. Người da đen ở khắp nơi; nhưng không phải kiểu người da đen đã bị Mỹ hóa qua hàng trăm năm như tôi thấy ở Chicago. Đây là những người da đen vẫn còn gần với châu Phi, có lẽ mới nhập cư từ các thuộc địa cũ của pháp. Cả phố dài dẫn từ bến tàu lên đến đỉnh đồi Montmartre san sát các hiệu làm đầu cho người da đen và của người da đen. Những bộ tóc giả đủ màu sắc trưng dọc các cửa kính đều là tóc của người da đen. Ở cuối một con đường hẹp, tôi leo mấy trăm bậc thang dọc theo Rue Foyatier để lên đỉnh đồi, chỗ có Sacré-Coeur Basilica.
Bên ngoài thánh đường Scacré-Coeur ở khu Montmartre của Paris
Lúc này, trời nắng rực rỡ và người tràn ra ngồi khắp các bậc đá dẫn lên Basilica trong lúc các nghệ sĩ đường phố chơi nhạc rộn rac. Từ chỗ này có thể nhìn xuống toàn cảnh Paris… với những khối nhà mái xám, sông Seine và các đại lộ. Một thanh niên da đen đang vừa chơi guitar vừa hát bài I’ll survive trong lúc những khuôn mặt đẹp đẽ quanh tôi cứ ngửa lên hứng nắng và ôm lấy nhau. Trông ai cũng rạng ngời hạnh phúc và thảnh thơi.
Chiều tối nay, trên đường từ Basilica Sacré-Coeur xuống, tôi đi sau một đôi nam nữ đang khoác tay nhau bước chậm. Giữa con đường lát đá dốc xuống phía dưới, họ đột nhiên đứng lại hôn nhau như thể không có ai ở xung quanh. Mà quả thực là ngoài tôi thì không còn ai khác xung quanh thật. Tôi bước ngang qua họ như thể không hề biết là có người đang hôn nhau cạnh mình. Ở cuối con đường dốc, trước khi rẽ phải, tôi lén liếc nhìn lại. Đôi bạn trẻ vẫn đang hôn nhau, trời ơi! Nghĩa là họ đã hôn nhau không ngừng ít nhất là năm phút vừa rồi. Nhưng mà, quả thật, ở những bậc thềm dẫn lên Basilica, các đôi tình nhân cũng hôn nhau say đắm; thực tế là khắp Paris tôi đi, người ta hôn nhau như không biết có ngày mai. Mà không phải những cái hôn ngớ ngẩn, nụ hôn nào cũng dàiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiii.
Trời ơi, tôi cũng muốn hôn.
Thực sự, ở Paris, không thể không nghĩ về tình yêu. Paris tôn thờ tình yêu – yêu như cách giải thoát duy nhất, yêu như biểu hiện cao nhất của sự duy mỹ, yêu như không thể tưởng tượng nổi một cách sống nào khác hơn.
Trời ơi, tôi cũng muốn hôn.
Rời Montmartre, tôi bắt tàu về lại khách sạn. Vừa rời khỏi bến tàu Hôtel de Ville, cái không khí “nghệ sĩ” của Montmartre vừa ngấm vào tôi đã lập tức bị không khí rạo rực của khu Marais phủ nên. Lúc này, một cái chợ trời nhỏ vừa được mở ngay góc phố Rue de Rivoli; bày đầy những khúc xúc xích óng mỡ, những tảng thịt quay vàng, những tủ gà vịt rôti ngồn ngộn, khoai tây nướng trồng cao, rau củ quả la liệt, cộng với rất nhiều pho mát, bơ, bánh mỳ, rượu vang… cả một biển màu săc, mùi vị làm người ta ứa nước bọt.
