← Quay lại trang sách

MỘT (2)

TRẬT TỰ THẾ GIỚI MỚI.

Một năm trước, tại Jerusalem, họ đã ngồi bệt xuống đất cùng với những người khác. Căn hầm phòng không này là một phòng ngủ thông thường cửa sổ đã được bịt lại bằng vải nhựa. Chồng chị và chị, hai người nắm tay nhau, tin chắc rằng những quả tên lửa bắn đến từ biên giới phía tây Irắc có chứa hơi độc. Dù sao đó cũng là điều mà tối qua người ta thông tin cho người dân sống trong khu nhà này. Trong trường hợp bị oanh tạc, hãy bình tĩnh, không hốt hoảng, người đàn ông căn dặn họ đã nói như vậy. Anh ta còn khá trẻ, dưới chân anh ta là những chiếc thùng bìa đựng mặt nạ phòng chống hơi độc. Mọi người đang ở dưới hầm ngầm, người lớn ngồi trên ghế dài hoặc ghế tựa, cũng có nhiều trẻ con, chúng ngồi bệt xuống đất. Người kia nói tiếp: Chúng ta biết rõ những mưu tính của Irắc. Người phụ nữ ở cùng tầng gác với Jacob dịch dần cho mọi người nghe những lời người kia nói. Trong trường hợp xảy ra một cuộc oanh tạc bằng vũ khí thông thường, chúng ta sẽ được báo trước ít nhất sáu giờ. Trong trường hợp đó, chúng ta phải chạy xuống đây. Căn hầm này được xây nhằm đối phó với chính kiểu không kích này. Còn nếu là tên lửa chứa hơi độc thì chúng ta phải leo lên tầng thượng, ở đó nhiều căn phòng đã được trang bị cho tình huống ấy. Bà nhiều tuổi người Ba Lan tóc ánh xanh vừa gật gù vừa dịch với giọng bình tĩnh. Ta không được dùng thang máy, chỉ được dùng cầu thang thường. Hợp lý thôi, hơi độc có xu hướng lắng xuống phía dưới cho nên phải tìm chỗ trú ở trên cao. Mọi người sau đây có thể xem mặt nạ phòng hơi độc nếu muốn. Những mặt nạ hoàn toàn không giống loại mặt nạ mà chị còn nhớ, cất trong tủ của cha chị, từ hồi Thế chiến thứ hai. Loại mặt nạ bây giờ ở chỗ miệng có khoét một lỗ đặt một cái ống nhỏ để có thể uống nước: thực tế là một cái ống hút. Khi còi báo động đánh thức hai người giữa đêm, vợ chồng chị nhận thấy hàng xóm đã chen nhau ngoài cầu thang chạy lên tầng thượng, mặt còn ngái ngủ, quần áo nửa mặc nửa không, nhiều người bế con trên tay, ai nấy đều vội vàng hấp tấp. Thế là vợ chồng chị làm theo họ. Lúc ấy, chị có một cảm giác là lạ, một cảm giác hoảng hốt, nhưng đồng thời rất minh mẫn, lạnh lùng, hơi đăng đắng, và hơi lợm giọng một chút. Chị khám phá ra cái vị của sợ hãi. Hai người ngồi bệt dưới đất bốn, năm tiếng đồng hồ cùng với những người khác, trong phòng ngủ của những người láng giềng, tin chắc rằng hơi độc của Saddam Hussein sẽ giội lên đầu mình. Phòng rất chật. Gần họ, một em bé gái tám tuổi khóc sướt mướt, sợ cái mặt nạ của mình và sợ khi thấy mẹ mặt như con bọ loay hoay bên một đứa bé sơ sinh nằm trong một túi đặt trên chiếc giường đôi; cái túi đó bằng nilông hình dạng như cái bao cao su, cho phép người mẹ có thể đụng chạm được vào đứa con đang la hét bên trong túi. Người bố cùng các anh trai, mặt nạ phòng hơi độc trùm đầu, đang cầu kinh bên cửa sổ. Không thấy người phụ nữ Ba Lan nhỏ bé kia ở đâu cả. Bà ở lại phòng mình, không có lấy một cái mặt nạ để che chở. Hôm sau, bà kể với mọi người: các ông bà hiểu chứ, không có gì trên đời có thể bắt tôi phải trùm một thứ như vậy lên đầu. Bà ta đã từng bị giam giữ tại trại tập trung Auschwitz. Đến sáng, các bạn của Jacob đưa mọi người đến một khách sạn tại Jerusalem nghe Abba Eban nói chuyện. Abba Eban cũng đã qua đêm trong một phòng tránh máy bay oanh tạc ở tầng thượng khách sạn này. Mặt ông xám như tờ giấy nhầu nhĩ, nhưng bằng một giọng lanh lảnh, ông gợi đến cái trật tự sẽ được thiết lập sau cuộc chiến tranh này: một trật tự pháp lý quốc tế mới. Trong khi đó, người của khách sạn dọn bàn cho bữa điểm tâm, tiếng bát đĩa va vào nhau lanh canh. Có ai đó gõ lên chiếc đàn piano lớn nhãn hiệu Yamaha. Abba Eban nói một cách từ tốn: cuộc chiến tranh này nói lên sức mạnh của các nền dân chủ. Dầu vậy người ta đã chứng kiến những cuộc đọ súng đầu tiên sẽ dẫn đến sự sụp đổ của nước Nam Tư và một tình trạng bạo lực mà không một trật tự thế giới mới nào có thể ngăn chặn. Eban nói giữa một đám người luôn chân đi lại giữa phòng ăn và hành lang khách sạn. Có thể bảo đấy là những bầy chim, mà cũng là những linh hồn chết của Dante.

BẦY CHIM.

Chưa đầy mấy tháng sau, người mà chị đã tay trong tay giữa những trận bom, là chồng của chị từ bao nhiêu năm trời, đi kể với chị là anh yêu một người đàn bà khác; không phải chỉ yêu mình chị, mà yêu cả một người đàn bà khác nữa. Ở đây có một mối liên hệ với quãng thời gian đã sống ở Jerusalem. Một buổi sáng, từ rất sớm, chị thấy mình đang ở trong công viên dưới chân khu nhà của chị, say mềm, họng cháy rát vì quá nhiều thuốc lá. Chị vừa bước đi vừa lấy tay tự ôm chặt lấy người, còn bầy chim thì ra sức líu lo. Đó là những ngày đầu của mùa hè, và của trật tự thế giới mới.

NÀNG CÔNG CHÚA bị giam trên chòi cao, nàng công chúa trên quả núi thủy tinh của mình, bị vua cha yểm bùa. Không một kẻ cầu hôn nào tìm ra lời giải cho câu đố, không một ai trong bọn họ đưa nổi con ngựa của mình tới đỉnh những thành vách trơn nhẫy. Đó là điều mà câu chuyện kể khẳng định. Nhưng có phải nàng công chúa đã bị vua cha yểm bùa hay không? Chị không nghĩ như vậy. Cha chị là một con người tốt bụng và hiểu biết lẽ phải.

TIỂU THUYẾT PHIÊU LƯU.

Hồi trẻ, chị tưởng tượng một ngày kia chị sẽ viết một cuốn truyện phiêu lưu trong đó nhân vật chính là một phụ nữ. Chị giữ dự định này trong đầu nhiều năm. Nhưng dự định này không bao giờ hoàn thành, thậm chí chưa bao giờ được khởi đầu. Về sau, chị hiểu ra vì lẽ gì.

NGƯỜI KHÁC NHÌN TÔI NHƯ THỂ NÀO?