Tôi mua một chùm nho và một nửa con gà quay nhỏ rồi trở về phòng. Nhưng gần đến cửa khách sạn, tôi nhìn thấy mấy bà sơ mặc áo thụng trắng thong thả bước từ căn nhà kế bên khách sạn vào nhà thờ đối diện. Tôi đã ở khách sạn này cả tuần và nghe chuông nhà thờ hằng ngày mà không biết gì về nhà thờ này, vậy là tôi đi theo họ.
Vừa vào qua cửa, tôi lập tức đứng lại nín thở và từ đó bắt đầu phải rón rén bước. Mỗi lần cái túi đựng nho và gà quay của tôi lạo xạo là tôi rúm lại chờ sấm sét giáng xuống đầu. Hóa ra đây là nhà tu Thánh Gervais thuộc cộng đoàn Jerusalem; và lúc đó trong nhà tu đang có buổi cầu kinh theo kiểu ngồi im (the silent mass). Tất cả các tu sĩ đều mặc áo thụng dài, nữ thì màu xanh nhạt hoặc trắng, nam thì màu đen; họ ngồi xếp thành nhiều hàng, cúi đầu im lặng trước bàn thờ Chúa. Cả nhà tu không một tiếng động. Chỉ có những bóng người ngồi im lặng nói chuyện với Chúa bằng ý nghĩ trong lúc ánh nắng cuối ngày rọi từng vệt màu lên những bức tường xám bằng đá cẩm thạch. Thật khó tin là ở ngay bên ngoài những tấm kính màu và những trụ tường xám đó, ở phía bên phải là Rue de Rivoli với một cái chợ trời đang náo nhiệt người mua bán và bên trái là con đường chạy dọc sông Seine lúc nào cũng đầy xe.
Buổi cầu kinh trong nhà tu Thánh Gervais thuộc cộng đoàn Jerusalem, đối diện khách sạn tôi ở
Paris có quá nhiều màu sắc, quá nhiều mảng miếng, nhiều góc khuất, nhiều tiếng nói khác nhau. Paris là một biển ấn tượng không ngừng thay đổi. Paris bắt người ta phải chăm chú ngắm nhìn. Và càng nhìn càng bị mê hoặc. Giờ thì tôi hiểu tại sao Paris là thành phố của nghệ thuật; nhất là vì sao hội họa Ấn tượng đã ra đời và phát triển ở nơi đây. Cả thành phố như một palette màu vô biên cho người nghệ sĩ.
Những ngày này, ở Paris, tôi thực sự không thể quan tâm được tới nơi nào khác. Tôi đã hầu như cắt đứt giao tiếp với thế giới bên ngoài, với thế giới cũ. Vào các buổi sáng trước khi ra ngoài, hoặc vào đêm, trước khi đi ngủ, tôi vẫn xuống nhà, bỏ 2 euro vào cái máy tính của khách sạn để kiểm tra email trong mười phút. Thỉnh thoảng có email của Sơn; “ở nhà vẫn bình thường” – anh viết. Có cả một đống thư từ Nhà xuất bản – họ đang làm bìa và biên tập nội dung lần cuối cho tập truyện ngắn sắp xuất bản của tôi. Nhưng tôi thậm chí cũng không quan tâm được tới cuốn sách của chính mình. Cuộc sống cũ có vẻ như ở rất xa, thâm chí không có thật.
Mai là Chủ nhật. Tôi không có kế hoạch gì cả. Tôi dành cho mình niềm vui kiên nhẫn chờ xem sáng mai, khi tỉnh dậy, Paris gợi ý với tôi điều gì.
☆☆☆Paris, ngày Chủ nhật…
10:42 sáng: Đứng viết trên cầu Royal Port – cầu bắc qua sông Seine từ vườn Tuileries sang bảo tàng Orsay. Tôi vẫn không thể nào get enough of the Seine [45] . Mỗi lần qua sông, tôi lại đứng lại nhìn và lại choáng voáng. Vào lúc này, từ chỗ tôi đứng, bên trái là bảo tàng Orsay, bên phải là vườn Tuileries, phía trước mặt là vòm kính màu xanh lá mạ nhạt của Gare du Nord đang ánh lên trong ánh nắng (hay là Gare Saint-Lazare? Không chắc lắm). Tôi quay người và thấy hai ngọn tháp kiêu hãnh của Nhà thờ Đức Bà, vòm tròn của Pantheon, những cây cầu bắc ngang sông Seine, những ngôi nhà dọc sông, hàng dương liễu dưới sông và dĩ nhiên là màu nước sông Seine. Vẫn là cảnh đã nhìn nhiều lần, vậy mà lần nào cũng mới và vẫn không đủ.
[45] Cảm thấy đã nhìn đủ sông Seine.
Mưa rơi cả đêm qua nhưng đến sáng nay thì ngừng và bây giờ mặt trời đang sắp sửa ló ra. Trời nhiều mây, nhưng xuyên qua những đám mây thấp là một vài khoảng xanh nhạt. Ở đường chân trời, phía Gare du Nord, nắng chiếu chéo lên các nóc nhà, thắp sáng cả khoảng thành phố bên đó. Dưới sông, các thuyền du lịch chạy đều đặn; khách đứng đầy ở ngoài boong, nhìn lên vẫy vẫy tay, tôi cũng vẫy tay đáp lại. Tuy thế, trừ những con thuyền dưới sông, thành phố vắng vẻ lạ thường, Paris còn chưa dậy. Từ sáng tới giờ, những người Paris duy nhất mà tôi nhìn thấy là những người chạy bộ trong vườn Tuileries và dưới con đường bê tông dọc sông Seine (họ gần như mặc đồng phục Abercrombie và Fitch). Không có những dòng xe ô tô. Không có khách du lịch nườm nượp trên phố. Các quầy bán sách dọc sông không mở. Đây là một Paris khác – yên tĩnh, hơi ảm đạm, hơi ngái ngủ… - nhưng vì thế mà càng quyến rũ.
Người ta bảo “ngày nào ở Paris cũng là Chủ nhật”. Tôi không đồng ý. Tôi nghĩ phải sửa lại: “Ngày nào ở Paris cũng là thử Bảy; còn ngày Chủ nhật ở Paris là ngày Chủ nhật ở Paris”. Bần thần, ít nhất là vào những giờ sớm của buổi sáng, thành phố rửa sạch son phấn trang điểm và lộ khuôn mặt mộc của nó. Một vẻ hoài niệm cổ điển bao trùm, khiến cho người ta đột nhiên cũng trở nên trầm mặc và muốn xích lại gần nhau. Trên metro không người buổi sớm, tôi ngồi đối diện một chàng trai có vẻ là sinh viên Sorbonne. Anh ta liếc tôi, khi tôi nhận ra và liếc lại thì anh ta lại quay đi. Buồn cười. Thật dễ dàng để bắt đầu một romance ở Paris. Thành phố này giống như một bãi mìn, à không, nói thế thì dễ nghĩ đến phân chó khắp nơi; thành phố này giống như là một bãi cỏ khô được đánh tơi, chỉ cần một cái liếc mắt cũng có thể bốc thành một ngọn lửa. Bất cứ nơi đâu, bất cứ lúc nào.
3:02 chiều: Viết từ Café A Bonaparte, 42 Rue Bonaparte, 75006, Paris.
Đã gọi một thứ đồ uống có tên café crème, chocolate maison và một món có tên Mixte Ourf et Omelettes. Họ vừa mang ra một cái chén sứ trắng đựng chocolate dạng xi rô và một cái bình sứ đựng cái gì đó có bọt trắng ở trên, bốc hơi nữa. Tôi đoán là sữa nhưng không chắc. Cách phục vụ đồ ăn ở Paris khác với ở Mỹ nên nhiều khi cũng không biết chắc là mình gọi được món gì.