Chị hầu như không biết gì hết. Cũng khó khăn như khi lý giải những giấc chiêm bao. Chẳng khác nào cố nhìn lưng mình. Đàn bà bị giam hãm bởi ánh mắt đàn ông, điều mà họ không lý giải nổi. Đàn bà là vật thể, làm thế nào để trở thành chủ thể? Một vấn đề khó. Hồi trẻ, khi chị đọc câu nói của Nietzsche khích lệ con người ta vượt lên tính người, ngay lập tức chị nghĩ mình phải vượt lên tính người của người phụ nữ ở trong mình. Để vươn tới khách quan, phải bỏ qua giới tính của mình. Nhưng nếu cái nhìn khách quan lại hòa nhập làm một với cái nhìn nam tính thì phải ứng xử như thế nào trước những ve vãn của đàn ông? Chị bị đẩy vào một hoàn cảnh nan giải. Sự tàn bạo đơn thuần đôi khi lại là một đức tính, nhưng còn chị, chị quằn quại như con giun ở đầu lưỡi câu: việc cự tuyệt kẻ khác đối với chị dường như là một hành vi sỉ nhục làm chị đau khổ nhiều hơn chính nạn nhân giả định của mình. Vì vậy, tại hội nghị cách đây mười một năm, chị đã bị săn đuổi bởi một trong những người Nam Tư chủ trì hội nghị, một mẫu người chính cống của loài dê đực trí thức, một con sâu rượu whisky, học đòi Hemingway, gã lúc nào cũng tìm cách săn đuổi, quấy rối chị, trừ những khi gã nịnh bợ chị để chị giới thiệu những truyện ngắn của gã với một nhà xuất bản Thụy Điển. Sự hung hãn của con người này và chính việc gã không ngáng trở nổi công việc của chị đã ngăn chị bảo thẳng vào mặt gã chị nghĩ gì về những sản phẩm văn chương của gã, mà giá vậy có lẽ đã giải quyết được xong vấn đề. Suốt bốn năm ngày hội nghị, chị bằng lòng với việc tránh mặt gã. Chị đã không khuyến khích gã, chị bông đùa, thay đổi chủ đề câu chuyện, cố tìm cách lảng tránh. Thẳng thắn mà nói - mà cớ sao lại không nói thẳng ra - gã này đã làm hỏng tất cả thời gian chị ở đây. Chị không thể tự do đi lại. Gã đã vạch ra ranh giới cho một vùng đất mà chị dường như nằm trong đó, và mọi người tôn trọng cái ranh giới ấy bằng cách tránh xa. Đôi ba lần chị thoát đựợc ra; có lần chị ẩn náu bên cạnh những tranh tượng thánh ở Ohrid. Cớ sao chị lại không đập vào mặt gã? Cớ sao một hành động đơn giản đến vậy lại hoàn toàn nằm ngoài khả năng của chị? Chính gã đàn ông ấy đã đưa chị ra phi trường Skopje, về sau, Emm có hỏi chị về chuyện này. Với một sự phẫn nộ chân thực, gay gắt, chị trả lời HOW CAN YOU BELIEVE THAT I SLEPT WITH THAT GOAT![5] Hóa ra Emm đã theo dõi chị từ lúc chị hạ cánh xuống phi trường cùng gã dê đực ấy. Anh đã tiếp tục theo dõi chị trong sảnh dành cho hành khách đến, nơi mà chị đã tưởng không ai để ý tới mình, về sau, anh đã hỏi chị là chị có ngủ với gã đàn ông đó không. Bây giờ, kể lại những chuyện ấy sau bao nhiêu năm trời, chị cảm thấy hơi lố bịch, như thể chị đụng chạm đến một điều bí ẩn mà lời giải được coi là điều hiển nhiên đối với những người khác, những phụ nữ khác.

EMM: không có một chút đeo bám nào ở người đàn ông này. Câu chuyện trên máy bay diễn ra hoàn toàn tự nhiên, nhẹ nhàng, thoải mái. Chị quan sát vẻ mặt nhìn nghiêng của anh: một gương mặt dễ chịu, mẫn cảm. Hai người đến ở cùng một khách sạn. Anh là một con người quyến rũ. Một nhân cách hấp dẫn.

LÁ CÂY Ở MỘT THÀNH PHỐ XA LẠ.

Dường như tự nhiên là việc hai người đi ăn tối với nhau tại một thành phố mà chị chưa bao giờ đặt chân tới nhưng anh lại rất quen thuộc. Những mảng tường đá xám, đèn chiếu sáng công cộng vàng ệch, lá cây đung đưa trong làn gió nhẹ. Ở đâu đó hẳn phải có một con sông, những chiếc cầu, chim chóc. Anh không chạm vào người chị. Họ đi cạnh nhau trên những ngách phố vắng lặng, không mấy ánh đèn. Đúng vậy, sau cùng hai người cũng đi đến một con sông; chị ngạc nhiên thấy sông rộng đến thế. Những khu phố họ đặt chân tới lúc này trông cổ xưa hơn. Những tòa nhà cổ, kiến trúc Phục hưng, barốc.

WHO IS YOUR FAVOURITE PAINTER?[6]

Rembrandt.

WHY? [7]

Trả lời câu hỏi ấy không thật dễ dàng, chị đã phải suy nghĩ. Những mảng tối trên các gương mặt. Kỹ thuật đan xen tối và sáng thể hiện thời gian. Sự biến hóa của họa sĩ trong những bức tự họa kế tiếp nhau. Các mảng tối lõm sâu xuống, trong khi con mắt vẫn như cũ. Và các bức chân dung của Saskia van Uylenburgh, vợ họa sĩ. Danh họa nảy sưu tập thời gian. Ông biết thời gian là dễ bị chi phối và dễ chi phối người ta. Ông biết thời gian ăn mòn đồ vật, vật chất, nét mặt con người. Họa sĩ giữ lại một mảnh nhỏ của vĩnh hằng. Emm nghe chị nói không ngắt lời, không phản bác. Kierkegaard người Đan Mạch đã nói lên một điều rất đúng: cái thời gian giam hãm chúng ta chứa đựng những hạt vụn nhỏ bé của vĩnh hằng. Trong những khoảnh khắc ngắn ngủi của cuộc đời, có những khi ta cảm thấy sự vĩnh hằng giữa dòng thời gian. Một bọt khí của vĩnh hằng đã vỡ ra, hoặc là bọt khí ấy đã bất ngờ bao bọc lấy ta. Lúc bấy giờ ta không còn cảm thấy phòng giam của ta nữa, trong một khoảnh khắc ta tự do. Chị im bặt. Chị đang nói gì vậy, có đúng là về những bức tranh của Rembrandt không?

FOR ME KLEE IS THE GREATEST[8]

Emm nói. Một nguồn cảm hứng sáng tạo không ngừng, mầu sắc, tính chất nhẹ nhàng. Vật chất không có trọng lượng, vật chất nhẹ hơn không khí. Chị cũng yêu thích Paul Klee. Quán ăn hầu như không có một thực khách nào. Tường mầu trắng. Một cái cây với những tầu lá lớn trồng trong một chậu cây. Tiếng nước chảy róc rách. Bên kia bức tường, có phải có một mảnh vườn, một vòi nước, hay không? Vẻ mặt u buồn của người đàn ông này, đúng, trong ký ức chị, vẻ mặt ấy u buồn. Chị không còn giữ được dấu vết gì của buổi chuyện trò, chỉ có một hình ảnh là cưỡng lại được thời gian.

MỘT QUẢ BÓNG XANH

và một phong cảnh hầm mỏ. Những ngọn núi Nam Tư xơ xác và một thác nước chảy mạnh xuôi theo triền núi. Một quả bóng xanh bóng loáng bị cuốn theo dòng nước xoáy. Trên bờ có một cậu bé còn nhỏ, độ năm, sáu tuổi. Quả bóng là của nó và nó tuyệt vọng. Cuối cùng, quả bóng mất hút giữa hai chỏm núi. Thằng bé không đuổi theo được quả bóng. Một chiếc túi xách tay nằm giữa hai tảng đá. Thằng bé cầm chiếc túi lên, nó khóc. Chị không còn nhớ gì về buổi chuyện trò tại nhà hàng. Nó đã bị thay thế bởi hình ảnh này, hiện ra từ đâu? Từ đâu đến những hình ảnh thay thế những câu nói, những tình huống, những nguyên nhân? Khi nhớ lại buổi tối hôm đó, mười một năm sau, chị bỗng có ý nghĩ là tại quán ăn Emm đã kể với chị về cái chết của mẹ anh.