Quán café này nằm trong quảng trường Thánh Germain des Pres, góc cắt giữa Rue de Rennes và Rue Bonarparte. Tôi ngồi ở một cái bàn phía bên ngoài vỉa hè. Từ chỗ này, nhìn thẳng ra nhà thờ Thánh Germain (thực ra không biết tên chính xác, tôi gọi tạm như vậy) và cách hai mươi mét phía trước mặt là quán café Les Deux Magots, chỗ mà Hemingway, Fitzgerald và nhiều người viết thuộc Thê Hệ Mất Mát thường ngồi vào thập kỷ 20 của thế kỷ trước. Bên cạnh café Magots là Café de Flore, nơi Jean Paul Satre viết The Road To Freedom (Đường tới tự do) và Simon de Beauvoir [46] hay ngồi chờ Satre. Ngay trên vỉa hè phía bên ngoài hai quán cà phê này có một cái cột sắt nhỏ, trên có tấm biển viết đại khái như vậy.
[46] Nhà triết học, nhà văn nữ quyền và hiện sinh của Pháp, đồng nghiệp và người tình của Satre.
Tấm biển bên ngoài hai quán Café Deux Magots và Café de Flore
Tôi đã định vào bên trong café Deux Magots nhưng quán quá đông nên tôi đi sang bên café Bonaparte. Tôi sẽ ngồi đây, have fun [47] vào một buổi chiều Chủ nhật lười biếng bằng cách viết phác vài thứ thế này.
[47] Vui chơi
3:24 chiều: Vừa ăn xong món omelette.
Người ta bảo quảng trường Thánh Germain des Pres là một trong những nơi tuyệt vời nhất ở Paris để ngắm người qua lại. Chắc ngày thường thì chỗ này đông lắm. Nhưng hôm nay là Chủ nhật, đường phố vắng vẻ hơn nhiều. Trời lại có vẻ sắp mưa nữa. Tuy thế, quanh chỗ tôi ngồi, không ai có vẻ lo lắng đến chuyện trời nắng hay mưa. Họ cứ đủng đỉnh ngồi ăn bữa trưa muộn (giờ là 3:33 chiều rồi), uống cà phê, hút thuốc, đọc báo và dĩ nhiên cứ hôi hổi tuôn ra những tràng tiếng Pháp du dương. Bên phải tôi, một người phụ nữ châu Á đứng tuổi (có lẽ là người Philippines) đang uống espresso trong một cái tách trắng bé xíu; bà ta mặc cocktail dress màu đen, đánh phấn rất đậm, mang kính to che gần nửa khuôn mặt và đeo một cái vòng bạc lớn ở cổ tay. Bà ta có cái vẻ của một thương nhân thành đạt mà bạn thấy bước vào các cửa hàng với vẻ mặt lạnh lùng và các cô phục vụ phải xô ra đón tiếp. Bà ta ngồi một mình – thực tế là tôi và bà ta là hai người duy nhất ngồi một mình.
Bên tay trái tôi là một người đàn ông Pháp ngồi với một người phụ nữ - cả hai uống bia Corona. Trông họ như là người tình đã nhiều năm rồi, biểu hiện vừa có cái yêu chiều lại vừa thân mật, tin tưởng, tức là vừa là người yêu vừa là bạn đường. Trước mặt tôi là hai đôi vợ chồng trẻ - ngồi quay lưng lại nên tôi không thể quan sát kỹ được. Chênh chếch là ba học sinh trung học vừa hút thuốc vừa uống cà phê đen và giải ô đố chữ trên báo Chủ nhật. Lại tự hỏi: đàn ông Pháp bắt đầu học các phép tắc phòng trà từ năm lên mấy?
Hôm nay, nhiều cửa hàng trên phố đóng cửa. Trên đường đến đây, tôi lần đầu tiên nhìn thấy những người vô gia cư và ăn xin của Paris. Nói chính xác thì hôm qua, hôm kia tôi cũng đã nhìn thấy họ ở Montmartre, ở khu Clignancourt, ở dưới bến tàu điện… nhưng những người này bị nuốt chửng trong biển người nườm nượp trên các đường phố Paris. Còn hôm nay, Chủ nhật, khi các đường phố hoàn toàn vắng vẻ, đột nhiên những người vô gia cư và ăn xin này nổi lên trên nền chính như những dân cư chính thức của thành phố thay vì chỉ là người tạm trú hoặc phần tử bên lề. Trông họ như những ông hoàng và bà chúa trên những con đường mang tên các vị thánh: Thánh Dominique, Thánh Germain, Thánh Này và Thánh Nọ.
Người vô gia cư và ăn xin thì chỗ nào trông cũng giống hệt nhau, dù là Paris hay Chicago hay Boton. Họ luôn cuộn một tấm chăn lớn quanh người, quây những hộp các tông rỗng thành pháo đài xung quanh mình, chất đầy quần áo cũ và đồ đạc trong một cái xe chở hàng lấy được ở một siêu thị nào đó. Họ chiếm đóng một cái cửa kính ăn sâu vào tường của một cửa hàng trên phố, để tránh gió mà vẫn không quá xa đám đông đi lại trên phố. Và họ có thể ngủ bất cứ lúc nào, trong bất cứ tư thế nào.
5:44 chiều: Viết từ trong vườn Lugxembourg. Đang ngồi ở thảm cỏ giữa những hàng cây được tỉa thẳng tắp, cạnh cổng ra đường Thánh Michel – chính là cái chỗ Pierpene mà tôi mất bao công mới tìm ra. Ngồi xung qunh tôi chủ yếu là sinh viên Sorbonne và học sinh từ Lycée Saint Louis [48] . Từng nhóm đứng, ngồi, nằm trên cỏ, ăn, uống, nói chuyện, đánh bài, ném đĩa, đọc sách và dĩ nhiên hút thuốc. Từ đêm qua, cổ họng tôi đã bắt đầu rát, chắc là vì hít quá nhiều khói thuốc lá ngoài đường phố. Nhưng ở Paris, không thể tránh khỏi khói thuốc lá.
[48] Một trường học nổi tiếng, chuyên đào tạo sinh viên để chuẩn bị vào hệ thống đại học lớn (Grandes Ecoles) của Pháp.
6:13 chiều: Nói thật, tôi đã ngừng đọc sách từ mười lăm phút trước mặc dù vẫn nhìn vào trang sách. Nguyên nhân một đôi tình nhân vừa đến ngồi cạnh tôi. Chàng trai ngồi hướng mặt về phía tôi – có một khuôn mặt rất cute; mặc jean với một cái áo phông màu hồng nhạt (trông không hề gay); còn cô gái ngồi quay lưng lại tôi nên tôi chỉ biết là cô gái có tóc dài màu hạt dẻ, người mảnh mai. Trong mười lăm phút vừa rồi, họ chỉ làm một việc là hôn nhau. Tôi dĩ nhiên không nhìn… thì tôi đang đọc sách mà, nhưng tôi vẫn có thể theo dõi sự việc.
Tôi ngồi trên một cái ghế sắt cạnh bồn nước lớn trong vườn Luxembourg đọc Những người khốn khổ của Victor Hugo. Một ngày mùa thu nắng nhạt
Sự việc diễn ra như thế này:
Đầu tiên, chàng trai áp hai tay vào khuôn mặt cô gái rồi nói gì đó có vẻ rất chậm và ngọt ngào ( trời ơi ), rồi sau đó hôn vào tóc cô gái ở phía bên ngoài tai phải, sau đó thì hôn đến vành tai, sau đó thì cụng trán vào trán cô gái và giữ như vậy khoảng mấy phút. Sau đó thì đến màn hôn môi. Không biết là bên trong thì thế nào còn từ bên ngoài thì có thứ tự như thế này:
Đầu tiên có rất nhiều những sự mút nhẹ vào môi dưới, sau đó là đến môi trên, sau đó là đến khóe miệng, rồi sau đó là cả miệng, rồi sau đó thì có vẻ là hai cái lưỡi quấn vào nhau… sau đó thì hai bên nghiêng đầu để đổi tư thế sang bên kia… và rồi lặp lại quy trình từ chỗ mút nhẹ vào môi dưới… cứ thế… cứ thế… và cứ thế… suốt 15 phút vừa rồi.