NHỮNG CÁI BÓNG

có nhiều cái bóng trong gian phòng khách sạn nơi hai người đang ngồi, anh ngồi trong một chiếc ghế bành bên một chiếc bàn tròn nho nhỏ, còn chị ngồi trên một chiếc ghế lưng tựa cạnh cửa sổ. Ngọn đèn đặt trên mặt bàn tỏa ra một thứ ánh sáng thấp lè tè rất lạ. Những tấm màn treo tường bằng nhung xanh bẩn thỉu đóng khuôn khung cửa kính ba tấm như tấm rèm sân khấu nhà hát. Chị ở trên sân khấu. Emm là khán giả. Bên ngoài là đêm. Chị thích thú với việc anh không có gì để nói, không có một chút nghĩa vụ phải nói. Hai người đã ăn tối, hai người đã bước đi trên những ngách phố tối đen, anh đã đưa chị về tận phòng chị một cách đơn giản, hoàn toàn không có ý đeo bám. Chị cũng không biết là hai người liệu có qua đêm với nhau không nếu như chị muốn. Không nhìn anh, chị nói là chị đã có chồng.

I HAVE A WIFE.[9]

Chị nói chị cũng đã có con.

SO HAVE I.[10]

Anh có hai con. Lúc bấy giờ, mắt vẫn không nhìn anh, chị nói chị chỉ có một đứa con; rằng chị đã rất muốn có nhiều con. Người chồng đầu của chị không muốn vậy. Sau ly hôn, chị đã sống với một người khác. Người này cũng lại không muốn có con với chị trong khi chị tha thiết muốn có. Điều ấy làm chị đau khổ nhiều. Con cái tại sao không phải là sự tiếp nối tự nhiên của tình yêu? Người đàn ông không muốn có con với chị lại có một đứa con với một phụ nữ khác. Vì sai lầm, anh ta nói. Đúng vào thời gian ấy, về phía chị, chị được biết chị không thể có con được nữa. Có một cái gì trục trặc trong cơ thể chị, chị cho ra đời đứa con duy nhất kia đã là một phép mầu rồi. Thông tin ấy đã làm cho chị tuyệt vọng- một cái ngưỡng không vượt qua nổi trong cuộc đời đàn bà của chị, chị nói. Chị không biết tại sao chị đã tâm sự với anh, trong gian phòng khách sạn kia, ở một thành phố xa lạ. Chị im bặt. Emm cũng không nói nữa, anh dường như bị chìm trong những bóng tối ở gian phòng. Chị tì đầu vào tấm kính lạnh ngắt, nó làm cho ta tỉnh lại. Bên kia đường là mặt tiền xám xịt của một ngôi nhà. Không một cửa sổ nào có ánh đèn. Ở dưới phố, chị nhận ra một bóng người. Chị ngả người để nhìn cho rõ hơn. Bóng người đang kéo một chiếc xe. Đó là một bà già thu mình trong những mảnh quần áo rách, đầu trùm khăn. Ánh đèn ở ngã tư hắt lên những viên gạch lát đường và bà già kéo xe.

HOW LONG DID YOU STAY WITH THIS MAN AFTER THE CHILD HE MADE BY MISTAKE?[11]

Chị gần như quên mất rằng không phải chỉ có mình chị trong phòng. Chị bình thản trả lời: em hiện đang sống với người ấy. Emm bèn nói là anh ta thì có lẽ không thể chịu đựng nổi một chuyện như vậy. Giọng anh không đượm một chút mỉa mai, một chút giả tạo nào. Chị quay người về phía anh, nhận thức được sự thèm muốn của mình. Sự thèm muốn vật chất đã hiện hữu ngay từ lúc anh đến ngồi cạnh chị trên máy bay.

HAM MUỐN CÓ CON:

khi ham muốn này xuất hiện thì sinh học giành lại mọi quyền quyết định. Chị đã thấy ham muốn đó ở biết bao nhiêu phụ nữ - kể cả ở chị. Nó là một thôi thúc mãnh liệt ghê gớm, một mãnh lực nguyên thủy. Không gì làm cho chị hiểu thấm thía đến vậy rằng chị là đàn bà. Không gì kéo theo nhiều rắc rối đến vậy. Đàn ông: họ không muốn có con. Với những đàn bà khác, có thể là có. Nhưng với chị thì không.

ĐÀN ÔNG PHẢI BẾ VỢ BẰNG TAY KHÔNG

Một hôm - hồi chị đang chia tay với người chồng đầu và đang ở nơi làm việc, đọc một bức thư cho cô thư ký cơ quan - chị bỗng òa khóc. Chị khoanh tay lại, đặt đầu lên bàn cô thư ký và khóc. Hôm đó là một buổi sáng như mọi ngày. Bên ngoài cửa kính tuyết rơi, bên trong không khí khô và xám. Cô thư ký, không còn rất trẻ, ánh mắt rất thực tế, kiên nhẫn lắng nghe những lời trách móc lải nhải dữ dội từ người đàn bà trẻ hơn cô. Về mọi mặt, người đàn bà này coi chồng mình là đúng: chị quá bị kích động, chị làm việc quá nhiều, chị không phải là một người mẹ tốt, trái ngược với mẹ chồng. Có một cái gì đấy thúc đẩy chị, xúi giục chị, nhưng mà là cái gì? Chị biết rằng chị đang sống khổ sở, bị tách khỏi chính bản thân mình. Chị bị căng lên như một cái lò xo, như một sợi dây đàn viôlông. Chị bắt đầu ngờ rằng, bằng một cách nào đó, chị đã giữ cho đứa con của mình ở xa mình, vẻ yếu ớt của đứa trẻ có lẽ nhắc chị một cách quá ư đau đớn đến một bé gái khác bị bỏ rơi mà chị đã hoàn toàn không còn dính dáng trong nỗ lực hành xử cho tốt: đứa bé gái đó là chính chị. Ít lâu trước lúc hai người chia tay nhau, chồng chị bảo với chị rằng anh ta chưa hề bao giờ yêu chị. Anh ta đã chọn chị vì sức mạnh của chị, và anh ta đã nhầm. Chị choáng váng, hụt hẫng. Chị không biết tuổi thơ của con chị hình thành trong khu vườn bí ẩn nào. Bản thân chị không đủ sức bịa đặt ra một khu vườn. Thời gian săn đuổi chị. Một lúc sau, cô thư ký cơ quan đặt tay lên đầu chị. Đó là một cử chỉ nhẹ nhàng, đụng nhẹ vào chị, gần như một động tác yêu đương. Cô thư ký nhẹ nhàng nói: Đàn ông phải bế bằng tay không mẹ của những đứa con mình. Chị nín ngay lập tức, sững sờ trước những lời lẽ chưa bao giờ nghe thấy này. Chị ngẩng đầu lên. Đôi mắt sưng đỏ nhìn chằm chằm vào mặt cô thư ký. Cô này tiếp lời nếu chính chồng cô đã không bế cô như vậy, và nếu anh ta đã không tặng cô đầy hoa những lúc hiếm hoi mà anh ta buộc phải đặt cô xuống đất, thì cô đã bỏ đi. Ba đứa con không làm thay đổi được gì hết: cô sẽ bỏ đi. Người đàn bà trẻ hơn nín lặng nhìn tuyết vẫn cứ đang rơi bên ngoài cửa sổ. Chị ngoan ngoãn uống cốc nước mà cô thư ký đưa cho. Sau cảnh này, chị đã không ngừng tự sỉ vả mình, nhận ra những khuyết tật của mình, nuôi dưỡng lòng hối hận, nhưng trong nhiều năm dài, chị cũng đã tiếp tục tự hỏi làm sao người đàn bà kia, cô thư ký mờ nhạt ở cơ quan, lại biết cách đem lại cho con người mình một cái giá cao đến vậy.