Trong lúc này, một nhóm hai mươi sinh viên đi ngang qua và không một ai thèm nhìn. Xung quanh tôi, cũng không ai nhìn. Thì tôi cũng đâu có nhìn; tôi đang đọc sách mà.
Ngay sau khi kết thúc tràng hôn đầu tiên thì đôi tình nhân này lại bắt đầu tràng hôn thứ hai. Có vẻ như là màn Frech cancan này còn tiếp diễn lâu nên tôi sẽ tiếp tục đọc sách vậy.
6:40 chiều: Đôi bạn đã đi rồi. Màn French cancan miễn phí của tôi đã hết.
6:51 chiều: Một cô gái trẻ vừa đi ngang qua tôi, vừa đi vừa nói chuyện trên điện thoại di động và khoa tay trong lúc nói. Mảnh dẻ, da trắng nhưng có tàn nhang, tóc buộc lỏng lẻo trên đỉnh đầu, để xòa xuống mặt. Mặc một cái áo len mỏng không tay màu xanh lá cây, váy ngắn màu trắng, bốt ngắn bằng da đen loại mềm. Chắc chắn là cô gái này không quá mười tám tuổi. Nhưng nhìn cái dáng đi và cử chỉ mà xem. Cô gái này đã có tất cả sự duyên dáng và quyến rũ của một người đàn bà thuần thục. Đôi môi hơi bĩu ra và cong lên trong lúc nói chuyện – đôi môi hoàn toàn sẵn sàng để hôn cũng như để cãi nhau với bạn trai. Eo nhỏ như của một vũ nữ ballet, đồng thời lại vẫn thoáng cái xương xẩu, gày gò của một đứa bé gái chưa lớn hết. Mũi cao và kiêu hãnh. Không biết những người con gái Paris học sự quyến rũ chết người của họ từ đâu?
7:25 tối: Mặt trời đang lặn dần phía sau cây thông cao đúng chính giữa bãi cỏ. Thảm cỏ này xanh lạ lùng, là thứ cỏ ngắn màu xanh non giống cỏ sân golf chứ không phải cỏ mật… khiến cho cái vòng tròn này giống như một ốc đảo mà ngay bên ngoài hàng rào sắt là đường phố Paris lúc này chật người ngồi trong các quán cà phê vỉa hè. Nhưng cái ấn tượng nhất là cách tất cả mọi người đều kéo ghế ngồi thành vòng cung quanh bãi cỏ, mặt hướng về mặt trời và để bóng họ đổ dài ra phía sau. Người thì đọc sách, người thì nói chuyện, người thì vẽ, nhiều người chỉ ngồi im.
11:30 tối: Hôm nay, tôi tìm ra con đường tối ưu để đi từ vườn Luxembourg về khách sạn: thoát ra bằng cổng trên đường Thánh Michel, sau đó đi thẳng Rue Soufflor hướng về Pantheon, đến phố Thánh Jacques thì rẽ trái và cứ đi thẳng cho đến lúc gặp sông Seine và Nhà thờ Đức Bà. Phố Thánh Jacques là một con đường dốc, như đi xuống đồi. Khi đi dọc phố, có thể nhìn thấy mặt trời lăn trên nóc Nhà thờ Đức Bà.
Tất cả mọi người đều kéo ghế ngồi thành vòng cung quanh bãi cỏ, mặt hướng về mặt trời
Tôi cũng phát hiện ra trong vườn Luxembourg có tượng Stendhal và George Sand.
Ghi ở lề: Nhận thấy là khi đi bộ dọc phố Thánh Jacques, có hơi đánh hông. Cái này là tại đôi giày hay tại Paris? Có lẽ là Paris. Có cái gì đó của Paris khiến người ta muốn đi chậm lại và đánh hông một chút trong lúc bước.