THÁNG CHÍN:

chị đã đi metro đến tận nhà thờ Storkyrkan dự một buổi hòa nhạc. Benjamin Britten, Buxtehude và Bach, đàn oóc-gơ và dàn hợp xướng. Tuyệt vời. Một mình ngồi trên một chiếc ghế dài, chị hơi lạnh. Có những người lẽ ra chị có thể gọi điện thoại, những người bạn cũ mà chị đã bỏ quên. Nhưng chị đã không gọi cho họ, chị không chịu nổi việc tiếp xúc với mọi người.

MARIENKIRCHE.

Chính ở đó chị đã lần đầu tiên gặp danh tính nhà soạn nhạc Buxtehude. Vì một lý do nào đó, chị thấy dường như danh xưng này được phát âm với những âm “u” đóng, như trong tiếng Pháp. Đây là chuyến đi đầu tiên ra nước ngoài một mình của chị. Chị mười lăm tuổi, đang theo học một lớp ngữ văn ở Lubeck, nơi dấu vết của chiến tranh hãy còn rất dễ nhận ra. Những đống gạch ở góc phố, ngọn tháp nhà thờ chưa được xây lại sau các cuộc oanh tạc, chiếc đồng hồ lớn vẫn nằm dưới đất, đúng ở chỗ nó đã rơi. Chị ở trọ tại một gia đình người Lubeck. Người cha làm chủ một cửa hàng vật liệu xây lò, gạch tráng men và gạch lát bằng gốm. Một hôm, gia đình này đưa chị đến tận Travemunde xem bắn pháo hoa. Dọc đường, người cha dừng chiếc xe Volkswagen mầu xanh da trời của ông lại và chỉ vào một chỗ ở bên kia mảng nước. Có thể nhận thấy một vùng cát trắng đã được cào bằng, cây cối thấp lè tè và binh lính. Người cha bảo: bên kia là một trại tù. Chị hình dung trong óc những chòi canh, lính tráng, chó săn, và rùng mình. Đó là Nhà nước. Có một đường rãnh phân chia như vậy chạy xuyên qua thế giới. Điều đó làm chị xúc động. Sau đó, mọi người đi dạo trên bãi biển, bầu trời rực lửa, đầy những chùm tia lửa và những dòng thác ánh sáng nổ vang liên hồi: những màu đỏ sẫm, xanh lục lốm đốm và trắng. Chị nghĩ, ở phía bên kia, người ta cũng nhìn thấy như vậy. Đấy là điều cố ý. Chị đi cùng các cô con gái của gia đình đến chỗ các hướng đạo sinh. Các thiếu nữ cầm tay nhau dưới những cây sồi lớn và hát lên niềm tin của mình vào công cuộc thống nhất nước Đức. Hôm đó là một buổi tối mùa hè đẹp đẽ. Đứng hơi lùi về phía sau, hai tay đút sâu trong túi áo, chị ngắm nhìn bầu trời trong sáng bên trên những cây sồi và cảm thấy người nôn nao. Không một ai nói đến chiến tranh, đến những tội ác của bọn quốc xã cũng như đến những trại tập trung - tưởng như tất cả mọi chuyện ấy chưa bao giờ tồn tại. Chỉ có một cái duy nhất đã tồn tại, đó là trại tù ở bên kia mảng nước và còn ở bên này là tự do. Trong ba tuần lễ ấy, chị giữ một thái độ hoài nghi hoàn toàn đối với những người xung quanh, cho dù người mẹ đã giải thích coi như một cách tình cờ với chị rằng gia đình họ hoàn toàn không dính dáng gì đến chiến tranh. Điều ấy càng làm cho chị khó chịu hơn. Chị không hiểu được những người này. Họ che giấu một cái gì đó. Cách sống vô tư của họ, khu vườn rộng, bể bơi, tất cả trở nên ghê tởm đối với chị. Chị nhớ lại tên một cuốn phim: Bọn sát nhân ở lẫn quanh ta. Những hình ảnh gắn liền với chiến tranh giày vò chị như những cảnh trong một cơn ác mộng. Nhưng điều tệ hại nhất, đó là sự dối trá. Là việc họ dối trá. Chị thường ra phố một mình; một buổi tối, chị đến dự một cuộc hòa nhạc trong nhà thờ Marienkirche.

SỰ THẬT.

Hoàn cảnh này đã diễn ra từ hơn một năm. Anh đã chuyển nhà từ hồi hè, thuê lại căn hộ một buồng. Tuy nhiên anh vẫn không ngừng trở lại căn hộ nơi anh đã sống với chị, thèm muốn chị, làm tình với chị. Buổi sáng, khi anh rời chị đi, chị cảm thấy những ngón tay xương xẩu của thần chết bóp chặt cổ mình. Anh không dối trá. Anh yêu hai người đàn bà. Chị thấy sự thẳng thắn ấy gần như bất nhã. Đối với anh, mọi sự đều tự nhiên. Có hai người đàn bà này, anh không đòi hỏi gì hơn ở cuộc sống. Nhưng với chị, nếu có người bảo chị rằng một ngày kia chị sẽ ở vào một hoàn cảnh như thế, có lẽ chị đã phá lên cười. Cơn choáng mỗi ngày một nặng hơn. Chị đang mất thăng bằng. Sự ngây thơ của người đàn ông này tàn nhẫn như sự ngây thơ của một ông thánh. Ai đó phải chấm dứt trò điên rồ này. Người đàn ông sẽ không làm điều đó. Vậy thì sẽ là một trong hai người đàn bà, Chị tự hỏi người nào đây.

ĐẾN THÁNG MƯỜI:

chị nhận lời mời một cách biết ơn đến dự một hội nghị của các trường đại học sẽ diễn ra tại Madrid. Biết ơn vì có thể rời xa cái tháp của mình vài ngày. Một hôm, chị thấy có cái gì thôi thúc chị rời khỏi quảng trường Độc lập và bước vào Công viên Retiro. Không khí nóng nực, im phăng phắc. Chị dừng chân bên bờ cái hồ nhân tạo, cạnh đài kỷ niệm Alphonse XII, và nín thở, sững sờ. Những pho tượng cẩm thạch soi bóng trong nước. Một chiếc thuyền - một chàng trai đang chèo và một cô gái ngồi lui về phía sau - kẻ một đường xanh sẫm run rẩy bên trên ánh phản chiếu vàng óng của cẩm thạch. Những hình ảnh nổi bập bềnh, nhưng những giấc mơ thì bất động.

PARQUE RETIRO.

Chị mặc cho chân bước ngẫu nhiên. Chị đi sâu vào trong công viên. Tên của công viên có nghĩa là công viên dành cho lứa tuổi về hưu ư? Hay là cho sự rút lui? Chị bước qua những bãi cỏ có những đám trẻ con chơi bóng dưới những tán cây lớn. Chị lắng nghe tiếng la hét của chúng, mỗi lúc một xa. Chị lang thang theo những con đường trải sỏi hai bên là hàng rào cây được cắt sửa cẩn thận. Nắng làm chị thấy người ấm áp. Lối đi rộng ra và chị đi đến một ngã tư có xếp một dãy bàn gỗ nhỏ. Ở đây, người ta có thể xem bói. Chị ngay lập tức cảm thấy mình muốn xem. Một phụ nữ Digan bói bằng cách xem lòng bàn tay, một người đàn ông râu ria khoe là đọc được hậu vận nhờ ở pháp thuật của mình. Hầu hết mọi người dùng các cỗ bài tarô. Chị muốn có thời gian chọn lấy một người nào đó, nam hay nữ cũng được, nói cho biết số phận của chị. Chị chầm chậm men theo dãy bàn và cuối cùng cũng tìm thấy: một người đàn ông trạc sáu mươi tuổi, mặt già nua, mặc một chiếc áo vét màu xanh lam sẫm và quấn một chiếc khăn len đỏ. Một bao thuốc lá Fortuna đặt trên mặt bàn, cạnh cỗ bài tarô. Trên mặt bàn còn có một tấm biển. Giáo sư Falkhom, nhà tương lai học. Tấm biển bảo rằng ông giáo sư này có thể xem hậu vận và kể lại bằng nhiều thứ tiếng, tiếng Castilian, tiếng Catalan, tiếng Ý và tiếng Đức. Chị đi về phía quầy giải khát trên thảm cỏ đàng sau ông thầy tướng số kia, gọi một tách cà phê. Không có ai ở quầy. Từ chỗ chị ngồi, chị có thể bình tĩnh ngắm nhìn lưng giáo sư Falkhom. Chị lấy ở túi đeo vai ra tờ nhật báo El País, châm một điếu thuốc. Bỗng nhiên, vị giáo sư đứng lên và bỏ đi theo lối đi trên cỏ. Thấy thế chị cũng đứng lên, bực bội một cách khó hiểu, và lấy một đồng xu bắt đầu gõ gõ lên bàn để làm cho cô hầu bàn chú ý. Cứ làm như chị có cuộc hẹn với người đàn ông áo vét xanh kia. Người ấy quay trở lại gần như tức thì. Chị đã lo một cách vô ích. Khi cô hầu bàn đến, chị gọi một tách cà phê nữa. Chị cố đọc câu được câu chăng một bài báo trên tờ El pais về Sarajevo. Sau cùng, chị không thể trì hoãn lâu thêm nữa cuộc gặp gỡ quan trọng này. Chị xếp tờ báo vào trong túi đeo và chậm rãi bước về phía chiếc bàn của ông thày tướng số.

GIÁO SƯ TALKHOM ngước mắt lên. Không mảy may tỏ ra bất ngờ, ông bảo chị ngồi xuống trước mặt ông. Ông trang bài. Cỗ bài rất cũ. Về tình yêu à? Chị không đáp lại. Mọi người ai cũng có những nỗi phiền muộn về tình yêu, giáo sư Falkhom nói, rồi thở dài một cái. Chị bỗng thấy nẩy sinh một mối thiện cảm với người đàn ông này. Cô đã có chồng chưa? Do dự một giây, chị trả lời là đã có. Chị không có ý kể ra thêm nữa. Trong công viên trời vẫn nóng. Chị cảm thấy ánh nắng chiếu vào gáy mình. Chị lắng nghe tiếng chim hót. Ông thầy tướng số chia bài ra làm ba chồng, bảo chị chọn lấy một. Bằng những động tác chậm rãi, ông ta cài các quân bài từng cái một vào cái gờ sắt của chiếc bàn. Rồi ông đưa một điếu thuốc lên môi. Chị ngả người châm thuốc cho ông ta. ông ngẩng đầu lên. Hai con mắt xám nhạt, hơi loãng, ông rít một hơi thuốc, nhìn loáng một cái về phía cỗ bài, rồi tuyên bố bằng một giọng chắc nịch. MACHEN SIE KAPUTT MIT DIESER EHE UND SOFORT - chấm dứt ngay tức khắc cuộc hôn nhân này - chị không chờ đợi một lời khuyên thẳng thắn đến vậy. Chị nín thở. Làm sao ông có thể nói thẳng ra như vậy? Chị hỏi. Giáo sư Falkhom nhún vai. Chị mở túi lấy ra cuốn sổ tay. Chị sẽ không bỏ sót một lời nào của con người này. Hãy chỉ cho tôi quân bài nói lên điều đó, chị yêu cầu. Ông đặt ngón tay lên một lá bài ở hàng trên. Ngả người về phía trước, chị nhìn thấy một cái bàn bày các quân bài, có nhiều chiếc cốc tròn, một vài cái đổ nghiêng. May mắn, ông ta đanh giọng nói, may mắn cho cô đấy. Rồi ông lướt ngón tay chỉ vào một lá bài khác ở cùng hàng: một ngôi nhà cháy bừng bừng, tất cả các cửa sổ đều rực sáng vì cháy. Ông ta ngẩng đầu lên. Lùi lại lâu thêm nữa quyết định này sẽ chẳng ích gì, ông nói. Cuộc hôn nhân của cô có lẽ đã kết thúc rồi cũng nên: KAPUTT. Nhưng còn thiếu một sự quyết định ở phía cô. Nếu như cô không có sự quyết định đó, cô sẽ chuốc lấy những đau buồn nặng nề, nhiều phiền muộn ê chề. Chị ghi chép lời ông ta: KAPUTT, GROSSE SORGEN. Thế ạ, chị yếu ớt đáp lại khi đặt bút xuống. Nhưng nếu cô tự thoát ra, nếu như cô dám đoạn tuyệt, giáo sư Ealkhom tiếp lời, bây giờ với một giọng mạnh mẽ, thì sẽ xuất hiện một người đàn ông khác, SOFORT. Một người đàn ông khác, ngay tức thì? Chị cười phá lên. Làm sao ông ta có thể khẳng định một cách chắc chắn như vậy? SOFORT, SOFORT, giáo sư Falkhom nhấn mạnh. Có phải nét mặt chị đã để lộ tâm trạng của chị không? Hay là có tồn tại mà chị không hay biết một tờ khai mà cuộc đời chị và hôn nhân của chị đã được điền vào? Song khi chị nhìn thẳng vào mắt giáo sư Falkhom thì chị thấy mắt ông ta vô cảm, chỉ hơi mệt mỏi một chút, như đôi mắt một kẻ đã nhìn quá nhiều. Chị ngước mắt nhìn lên tán lá cây, lá hơi xao động. Ông ta là loại người nào đây, sau cùng chị tự hỏi. Ngón tay giáo sư Falkhom đặt xuống một con bài mới. Chị phải ngoẹo cổ mới nhìn thấy hình ảnh: một kỵ sĩ cưỡi một con ngựa còm nhom khốn khổ. Chị thấy người kỵ sĩ này có vẻ hơi say, như thế sắp rơi khỏi yên, nhưng có lẽ đúng là anh ta đang cúi xuống để nhặt lên một cái gì, hay là anh ta sắp sửa đặt chân xuống đất. Có phải là anh ấy không? Giáo sư Falkhom lắc đầu. Anh này không có vẻ đáng tin cậy, chị nói. Cô lầm rồi, vị giáo sư bác lại, ngón tay trỏ gõ gõ lên người kỵ sĩ lảo đảo. Con bài này xuất hiện ngay sau xếp hàng bài về hậu vận. Con người này hoàn toàn đáng tin cậy. Thậm chí ông ta còn nói thêm: anh ta là một đám rất tốt đối với cô, không có ai là họ hàng thân thích, lại có những nguồn thu nhập ổn định. Nhưng thưa giáo sư Falkhom, chị phản kháng, đó là những lời sáo mòn cũ rích rồi! Không họ hàng thân thích, thu nhập ổn định… Không phải thế, vị giáo sư tướng số sửa lại lời chị. Đó là những biểu tượng. Con người mà cô sẽ gặp nếu như cô nghe theo lời khuyên của tôi, sẽ lý thú đối với cô hơn rất nhiều so với người mà cô hiện đang chung sống:

VIEL MEHR UNTERHALTEND. Chị cắn môi. Lý thú, nghĩa là sẽ không làm chị chán ngấy. Người ấy sẽ yêu quý cô, giáo sư Falkhom nói tiếp. Nhưng nếu cô do dự không chấm dứt ngay cuộc hôn nhân của cô thì dịp may này sẽ qua mất. Chị không khỏi mỉm cười. Lời ông nói đã đánh trúng tim chị. Cuộc hôn nhân này đã kết thúc rồi, vị giáo sư nhắc lại, chỉ còn thiếu một sự quyết định ở phía cô. Ông ngẩng đầu lên. Chị tưởng như nhìn thấy trong đôi mắt xám của ông một cái gì từa tựa như là nhiệt tình. Đừng do dự nữa, ông nói. Cô chưa già. Cô rất quyến rũ. Bao giờ con người ta cũng có những điều phải quyết định. Ông chìa ra với chị gói thuốc lá nhàu nát. Chị rút lấy một điếu Fortuna. Giáo sư Falkhom lại quay sang nghiên cứu những con bài khác, chúng cho thấy sức khỏe của chị tốt. Có lẽ chỉ hơi bị lạnh một chút, không có gì đáng lo ngại. Trong một tháng, chị phải chú ý khi lái xe, một tai nạn nhỏ có thể xảy ra, làm ảnh hưởng đến chân trái của chị. Công việc chạy tốt. Chị dứt khoát thành công trong công việc, và thành công nhiều hơn nữa trong năm tới. Không một người thân nào trong gia đình bị chết trong tương lai gần. Chị im lặng lắng nghe. Những thông tin này có vẻ làm chị yên tâm. Cô có một tương lai tươi đẹp trước mắt, giáo sư Falkhom kết luận. Nhưng cô cũng cần có một mối tình tốt đẹp. Cô chớ nên chờ đợi thêm nữa. Khi nào cô gặp được người đàn ông mới ấy, cô sẽ nhìn lại quá khứ với con mắt khác. Chị gật đầu. Bao nhiêu lâu nữa anh ấy mới đến, chị hỏi, không phải không nóng lòng. Giáo sư Falkhom suy nghĩ. Lát sau ông nói: ba hay bốn tháng nữa. Muộn nhất là đến tháng Giêng hay tháng Hai. Từ nay cho đến lúc đó, chị không được nghĩ đến một cái gì đặc biệt mà phải mở rộng giác quan của mình sẵn sàng cho cuộc tình duyên mới này. Bây giờ, ông nói, đã đến lúc trở lại với con bài bí mật, nó sẽ tiết lộ một chuyện quan trọng liên quan đến chị. Chị phải tự mình xem bài. Chị cầm lên xem. Con bài vẽ một người đàn ông đang đi qua một chiếc cầu. Bước chân có vẻ loạng choạng. Một con vật trông giống con thỏ, nhưng có lẽ tượng trưng cho con chó, cắn nhay gót chân anh ta. SEHEN SIE! Giáo sư Falkhom thốt lên với vẻ gần như đắc thắng, mắt nhìn thẳng vào mắt chị. Cô thấy chưa! Ở cô mọi chuyện đều tốt đẹp, nhưng cô có một điểm yếu, mà con bài này chỉ ra. Một điểm chênh vênh, không ổn định, liên quan đến tình yêu. Ngoài ra mọi thứ ở cô đều tốt đẹp… Ông thu cỗ bài lại. Buổi xem tương lai hậu vận đến đó là hết. Với một giọng khác, ông hỏi chị về nghề nghiệp trong cuộc sống. Giáo sư, trí thức? Đúng, ông nói. Ông ta đã hình dung một cái gì tương tự. Chị cảm thấy bị hẫng hụt là buổi xem đã kết thúc. Giáo sư Falkhom sao không nói thêm được đôi chút về người đàn ông sẽ đến nay mai? Về tuổi tác chẳng hạn. Ông giáo sư nhún vai. Bốn mươi bảy tuổi, ông nói, hay bốn mươi nhăm gì đó. Đến đây, chị chuyển đổi câu chuyện, hỏi sang chuyện danh tính ông, về cái tên Falkhom. Đúng là tổ tiên ông có người gốc Bắc Âu. Một giọt máu Na Uy, do một con tàu trong hạm đội bất khả chiến thắng đã trôi dạt vào phía bắc, vào một fjord[12]. Ông đã có lần đến Na Uy. Ông mời chị đến gặp lại ông. Theo các con bài, chị sẽ trở lại Madrid vào tháng Tư năm 1994. Chị có thể đến thăm ông vào lúc đó. Thế còn ông, thưa giáo sư? Ông làm gì ở đây, bói bài trong công viên Retiro ư? Ông trả lời rằng nghề nghiệp của ông là nhà tâm lý học, nhưng sự hỗ trợ của cỗ bài tarô cho phép ông giúp đỡ mọi người được nhiều hơn. Ông đã làm việc với những con bài này từ ba mươi năm nay rồi. Ông tiếp khách cả ở nhà nữa: CONSULTA PRIVADA. Chị trở lại với cuộc đi dạo lang thang trong công viên. Chị cảm thấy vui vui, đầu hơi chếnh choáng. Chị hình dung ra giáo sư Falkhom tại nhà ông. Một ngôi nhà rất mộc mạc ở ngoại ô Madrid. Trong nhà có một con chó, một người đàn bà và một nỗi buồn xa xôi chưa nguôi hẳn.

PLAZA MAYOR.

Một món trứng tráng, một ly rượu vang. Mặt trời đã khuất sau các đám mây. Đàn bồ câu bay vút qua đống bàn ghế ngoài quảng trường lớn. Như một cơn mưa rào đổ ngược lên trời. Chị ngửa đầu nhìn theo đàn chim.

EL PAÍS: có một bài báo trên tờ El País làm chị chú ý. Cái chết của Lluis Rosales, bạn thâm giao của Garcia Lorca mà chính gã này cuối cùng đã tố cáo. Rosales đang có mặt tại nhà Lorca thì lực lượng dân vệ xộc vào, những người này đã cho hắn một phát đạn vào hậu môn vì hắn là một tên đồng tính.

MỘT GIẤC CHIÊM BAO

trong phòng khách sạn tại Madrid, vào đêm cuối cùng. Một giấc chiêm bao kinh hoàng, dữ dội. Tỉnh dậy, giấc mơ chỉ còn lại một đoạn ngắn: chị cho đăng báo một tin rao vặt vì căn hộ của mẹ chị sẽ phải đem bán. Gọi điện thoại đến bệnh viện, chị được biết mẹ đã qua đời cách đây bốn ngày, cùng một lúc với ba bệnh nhân khác và đã được chôn cất cùng với họ. Không ai báo cho chị biết tin mẹ chết. Trong giấc mơ, chị cảm thấy vô cùng trống trải, tỉnh dậy chị vẫn thấy trống trải. Ba người chết kia là ai? Cha mẹ chị đều đã chết, nhưng ban đầu có bốn người trong cái gia đình tuổi thơ của chị đã sớm tan vỡ. Chị nghĩ khi về nhà phải gọi điện cho em gái.

BỎ RƠI NGƯỜI KHÁC

không phải là dễ dàng. Có thể anh đã bỏ rơi chị từ lâu mà chị không biết. Anh không muốn thế. Anh nhắc đi nhắc lại với chị như vậy trong điện thoại và trong những bức thư của anh. Anh đã trở lại. Rồi anh lại bỏ chị đi lần nữa. Sự trong sạch, ngây thơ của các vị thánh. Nhưng chị không phải là một nữ thánh. Tình yêu đang gậm nhấm chị, tàn phá chị, khiến chị đờ dẫn và tê dại. Tình yêu gây đớn đau quá đỗi, chị cầu mong, chị cầu xin, chị đòi được buông tha. Giáo sư Falkhom đã khuyên chị chấm dứt vĩnh viễn cái trò điên rồ này.

ĐÀN ÔNG.