Ngày nào cũng đi ngang Nhà thờ Đức Bà trên đường về khách sạn, vậy mà vẫn không chán.
Đã sụt hơn một cân.
Nhân nói đến giày, hông, và sụt một cân, tôi phải thừa nhận một điều: không thể ở Paris mà không lây cái tinh thần duy mỹ của Paris. Tôi không phải người thích làm đẹp, cũng không biết cách làm đẹp, và cái đời sống học thuật trong những năm qua ở Mỹ càng làm cho việc làm đẹp tụt hạng trong thứ tự ưu tiên của tôi. Thế mà từ hôm đến Paris, tôi cũng để ý đến ăn mặc hơn. Hôm trước, tôi còn mặc một cái áo hở bụng khi đi ăn tối với Kai - điều mà tôi không bao giờ làm ở Mỹ hay Việt Nam.
Đấy là lỗi của Paris. Ở Paris, tất cả những người đàn ông, đàn bà, những con đường, sông Seine, những hàng cây, những hiệu sách, thậm chí cả những thùng rác cũng nói với bạn: phải đẹp. Phải đẹp như một cách để thể hiện tình yêu với người khách, với trời đất, với cuộc sống, và với chính mình. Đẹp như một trách nhiệm. Đẹp như một cứu cánh và một quyền tự nhiên nhất.
Thôi thì tôi cũng sẽ cố gắng làm đẹp, để ít nhất không làm xấu Paris. Tôi sẽ làm đẹp để cho tương xứng với hạnh phúc mà tôi cảm thấy trong những tháng ngày một mình ở thành phố này.
☆☆☆Paris, ngày…
Cách đây vài phút, tôi đã đặt một bông cúc trên mộ của Chopin trong nghĩa trang Pere Lachaise bên quận 20. Tôi đến đây hơi muộn bởi vì đêm qua giấc ngủ của tôi liên tục bị gián đoạn. Nguyên nhân là vì Amy và người phụ nữ Canada ở giường số 3.
Trời đang nắng. Phía tay trái tôi, cách một đoạn không xa là mộ của Chopin; bên tay phải là mộ George Bizet; sau lưng tôi về bên tay phải là Balzac và Proust, phía trái là La Fontaine và Molière. Nếu tôi đi thẳng từ đây về phía Bắc, tôi sẽ gặp Oscar Wilde, và rẽ phải từ Oscar Wilde sẽ thấy Gertrude Stein và Pau Esluard. Đấy mới chỉ là các nhà văn, nhà thơ; hầu hết những người đến thăm nghĩa trang Pere Lachaise vì những cái tên khác - các nhà triết học, chính trị gia, nhạc sĩ, hoặc Van Morrison, người đứng một đẳng cấp riêng trong nghĩa trang (tôi cũng không hiểu tại sao có sự phi lý này).
Nhưng tôi đang nói dở chuyện đêm qua. Có điều tôi cần phải nói một chút về Amy. Amy là một cô gái rất tốt bụng và đồng thời là một cô gái sẽ không ngủ được nếu có ai đó trong phòng còn thức. Cô ấy cũng là kiểu người không chịu được toilet công cộng và đã đi tàu từ đại lộ Champs-Elysees về lại khách sạn chỉ để đi tiểu, rồi lại tiếp tục ra phố. Thậm chí, Amy còn không thể đi dạo trên phố nếu vừa đi toilet trong một nhà hàng nhưng vì lý do nào đó không rửa được tay bằng xà phòng - trong trường hợp đó, Amy sẽ phải đi về khách sạn, vừa đi vừa giơ hai tay ra đằng trước và tránh chạm vào bất cứ cái gì.
Đêm qua, chuyện là thế này:
Amy, Tristan và tôi ngủ cùng giờ và đã thiếp đi được một lúc thì người phụ nữ Canada trở về. Chị ấy