Người cha. Đã nhiều lần chị mong muốn viết về cha mình với hy vọng hiểu hơn về đàn ông. Lúc ông đã nằm trên giường hấp hối, chị bắt đầu viết nhật ký, và cuốn nhật ký đó cuối cùng dài hơn một trăm trang. Sau đấy, chị xếp nó lại, vì nó chẳng giúp chị hiểu được bất kỳ điều gì. Đã nhiều lần, chị và em gái cùng nhau thử xác định chính xác ngày giờ cha đã bỏ hai chị em đi. Ký ức rất mơ hồ, mờ mịt lạ kỳ. Cha mẹ đã không ly hôn. Cha chỉ dọn đi ở chỗ khác. Hồi ấy chị còn là một đứa con gái nhỏ bé. Trong gần mười năm, cha đã sống trong một căn phòng nhỏ, có cửa đi riêng nhưng không có phòng vệ sinh. Hai con gái ông đến thăm ông, lần nào cũng lén lút. Không được kể gì với mẹ về những buổi đến thăm này. Tất cả đều là tạm bợ, một sự chờ đợi dài trong lúc chờ một giải pháp. Có thể cha sẽ trở lại, không biết nữa. Hai chị em đạp xe đến nhà ông, tim đập thình thịch. Vừa lên cầu thang vừa chạy, nhà có năm tầng. Nếu ông mở cửa thì hai chị em sẽ cảm thấy tràn ngập ánh sáng. Không một ai nhắc đến việc ông đã bỏ đi. Khi có người gọi điện thoại đến nhà muốn nói chuyện với ông, chúng tôi cho số điện thoại của ông ở nơi làm việc. Mẹ lôi kéo những người ấy về phe mình: cha là một kẻ phản bội, một kẻ hèn nhát, nhu nhược. Ai mà dám nói trái ý bà? Các cô gái tiếp tục âm thầm tôn thờ cha. Đối với họ, người đàn ông đáng yêu này, kẻ không có quyền uy hay ảnh hưởng bao nhiêu đối với người khác, lại là một điểm vững chãi trong cuộc đời họ, là trung tâm cuộc sống. Về sau, khi các cô gái đã lớn hẳn, người cha trở thành hiện thân của cái điều bí ẩn cơ bản: cuộc chạy trốn của đàn ông khỏi đàn bà; chạy từ người đàn bà này đến người đàn bà khác; chạy đi chạy lại giữa những người đàn bà. Họ không muốn làm phật lòng cha. Họ muốn làm những đứa con gái đúng như ông muốn có. Đàn bà phải như thế nào? Một hôm, cha nói ra một cách thật rõ ràng: MỘT ĐIẾU XÌ GÀ GỘC. Một điếu xì gà gộc, đó, đàn bà phải như vậy. Một con người mạnh mẽ, thích lên gân, biết điều khiển đàn ông. Nhưng làm thế nào để trở thành như vậy? Đàn bà có một vết rách, chị nghĩ, có lẽ chính cái đó làm đàn ông sợ. Đàn bà phải che giấu vết rách của mình đi để buông tha đàn ông, để đàn ông thoát khỏi nỗi khiếp sợ đàn bà - hay là nỗi kinh tởm? Không biết nữa. Làm sao biết được. Tình trạng tạm bợ kéo dài. Một năm trôi qua, rồi hai năm, năm năm, sáu năm. Mỗi dịp lễ Giáng sinh, cha trở về nhà trên chiếc xe đạp, mang theo một cái túi to đựng quà Nôen và rượu Nôen. Không khí căng thẳng trong những dịp lễ tết này thật kinh khủng, đến nỗi sau đấy ai cũng đau đầu. Phải mất nhiều tuần lễ mới hồi phục. Các cô con gái lớn lên trong hai thế giới ngăn cách bởi những vách ngăn kín mít: thế giới trong đó tồn tại cuộc hôn nhân của cha mẹ, và thế giới thực mà không ai gọi tên ra được. Người cha đi lại với những phụ nữ khác, cố nhiên là thế rồi. Khi con gái đến thăm, ông kể với các con một cách bâng quơ nhẹ nhàng về những bạn gái của mình. Con gái ông hiểu rằng ông được phụ nữ quý mến. Ông tin ở lòng tin cậy và sự kín đáo của con gái.

ĐÀN BÀ.

Người mẹ. Về sau, mãi nhiều năm sau, chị dường như mới hiểu được cảnh ngộ của mẹ, và tại sao mẹ đã không thể làm được gì để thoát ra hoàn cảnh đó: phải chăng việc ấy gắn liền với vết rách, vết rách sâu hoắm, nó rạch ngang qua địa lý người đàn bà như một cái hẽm núi sâu, từ thế kỷ này đến thế kỷ khác?

BỨC THƯ.

Theo năm tháng, với sự kéo dài của tình trạng tạm bợ, ngày càng khó nhận ra nét mặt của chính mình trong gương: nó giống như một vết bẩn mơ hồ. Rồi là những giấc mơ liên tiếp trong đó chị toan tính viết lên trên giấy tên mình bằng một thứ mực trắng không nhìn thấy được. Chị thi đỗ bằng tú tài, rời khỏi ngôi nhà của mẹ. Chị nghĩ, ta phải tự chọn lấy mẫu người mà mình muốn trở thành: một phụ nữ không thương tích. Dối trá và sự thật, thực tế và huyễn tưởng, mọi thứ lẫn lộn. Sự mơ hồ giăng rắc khắp nơi như sương mù trong thung lũng khi đêm xuống: mơ hồ về mọi thứ, sống làm sao, quan hệ giữa các giới thế nào. Và rồi ý nghĩ không lay chuyển được là mình đã bỏ rơi mẹ và em gái, cái ý nghĩ mắc tội đó có cơ làm tan nát chị. Một hôm, vào thời gian cha đã bỏ đi được bảy tám năm, chị viết thư cho ông. Liệu ông có thể nghĩ đến việc có một quyết định hay không? Nếu ông muốn chia tay với mẹ, con gái ông sẽ không hờn oán gì ông. Một sự rõ ràng, bất kể ở dạng nào, đều là tốt đẹp hơn đối với tất cả mọi người. Chỉ mình ông có đủ khả năng đem lại sự rõ ràng. Chị không muốn làm tổn thương ông. Nhưng cha chị đã bị xúc động mạnh mẽ. Ông trả lời ông không muốn ai can thiệp vào chuyện của mình. Chị đã sỉ nhục ông; đó chính là điều chị không bao giờ muốn phạm phải. Sau bức thư ấy, mối quan hệ giữa chị với cha trở nên xa cách trong một thời gian dài. Yêu cầu ông có một quyết định - hay dù chỉ là hình dung ra khả năng có một quyết định - theo cách nhìn của ông cũng là một sự xâm phạm. Nhưng “chuyện” của ông, trong một chừng mực nào đó, chẳng phải cũng là chuyện của cả nhà sao? Cả gia đình đều bị treo vào cái tình trạng tạm bợ này do ông tạo ra. Sự thật phải được nhìn nhận như thế nào? Chị không biết. Có thể cha có những lý do mà chị không biết. Có thể ông đã ngần ngại ly hôn chính vì các con gái ông chăng? Hay có thể ông mong chờ sẽ xảy ra một phép mầu nào? Là mối quan hệ với vợ sẽ biến đổi, sẽ ổn thỏa? Về sau, chị không loại trừ khả năng đó. Cũng như chị đã không loại trừ một khả năng khác nữa: cái vị trí mà ông đã chấp nhận - ở lưng chừng giữa những người đàn bà, kẻ này không thể đụng chạm tới được vì đã có những kẻ khác - thích hợp với ông. Tuy nhiên, ít lâu sau chuyện bức thư, dường như nghe theo lời con gái lớn của mình, ông đã xúc tiến thủ tục ly dị. Và ông đã tái giá gần như ngay tức thì với một phụ nữ quyết đoán - có lẽ ông nhìn thấy ở bà một điếu xì gà gộc chăng? Nhiều năm sau, lúc ông tìm cách thoát khỏi cuộc hôn nhân thứ hai này, ông đã nhờ đến sự giúp đỡ của các con gái. Nhưng đến lúc này, ông đã bị suy yếu nhiều vì nhiều lần xuất huyết não, và người vợ mạnh mẽ của ông đã chấm dứt ngay tức khắc những mưu toan của mình. Các con gái ông tự cảm thấy có lỗi. Số phận người cha đã không đưa lại một điều gì chắc chắn, cả khi sống lẫn khi chết.

MIRO:

chị tranh thủ ngày cuối cùng tại Madrid để xem lại bức tranh của Miro mà chị yêu thích vô cùng. Con người là phải như vậy đó. Một đứa trẻ nghịch ngợm. Những trách nhiệm mà chị đã khoác lên mình trong cuộc đời, hoặc do người khác áp đặt lên chị, hoàn toàn ngược lại: chúng là một gánh nặng. Làm sao tha thứ cho mình đã trở thành con người như ta hiện nay?

NHỮNG KHÁC BIỆT NHỎ.

Có phải cha chị, người đàn ông bối rối bị giam trong bộ áo giáp đang bay trên trời, chính là người trong giấc mơ hồi tháng Tám của chị không? Cuối cùng ông hẳn đã phải tha thứ cho bức thư của chị, chị không thể tin rằng lại có thể khác. Thế nhưng trong khi chị cài vali trong gian phòng khách sạn ở Madrid, chị bỗng nhớ lại một kỷ niệm khác. Lúc đó là vào ban tối. Cha chị vừa mới trút hơi thở cuối cùng, ông đang nằm ở nhà xác, và chị đang ở tại nhà người mẹ ghẻ nay đã trở thành bà góa. Có lẽ ta không nên nói với con điều này, bà ta đột nhiên kể, con không phải là con gái cưng của ông ấy đâu. Không, ông ấy cưng em con hơn. Khác với con, nó không bao giờ phản bác ông, không bao giờ can thiệp vào những chuyện của ông. Ông ấy không chịu đựng được như vậy, ông ấy sợ con. Với lại, còn chuyện phá thai, điều đó làm ông ấy bị sỉ nhục.

PHẢN BÁC

cha mình, chị đã làm điều đó duy nhất một lần trong đời, có gì nữa đâu. Quả là chị có phản kháng đôi lần khi sự yếu đuối của cha đặt chị vào những tình thế khó xử với mẹ, nhưng bao giờ chị cũng nói năng thận trọng, bao giờ chị cũng chú ý không làm tổn thương ông. Con gái phải cư xử như thế nào với cha mình?

PHÁ THAI

bằng muối ăn là một sự thử thách kéo dài hơn hai mươi bốn tiếng đồng hồ. Trong cơn tuyệt vọng, cõi lòng tan nát và sức lực cạn kiệt, có mẹ ngồi ở đầu giường khóc lóc cho cuộc ly hôn của mình, chị đã viết thư cho cha. Ông có thể cho chị vay một ít tiền được không, chỉ cần đủ để trả tiền nhà? Người cha trả lời bằng cách gửi một bó hoa tuyệt đẹp. Nhưng tiền thì không. Không một xu.

ĐÀN ÔNG

luôn luôn chạy trốn đàn bà. Phải che đỡ đàn ông đối với đàn bà vốn dĩ là giống rất nguy hiểm đối với họ, hay phản bác họ và có những cuộc phá thai làm sỉ nhục họ. Chị đóng mạnh vali trong gian phòng khách sạn tại Madrid.

MỌI HÀNH TRÌNH ĐỀU CÓ MỘT ĐIỂM ĐẾN BÍ MẬT MÀ LỮ KHÁCH KHÔNG HỀ BIẾT.

Bên dưới cánh máy bay, chị nhìn thấy thành phố quê hương lung linh như một vòng hoa ánh sáng trong đêm tối, chung quanh là những chuỗi xa lộ đẹp óng ánh. Chị chép lại câu chị vừa mới đọc được trong một cuốn sách của Martin Buber. Chị không biết hành trình này sẽ đưa chị đến đâu. Chị mong ước thể nào cũng tồn tại một điểm đến bí mật. Chị cất đi cuốn sổ nhỏ trong khi chiếc máy bay từ Madrid bắt đầu hạ cánh xuống phi trường Arlanda. Những cuốn sổ tay mỏng trong đó chị đã ghi chép từ bao nhiêu năm nay những câu trích dẫn và những suy nghĩ lướt qua đầu, nằm hứng bụi trên nóc tủ sách của chị trong phòng ngủ. Một ngày nào đấy chị sẽ phải đọc những câu ấy.

ÁNH SÁNG.

Vừa bật đèn ở cửa vào xong, chị nhận ra ngay đã có ai vào phòng chị trong lúc chị vắng nhà. Tuy nhiên không có một dấu vết gì để lại. Báo chí thư từ ngổn ngang trên thảm. Tấm gương xiêu vẹo như mọi khi. Vậy thì do đâu mà có cảm giác rõ ràng là đã có người đến? Cả đời, chị luôn có linh cảm đó, nó khiến chị đôi khi phát sợ. Trong tâm trạng đầy lo lắng, chị đặt vali xuống và bật đèn trần phòng khách. Trên mặt bàn sừng sững một bó hồng đỏ thắm. Cạnh giường, chị lại thấy hoa nữa, hoa thúc cúc. Chị chưa bao giờ nghĩ đến việc đòi lại những chìa khóa đánh thêm khi anh dọn đi ở nơi khác. Chị nghĩ chị sẽ phải thay ổ khóa. Tình cảnh này thật phi lý. Mọi sự đều phi lý. Hoa hồng, một cái vuốt ve trìu mến, chị cảm thấy nóng ran khắp cơ thể. Rồi chị có cảm giác mặt đất nâng lên như muốn đánh đập chị. Những bông hồng này, thật là độc ác. Thưa profesor thân mến, xin hãy cho tôi một lời khuyên. Ngay lúc đó, chị hiểu rằng giáo sư Falkhom ở Madrid đã nói tất cả những gì ông cần nói với chị. Chị lôi ra khỏi vali chai whisky ở phi trường. Tuy đã khuya nhưng chị vẫn mở nhạc, nhạc Bach, tác phẩm Chuyện Chúa Jesus chịu nạn theo lời thánh Jean. Chị thắp một ngọn nến. Chị duỗi mình trên thảm. Chị có ý uống cho say, thật say, bởi vì bây giờ là lúc phải nhìn cho sáng suốt. Nếu như cần phải đoạn tuyệt với cái mối quan hệ tam giác này, chính chị là người phải làm. Đến nửa đêm, chị không còn đứng nổi trên đôi chân nữa, chị nhỏm dậy để lấy cuốn sổ trong chiếc ví đặt ở chỗ cửa ra vào. Chị chăm chú đọc lại đoạn miêu tả giấc chiêm bao hồi tháng Tám, cái giấc mơ đã làm chị xúc động đặc biệt mãnh liệt. Những lời phủ nhận của Pierre - ba lần, Pierre phủ nhận tình yêu - làm chị choáng váng đến nỗi chị phải gấp sổ lại. Nằm dài trên thảm, hai cánh tay gập sau gáy, chị ngắm nhìn trần nhà trắng có những cái bóng cử động nhốn nháo như những con quỷ bồn chồn lo lắng. Tim chị đập mạnh. Chai rượu đã vơi một nửa. Có một điều nay đã rõ: người kỵ sĩ trong bộ áo giáp lắc lư lượn vòng trên trời không phải là cha chị, mà cũng không phải là một người đàn ông khác. Người kỵ sĩ đó chính là chị. Chị càng cố xoay sở, bộ áo giáp càng cứng thêm, bó chặt lấy chị trong cái vỏ của nó. Giờ đây chị đang sắp chết ở bên trong.

Chú thích:

[5] Làm sao anh có thể tưởng tượng em đã ngủ với con dê đực ấy!

[6] Họa sĩ yêu thích của em là ai?

[7] Tại sao?

[8] Theo tôi, Klee vĩ đại nhất.

[9] Anh đã có vợ.

[10] Anh cũng vậy.

[11] Em còn ở với người đàn ông ấy bao lâu nữa sau khi anh ta vì sai lầm mà có con?

[12] Vịnh nhỏ, hẹp.